NHÀ ROMANOV – Chương Cuối

Trần Quang Nghĩa dịch
15 Vấn đề danh dự gia đình
Bốn năm rưỡi trước khi qua đời, Anastasia Manahan đã trải qua một cơn thập tử nhất sinh. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1979, sau nhiều ngày nôn mửa và ngoan cố từ chối sự giúp đỡ, bà được đưa đến Bệnh viện Martha Jefferon ở Charlottesville. Bác sĩ Richard Shrum đã phẫu thuật ngay lập tức. Ông phát hiện tình trạng tắc nghẽn và hoại tử ở phần ruột, do dính vào khối u buồng trứng. Ông đã cắt bỏ gần 3.3 phân ruột, sắp xếp lại ổ bụng và khâu vết thương. Bà Manahan là một bệnh nhân khó tính.
Ban đầu, sau phẫu thuật, bà liên tục rút ống ra khỏi cơ thể. Cuối cùng, hành vi của bà đã cải thiện. “Bà ấy vẫn sống khép kín, không thích nói chuyện với mọi người và hiếm khi mỉm cười”, Shrum nhớ lại. “Bà ấy thường ngồi quanh quẩn với một chiếc khăn tay giơ lên mũi như thể sợ hít phải thứ gì đó.”
Ngay sau ca phẫu thuật, Shrum đã làm theo quy trình chuẩn của bệnh viện và gửi mô đã cắt bỏ đến phòng xét nghiệm bệnh lý, ở đó họ giữ lại 12cm ruột. Mô này được chia thành năm đoạn, mỗi đoạn dài 2,5 cm, và mỗi đoạn được ngâm trong một chất bảo quản mô gọi là fomalin, được niêm phong bên trong một khối sáp parafin. một inch vuông và cao nửa inch, được đặt trong một hộp nhỏ màu xanh trắng trên kệ chứa đầy các hộp tương tự khác chứa mẫu mô. Mục đích của việc bảo quản mô cắt bỏ sau phẫu thuật hoàn toàn mạng tính y tế: nếu tình trạng tương tự tái phát, việc lấy mô thực tế trước đó có thể là một công cụ chẩn đoán vô giá. Năm 1979, phòng xét nghiệm bệnh học của Bệnh viện Martha Jefferson mới được thành lập, chỉ mới mở năm trước. “Chúng tôi đã lưu giữ mọi thứ kể từ khi bệnh viện mở cửa”, một nhân viên bệnh viện cho biết, “mọi mẫu bệnh phẩm của tất cả bệnh nhân, bất kể họ là ai.” Một khi đã được lưu trữ, các mẫu mô, giống như hồ sơ bệnh án bằng văn bản, về mặt pháp lý vẫn là tài sản của bệnh viện. Bệnh viện, với trách nhiệm ủy thác đối với bệnh nhân, gia đình và người thừa kế của bệnh nhân, bảo vệ những tài liệu này một cách nghiêm ngặt.
Bất kỳ việc cung cấp hồ sơ hoặc mẫu vật nào cho bất kỳ ai khác hơn bệnh nhân, gia đình, người thừa kế hoặc người thi hành di chúc, đều yêu cầu có lệnh của tòa án.
☆ ☆ ☆
Sau khi thông báo của Tiến sĩ William Maples vào tháng 7 năm 1992 rằng Nữ công tước Anastasia đã mất tích khỏi hố mộ ở Ekaterinburg được công chúng quốc tế chú ý, có lẽ không có gì ngạc nhiên khi các cuộc điều tra để tìm hiểu xem Bệnh viện Martha Jefferson có sở hữu bất kỳ mẫu máu hoặc mô nào của Anastasia Manahan hay không đã bắt đầu.
Ngày 22 tháng 9, Syd Mandelbaum, một chuyên gia phân tích máu ở Long Island, đã liên hệ với một số phòng xét nghiệm lớn, và viết thư cho bệnh viện nói rằng mình dự định viết một cuốn sách về việc sử dụng xét nghiệm DNA như một công cụ pháp y và muốn đưa vào đó một chương về Anna Anderson. “Nghe có vẻ xa vời,” bức thư của Mandelbaum viết, “chúng tôi đang cố gắng lấy một mẫu di truyền… dưới dạng mẫu máu, nang tóc, hoặc mô nuôi cấy.” để xét nghiệm tại Phòng thí nghiệm Cold Spring Harbor hoặc tại Trường Y Harvard. D. D. Sandridge, phó chủ tịch điều hành Bệnh viện Martha Jefferson, đã trả lời Mandelbaum rằng “chúng tôi không có gì ở đây có thể hữu ích cho ông.” Sau đó, bệnh viện giải thích với tôi rằng lỗi này là do lỗi hành chính: “Người tìm kiếm đã yêu cầu nhầm người.”
Người phù hợp để hỏi là Penny Jenkins, giám đốc hồ sơ y tế, và chính bà là người đã xử lý hai ứng viên tiếp theo, những người đã hỏi về mô. Người đầu tiên, viết vào tháng 11 năm 1992, là Mary DeWitt, người tự mô tả mình là “sinh viên ngành bệnh học pháp y tại Đại học Texas” và nói rằng cô ấy muốn có mô vì cô ấy đang “viết một bài tiểu luận”. Jenkins cho rằng De Witt là một sinh viên trẻ, “viết một bài tiểu luận giống như con gái tôi hồi trung học. Đây không phải là trường hợp “cần biết về y tế” hay “chăm sóc bệnh nhân”, Jenkins quyết định, “nên tôi nói, ‘Không, tôi không thể giúp cô được.'” Tuy nhiên, Mary De-Witt không bỏ đi. Thay vào đó, cô liên lạc với James Blair Lovell, một tác giả ở Washington, người đã viết cuốn tiểu sử cuối cùng về Anastasia, và giải thích với ông rằng cô biết bệnh viện có mô nhưng cô cần sự hợp tác của gia đình Manahan để có được lệnh của tòa án.
Lovell tin rằng họ sẽ hợp tác với nhau, cô đề nghị trả tiền thuê luật sư nếu Lovell chịu tiếp cận gia đình Manahan. Lovell đồng ý và nhận được một lá thư từ Fred Manahan, anh họ của John Manahan, cho phép ông ta được quyền xử lý mô. DeWitt đã thuê một luật sư ở Charlottesville. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1993, DeWitt đã viết thư cho Penny Jenkins rằng, từ nay trở đi, cô, Mary DeWitt, sẽ giải quyết với bệnh viện.mọi việc liên quan đến mô, trong khi vai trò của James Lovell sẽ được giới hạn là vai trò nhà sử học ghi chép lại quá trình. Lovell, khi hay biết về lá thư này, trở nên giận dữ và nói với Jenkins, “Họ tính loại tôi ra!” Jenkins phải lựa chọn. “Bởi vì tôi cảm thấy rằng công việc của Jimmy Lovell trong sạch hơn một chút, nên tôi quyết định rằng chúng tôi sẽ không giao tiếp với Mary DeWitt nữa” bà nói. Jenkins không bao giờ nghe tin lại từ Mary DeWitt nữa, nhưng sau đó bà ấy được cho biết rằng DeWitt là một phụ nữ ngoài bốn mươi tuổi, vợ của một thám tử tư.
Hai ngày sau khi nhận được lá thư đầu tiên từ Mary DeWitt, Jenkins nhận được cuộc gọi từ Tiến sĩ Willi Korte, người tự giới thiệu mình là một luật sư Đức và nhà nghiên cứu lịch sử. Ông nói với bà rằng mình làm việc tại Viện Pháp y của Đại học Munich và đang cộng tác với một nhóm quốc tế để nhận dạng hài cốt Ekaterinburg và giải quyết bí ẩn của Anastasia. “Anh ấy rất ngọt ngào, rất quyến rũ” Jenkins nhớ lại. “Anh đã nêu ra rất nhiều cái tên: Tiến sĩ Maples ở Florida, Tiến sĩ Baden ở New York và những người khác. Anh ấy nói với tôi rằng công việc là đi lang thang khắp nơi tìm kiếm mẫu mô đối chiếu. Anh ta hỏi liệu chúng tôi có mẫu nào không. Tôi nói, ‘Vâng, chúng tôi có mẫu vật phẩm.’ Một thời gian ngắn sau đó, một luật sư ở Washington D.C., Thomas Kline, thuộc công ty Andrews & Kurth, đã gọi điện để hỏi về mô. Kline nói rằng mình làm việc chung với Korte, đang ở nước ngoài. Tôi nhắc lại với anh ta, ‘Vâng, chúng tôi có mẫu mô đó.’ Đó là lần cuối tôi nghe tin từ cả hai người họ,” Jenkins nói. “Tôi không bao giờ gặp lại Korte cho đến khi chúng tôi hầu tòa. Nhưng lúc đó anh ta không nói chuyện với tôi.”
Vào tháng 1 năm 1993, Thomas Kline đã liên lạc với Fred Manahan, người mà Kline cho là nắm quyền pháp lý đối với mẫu mô. Manahan giới thiệu Kline với James Lovell. Vào ngày 1 tháng 4, sau nhiều cuộc trò chuyện qua điện thoại, Kline đã viết một lá thư dài ba trang cho Lovell, chính thức yêu cầu giúp đỡ tiếp cận mô của Anastasia Manahan để Viện Pháp y ở Munich tiến hành xét nghiệm DNA. Ông nói rằng viện đã tiếp cận được một số người thân còn sống của Hoàng gia mà máu của họ có thể được sử dụng để so sánh DNA. Để củng cố lời kêu gọi của mình, Kline đã trích dẫn hai bài báo khoa học liên quan đến phân tích DNA. Một là công trình của Phòng Khoa học Pháp y Anh do Tiến sĩ Peter Gill dẫn đầu. Ngày 18 tháng 6, Kline lại viết thư cho Lovell để làm rõ vai trò của Tiến sĩ Willi Korte trong cuộc điều tra của Viện Munich. Kline nói rằng Korte là một nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm, không phải là bác sĩ y khoa. Kline nói thêm rằng Viện Munich đã thiết lập mối quan hệ hợp tác với các nhà khoa học pháp y ở Hoa Kỳ, “đặc biệt, Tiến sĩ Mary-Claire King, đã đồng ý làm việc với Viện Pháp y.”
James Lovell cảm thấy những cuộc gặp gỡ với Thomas Kline thật đáng lo ngại. Không chắc chắn về tình trạng pháp lý của mình, Lovell đã tham khảo ý kiến của Richard Schweitzer, một luật sư ở Virginia, người, giống như Lovell, tin vào lời tuyên bố của bà Manahan rằng bà là con gái của Sa hoàng. Nói về Kline, Lovell bảo Schweitzer, “Ông ta cứ quấy rối tôi đến chết. Ông ta cứ nói, ‘Chúng tôi phải có câu trả lời! Chúng tôi không thể bỏ cuộc! Chúng tôi phải hành động! Chúng tôi phải có câu trả lời từ anh ngay bây giờ!’ Lovell hỏi Schweitzer nên làm gì. “Jimmy, anh không cần phải làm gì cả,” Schweitzer khuyên. “Anh thậm chí không cần phải nói chuyện với ông ta qua điện thoại.” “Vậy nên,” Schweitzer nói sau đó, “lần tiếp theo khi người đàn ông đó gọi, Jimmy – tự mình anh ấy, tôi không bảo anh ấy làm như vậy – đã làm hết sức có thể. Khi anh nghe, ‘Anh phải trả lời ngay bây giờ, có hoặc không!’, Jimmy nói, ‘câu trả lời là không,’ rồi cúp máy. Rồi Jimmy hỏi tôi, ‘Anh nghĩ tôi đã làm đúng không? Họ có thể làm gì tiếp theo?’ Và tôi đáp, ‘Jimmy, họ không thể làm gì cả. Họ không có tư cách pháp lý. Họ không thể tham gia vào một vụ kiện ở Tiểu bang Virginia nếu họ không có tư cách pháp lý. Người duy nhất tôi biết là cư dân của tiểu bang này, người có thể tham gia và có bất kỳ mối liên hệ nào với vụ án này, là Marina.’ “
☆ ☆ ☆
Marina Botkina Schweitzer, con gái của Gleb Botkin, là một phụ nữ Virginia dịu dàng, có phong thái điềm đạm và giọng miền Nam nhẹ nhàng. Nguồn gốc Nga của bà, vốn không dễ nhận thấy ngay với người ngoài, lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bà. Ông cố của bà, Tiến sĩ Sergei Botkin, là cha đẻ của ngành lâm sàng Nga, bạn và cũng là bác sĩ riêng của Sa hoàng Alexander II; ông nội của bà, Tiến sĩ Eugene Botkin, cũng đóng vai trò tương tự cho Sa hoàng Nicholas II và, vì lòng trung thành của ông, đã qua đời cùng gia đình Hoàng gia trong căn hầm ở Ekaterinburg. Bà đọc và nói tiếng Nga, tiếng Đức, và mỗi ngày đều ngồi xem chương trình tin tức buổi tối Vremenya từ Moscow trên truyền hình cáp. Là con gái duy nhất trong bốn người con của Gleb, Marina sinh ra ở Brooklyn, lớn lên ở Long Island và tốt nghiệp Đại học Smith. Khi làm việc tại một văn phòng luật ở Charlottesville, cô đã gặp người chồng tương lai của mình, Richard Schweitzer.
Schweitzer, thay mặt vợ mình, đơn thương độc mã đấu tranh pháp lý với một công ty luật hoạt động trên toàn quốc mướn đến 250 luật sư. Ông là người gốc Thụy Sĩ. Tổ tiên của ông đến Mỹ từ bang Basel vào đầu thế kỷ 19, dự tính cải đạo những người da đỏ ở Winconsin trong vai trò là những nhà truyền giáo. Ông tốt nghiệp Đại học Virginia và phục vụ bốn năm trong Thế chiến II trong nhiệm vụ chống tàu ngầm ở Bắc Đại Tây Dương. Trong một thời gian, ông là thành viên của một đội đột kích bí mật của Hải quân Hoa Kỳ, được huấn luyện để đánh bom các ụ tàu ngầm U-boat của Đức. Schweitzer hành nghề luật sư trong lĩnh vực tái bảo hiểm và tài chính quốc tế và nghỉ hưu năm 1990. Ở tuổi 73, ông vẫn xốc vác và khi bị kích động, trở nên hung hăng. Ông ta lưng thẳng, khuôn mặt sắc sảo sau cặp kính không gọng, và mái tóc bạc thưa thớt. Ngôn ngữ ông đậm mùi luật sư, nhưng ẩn chứa bên trong là khiếu hài hước châm biếm. Trong vụ kiện sắp tới, các đối thủ của Richard Schweitzer có xu hướng coi ông ta như một luật sư nông thôn tỉnh lẻ. Họ đã phạm sai lầm.
Người phụ nữ tên Anna Anderson từng là một phần trong cuộc đời của Marina Schweitzer từ khi Marina lên năm tuổi, khi cha cô đến thăm người tự xưng tại Lâu đài Seeon. Marina biết sơ qua về người tự xưng khi Anna Anderson ở Mỹ vào cuối những năm 1920. Vào những năm 1950, Schweitzer kể lại, “khi bà ấy sống trong cảnh nghèo khó ở Rừng Đen, chúng tôi đã bỏ tiền vào phong bì và gửi cho bà ấy qua đường bưu điện. Cuối cùng, có người viết thư cho ba tôi và nói: ‘Làm ơn bảo bà Schweitzer ngừng gửi tiền’ vì bà ấy lấy tiền để mua thịt cho chó chứ không phải thức ăn cho bản thân.’ Nhưng chúng tôi không bao giờ dừng lại. Vì vậy, bà ấy biết chúng tôi là những người chân thành muốn giúp đỡ. Sau khi Anna Anderson trở về Mỹ vào năm 1968 và đổi tên thành Anastasia Manahan,” Marina Schweitzer kể tiếp, “chúng tôi gặp bà ấy hai hoặc ba lần một năm. Nhưng chủ yếu là vì bà ấy gần gũi với cha tôi hơn là với chúng tôi.”
Trên thực tế, Marina Schweitzer luôn luôn hơi e dè Anastasia Manahan. “Bà ấy nói chuyện… với chúng tôi qua điện thoại rất nhiều, đặc biệt là khi bà ấy gặp rắc rối với Jack. Tôi cố tình giữ khoảng cách với bà ấy vì bà ấy có tiếng hay cãi vã với tất cả những người thân thiết. Sự thật là chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau. Bà ấy gọi tôi là ‘Marina’ và gọi Dick là ‘Ông Schweitzer’. Một lý do khác khiến chúng tôi không thường xuyên đến đó là tôi không thể chịu đựng được cảnh Jack và cách ông ta đối xử với bà ấy như một báu vật, một thứ để khoe khoang. Tôi nghĩ ông ta gây hại cho bà ấy nhiều hơn tất cả những kẻ thù của bà ấy cộng lại. Ông ta lợi dụng bà ấy để nâng cao cái tôi của mình. Một điều khiến tôi tức giận là, trước khi cưới bà ấy, ông ta đã đưa cha tôi và bà ấy đến ngân hàng và bắt bà ấy thề rằng mình là Anastasia, rồi lại bắt cha tôi thề rằng ông ấy biết bà ấy là Anastasia.”
Bất kể bà làm gì – và trong những năm cuối đời, vợ chồng Schweitzer thừa nhận, bà thường rất khó tính – Marina và Richard Schweitzer luôn tin chắc rằng người phụ nữ họ biết đích thực là con gái của Sa hoàng. Họ tin rằng hành vi của bà không có gì bất thường đối với một người phụ nữ đã trải qua những trải nghiệm tàn khốc. Vấn đề cốt lõi nằm ở bản sắc của bà. “Đối với chúng tôi,” Richard Schweitzer nói, “đã quen biết Anastasia suốt ngần ấy năm, đó là một vấn đề danh dự gia đình.phải nỗ lực hết sức để hoàn thành mơ ước cả đời của bà là lấy lại xuất thân Nữ Đại Công tước Anastasia.”
☆ ☆ ☆
Vào đầu năm 1993, gia đình Manahan và James Blair Lovell không nhận ra rằng theo luật Virginia, họ không có quyền kiểm soát di sản của Anastasia Manahan. Tại Virginia, trong trường hợp không có di chúc và không có vợ/chồng hoặc con cái còn sống, di sản sẽ được chuyển giao cho người thân cận nhất theo huyết thống. Anh em họ của John Manahan là họ hàng gần nhất của vợ ông, nhưng không phải qua huyết thống, và khi Bệnh viện Martha Jefferson biết được vấn đề đang được thảo luận, họ đã lịch sự thông báo cho gia tộc Manahan về luật này. Nếu gia tộc Manhan không có quyền kiểm soát, thì, nói rộng ra, họ không thể giao nó cho James Lovell, và ngược lại, James Lovell cũng không thể chuyển nó cho Mary DeWitt, Thomas Kline, hay bất kỳ ai khác.
Được các luật sư của bệnh viện thông báo về điều này, Penny Jenkins bắt đầu lo lắng. Bà đã nói chuyện với Richard Schweitzer khi DeWitt thuê một luật sư ở Charlottesville để cố gắng lấy được mô. Lúc đó, Schweitzer đã nói: “Nghe này, nếu những người này đến gặp bà và bà không muốn cho họ bất cứ thứ gì, hãy báo cho tôi ngay lập tức. Tôi sẽ đến Charlottesville và nộp đơn xin can thiệp thay mặt Marina, yêu cầu không được chuyển giao bất cứ thứ gì trừ khi bệnh viện được bảo vệ và một phần mẫu vật được lưu giữ.” “Người can thiệp” là một thuật ngữ pháp lý mô tả sự can thiệp được tòa án chấp thuận bởi bên thứ ba trong một vụ kiện đang diễn ra. Vì Marina vừa là công dân Virginia vừa là hậu duệ trực tiếp của một trong những nạn nhân vụ thảm sát Nhà Ipatiev, Schweitzer tin chắc rằng bà sẽ được phép can thiệp.
Sau khi Mary DeWitt biệt tăm, Schweitzer và Jenkins vẫn tiếp tục trao đổi. Jenkins nhận ra rằng bệnh viện dễ bị tổn thương trước một loạt yêu cầu lấy mô. Một lần nữa Schweitzer lại đề nghị giúp đỡ. Ông tra cứu luật lệ liên quan và, cùng với Jenkins và các luật sư bệnh viện, bắt đầu soạn thảo một bản kiến nghị cho phép Bệnh viện Martha Jefferson chuyển giao mô cho một phòng xét nghiệm đủ điều kiện. Công việc diễn ra chậm chạp. Schweitzer nhớ lại, các luật sư của bệnh viện là “những luật sư kiểu nắm tay chỉ việc, kiểu luật sư dẫn dắt các ủy viên quản trị, những luật sư bảo thủ, luật sư văn phòng, luật sư ủy thác, luật sư bàn giấy, những luật sư chuyên xử lý di chúc và bất động sản mà không bao giờ ra tòa, rất kỹ lưỡng, cầu kỳ và chậm chạp. Họ chưa bao giờ hẹn gặp tôi. Họ liên tục thay đổi vị trí, và tôi liên tục soạn thảo đi soạn thảo lại để đáp ứng yêu cầu của họ. Cuối cùng, họ giao nó cho một luật sư tranh tụng tài giỏi, Matthew Murray, và chúng tôi đã hoàn thành. Mất từ tháng năm đến tháng chín, nhưng nhờ sự xử lý khéo léo ngay từ đầu, chúng tôi đã hoàn thành vào tháng 6.” Đến tháng 9, Schweitzer đã làm hài lòng mọi người và viết một tài liệu phi đối kháng mà bệnh viện có thể nói rằng, “Đúng, đây là loại kiến nghị mà chúng tôi muốn bạn trình lên tòa án.”
Trong quá trình làm việc tại bệnh viện, Schweitzer cũng bắt đầu tìm kiếm một phòng thí nghiệm có thể xét nghiệm mô khi có sẵn. Ông đã liên hệ với Viện Bệnh học Lực lượng Vũ trang ở Maryland, nhưng ông và họ không thể thống nhất về các điều khoản. Hơn nữa, AFIP không có mẫu DNA nào của dòng họ Romanov hay Hesse để so sánh mô Manahan. Do đó, Schweitzer đã liên hệ với Tiến sĩ Peter Gill và Phòng Khoa học Pháp y Anh, họ dĩ nhiên không chỉ nắm giữ hồ sơ DNA lấy từ hài cốt Ekaterinburg mà còn cả mẫu máu của Hoàng thân Philip, liên kết ông với hài cốt được cho là của Hoàng hậu Alexandra. Trong mùa hè, Schweitzer bắt đầu đàm phán với các luật sư của Bộ Nội vụ để tìm ra một tác vụ ủy nhiệm tư nhân. Cuối cùng, một thỏa thuận bằng văn bản đã được ký kết. Schweitzer đã trả trước 5.000 bảng Anh và ký quỹ 5.000 bảng Anh khác tại một ngân hàng Anh để rút tiền khi cần.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 1993, Richard Schweitzer đã nộp đơn thỉnh nguyện của vợ mình xin cấp phát mẫu mô tại Tòa án Tư pháp Khu vực số 16 Virginia. Marina Schweitzer, đơn thỉnh nguyện nêu rõ, có tư cách pháp lý với ba điểm : với tư cách là công dân Virginia, với tư cách là cháu gái của Tiến sĩ Eugene Botkin, và với tư cách là cư dân duy nhất của Virginia có mối liên hệ lâu dài và nghiêm túc với cuộc đời và nhân dạng của Anastasia Manahan. Cơ sở cho vụ kiện của vợ ông, Schweitzer giải thích, với tư cách là cháu của Bác sĩ Botkin, cô ấy có quyền được biết chuyện gì đã xảy ra với ông nội mình: “Việc xác định một người được cho là sống sót sau vụ sát hại [tức là Nữ Đại Công tước Anastasia] sẽ giúp xác định chắc chắn nhân dạng của tất cả, bao gồm cả ông nội của người nộp đơn, Tiến sĩ Botkin.” Trong đơn, Schweitzer không yêu cầu tòa án cho phép cung cấp các mô cho vợ mình; ông chỉ yêu cầu tòa án cho phép Tiến sĩ Peter Gill tiếp cận các mẫu nhỏ các mô để có thể xét nghiệm. Marina Schweitzer, chồng bà kết luận, sẵn sàng chi trả mọi chi phí cho xét nghiệm DNA này.
Bệnh viện Martha Jefferson không đưa ra lập trường nào về đơn thỉnh nguyện và tuyên bố sẽ làm bất cứ điều gì tòa án ra lệnh. Luật sư Matthew Murray của bệnh viện tuyên bố không chính thức: “Nếu nguyên đơn có thể chứng minh cô ấy có quyền đối với mô và đó là những gì tòa án ra lệnh thì không có vấn đề gì với điều đó. Chúng tôi không có lập trường nhằm được hay mất gì cả.” Schweitzer tin rằng mọi việc đang diễn ra suôn sẻ. “Tôi thậm chí đã soạn thảo lệnh để thẩm phán ban hành, theo cách mà bệnh viện mong muốn,” ông kể lại. “Thẩm phán đã ấn định phiên điều trần vào ngày 1 tháng 11. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ thuận buồm xuôi gió.”
☆ ☆ ☆
Vào buổi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1993, Thẩm phán Tòa án Quận Jay T. Swett, một người đàn ông trẻ tuổi với mái tóc vàng, khoác áo choàng đen, ngồi cao hơn tất cả mọi người trong phòng xử án, chuẩn bị xử lý vụ việc liên quan đến mô của Anastasia Manahan tại Bệnh viện Martha Jefferson. Phía trước và phía dưới ông là ba luật sư: Richard Schweitzer, luật sư của vợ ông, Marina, người muốn mẫu mô được đưa đi xét nghiệm DNA ở Anh; Matthew Murray, luật sư của bệnh viện, người mong muốn điều này xảy ra với điều kiện tòa án chấp thuận; và một luật sư của tờ Richmond Times, muốn đảm bảo rằng các phiên điều trần không cấm cửa đối với báo chí và công chúng. Vấn đề cuối cùng này đã được giải quyết nhanh chóng khi Schweitzer thừa nhận rằng tất cả các phiên điều trần nên được tổ chức công khai và không nên niêm phong bất kỳ tài liệu nào của tòa án. Dường như không còn gì để làm nữa, và Thẩm phán Swett đã chỉ thị cho Schweitzer và Murray cùng nhau soạn thảo một lệnh mà ông có thể ký. Vụ án, rõ ràng, đã kết thúc; mô sẽ sớm được chuyển cho Tiến sĩ Gill.
“Có điều gì khác Tòa cần biết trước khi chúng ta tiếp tục không?” Thẩm phán Swett hỏi.
“Vâng, thưa tòa, vẫn còn một số người khác ở đây muốn được lắng nghe vì họ nghĩ rằng họ có hứng thú với việc này”, Matthew Murray trả lời.
Lúc này, một phụ nữ trẻ với mái tóc nâu buộc đuôi ngựa, đứng dậy ở cuối phòng. Cô tự giới thiệu mình là Lindsey Crawford, luật sư tại văn phòng luật sư Andrews & Kurth ở Washington, D.C., nơi Thomas Kline cũng từng làm việc. “Thưa tòa, chúng tôi có một thân chủ mong muốn và xứng đáng được lắng nghe”, cô nói. “Tôi vừa nhận được tin từ Hoàng thân Nicholas Romanov, người đứng đầu Hiệp hội Gia tộc Romanov, mà hầu hết những người dòng Romanov còn sống đều công nhận là người đại diện hợp pháp đối với ngai vàng. Sáng nay, ông ấy vừa mới yêu cầu tôi đến điều tra chuyện gì đang xảy ra ở đây và liệu điều này có ảnh hưởng gì đến gia tộc ông ấy hay không.” Cô yêu cầu Thẩm phán Swett hoãn phiên tòa để cô có thời gian “bảo vệ quyền lợi của ông ấy và gia tộc Romanov.” Crawford nói thêm rằng công ty của cô cũng đại diện cho một thân chủ khác quan tâm đến mô của Anastasia Manahan. Đây là công ty ở New York
có tên là Hiệp hội Quý tộc Nga.
“Cô có nộp đơn thỉnh cầu chưa?” Thẩm phán Swett hỏi.
“Chưa, thưa tòa, vì thân chủ của chúng tôi chỉ mới nói chuyện với tôi sáng nay.”
Richard Schweitzer, nhận ra ngay cái tên Andrews & Kurth, phản đối bất kỳ sự chậm trễ nào. “Khách hàng thực sự của công ty luật này,” ông nói với tòa, “không phải là bất kỳ thành viên nào của gia tộc Romanov hay Hiệp hội Quý tộc Nga. Đó là ông Korte.” Schweitzer lấy ra một bản sao bức thư Thomas Kline đã viết hồi tháng 6 cho James Lovell, trong đó Kline mô tả công việc của Willi Korte. “Công ty luật Andrews & Kurth đã đại diện cho ông Korte trong nhiều tháng trước phiên điều trần này,” Schweitzer nói với thẩm phán. “Họ đã tìm cách lấy được mẫu mô này cho mục đích của ông Korte và để ngăn chặn những người khác tiếp cận.”
Thẩm phán Swett trầm ngâm vài phút. Rồi ông nói với Crawford rằng ông sẽ hoãn phiên tòa ba ngày để cô có thể nộp đơn. Penny Jenkins, ngồi gần Lindsey Crawford trong phòng xử án, nghe thấy cô nói với vẻ hoài nghi: “Chúng tôi không thể nào xử lý việc này trong ba ngày được.” Jenkins cũng nhận thấy một người đàn ông cao, tóc xoăn, khoảng gần bốn mươi tuổi, mũi nhọn, ngồi cạnh Crawford. Ông ta không đeo cà vạt, chân đi dép xăng đan và đang mang một chiếc ba lô. Jenkins nhận ra – “Tôi không biết tại sao. Tôi chỉ biết vậy thôi”, bà nói sau này – rằng đó là Willi Korte. Trước khi phiên tòa kết thúc, Korte đứng dậy và nhanh chóng rời khỏi phòng xử án.
Nhìn lại sau khi vụ án được giải quyết, Richard Schweitzer đưa ra giả thuyết về những gì đã xảy ra cho đến thời điểm này: “Andrews & Kurth muốn chặn quyền truy cập của Marina vào mô và giành quyền kiểm soát độc quyền cho thân chủ thực sự của mình. Lúc đó tôi tin chắc rằng thân chủ này chính là Willi Korte. Ông ta đã mất nhiều tháng trời muốn lấy được mô, nhưng sau khi thất bại với vợ chồng Manahan và Jimmy Lovell, ông ta không biết phải làm gì. Ông ta không thể tự mình ra tòa ở Virginia vì không có tư cách pháp lý. Ông ta cần một thân chủ được phép can thiệp vào vụ kiện của chúng tôi. Vì vậy, ông ta và các đồng nghiệp ở châu Âu đã đi khắp nơi để tìm kiếm một hoặc hai thân chủ. Họ nghĩ ra Nicholas Romanov và Hiệp hội Quý tộc Nga.”
Ở châu Âu, một trong những đồng nghiệp của Korte, Maurice Philip Remy, đang cố gắng lôi kéo các ông hoàng Romanov vào việc ngăn chặn nhà Schweitzer. Hoàng thân Nicholas, sống ở Rome, đã gọi điện cho người anh họ của mình là Hoàng thân Rostislav, sống ở London, và nói rằng mình bị ép buộc lôi kéo vào vụ án ở Virginia, Rostislav đã gọi điện thoại đến New York và Hoàng thân Alexis Scherbatow, chủ tịch Hiệp hội Quý tộc Nga, người mà ông không quen biết, để hỏi chuyện gì đang xảy ra. Rostislav và Scherbatow nói chuyện nửa tiếng, rồi Rostislav gọi điện cho một người bạn ở London, Michael Thornton. “Khi Rostislav cúp máy với Scherbatow,” Thornton kể, “anh ấy gọi cho tôi và nói, ‘Chúa ơi! Có gì sai với gã đàn ông đó?’ Rồi anh ta bắt đầu kể cho tôi nghe tất cả những điều Scherbatow đã nói: Schweitzer là một… kẻ lừa đảo, hắn ta có một quá khứ rất đáng ngờ ở đó… có những điều về hắn ta mà nếu chúng tôi biết, chúng tôi sẽ phải rùng mình… Họ coi đây là một âm mưu nham hiểm để người tự xưng được công nhận là đích thực.” Scherbatow cũng đã nói với Rostislav rằng mô của Anna Anderson không được phép xét nghiệm ở Anh. “Nơi duy nhất việc đó có thể được tiến hành thỏa đáng,” Scherbatow đã nói, “là ở California bởi Tiến sĩ Mary-Claire King.”
Phản ứng của Thornton với Rostislav là “Tất cả chỉ là chuyện nhảm nhí! Lạy Chúa, hãy fax cho Nicholas và bảo anh ta để yên chuyện ở Charlottesville. Sẽ hỗn loạn lắm đấy.” Sau đó, chính Thornton đã viết một lá thư cho Rostislav, và Rostislav đã fax cho Nicholas, nói rằng sẽ là một thảm họa nếu nhà Romanov dính líu đến vụ án. “Tôi đã nói rằng họ sẽ bị chỉ trích rất nặng nề, vì đã chối bỏ Anna Anderson suốt cuộc đời bà, giờ đây lại muốn tính đòi lại một phần thi thể của bà sau khi bà qua đời”, Thornton kể lại. “Giới truyền thông sẽ đóng đinh họ. Hơn nữa, tôi nói, điều đó sẽ đại diện cho một sự thay đổi trong chính sách lâu nay của gia tộc Romanov, đó là cho rằng bà ấy không phải là người thật. Nếu bây giờ các người bắt đầu đòi lại một phần thi thể của bà ấy, điều đó sẽ khiến mọi người nghĩ rằng các người đã làm một việc sai lầm. Tốt nhất là nên tránh xa.”
Thông điệp của Michael Thornton đã có hiệu lực. Hoàng thân Nicholas Romanov ngay lập tức rút khỏi vị trí khách hàng tiềm năng của Andrews & Kurth, và không có bất kỳ thông tin nào về ông hay bất kỳ người họ Romanov nào được nhắc đến trong các tài liệu tòa án sau đó.
☆ ☆ ☆
Vào thứ năm, ngày 4 tháng 11, Lindsey Crawford đã sẵn sàng theo chỉ dẫn của Thẩm phán Swett để nộp đơn xin can thiệp. Tài liệu chỉ nêu tên một khách hàng duy nhất, Hiệp hội Quý tộc Nga. Crawford đã ký vào đơn thỉnh cầu, cùng với Thomas Kline của công ty luật của bà, và Page Williams, một luật sư ở Charlottesville được thuê làm cố vấn địa phương. Trong đơn thỉnh cầu, hiệp hội tự giới thiệu mình là “một tổ chức lịch sử [sic] và từ thiện có mục đích bảo vệ tính xác thực của dòng dõi Hoàng gia và các sự kiện trước năm 1917 ở Nga.” Hiệp hội đã thách thức tính hợp lý về việc thỉnh nguyện xin lấy mô của Marina Schweitzer, nói rằng bà không có quan hệ huyết thống với “Anastasia Romanov [con gái của sa hoàng] hoặc Anastasia Anderson [người tự xưng].” Hiệp hội phủ nhận rằng việc xét nghiệm các mẫu mô tại Bệnh viện Martha Jefferson sẽ hữu ích trong việc xác minh hài cốt của Tiến sĩ Botkin. Hiệp hội đồng ý rằng xét nghiệm DNA ty thể có thể hữu ích trong việc xác định danh tính thực sự của Anastasia Manahan nhưng tiếp tục nói rằng “điều cần thiết là bất kỳ xét nghiệm nào được tiến hành trên các mẫu mô đều phải có tính toàn vẹn khoa học cao nhất vốn không thể đạt được theo cách mà Schweitzer yêu cầu” (tức là trong phòng thí nghiệm của Tiến sĩ Peter Gill).
Trong một bản ghi nhớ đính kèm theo đơn thỉnh cầu, Hiệp hội Quý tộc Nga đã tiếp tục vu khống Tiến sĩ Gill: phòng thí nghiệm của ông được cho là đại diện “cho chất lượng xét nghiệm khoa học tốt thứ hai”, và các mẫu của ông được cho là có thể đã bị “nhiễm bẩn”. Cuối cùng, hiệp hội lập luận (hóa ra là không chính xác), “Không có bằng chứng khoa học nào cho thấy các mẫu mô có thể được tách ra để có thể tiến hành xét nghiệm song song tại hai phòng thí nghiệm.” Lập luận của Hiệp hội Quý tộc Nga là nếu tòa án trao mô cho Gill, thì sẽ bỏ lỡ mọi cơ hội chứng minh danh tính của người tự xưng. Giải pháp duy nhất, theo họ, là gửi mô đến người được họ đề cử, “nhà khoa học di truyền học hàng đầu Hoa Kỳ”, Tiến sĩ Mary-Claire King tại Berkeley. Đính kèm đơn thỉnh cầu của Hiệp hội Quý tộc Nga là bản tuyên thệ của Hoàng thân Alexis Scherbatow, chủ tịch tổ chức, và Tiến sĩ William Maples. Bản tuyên thệ của Scherbatow hầu như chỉ lặp lại đơn thỉnh cầu. Điều quan trọng là các tuyên bố khoa học và khuyến nghị trong cả ba tài liệu này – đơn thỉnh cầu của Hiệp hội Quý tộc Nga, bản ghi nhớ của hiệp hội, và bản tuyên thệ của Hoàng thân Scherbatow – đều dựa trên bản tuyên thệ của Tiến sĩ Maples. Tuyên bố của Maples ca ngợi Tiến sĩ King và hạ thấp Tiến sĩ Gill. Tuyên bố này cho rằng kết luận của Gill về mức độ chắc chắn 98,5% rằng hài cốt Ekaterinburg thuộc về nhà Romanov là “không có ý nghĩa khoa học”. Nó đề cập đến hiện tượng dị hợp tử mà Gill và các đồng nghiệp đã phát hiện ra trong DNA của Nicholas II “nhiều khả năng là kết quả của các mẫu bị nhiễm bẩn”. Họ tìm cách khiến tòa lo sợ rằng sẽ không có đủ mẫu để phân phối: “Nếu bất kỳ mẫu mô hoặc máu nào từ Anastasia Manahan được sử dụng trong xét nghiệm mtDNA, chúng có khả năng bị tiêu thụ hoàn toàn trong quá trình này…. Do đó, khó có khả năng còn đủ vật phẩm di truyền nếu mẫu được tách ra và thử nghiệm bởi hai phòng thí nghiệm khác nhau.”
☆ ☆ ☆
Hiệp hội Quý tộc Nga là một tập hợp con cháu của các gia đình quý tộc từng góp phần cai trị Đế quốc Nga. Vào những năm 1990, hiệp hội này có khoảng một trăm thành viên đóng hội phí, phần lớn là con cháu của những người di cư khỏi Nga vào thời điểm cách mạng. Nếu họ vẫn còn sống ở Nga dưới thời Sa hoàng, nhiều người trong số họ được gọi là hoàng tử và công chúa, hoặc bá tước và nữ bá tước. Ở Mỹ, họ chỉ đeo danh hiệu này tại các sự kiện từ thiện, hy vọng sẽ thêm chút hào nhoáng và thu hút những người Mỹ vốn ấn tượng với tước hiệu. Nguồn thu nhập chính của tổ chức là một buổi dạ hội vào tháng năm hàng năm, giúp trả tiền thuê căn hộ tầng hai trên Đại lộ số Một, nơi thư viện sách về phả hệ Nga rệu rã được lưu giữ. Phần còn lại được trao cho trẻ em, người già neo đơn và người bệnh.
Không ai trên thế giới hiện nay am hiểu về dòng dõi quý tộc Nga hơn chủ tịch Hiệp hội Quý tộc Nga, Alexis Scherbatow, 84 tuổi. Scherbatow đã sống cả cuộc đời lưu vong. Gia đình ông đã mất tất cả, ngoại trừ mạng sống trong thời cách mạng. Họ chuyển đến Bulgaria; còn ông sống ở Ý, tốt nghiệp Đại học Brussels, đã đến Hoa Kỳ vào năm 1938, và trong Thế Chiến II, là một trung sĩ trong Quân đội Hoa Kỳ. Sau chiến tranh, ông dạy lịch sử tại trường đại học Fairleigh Dickinson ở New Jersey và phiên dịch tài liệu tiếng tiếng Nga và tiếng Latin cho các nhà sử học và nhà văn khác. Quan điểm của ông là điển hình của nhiều người Nga thế hệ minh: ông ấy ghét chủ nghĩa cộng sản, nghi ngờ nước Nga hậu cộng sản, và khinh miệt nước Anh (“Bọn Anh là một lũ dối trá”). Ông chưa bao giờ chấp nhận lời tuyên bố của Anna Anderson rằng bà chính là Anastasia. Để lập luận, ông viện dẫn việc ông đã đích thân nhìn thấy nữ đại công tước vào năm 1916, khi bà mới năm tuổi.
☆ ☆ ☆
Richard Schweitzer đã phản hồi lại sự can thiệp của Hiệp hội Quý tộc Nga vào vụ kiện của vợ ông bằng cách nói rằng “vấn đề không phải là so sánh- giá trị thực sự của các cơ sở xét nghiệm khoa học tương ứng. Vấn đề thực sự là liệu Hiệp hội Quý tộc Nga có bất kỳ tư cách nào để tham gia vào việc lựa chọn một cơ sở khoa học hay không. Không có bằng chứng nào trước tòa án về bất kỳ tư cách nào như vậy.” Ông chỉ ra rằng hiệp hội đã không nộp giấy chứng nhận của các viên chức hoặc nghị quyết chứng nhận ban giám đốc hiệp hội ủy thác đồng ý cho tòa án Charlottesville tiếp quản thẩm quyền đối với hiệp hội trong vụ kiện này. Schweitzer tin rằng các quan chức và thành viên của Hiệp hội Quý tộc Nga không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra. Ông cũng tin chắc rằng có người khác đang chi trả các hóa đơn pháp lý của hiệp hội.*
Ghi chú:
* Thật ra, đúng như In Schweitzer nghi ngờ, không một thành viên hoặc viên chức nào của Hiệp hội Quý tộc Nga hay biết về hành động của chủ tịch họ. Và cũng đúng như Schweitzer nghi ngờ, hiệp hội không hề trả chi phí pháp lý nào của mình. Vào tháng 11 1994, AlexisScherbatow thú nhận rằng trong tám tháng kiện tụng trong đó Hiệp hội Quý tộc Nga là thân chủ trên danh nghĩa không phải trả chi phí nào cả: “Không một xu! Không một xu! Không một xu!” ông ta cười nắc nẻ.
Schweitzer tung ra một loạt tài liệu. Ông nói rằng ông chưa bao giờ xin tòa án cho phép độc quyền tiếp cận mô. Ông không tin có bất kỳ nguy cơ nào về việc hao hụt nghiêm trọng đối với các mẫu mô; ông được thông báo rằng các nhà khoa học chỉ cần một lát cắt nhỏ nhất, dày 24/10.000 inch, từ mỗi đơn vị được bảo quản dày 1 inch. Ngày 16 tháng 11, ông tuyên bố trước tòa rằng ông sẽ không phản đối việc xét nghiệm của Tiến sĩ King tại Berkeley; ông chỉ phản đối việc xét nghiệm độc quyền của Tiến sĩ King. Một lập luận khác, ông nói rằng Hiệp hội Quý tộc Nga không nên được xem xét trong vụ kiện này vì Anastasia Manahan chưa bao giờ tuyên bố mình là thành viên của giới quý tộc Nga; bà luôn nói rằng mình là thành viên của Hoàng gia Nga. Đặc biệt, cả hai vợ chồng Schweitzer đều tỏ ra khinh thường Alexis Scherbatow vì đã tự ký tên “Hoàng thân” trong bản tuyên thệ của mình. “Khi trở thành công dân Mỹ, ông ấy đã tuyên thệ từ bỏ các tước hiệu nước ngoài”, Schweitzer nói. “Tôi thấy khó chấp nhận lời tuyên thệ của một người tuyên bố tước hiệu nước ngoài trong bản tuyên thệ, nếu cũng chính người đó, khi nhập tịch, đã từ bỏ mọi tước hiệu và lòng trung thành với nước ngoài. Lời tuyên thệ này hay lời tuyên thệ kia đều có giá trị đáng ngờ.” Schweitzer cũng chỉ trích William Maples: “Bản tuyên thệ của Maples không phải là cơ sở đáng tin cậy [để chọn phòng thí nghiệm thực hiện xét nghiệm],” ông nói với tòa. “Ông ta đã khẳng định chắc nịch trên truyền hình rằng Nữ Công tước Anastasia không thể sống sót. Ông ta không phải là một nhà khoa học vô tư. Ông Maples là một nhà nhân chủng học, không phải nhà di truyền học. Ông ấy không thể hiện tính chuyên môn nào cho phép ông ta đặt ra tiêu chuẩn cho công việc di truyền học.
☆ ☆ ☆
Richard Schweitzer không phải là người duy nhất lập tức chỉ trích bản tuyên thệ của Tiến sĩ Maples. Khi Mary-Claire King đọc bản tuyên thệ vài ngày sau khi nó được nộp, bà cũng rất tức giận. Vào ngày 19 tháng 11, bà gọi điện cho Peter Gill ở Anh, tách mình ra khỏi những lời nhận xét của Maples về sự bất tài của Gill, và nói với ông ấy rằng bà sẽ rất vui nếu được hợp tác với ông ấy trong việc xẻt nghiệm mô của Anastasia Manahan. Sau ngày hôm đó, bà đã trao đổi qua điện thoại với Marina và Richard Schweitzer. Gửi fax đến nội ngày hôm đó, Schweitzer nói rõ lập trường của vợ chồng ông: họ đã tiến hành một ủy thác được tài trợ riêng tư đến Tiến sĩ Gill mà không có sự kiểm soát: “không giật dây, không thao túng.” Báo cáo xét nghiệm của Gill, bất kể kết luận của nó về việc bà Manahan tự nhận mình là Anastasia sẽ được chuyển trực tiếp đến tòa án và bệnh viện, chứ không phải đến vợ chồng Schweitzer. Về vai trò của Tiến sĩ King, Schweitzer nói với bà: “Chúng tôi không muốn loại bà khỏi việc hợp tác cùng Peter Gill vào một loạt các quy trình và kết luận hoàn toàn mang tính khoa học, hoàn toàn vô tư.” Thật vậy, Schweitzer đã đề nghị đưa King vào đơn thỉnh cầu của chính mình gửi lên tòa án. “Thật không may,” ông nói với bà, “tên của bà đã được một hội phả hệ ở New York đưa ra tòa, hội này đã tìm cách yêu cầu tòa ngăn chặn việc chúng tôi tìm cách tiếp cận Tiến sĩ Gill. Theo quan điểm của chúng tôi, đây thực chất là một vụ kiện của công ty luật Andrews & Kurth thay mặt cho các bên giấu tên đã hoạt động bí mật từ tháng 3 hoặc tháng 4 năm 1993.”
Trong cuộc trò chuyện của họ, King đã yêu cầu Schweitzer nói chuyện với Lindsey Crawford để xem liệu có cách nào để bà và Tiến sĩ Gill có thể hợp tác, hoặc ít nhất là làm việc song song, hay không. Ngày hôm sau, Schweitzer chuyển lời nhắn này cho Crawford, đề xuất đưa Tiến sĩ King vào đơn thỉnh cầu của vợ ông và Andrews & Kurth rút khỏi vụ kiện. Trong hai tuần, Schweitzer không nghe thấy trả lờì; rồi, vào ngày 4 tháng 12, ông được biết Andrews & Kurth không có ý định rút lui;
Ngày 6 tháng 12, ông được thông báo rằng Thomas Kline đang phàn nàn việc Schweitzer can thiệp với chuyên gia “của ông”. Schweitzer ngay lập tức gọi điện cho Kline, và ông ta đã nhượng bộ và thừa nhận rằng Tiến sĩ King không phải là của ông và việc Schweitzer liên lạc với bà là hoàn toàn chính đáng.
Tuy nhiên, sau đó, Crawford đã viết thư cho Schweitzer yêu cầu cung cấp “tất cả bản sao của 6 tờ fax gửi cho Tiến sĩ King.” Một tuần sau, Crawford lại viết thư, nghiêm khắc yêu cầu sáu bản fax phải được gửi cho cô “ngay khi nhận được lá thư này. Sự việc này,” cô tiếp tục, “nhấn mạnh sự cần thiết phải tập trung thông qua tôi tất cả các thông tin liên lạc liên quan đến hoặc theo bất kỳ cách nào liên quan đến vụ án.” Schweitzer đã gửi bản sao fax của mình cho Thẩm phán Swett nhưng không bao giờ gửi cho Lindsey Crawford.
Trong khi đó, Mary-Claire King đang trình bày quan điểm của mình bằng văn bản. Ngày 7 tháng 9 năm 1993, bà ấy đã viết và cho công chứng một bản tuyên thệ đi ngược với những gì Tiến sĩ Maples đã nói về năng lực của Tiến sĩ Gill. Mặc dù bản tuyên thệ của bà ấy là do Andrews & Kurth yêu cầu và được viết bề ngoài là hậu thuẫn cho Hiệp hội Quý tộc Nga, nhưng King đã rẽ sang một lộ trình riêng biệt. “Tôi đã làm việc trong bảy tháng qua về việc nhận dạng hài cốt của chín cá nhân được cho là có cả Sa hoàng Nicholas II và các thành viên trong gia đình ông”, bà nói. “Tôi cũng đã nhận được mẫu máu và mô từ hậu duệ của Sa hoàng Nicholas và Hoàng hậu Alexandra.” * Tôi đang trong quá trình chuẩn bị báo cáo về những phát hiện của mình. Tôi biết rõ về nghiên cứu DNA đối với hài cốt ở Ekaterinburg do Tiến sĩ Peter Gill thực hiện. Nếu có đủ vật phẩm mang mtDNA, lý tưởng nhất là nên có hai phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn để thực hiện xét nghiệm mtDNA và so sánh kết quả. Tôi đã nói chuyện với Tiến sĩ Gill và muốn có cơ hội hợp tác với ông ấy trong phân tích mẫu.”
Ghi chú:
* Rõ ràng, King có ý nói là các họ hàng của Sa hoàng và vợ mình; vì tất cả hậu duệ khác đều ở cùng với họ trong căn hầm Nhà Ipatiev.
Bởi vì bản tuyên thệ của Tiến sĩ King đã lật ngược phần lớn lập luận khoa học mà Andrews & Kurth đã dựa vào để đưa ra vụ kiện, nên công ty luật này đã giữ lại bản tuyên thệ của King và không nộp lên tòa án hoặc cho các luật sư đối lập đọc cho đến ba tháng sau đó.
☆ ☆ ☆
Trong khi đó, số lượng các bên tham gia vụ kiện của Richard Schweitzer ngày càng tăng. Vào ngày 10 tháng 11, một phụ nữ 56 tuổi đến từ Mullan, Idaho, Ellen Margarete Therese Adam Kalling, sinh ngày 23 tháng 10 năm 1937 tại Đức và vẫn là công dân Đức, đã nộp đơn xin can thiệp. Bà tuyên thệ rằng mình là “người con gái thất lạc từ lâu” của Nữ Đại Công tước Anastasia và Hoàng tử Henry xứ Reuss. Bà cho biết vào tháng 1 năm 1993, chỉ mười tháng trước đó, bà đã đổi tên hợp pháp thành Anastasia Romanov. Lập luận của bà là “Nếu bà Manahan được chứng minh là Nữ Đại Công tước Anastasia Romanov, thì tôi, Anastasia Romanov, với tư cách là con gái của bà, là thành viên của Hoàng gia Nga.” Do đó, bà nói với tòa, chỉ mình bà có quyền đối với mô của mẹ mình, và chỉ mình bà mới có quyền quyết định liệu mô đó có được xét nghiệm hay không, và xét nghiệm ở đâu và do ai.
Bà Kailing-Romanov giải thích rằng mẹ bà, sau này là bà Manahan, đã không nuôi bà vì thân nhân cho rằng nữ công tước đã mất năng lực sau vụ sát hại gia đình bà. Bà Kailing-Romanov nói rằng bà đã được cứu khỏi trại tập trung và được một gia đình người Đức nhận nuôi: “Năm 1964, tôi được cho biết rằng mình là… công nương.” Bà đến Hoa Kỳ năm 1968, kết hôn với một người Mỹ và đã có con cái. “Sự thật về nhân thân của tôi được giữ kín cho đến ngày 10 tháng 6 năm 1990, … khi tôi được Mẹ Alexandra, tu viện trưởng của Tu viện Chính thống giáo Biến hình ở Ellwood City, Pennsylvania, cho biết tôi là con gái của Anastasia Romanov. Khi tôi nhìn thấy những bức ảnh trong cuốn sách của Peter Kurth, tôi biết đây chính là câu chuyện của đời mình…. Thực ra, Lovell trong cuốn sách của ông đã cung cấp cho tôi những thông tin chính xác [sic],… Giờ thì bức ảnh đã hoàn chỉnh [sic] và phù hợp…. Thông tin cuối cùng đến từ cuốn sách của Edvard Radzinsky.”
Để củng cố vụ kiện của mình, bà Kailing-Romanov đã liên hệ với một công ty ở Charlottesville tên là Locators Inc., hoạt động với khẩu hiệu “Tìm ra người mất tích – Hành động nhanh chóng – Kết quả đáng kinh ngạc”. Hợp đồng phí tìm kiếm của công ty nêu rõ rằng nếu xác định được người tự xưng có quyền chia sẻ tài sản của Nicholas Romanov, Alexandra Romanov và Anastasia Romanov, thì Locators Inc. sẽ nhận được 33 phần trăm cổ phần bất động sản của người tự xưng. Hơn nữa, “trong trường hợp người tự xưng được xác định là người thừa kế hợp pháp của Sa hoàng Nicholas II và điều này dẫn đến việc xác lập người tự xưng ở vị trí có thẩm quyền chính phủ tại Nga”, khoản bồi thường bổ sung sẽ đến dưới hình thức thanh toán trái phiếu chính phủ Nga được phát hành năm 1916, “cùng với lãi suất tích lũy, là hành động chính thức đầu tiên theo chính quyền của người tự xưng.” Bà Kailing-Romanov quyết định không tin tưởng Locators Inc. và không ký hợp đồng.
Sau đó, bà Kailing-Romanov đã đưa ra những tuyên bố khác trước tòa: “Tôi vừa mới vượt qua được chứng ngộ độc thạch tín. Thu nhập của tôi thấp hơn mức nghèo khổ.” Bà yêu cầu tất cả các ngày xét xử phải được ấn định trước vì “người nộp đơn không đi máy bay, bà ấy chỉ đi bằng tàu hỏa hoặc ô tô. Người thỉnh cầu sống ở Idaho, cách đó hơn 2.000 dặm, và phải mất hơn ba ngày đi tàu hỏa mới đến được Charlottesville, Virginia. Chức vụ Sa hoàng do Chúa ban cho mà người trần tục không có quyền lực gì. Tôi, Anastasia Romanov, có một con trai và nó sẽ nối dõi tông đường.”
Đối với Richard Schweitzer, có vẻ như Hiệp hội Quý tộc Nga và bà Kailing-Romanov đang biến vụ kiện hợp pháp của vợ ông thành một gánh xiếc. Tuyên bố rằng lời biện hộ của bà Kailing-Romanov “quá thiếu mạch lạc để được xem xét”, ông đề nghị tòa xác định “thẩm quyền của người nộp đơn trong việc đại diện cho lợi ích của chính bà ta hoặc bất kỳ lợi ích nào khác” và yêu cầu bác bỏ ngay lập tức đơn xin can thiệp của bà. Một lần nữa, giống như đã làm với đơn xin của Hiệp hội Quý tộc Nga, Bệnh viện Martha Jefferson, với hy vọng chỉ tranh tụng về vấn đề mô một lần, đã theo một lộ trình đối nghịch và yêu cầu bà Kailing-Romanov được nhìn nhận với tư cách là người can thiệp.
Vào ngày 7 tháng 12, trước nỗi thất vọng của Richard Schweitzer, Thẩm phán Swett tuyên bố rằng cả Hiệp hội Quý tộc Nga và bà Kailing-Romanov đều được phép can thiệp vào vụ kiện.
16
Những người này không có tư cách pháp lý
Quyết định của Thẩm phán Swett về việc công nhận Hiệp hội Quý tộc Nga và Anastasia Kailing-Romanov là liên minh những người đại diện cho vụ kiện của gia đình Schweitzer đã được ghi trong một văn bản gửi tất cả các bên, trong đó cũng yêu cầu họ gặp mặt, hội ý và tự giải quyết các vấn đề về cách thức và địa điểm xét nghiệm mô. Nếu số lượng mô đủ, ông chỉ thị cho Tiến sĩ Gill và Tiến sĩ King thực hiện các xét nghiệm song song. Ngoài ra, các bên được hướng dẫn đạt được thỏa thuận về việc thanh toán chi phí và cách thức công bố kết quả xét nghiệm. Khi họ đã giải quyết xong mọi việc, họ sẽ nộp một bản dự thảo lệnh để ông ký.
Richard Schweitzer và Lindsey Crawford ngay lập tức bất đồng quan điểm về điểm khởi đầu cho quá trình này. Schweitzer muốn bắt đầu bằng việc gặp gỡ và trao đổi; ngược lại, Crawford nhanh chóng bắt tay vào soạn thảo dự thảo lệnh riêng cho thẩm phán. Schweitzer liên tục viết thư, thúc đẩy một cuộc họp: “Tôi sẵn sàng đến văn phòng của cô sớm nhất có thể, tốt nhất là trong tuần này, trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh”, ông viết vào ngày 20 tháng 12. Crawford trả lời, “Chúng tôi đang trong quá trình soạn thảo một đề xuất lệnh mà chúng tôi hy vọng sẽ gửi đến tất cả các bên trong vài ngày tới. Tôi sẽ tham khảo ý kiến của ông về việc lên lịch họp sau khi tôi gửi bản thảo này.”
Khi dự thảo lệnh của Crawford đến, Schweitzer rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nó chứa đựng một thay đổi lớn trong lập luận của đối thủ. Trước đó, Andrews & Kurth, chấp nhận ý kiến của Tiến sĩ Maples, đã lên án phòng thí nghiệm của Peter Gill là nơi bằng chứng DNA có thể đã bị nhiễm bẩn và chỉ cung cấp “loại xét nghiệm khoa học hạng hai”. Lần này bản thảo của Crawford đề xuất thẩm phán chỉ đạo cung cấp mô cho cả Tiến sĩ Gill lẫn Tiến sĩ King. Tuy nhiên, Schweitzer tỏ ra khó chịu. Ông không thích cách Crawford xấc xược vạch ra chi tiết cho các quy trình khoa học cần tuân thủ; ông không thích việc cô khăng khăng yêu cầu cả King và Gill làm việc mà không được hoàn trả chi phí (Schweitzer biết rằng Phòng Khoa học Pháp y Anh sẽ không làm việc nếu không có thù lao); và ông nhấn mạnh rằng mỗi nhà khoa học đều được tự do công bố kết quả nghiên cứu của mình ngay khi có được.
Schweitzer đã viết thư cho các luật sư của bệnh viện, “Những tài liệu là bằng chứng rõ ràng rằng chúng ta nên gặp mặt và hội ý trước theo chỉ đạo của tòa và không để bị hạn chế bởi toan tính của Luật sư Crawford nhằm kiểm soát chương trình hoạt động bằng ‘bản nháp’ hoặc cách khác.” Ngày sau lễ Giáng sinh, Schweitzer, ngày càng tức giận, đã quay lại máy fax của mình và thông báo cho các luật sư của bệnh viện rằng “Luật sư Crawford đã coi thường yêu cầu gặp mặt của chúng tôi được tòa chỉ dẫn và đã chọn chuẩn bị và lưu hành một bản thảo mà bà cho là một ‘lệnh’. Schweitzer nói thêm rằng hiện tại ông muốn tiếp tục và gặp các luật sư của bệnh viện, “với sự tham dự của Luật sư Crawford hoặc không tùy theo ý muốn của cô ta.”
Điều này đã thu hút sự chú ý của Lindsey Crawford. Cô đã lên lịch một cuộc họp với tất cả các luật sư liên quan để thảo luận về phản hồi cho lá thư của Thẩm phán Swett. Thời gian là ngày 10 tháng 1 năm 1994; địa điểm là văn phòng tại Charlottesville của Page Williams, luật sư địa phương mà Andrews & Kurth đã mời tham gia vụ kiện. Vợ chồng Schweitzer, biết có dự báo thời tiết xấu vào ngày 10, đã lái xe đến nơi vào đêm hôm trước. Chiều ngày 10, khi cuộc họp bắt đầu, vợ chồng Schweitzer, Page Williams và luật sư bệnh viện Matthew Murray đã có mặt, nhưng Lindsey Crawford, người triệu tập cuộc họp, lại không có mặt. Thời tiết xấu; cô ấy không thể lái xe, Williams giải thích. Tuy nhiên, thời tiết không ngăn cản sự xuất hiện của một người khác lái xe từ Washington đến Charlottesville vào ngày hôm đó.
Trong khi các luật sư đang phân phát bản sao của các lệnh đồng ý được đề xuất để điều chỉnh việc phân phối mô, Tiến sĩ Willi Korte bước vào phòng. Schweitzer hỏi tại sao Korte lại có mặt. Williams thông báo rằng Korte ở đó “để đại diện cho Hiệp hội Quý tộc Nga”. Schweitzer yêu cầu giấy tờ tùy thân hoặc bằng chứng về thẩm quyền, và Korte rút từ cặp ra một văn bản do Alexis Scherbatow ký ngày hôm đó. “Tôi xin yêu cầu và ủy quyền cho Willi Korte hỗ trợ Hiệp hội Quý tộc Nga và các luật sư của tổ chức trong vụ kiện tụng”, văn bản viết. “Thẩm quyền được cấp ở đây cho phép Tiến sĩ Korte làm việc với các luật sư của hiệp hội tại Hoa Kỳ trong việc tiến hành đàm phán, xem xét tài liệu, cung cấp tư vấn và thực hiện bất kỳ bước cần thiết và phù hợp nào khác để thúc đẩy lợi ích của Hiệp hội trong những vấn đề này.”
Khi vụ kiện tụng ngày càng căng thẳng, Richard Schweitzer ngày càng cảm thấy mình đang phải đối đầu với nhiều đối thủ, người này đứng sau người kia. Trong nhiều tháng, ông đã nhận thức được sự hiện diện của Tiến sĩ Willi Korte, nhưng chỉ đến ngày 10 tháng 1, ông mới nhìn thấy đối thủ bằng xương bằng thịt. Ngay cả khi đó, Schweitzer cũng không biết nhiều về anh ta. Julian Nott, một nhà làm phim người Anh đang thực hiện một bộ phim tài liệu truyền hình về Anastasia, biết nhiều hơn. “Korte cố tình tỏ ra bí ẩn”, Nott nói vài tuần sau cuộc đối đầu giữa Schweitzer và anh ta. “Anh ta không tiết lộ nhiều về bản thân hoặc người trả tiền cho anh ta. Anh ta là người Đức, nhưng sống gần Washington, D.C. Anh ta là một nhà nghiên cứu rất giỏi. Công việc bình thường của anh ta là hoạt động ngầm, truy tìm các tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp. Vài năm trước, anh ta đã giúp tìm ra Kho báu Quedlinburg bị mất tích, được định giá từ 200 triệu đô la đến “vô giá”, bị một trung úy Quân đội Hoa Kỳ đánh cắp ngay sau Thế chiến thứ hai và giấu ở Texas. Trong vụ án Romanov, tôi đã tình cờ gặp anh ta ở Boston tại cuộc họp của các nhà khoa học pháp y khi Avdonin nộp bài báo, tại Harvard khi xem xét các tài liệu của Sokolov, và ở London.
“Ông ta rất giỏi thuyết phục một số gia đình này, đặc biệt là người Hesse (gốc gác của Hoàng hậu Alexandra), và đã lôi kéo họ vào cuộc,” Nott nói tiếp. “Anh ta dọa họ bằng cách nói, ‘Này, các ông có biết chuyện gì đang xảy ra ở đây không? Các ông có biết là con rể của Gleb Botkin, Richard Schweitzer, và James Lovell sắp thực hiện một trò lừa đảo kinh hoàng này với các ông không? Và tôi đây. Sao các ông không giúp tôi một tay?’
“Cảm giác của tôi là Korte chính là bộ não và động lực đằng sau chuyện này,” Nott nói tiếp. “Anh ta rất quyết tâm, và sẽ không thỏa hiệp. Anh ta muốn toàn bộ mọi chuyện; anh ta không muốn Schweitzer dính líu chút nào. Nhưng điều anh ta thực sự đang làm chỉ khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn.”
Tuy nhiên, Nott đã sai; Willi Korte không phải là động lực đằng sau lực lượng đối thủ của Schweitzer. Đến tháng 1, một nhân vật đứng sau bắt đầu xuất hiện. Maurice Philip Remy là một nhà sản xuất truyền hình người Đức đến từ Munich, cũng như Julian Nott, muốn làm một bộ phim về Anastasia. Vài tuần sau, Nott đến Munich để gặp đối thủ này. “Ông ấy là một người giàu có xuất thân từ một gia đình quý tộc và công ty truyền hình của ông ấy khá thành công”, Nott tuyên bố khi trở về. “Và ông ấy muốn giải quyết 76 năm bí ẩn trong một chương trình truyền hình. Thật không may, ông ta có nhiều tiền hơn lòng tốt. Ông ta sẽ theo đuổi chuyện này, và sẽ không buông tha. Ông ta khẳng định mình ủng hộ Korte; ông ta nói về Korte như thể Korte là một thứ gì đó còn tệ hơn cả quản gia của mình: ‘Tôi cử Korte làm việc này, tôi cử hắn làm việc kia.’ Nói về Hiệp hội Quý tộc Nga, ông ta thận trọng hơn nhiều. ‘Tôi có ảnh hưởng lớn với họ,’ ông ta nói với tôi.
Quan điểm của Remy về Anna Anderson là cực kỳ thù địch. “Ông ta không ra mặt để có thái độ khách quan,” Nott tuyên bố. “Ông ta muốn chứng minh bà ta là kẻ mạo danh. Ông ta liên minh với phe Hesse, và lúc nào cũng thể hiện với họ mình luôn khinh thường Anna Anderson.” Remy cũng trở thành đồng minh đắc lực của Tiến sĩ von Berenberg-Gossler, cựu luật sư bào chữa cho phe Hesse, người, ở tuổi tám mươi lăm, vẫn mô tả Anna Anderson là một “kẻ lừa đảo” và “giả mạo”. Dần dần, Nott nhận ra rằng.mục tiêu của Remy là giành quyền kiểm soát hoàn toàn vụ án Anna Anderson. Ông ta sẽ chặn Richard và Marina Schweitzer, tự mình lấy mẫu mô, kiểm tra, rồi sau đó chi phối việc công bố thông tin. Ông ta và các cộng sự đã tản ra khắp châu Âu, không chỉ tham khảo kho lưu trữ, thư từ, phim ảnh, phim gia đình, băng ghi âm, phỏng vấn và chương trình phát sóng mà còn cố gắng mua chúng. “Không một chương trình truyền hình hay đài truyền hình thông thường nào làm được điều đó; nó quá tốn kém,” Nott nói. “Nhưng Remy đang bị tụt lại phía sau trong cuộc đua này nên ông ta muốn ngăn chặn Schweitzers và Gill, ít nhất là cho đến khi ông ta có thể sắp xếp để công bố lại tất cả cùng lúc. Lý do được đưa ra là vì đó là sự kiện khoa học hấp dẫn; rằng tất cả các tài liệu nên được cung cấp cho mọi người dưới hình thức ghi hình công khai cảnh các nhà khoa học đang tác nghiệp. Lý do thực sự sẽ là lợi thế thương mại. Trong khi đó, ông ta đang âm thầm tìm cách thâu tóm nguồn cung của thế giới. Sau đó, ông ta sẽ đi khắp các kênh truyền hình và đài phát thanh ở châu Âu và thế giới để cố gắng bán trước một bộ phim có độc quyền đối với xét nghiệm DNA của Anna Anderson. Ông sẽ rao với họ rằng mình sở hữu Anna Anderson.”
☆ ☆ ☆
Vào tháng 1 năm 1994, một nhân vật khác lại xuất hiện trong vụ kiện tụng. Đó là Nam tước Ulrich von Gienanth, một nhà ngoại giao Đức trước đây, nay đã 86 tuổi, đã trở thành bạn của Anna Anderson sau chiến tranh và trong những năm tháng bà sống ở Unterlengenhardt, ông đã quản lý số tài chính eo hẹp của bà. Trong một loạt năm bản di chúc được lập từ năm 1949 đến năm 1957, người tự xưng đã chỉ định von Gienanth là một trong bốn người thi hành di chúc. (Những người khác, tất cả đều đã qua đời vào năm 1994). Ngày 21 tháng 1 năm 1994, tại Bad Liebenzell, gần Stuttgart, nơi ông sống, Nam tước von Gienanth đã ký một bản tuyên bố rằng, với tư cách là người duy nhất còn sống trong số bốn người đầu tiên, ông chấp nhận chức năng người thi hành di chúc cuối cùng của Anna Anderson. Tuyên bố của Von Gienanth, nếu được tòa án chấp thuận, sẽ thay đổi toàn bộ cục diện của vụ án. Đơn kiện của Marina Schweitzer gửi tòa án dựa trên việc không có người thân huyết thống, không có người thừa kế và không có người thi hành di chúc. Rõ ràng, nếu ông được xác nhận là người thi hành di chúc, tư cách của von Gienanth sẽ thay thế Schweitzer, và do đó, bất kỳ vai trò nào của những người can thiệp, Hiệp hội Quý tộc Nga và Anastasia Kailing-Romanov. Tuy nhiên, Richard Schweitzer đã nhìn thấy một kẻ hở pháp lý và quyết định khai thác nó. Biết rằng von Gienanth muốn Tiến sĩ Gill và Tiến sĩ King tiến hành xét nghiệm song song mô của Schweitzer đã đệ đơn lên tòa án xin chỉ định nam tước làm đại diện cá nhân của người tự xưng ở Virginia. Schweitzer biết rằng nếu tòa án đồng ý, thì vụ kiện phi đối kháng của ông với bệnh viện sẽ bị bác bỏ. Tuy nhiên, cùng với đó, sự tham gia của Andrews & Kurth và Anastasia Kailing-Romanov cũng sẽ bị chấm dứt. Cố gắng ngăn chặn điều này, Andrews & Kurth đã đệ đơn xin ngăn chặn việc trình bày bản tuyên bố của von Gienanth lên tòa án.
Vào thời điểm này, các đối thủ của Schweitzer hoặc hiểu lầm mục tiêu của ông hoặc đánh giá thấp tính nhạy bén về pháp lý của ông. Vào ngày 22 tháng 2, Schweitzer, Matthew Murray, Lindsey Crawford và Page Williams xuất hiện trước Thẩm phán Swett để thẩm phán có thể ấn định ngày diễn ra phiên điều trần về các vấn đề chưa được giải quyết nêu ra trong bức thư ngày 7 tháng 12 của ông: hai bên thống nhất ra sao về phòng thí nghiệm kiểm tra mô và giải quyết thế nào sự tham dự của công chúng dự khán kết quả. Thẩm phán nhìn xuống và nói, “Tất cả các bên đã đồng ý về một dự thảo lệnh chưa?” Schweitzer đơn giản nói “Chưa”. Thẩm phán nhìn chằm chằm vào các luật sư trước mặt mình. Sau đó, Murray nói, “Thưa Ngài, chúng tôi thực sự nghĩ rằng buổi điều trần đầu tiên nên bàn về bằng chứng chúng tôi vừa nhận được cho rằng có ai đó [von Gienanth] hội đủ yêu cầu của luật lệ. Nếu buổi điều trần khác này được tổ chức, thì bất cứ việc khác nào cũng sẽ chỉ là vô ích. Tôi muốn trình lên ngài yêu cầu của người đàn ông tự nhận là người thi hành di chúc.”
“Người đó có nộp bất kỳ đơn kiện nào trong vụ án này không?” thẩm phán hỏi.
“Không,” Murray nói.
“Ông ta có phải là bên liên quan trong vụ kiện này không?”
“Không,” Murray nói. “Nhưng nếu ông ta đúng là người mà ông ta tự nhận, thì bệnh viện sẽ bãi bỏ vụ kiện này để chúng tôi có thể giải quyết trực tiếp với người này.”
“Vâng, thưa ông Murray,” thẩm phán nói, “điều bệnh viện phải làm là nộp đơn xin bãi bỏ và đính kèm những tài liệu mới này làm bằng chứng hỗ trợ. Tòa án này không thể phán quyết vì chúng tôi không có đơn xin bãi bỏ nào cả.”
Đến đây, Schweitzer lên tiếng. “Thưa Ngài, tôi yêu cầu bãi bỏ vụ kiện. Tôi đã nộp đơn để đáp lại lời thỉnh cầu cuối cùng của Hiệp hội Quý tộc Nga.”
Vị thẩm phán tỏ vẻ ngạc nhiên. “Ông có hiểu rằng nếu tòa chấp nhận bãi bỏ bệnh viện khỏi vụ kiện, thì thực chất ông cũng phải bãi bỏ vụ kiện của chính mình không?” Ông ta hỏi. “Ông có biết rằng mình đang yêu cầu bãi kiện không?”
“Đúng vậy,” Schweitzer nói.
“Ông đồng ý bãi kiện không?”
“Đúng vậy,” Schweitzer nói.
“Luật sư, ông có yêu cầu hủy đơn kiện trước tòa không?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thì vụ kiện này đã bị hũy bỏ”, Thẩm phán Swett tuyên bố.
Phía bên kia sửng sốt. “Thưa ngài, chúng tôi phản đối việc bác bỏ đơn kiện vì chúng tôi là người can thiệp”, Lindsey Crawford phản đối. “Chúng tôi có quyền lợi và yêu cầu đối với mẫu mô này.”
“Được thôi, nếu bà có yêu sách hoặc quyền lợi liên quan đến vụ việc, bà có thể tự mình khởi kiện” – Thẩm phán Swett dừng lại – “nếu bà có tư cách pháp lý.” Khi nghe điều này, Richard Schweitzer, người trong nhiều tháng đã cho lập luận rằng Hiệp hội Quý tộc Nga không có tư cách pháp lý, chỉ muốn hoan hô.
Kết quả của phiên điều trần này và lệnh bãi kiện của Thẩm phán Swett vào ngày 1 tháng 3, Nam tước von Gienanth, ít nhất là tạm thời, đã nắm quyền kiểm soát mô. Ông lập tức viết thư cho Bệnh viện Martha Jefferson, yêu cầu bệnh viện cung cấp mô cho Bác sĩ Gill để ông ta có thể thực hiện việc ủy thác của vợ chồng Schweitzer. Von Gienanth cũng viết thư cho Lindsey Crawford, thúc giục một thỏa thuận để giao mẫu mô cho Tiến sĩ King. Với thực tế này, hành vi sau đó của Andrews & Kurth thật kỳ lạ. Ngay cả khi vị nam tước đề nghị chính xác những gì Lindsey Crawford đã đề xuất trong dự thảo lệnh chấp thuận của mình, cô ta vẫn tìm cách làm suy yếu tư cách của ông ta.
Andrews & Kurth đã thuê luật sư ở Đức và biết rằng di chúc của Anna Anderson chưa bao giờ được chứng thực ở đó vì, vào thời điểm bà qua đời, bà không sống hoặc sở hữu tài sản nào ở quốc gia đó. Hơn nữa, di chúc trao quyền cho “bất kỳ hai người thi hành di chúc nào của tôi” hành động, và – Crawford sau đó nói với Page Williams – vì chỉ có một người còn sống, nên di chúc “chưa và không thể được chứng thực theo luật Đức [và] có lẽ cũng không thể được chứng thực ở Virginia.” Do đó Williams thông báo với Matthew Murray rằng, để Nam tước von Gienanth được bổ nhiệm, ông ta sẽ “phải ra trình diện trực tiếp để chứng thực di chúc mới đủ tư cách làm người thi hành di chúc.” Trên thực tế, von Gienanth, đã già khú và lãng tai, không muốn bay đi Mỹ.
Trong khi đó, nhằm giải quyết việc bị loại khỏi vai trò người can thiệp một cách đột ngột do Richard Schweitzer rút lại vụ kiện của vợ mình, Andrews & Kurth đã yêu cầu Thẩm phán Swett xem xét, làm rõ và sửa đổi lệnh bãi kiện của mình; chính tại phiên điều trần ngày 4 tháng 3 về động thái này, bản tuyên thệ của Mary Claire King, được viết vào ngày 7 tháng 12, cuối cùng đã được nộp lên. Thẩm phán đã bác bỏ yêu cầu của Andrews & Kurth; thực chất, ông nói với công ty rằng đây là một vụ bãi kiện , cô bị loại, không có kháng cáo chéo, phản tố, hay yêu sách của bên thứ ba; vậy là xong, vụ kiện này đã kết thúc. Nếu Marina Schweitzer muốn chấm dứt vụ kiện này và loại công ty ra khỏi vụ kiện, bà ấy có quyền làm như vậy.
Đối với Lindsey Crawford và khách hàng của cô, điều này làm nảy sinh khả năng rằng Martha Jefferson giờ đây có thể thoải mái chuyển các mẫu mô cho Nam tước von Gienanth, rồi ông này sẽ chuyển chúng cho Bác sĩ Gill. “Thưa Ngài,” Crawford hỏi, “liệu chúng tôi có thể xin lệnh cấm hoặc lệnh hạn chế đối với bệnh viện trong khi chờ chúng tôi nộp đơn kiện khác chống lại bệnh viện không?”
“Nếu cô muốn lệnh cấm,” thẩm phán nói, “hãy nộp đơn xin lệnh cấm.”
☆ ☆ ☆
Ở giai đoạn này, các luật sư của Hiệp hội Quý tộc Nga, quyết tâm ngăn chặn việc giao mô và thất vọng trước việc vụ kiện của Schweitzer kết thúc đột ngột, bắt đầu gửi thư cho Matthew Murray, yêu cầu ông ta làm những gì Bệnh viện Martha Jefferson nên và không nên làm. Vào ngày 18 tháng 3, gần ba tuần sau khi vụ kiện phi đối kháng của gia đình Schweitzer đối với bệnh viện kết thúc, hiệp hội đã đệ đơn kiện đối kháng của riêng mình, yêu cầu ban hành lệnh cấm chuyển mẫu mô của Anastasia Manahan trước khi tòa án có thể phán quyết về thách thức của nó đối với tư cách pháp lý của von Gienanth. Bản thỉnh nguyện nhắc lại rằng “điều thiết yếu là các xét nghiệm phải có tính chuyên môn khoa học cao nhất,” với sự sửa đổi quan trọng là hiệp hội giờ tìm kiếm “việc xét nghiệm song song các mẫu mô tại hai phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn” (chỉ có một, phòng thí nghiệm của Tiến sĩ King ở California, là được nêu tên). Việc cấp phát các mẫu mô hoặc bất kỳ phần nào của chúng ở giai đoạn này, báo cáo cho biết, sẽ gây ra cho hiệp hội “tổn hại lớn và không thể khắc phục được” vì “mọi cơ hội đảm bảo mức độ chuyên môn khoa học tối đa trong xét nghiệm mtDNA có thể bị đánh mất mãi mãi và thế hệ sau … có thể không bao giờ biết được danh tính thực sự của Anna Manahan.”
Thật không may cho Hiệp hội Quý tộc Nga, tài liệu này, được Lindsey Crawford ký, đã mắc phải một sai lầm nghiêm trọng về sự kiện, cuối cùng đã gây tai hại chí mạng cho vụ kiện của cô: “Dựa vào thông tin và niềm tin, “ Crawford đã viết, “hiện không có người đại diện cá nhân đủ tiêu chuẩn nào cho gia sản của Anna Manahan.”
☆ ☆ ☆
Một lần nữa, Richard Schweitzer lại vượt lên trước các đối thủ. Vào khoảng ngày 8 tháng 3, ông phát hiện ra một đạo luật ở Virginia ít ai biết đến liên quan đến bất động sản bị bỏ hoang. “Nó chủ yếu liên quan đến đất nông nghiệp”, Schweitzer nói.
“Nếu một nông dân chết hoặc mất tích và bỏ lại trang trại của mình không ai chăm sóc, gia súc không ai cho ăn, vân vân, bất kỳ ai – không nhất thiết phải là người có quan hệ gia đình với người đó – biết về việc này đều có thể ra tòa và yêu cầu bổ nhiệm cảnh sát trưởng đứng ra quản lý tài sản cho đến khi có người đến và chịu trách nhiệm thực hiện việc đó. Sau đó, họ thay đổi luật – và đây là điều tôi chưa từng nhận ra trước đây – bởi vì cảnh sát trưởng thường bù đầu vì phải quản lý tài sản, chi trả bảo hiểm, và mọi việc linh tinh khác, và họ phải chi trả từ ngân sách cảnh sát trưởng. Nên luật mới quy định rằng bất kỳ ai cũng có thể nộp đơn thỉnh nguyện tòa bổ nhiệm không chỉ cảnh sát trưởng mà còn bất kỳ cư dân nào khác trong quận hoặc thị trấn đều có thể đứng ra làm người quản lý một khu đất bị bỏ hoang.
“Vì vậy, tôi đã nói chuyện với đồng nghiệp và bạn cùng lớp năm 1953 của tôi tại Trường Luật Đại học Virginia, Ed Deets. Ed đồng ý đứng ra, và tôi nói với anh ta ‘Tôi sẽ làm luật sư cho anh để anh không phải chịu bất kỳ chi phí pháp lý nào, và tôi sẽ nộp tiền ký cam kết,’ khoảng 75 đô la vì không có bất động sản vật chất nào. Vậy là vào ngày 16 tháng 3, với sự chấp thuận của Thẩm phán Swett, Ed Deets đã tuyên thệ nắm quyền đại diện cá nhân và quản lý bất động sản của Anastasia Manahan tại Virginia.
“Matt Murray biết rõ những gì tôi đang làm. Ông ấy đã chán ngấy vụ kiện này, khiến bệnh viện tốn kém thời gian và tiền bạc, và ông ta nói, ‘Chắc chắn rồi! Cứ nộp đơn đi!’ Nam tước von Gienanth biết điều đó, và vì giấy tờ của ông ta sắp bị thẩm xét, ông ta cũng tán thành. Theo luật, người quản lý có quyền tiếp cận hồ sơ bệnh án, bao gồm cả mẫu vật phẩm và mô. Ed đã nhanh chóng nộp yêu cầu gửi mẫu mô cho Bác sĩ Gill.
Việc bổ nhiệm Ed Deets đã cung cấp cho Matthew Murray vũ khí tấn công mạnh mẽ vào yêu cầu xin lệnh cấm của Lindsey Crawford. Nộp hai hồ sơ tòa án vào ngày 24 tháng 3, Murray đã chỉ trích gay gắt việc Hiệp hội Quý tộc Nga không có tư cách pháp lý tại tòa, ông chỉ ra rằng Hiệp hội này chưa bao giờ nộp bản sao có chứng thực điều lệ thành lập hoặc giấy chứng nhận tư cách pháp lý. Ông mô tả hiệp hội ở New York “rõ ràng là … một tổ chức phả hệ thuần túy không có liên hệ gì với “cá nhân Anna Manahan. Hơn nữa,” Murray nói, hiệp hội đã không đưa ra bất kỳ sự kiện hay căn cứ nào để chứng minh cho tuyên bố của mình rằng “hiệp hội sẽ phải gánh chịu nhiều tổn hại, thậm chí những tổn hại không thể khắc phục được, nếu việc chuyển giao mẫu mô diễn ra.” Cuối cùng, Murray đã ra đòn kết liễu: Vào ngày 16 tháng 3, hai ngày trước khi hiệp hội quý tộc Nga nộp đơn xin lệnh cấm, Ed Deets đã được bổ nhiệm làm quản lý di sản của Anastasia Manahan. Điều này khiến anh ta, chứ không phải bệnh viện, là người chịu trách nhiệm xử lý mô. Nếu muốn lệnh cấm, Murray nói, hãy kiện Ed Deets.
Murray hy vọng rằng vấn đề đã gần kết thúc. “Nếu thẩm phán phán quyết thuận lợi về việc này, thì chúng ta sẽ không bao giờ phải nhắc đến vấn đề lệnh cấm,” ông nói tại thời điểm này. “Chẳng bao lâu nữa, Hiệp hội Quý tộc Nga sẽ bị xóa sổ. Ed Deets sẽ sớm nộp một văn bản, như tôi đã làm, nói đại khái là, ‘Thưa thẩm phán, những người này không có tư cách pháp lý và ngài không có thẩm quyền xét xử.’ Rồi thẩm phán sẽ buộc phải ra phán quyết. Họ [Hiệp hội Quý tộc Nga] có thể kháng cáo, nhưng tôi không tin họ sẽ làm vậy. Nếu họ kháng cáo, họ sẽ phải nộp tiền bảo đảm để ngăn chúng tôi giao nộp mẫu mô trong thời gian đó. Họ sẽ phải ra Tòa án Tối cao Virginia, và việc yêu cầu Tòa án Tối cao ban hành lệnh cấm có cơ hội thành công rất mong manh. Câu hỏi bây giờ là họ là ai và họ đang làm gì ở Virginia.”
Chiều ngày 30 tháng 3 năm 1994, một nhóm người lại tụ tập tại phòng xử án của Thẩm phán Swett trong Tòa án Quận xây bằng gạch đỏ kiểu thuộc địa ở Charlottesville. Các luật sư, Matthew Murray đại diện cho bệnh viện và Lindsey Crawford cùng Page Williams đại diện cho Hiệp hội Quý tộc Nga, ngồi phía trước, ở hai bàn đối diện. Alexis Scherbatow đại diện cho Hiệp hội Quý tộc Nga ngồi cạnh hai luật sư của ông. Phía sau, trên những chiếc ghế dài ở một bên phòng, là Marina và Richard Schweitzer, Ed Deets, Penny Jenkins, nhà làm phim tài liệu người Anh Julian Nott, phóng viên báo địa phương Ron Hansen, và tôi. Phía bên kia là Tiến sĩ Willi Korte và biên tập viên tạp chí khoa học Nature Genetics, Tiến sĩ Adrian Ivinson.
Chủ đề của phiên điều trần là yêu cầu của hiệp hội quý tộc về một lệnh cấm, nhưng Murray ngay lập tức yêu cầu thẩm phán phán quyết kháng cáo của mình về tư cách của hiệp hội. Tuy nhiên, Thẩm phán Swett quyết định rằng vai trò mới của Ed Deets và việc Deets vẫn chưa khẳng định nguyện vọng của mình hoặc nộp bất kỳ giấy tờ nào là nguyên nhân hợp lý để hoãn lại vấn đề tư cách. Thẩm phán cho biết vào ngày hôm đó, ông sẽ chỉ lắng nghe các lập luận ủng hộ và phản đối lệnh cấm tạm thời.
Sự kiện quan trọng của buổi chiều là việc Andrews & Kurth công khai đảo ngược lập trường đối với Peter Gill và việc tiến hành xét nghiệm song song. Các luật sư ở Washington không còn lựa chọn nào khác. Bản tuyên thệ của Mary-Claire King, bị giữ lại vào thời điểm bà viết nó nhưng giờ đã trở thành một phần của hồ sơ tòa án, đã làm rõ những sai sót trong cuộc công kích Tiến sĩ Gill của William Maples. Giờ đây, với việc Deets nắm quyền xử lý số mẫu mô, Andrews & Kurth phải đối mặt với thực tế rằng, trong tương lai gần, Peter Gill có thể sắp nhận được và bắt đầu xét nghiệm một mẩu mô của Anastasia Manahan. Điều tốt nhất mà Crawford có thể hy vọng lúc này là mẫu mô sẽ không được gửi đến Gill cho đến khi nó được chuyển đến King cùng lúc. Do đó, cô, vốn trước đây đã phản đối việc xét nghiệm song song, đã trở thành người ủng hộ nó.
Công cụ của sự ủng hộ đảo ngược này là Adrian Ivinson, một thanh niên người Anh có bằng tiến sĩ về di truyền học con người lâm sàng và phân tử. Anh xuất hiện để làm nhân chứng về mặt chuyên môn thay mặt cho Hiệp hội Quý tộc Nga. Đứng ra làm chứng, Tiến sĩ Ivinson tuyên bố rằng việc gửi mô đi xét nghiệm song song tại hai phòng thí nghiệm sẽ có ý nghĩa khoa học hơn so với việc chỉ xét nghiệm tại một phòng thí nghiệm.
Thẩm phán Swett muốn nghe ý kiến của Ivinson về hai nhà khoa học DNA nổi tiếng. “Tôi cho rằng ông rất kính trọng Tiến sĩ King với tư cách là một nhà khoa học quốc tế,” ông nói.
“Đúng vậy,” Ivinson trả lời.
Sau đó, Thẩm phán Swett hỏi liệu Ivinson có xếp Tiến sĩ Peter Gill và phòng thí nghiệm của Phòng Khoa học Pháp y ngang hàng với phòng thí nghiệm của Tiến sĩ King hay không.
“Đúng vậy,” Ivinson nói.
Vào cuối ngày hôm đó, Thẩm phán Swett không cấp lệnh cấm tạm thời mà Hiệp hội Quý tộc Nga đã yêu cầu, bởi vì, trong phiên điều trần, Matthew Murray đã hứa tự nguyện rằng bệnh viện sẽ giữ lại mô thêm một thời gian nữa – “trong vài ngày hoặc vài tuần tới” – cho đến khi vụ kiện kết thúc. Trong khi đó, thẩm phán đã chỉ thị cho hiệp hội giải quyết với Ed Deets, người quản lý mới của di sản Anastasia Manahan.
Deets ngay lập tức tập trung vào mối quan hệ giữa hiệp hội quý tộc với Mary-Claire King. Anh hỏi Page Williams liệu hiệp hội có văn bản thỏa thuận nào không với King, nếu có, thì đó là gì. Ông cũng yêu cầu một bản sao báo cáo của King về công việc bà đã làm với hài cốt ở Ekaterinburg. Williams trả lời rằng Hiệp hội Quý tộc Nga không có thỏa thuận bằng văn bản nào với King. Deets đã thử gọi điện cho Tiến sĩ King. Ban đầu, các cuộc gọi của anh không được trả lời. Cuối cùng, khi họ nói chuyện, cả hai đều không gì ấn tượng với nhau. Deets nói rằng nếu bà định xét nghiệm các mô, anh nghĩ rằng cần phải có một lịch trình cụ thể. King, dường như cảm thấy bị xúc phạm bởi đề xuất này, đã cúp máy.
Phiên tòa xét xử cuối cùng về vụ kiện của Anastasia Manahan diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 1994. Vào thời điểm đó, cả Bệnh viện Martha Jefferson (Matthew Murray) và người quản lý bất động sản của Anastasia Manahan (Ed Deets) đều đã nộp đơn yêu cầu bác bỏ vụ kiện của Hiệp hội Quý tộc Nga vì tòa án thiếu thẩm quyền và hiệp hội không có tư cách pháp lý. Đáp lại, Lindsey Crawford của Andrews & Kurth lập luận lần cuối rằng lợi ích của hiệp hội đối với dòng dõi quý tộc và việc “bảo vệ lịch sử của Đế quốc Nga” đã tự động mang lại cho hiệp hội tư cách pháp lý. Bất chấp lời biện hộ của Crawford, Thẩm phán Swett đã chấp nhận lập luận của bệnh viện và Deets và bác bỏ vụ kiện. Lệnh của tòa án được ban hành vào ngày 19 tháng 5 năm 1994, và cho Hiệp hội Quý tộc Nga và Andrews & Kurth 30 ngày để nộp đơn kháng cáo. Nếu không có đơn kháng cáo nào được nộp, vụ kiện sẽ kết thúc.
☆ ☆ ☆
Richard Schweitzer đợi đến đúng ngày Hiệp hội Quý tộc Nga hết thời hạn kháng cáo như phán quyết của Thẩm phán Swett. Sau đó, vào ngày 19 tháng 6, Peter Gill đến Charlottesville để lấy mẫu mô của Anastasia Manahan. Ông đến trong vòng bí mật; Schweitzer vẫn lo sợ rằng Willi Korte hoặc Andrews & Kurth có thể tìm cách ngăn chặn Gill hoặc can thiệp quyền tiếp cận của ông ấy vào mẫu mô. “Gill có thể bị một âm mưu nhằm ngăn chặn hoạt động của mình,” Schweitzer đã viết cho Matt Murray, phản đối kế hoạch bệnh viện muốn công khai chuyến đi của Gill. “Có thể có những điều chỉnh đen tối nhằm ngăn ông ta lấy những vật phẩm này ra khỏi nước Mỹ. Ông ta và các vật phẩm có thể bị can thiệp về mặt thể chất, mặc dù tôi đã sắp xếp một người hộ tống đi cùng ông ta.”
Hôm đó, Gill dùng bữa trưa với gia đình Schweitzer rồi đến bệnh viện để lấy mô. Ông được Ed Deets, Matthew Murray, Penny Jenkins và Tiến sĩ Hunt Macmillan, giám đốc phòng xét nghiệm bệnh lý của bệnh viện, đón tiếp. Trong khi các luật sư và những người không chuyên theo dõi từ phía cuối phòng, đoàn làm phim đã ghi lại mọi thứ diễn ra, và quá trình bắt đầu. Macmillan, Gill và Betty Eppard, một kỹ thuật viên mô học bảo đảm, người có nhiệm vụ cắt mô, xuất hiện với khẩu trang, áo choàng và găng tay vô trùng. Năm khối parafin chứa mô cấy của Anastasia Manahan được lấy ra, và quy trình tương tự được lặp lại năm lần: Macmillan đưa cho Gill một khối mô và xác định nó. Gill khử trùng xong rồi đưa cho Eppard. Eppard đặt nó lên một máy cắt lát vi phẫu, một loại máy trông giống như máy cắt thịt xông khói, và khéo léo cắt ba đến sáu miếng màu nâu sẫm, mỗi miếng dày bằng hai sợi tóc. Gill dùng nhíp nhẹ nhàng nhấc miếng mô đã cắt ra và đặt vào các lọ đã khử trùng. Macmillan đặt các lọ đã khử trùng vào túi nhựa trong suốt, chống giả mạo, rồi dán kín và dán nhãn cho từng túi. Xong mỗi khối, máy cắt lát vi phẫu được lau bằng cồn nguyên chất và lưỡi cắt được thay mới. Sau đó, tại một cuộc họp báo được triệu tập vội vã, Gill cảnh báo rằng “Hiện tại tôi không chắc chắn khả năng chúng ta sẽ thu được DNA từ các mẫu là bao nhiêu.” Ông nói rằng ông không biết tuổi của mô hoặc việc sử dụng chất bảo quản formalin hóa học sẽ ảnh hưởng như thế nào đến DNA. Nếu quá trình chiết xuất DNA diễn ra tốt đẹp, ông hy vọng sẽ có một kết quả đối chiếu giữa DNA của Anastasia Manahan và hồ sơ DNA của gia đình Hoàng gia lấy từ hài cốt ở Ekaterinburg trong vòng ba đến sáu tháng.
☆ ☆ ☆
Vào ngày 29 tháng 6, mười ngày sau khi Peter Gill thu thập mô ở Charlottesville, Maurice Remy đã viết cho Richard Schweitzer một lá thư thú tội đáng chú ý. Trong lá thư, trong một thông cáo báo chí sau đó, và trong hàng loạt tài liệu khác mà ông đã chuyển tiếp cho Schweitzer, Remy đã tiết lộ mọi chuyện đã xảy ra trong phe ông trước và trong suốt cuộc chiến pháp lý kéo dài. Ông cho biết dự án của ông bắt đầu khi ông gặp Geli Ryabov tại Moscow năm 1987 và quyết định sản xuất một bộ phim tài liệu về vụ ám sát Sa hoàng và gia đình. Tháng 7 năm 1992, ông có mặt tại hội nghị Ekaterinburg về di hài của Hoàng gia. Tại đây, ông gặp Tiến sĩ Maples và nhóm của ông, họ cho biết những bộ xương của Alexis và Anastasia đã mất tích. Ngay lúc đó, Remy nói, ông đã hạ quyết tâm tập trung nỗ lực vào nữ công tước mất tích và mở rộng việc tìm tòi bao gồm cả việc xét nghiệm DNA của Anastasia Manahan.
Hay tin Anastasia Manahan đã bị hỏa táng, Remy bắt đầu tìm kiếm mẫu máu hoặc mô của bà ấy có thể đã để lại đâu đó. Ông ta nhờ Tiến sĩ Willi Korte điều tra Bệnh viện Martha Jefferson ở Charlottesville. Thì ra ở đây quả thực có chứa mẫu mô, sau đó Remy tiếp tục nhờ Thomas Kline, của Andrews & Kurth, tiếp cận gia đình Manahan và James Lovell để xin phép phân tích mô. Cách tiếp cận này đã thất bại. Trong khi đó, thay mặt Remy, Korte bận rộn ở Đức và Hy Lạp, thu thập các mẫu máu so sánh từ Công chúa Sophie xứ Hanover và Xenia Sfiris. Cũng trong thời gian này, truy tìm một danh tính khác cho Anastasia Manahan, Remy đã tìm thấy cháu gái của Franziska Schanzkowska và thuyết phục cô ấy hiến máu.
Remy tiết lộ lý do William Maples tấn công Peter Gill. Vào tháng 6 năm 1993, Korte, với tư cách là người đại diện của Remy, đã ký một thỏa thuận hợp đồng với Maples và Lowell Levine. Maples và Levine hứa sẽ sử dụng Tiến sĩ King để thực hiện xét nghiệm DNA trên các mẫu vật phẩm so sánh của nhánh Romanov và nhánh Hessian (theo thứ tự, bên nội và bên ngoại của Anastasia) mà Korte sẽ cung cấp. Họ cũng hứa sẽ giữ “bí mật nghiêm ngặt” công việc của Korte.* Đổi lại, Korte chỉ hứa sẽ thanh toán chi phí đi lại, nhưng, theo thư, “mọi chuyến đi đều phải được Tiến sĩ Korte chấp thuận trước.” Nhờ đó, Maples đã trở thành một thành viên trong nhóm của Remy. Vào tháng 11 năm 1993, khi cần bằng chứng khoa học để hỗ trợ đơn thỉnh cầu của Hiệp hội Quý tộc Nga xin can thiệp vào vụ kiện ở Charlottesville, Maples đã cung cấp bản tuyên thệ thiếu thông tin và hung hăng của mình.
Hay tin Richard và Marina Schweitzer đang nộp đơn lên tòa án tìm kiếm quyền tiếp cận mẫu mô ở Bệnh viện Martha Jefferson thay mặt cho Tiến sĩ Gill, Remy chiêu mộ Scherbatow và Hiệp hội Quý tộc Nga. Trong suốt hai vụ kiện theo sau, khách hàng trên danh nghĩa của Andrews & Kurth, được tuyên bố ở mọi tài liệu tòa án, là Hiệp hội Quý tộc Nga, mặc dù Remy nhấn mạnh rằng Hoàng thân Scherbatow không được thông báo chính xác ông ta bị sử dụng như thế nào. Tuy nhiên, việc chỉ đạo vụ án và chi trả mọi chi phí pháp lý đều xuất phát từ Remy, Korte quản lý tại địa phương.
Remy cũng mô tả với Schweitzer mối quan hệ của mình với Tiến sĩ King: Vào mùa hè năm 1993, ông nói, Viện Pháp y của Đại học Munich đã rút khỏi cuộc điều tra và thay thế bằng King theo gợi ý của Maples. Một thỏa thuận miệng với King đã được tiến hành, bổ sung cho thỏa thuận bằng văn bản giữa Korte và Maples, và sau đó Korte đã mang mẫu máu của Sophie xứ Hanover và Xenia Sfiris đến California. Tuy nhiên, vì mẫu máu của Anastasia Manahan vẫn đang trong một cuộc chiến pháp lý khốc liệt, Remy không có vật phẩm so sánh nào từ nhân vật chính, người phụ nữ mà ông ta quan tâm nhất.
Trong lời thú nhận của mình với Schweitzer, Remy tìm cách làm dịu đi các trận chiến pháp lý vào mùa đông trước.Điều khó chịu này, Remy nói với Schweitzer, là kết quả của sự hiểu lầm, sự cố vấn tồi và kỷ luật tổ chức lỏng lẻo. Korte báo cáo không chính xác những gì đang xảy ra ở Mỹ, ông nói, và ông đổ lỗi cho mình đã không duy trì kiểm soát chặt chẽ hơn. Ông ấy và Korte, Remy nói thêm, đã cắt đứt mối quan hệ của họ.
☆ ☆ ☆
Khi mô được chuyển đến Anh, mười bảy tháng tranh tụng và đấu tranh pháp lý ở Charlottesville đã kết thúc. Nhìn lại, một câu hỏi quan trọng liên quan đến vụ kiện vẫn chưa được giải đáp. Đó là vai trò của Tiến sĩ Mary-Claire King. Ban đầu, Tiến sĩ King, một nhà khoa học nổi tiếng, người rất tâm huyết với việc nghiên cứu nguyên nhân gây ung thư vú, đã đồng ý theo lời thuyết phục của Tiến sĩ Maples và Tiến sĩ Levine
tiếp nhận xương và răng từ những bộ hài cốt ở Ekaterinburg và cố gắng xác định xem đây có phải là hài cốt của gia đình Hoàng gia hay không. Báo cáo này, bất chấp những cuộc gọi điện thoại khẩn cấp từ Maples, đã không bao giờ được công bố. Tuy nhiên, King đã chấp nhận nhiệm vụ thứ hai của Romanov, bằng miệng đồng ý tiếp nhận, xét nghiệm và so sánh một lát mô của Anastasia Manahan với mẫu vật phẩm từ họ hàng và hậu duệ của Romanov.
Korte mang đến cho bà. Qua nhiều tháng, mệt mỏi, thậm chí có lẽ là chán ghét, bởi những cuộc cãi vã dường như bất tận ở Charlottesville, King vẫn không muốn đưa ra bất kỳ cam kết nào trên giấy tờ về cách thức thực hiện các xét nghiệm và cách thức, thời gian và địa điểm công bố kết quả.
Câu hỏi đặt ra là tại sao, mặc dù bận rộn với nghiên cứu quan trọng về một căn bệnh đe dọa và cướp đi sinh mạng của hàng triệu người phụ nữ, King lại đồng ý nhúng tay vào việc này ngay từ đầu. Bà ta không làm vậy vì tiền; để giữ quyền kiểm soát tuyệt đối, King từ chối nhận tiền trong những trường hợp như thế này. Nếu bà ta làm vậy để nâng cao danh tiếng hoặc vì tò mò, tại sao bà ta không theo đuổi tận cùng? Sự thật là nếu không có tên tuổi và danh tiếng của King đứng đằng sau họ, và nếu không có triển vọng bà ta sẵn sàng xét nghiệm mẫu mô, thì Hiệp hội Quý tộc Nga và Andrews & Kurth gần như không thể ngăn cản các thỏa thuận xét nghiệm đã được Richard Schweitzer, Peter Gill và Bệnh viện Martha Jefferson đồng ý. Cuối cùng, nhiều người đã phải mất nhiều tháng trời và hàng ngàn đô la chờ đợi Tiến sĩ King. Bà ấy vẫn không giao nộp.