Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 14

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 37 [19/2-19/3/1776], (Thanh, Càn Long thứ 41); vì mùa thu năm trước, gió bão quá mạnh, nước biển lên cao, các vùng ven biển tại Sơn Nam, Hải Dương và Yên Quảng, ruộng lúa bị ngập. Ty Hiến sát đem tình trạng tâu bày, bèn hạ lệnh xá tô ruộng năm nay, nơi nhiều nơi ít khác nhau.

Triều đình hạ lệnh mở trường đúc tiền ở Thuận Hóa; đem súng đồng, khí dụng và tiền tệ đã tịch thu mà không thể dùng được, đúc hơn ba vạn quan tiền “Cảnh Hưng Thuận Bảo“. Lại mộ người khai mỏ vàng ở núi đất xã Nam Phố [huyện Phú Vang, Thừa Thiên], công việc làm vài tháng, nhưng không lấy được vàng bèn thôi.

Dân tộc Lào Lạc Hòn [phía tây Nghệ An] từ lâu bỏ việc cống; đến nay sai bầy tôi là bọn Thiều Mang Khoa đem voi đực và sản vật địa phương, nhờ viên quan châu Quy Hợp xin cho vào cống.

Hạ lệnh cho 6 bộ tiếp tục biên soạn Quốc Triều Hội Điển. Vào đầu niên hiệu Long Đức [Lê Thuần Tông 1732-1734] , hạ lệnh chia cho các bộ tập hợp các tài liệu về chính sự, rồi chia ra từng môn loại, biên soạn thành sách, nhan đề là Quốc Triều Hội Điển; đến nay lại hạ lệnh chiếu theo năm tháng tiếp tục biên soạn.

 Tháng 3 [18/4-17/5/1776], hạ lệnh cho các trấn mộ dân khai khẩn ruộng bỏ hoang, mỗi người được nhận 5 mẫu ruộng, nhà nước cấp cho trâu cày, dụng cụ làm nông và 15 quan tiền; mỗi năm nhà nước thu một số lượng thóc vào kho.

Tại miền Nam Nguyễn Nhạc đắp thêm thành Trà Bàn, xưng là Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, phong cho em Nguyễn Huệ chức Long Nhương tướng quân; cho dời Đông cung [Hoàng tôn Dương] đến chùa Thập Tháp.

Tháng 4 [18/5-15/6/1776], tướng phe Trịnh là Trương Công Phụng giữ núi Hải Vân, vượt núi vào Quảng Nam thu hoạch lúa; Nguyễn Nhạc sai đồ đảng đánh, Phụng thua chạy.

 Bấy giờ quân Tây Sơn vào đánh Sài Gòn, quân lực phía Nguyễn yếu. Chúa triệu Tống Phước Hiệp đem quân cứu viện và lưu bọn Trần Văn Thức, Chu Văn Tiếp đóng giữ các đạo Phú Yên, Bình Thuận; lại sai Đỗ Thanh Nhân truyền hịch mộ quân cần vương ở các đạo. Quân Phước Hiệp chưa đến, Thanh Nhân họp nghĩa quân ở Đông Sơn là bọn Nguyễn Huỳnh Đức, Trần Búa, Đỗ Hoành, Đỗ Ky, Vũ Nhàn, Đỗ Bảng là 3.000 người, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, từ Tam Phụ [Ba Giồng, thuộc Định Tường) kéo đến đánh úp Nguyễn Lữ, ba lần đều thắng. Lữ cướp lấy thóc kho hơn 200 thuyền, chạy về Quy Nhơn. Thanh Nhân đánh chiếm lại Sài Gòn, bèn nghênh Chúa trở về hành tại Bến Nghé. Chúa khen công, thăng làm Chưởng dinh ngoại hữu Phương quận công; các tướng sĩ dưới quyền đều được thưởng theo thứ bậc.

Tống Phước Hiệp tự Bình Khang [Khánh Hòa] về, đến dinh Trấn Biên [Biên Hòa], lưu Chưởng cơ Tống Phước Hòa đóng giữ đất ấy, đích thân đem thuộc tướng là Lý Tài đến hành tại bái yết.

Tháng 6 [15/7-13/8/1776], Tiết chế Tống Phước Hiệp chết. Phước Hiệp là người khẳng khái, có tài lược, lấy việc đánh giặc làm nhiệm vụ của mình, đương thời xem là chỗ dựa quan trọng; Chúa thương tiếc mãi, tặng Hữu phủ quốc công.

Hàng tướng là Lý Tài giữ núi Châu Thới [thuộc tỉnh Biên Hòa]. Trước đó Lý Tài theo Tống Phước Hiệp vào cứu viện, chúa muốn thu dùng, Thanh Nhân nói Lý Tài là đồ chó lợn, dùng không ích gì; bởi thế Lý Tài và Thanh Nhân hiềm khích nhau. Đến khi Phước Hiệp chết, Lý Tài cảm thấy nguy sợ, bèn đem quân dưới quyền giữ núi Châu Thới. Thanh Nhân đánh không được, đắp lũy ở Bến Nghé và Nghi Giang [sông Thị Nghè] để giữ.

Tháng 7 [14/8-12/9/1776], Trịnh Sâm ra lệnh cho nhân dân Thuận Hóa phải đổi quần áo theo phong tục Bắc Hà; thuộc hạ xuống làng dọa nạt quấy nhiễu, dân lấy làm khổ.

Tại miền Bắc hạn hán, mất mùa, dân bị đói; giá gạo cao, mà ruộng chiêm thì khô nẻ. Người nghèo phải đến từng cửa để xin làm thuê hoặc vay mượn mà cũng không được, họ họp nhau đi ăn cắp, ăn trộm.

 Tháng 8 [13/9-11/10/1776], Trịnh Sâm điều bọn Bùi Thế Đạt, Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên từ Thuận Hóa về; 13 cơ đội quân cũng đều rút về cả. Sai Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, trấn thủ Sơn Nam thay Bùi Thế Đạt và lưu bọn Nguyễn Lệnh Tân, Nguyễn Mậu Dĩnh giúp việc; đổi phái cơ hiệu đội 10 doanh đến đóng giữ.

Tháng 10 [1/11-10/12/1776], Đông cung đến Sài Gòn. Khi Đông cung ở Quy Nhơn, mật bàn với gia nhân rằng :

Tây Sơn mượn tiếng ta để đánh lừa dân chúng, nếu ta cứ tạm bợ cầu yên ở đây, năm dinh với các đạo nghĩa binh thấy có ta ở đây thì ném chuột sợ vỡ đồ, không dám đánh mạnh, bao giờ mới trừ được giặc nước, phục được nghiệp cũ? Chi bằng quyết kế bỏ đi, ra khỏi vòng lung lạc, để mưu đồ việc lớn”.

Khi ấy có người chủ thuyền tên là Tiến đậu thuyền ở cửa biển Thị Nại; Đông cung ngầm sai bọn mưu sĩ Quý ước hẹn sắp sẵn thuyền để chờ. Ngày Quý Mão [15/11/1776], Đông cung cùng với Trương Phước Dĩnh và bọn mưu sĩ Quý ban đêm đi thuyền. Người lái thuyền nói : “Gió ngược đi làm sao?”. Đông cung nói : “Cứ đi thì rồi gió thuận”. Khi thuyền đi, quả nhiên gió thuận, thuyền đi như tên. Ngày Ất Tỵ [17/11/1776], thuyền đến hải phận Vị Nê [thuộc tỉnh Bình Thuận] thì Tôn Thất Xuân từ Quảng Nam đi thuyền vừa tới, bèn cùng vượt biển vào Nam. Xuân vào trước tâu Chúa; Chúa sai quan ra đón về hành tại.

 Đông cung xin chúa sai Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đi dụ Lý Tài. Lý Tài lấy làm ngờ, giữ Khoáng ở trong quân, rồi đem hết quân bản bộ xuống thẳng Sài Gòn. Quân của Đỗ Thanh Nhân thấy, bỏ chạy; Lý Tài chia quân làm bốn đạo, thúc trống tiến lên. Đông cung sai người mở cờ làm hiệu, cờ có sáu chữ: “Đông cung phụng mệnh chiêu an”. Quân Lý Tài trông thấy, bỏ súng, rồi rước Đông cung về Dầu Mít. Được vài ngày, Đông cung sai Nội tả Nguyễn Mẫn đi Sài Gòn úy dụ quan quân, chiêu an dân chúng.

Bấy giờ nước Chân Lạp khổ vì quân Xiêm cướp phá, trong nước túng thiếu. Nặc Tôn nhường ngôi cho em là Nặc Vinh làm Vua chính, tự mình làm Vua thứ hai. Nặc Vinh nhận thấy nước ta nội loạn nên không nộp cống. Nguyễn vương Phúc Ánh vâng mệnh Chúa, đem bọn Phó tiết chế Nguyễn Cửu Tuấn, Chưởng cơ Trương Phước Thuận, cầm quân đi đánh giặc; Nặc Vinh xin hàng.

Ngày Kỷ Tỵ tháng 11 [11/12/1776], Lý Tài rước Đông cung về Sài Gòn, sai Trương Phước Thận tâu xin đưa hành tại về chùa Kim Chương ở ngoài tỉnh thành. Lý Tài rước Đông cung đến hành tại làm lễ mừng; ngày Nhâm Thân [14/12/1776], Chúa đại hội các quan văn võ, nhường ngôi cho Đông cung. Đông cung cho rằng sự thế đương ngặt nghèo, bất đắc dĩ phải vâng mệnh, xưng là Tân Chính vương, tôn Chúa làm Thái thượng vương. Rồi thăng các quan theo thứ bực; duy có Đỗ Thanh Nhân ghét Lý Tài, nên không chịu đến dự hội. Bấy giờ Nguyễn vương Ánh biết Lý Tài là người kiêu ngạo ngang ngược, khó kiềm chế, nói với chúa xin đi Tam Phụ [Định Tường] chiêu phủ quân Đông Sơn để mưu đồ khôi phục. Lý Tài đem quân ép đưa Chúa đi Dầu Mít,  hôm sau lại rước trở về Sài Gòn. Bấy giờ Đội trưởng Võ Di Nguy và Tô Văn Đoài đem hơn 200 quân sĩ từ Quy Nhơn đến yết kiến ở hành tại.

Về phía nhà Thanh, nhân tỉnh Tân Cương tâu trình một số xưởng dân tại An Nam bị an sáp tại vùng này, xin được đem gia đình tại quê quán cùng đến đoàn tụ; triều đình nhà Thanh chấp thuận việc này. Vua Càn Long lại nhắc nhở nghiêm sức các thuộc viên cẩn thận trông coi việc áp giải, nếu có kẻ bỏ trốn không bắt được, phải trình báo ngay, không được lơ là:

Ngày 6 Kỷ Tỵ tháng 6 năm Càn Long thứ 41 [20/7/1776]. Lại dụ:

“ Y Lặc Ðồ (1) tâu ‘Xét bọn xưởng dân tại An Nam bị an sáp tại vùng Ba Lý Khôn [ 巴里坤] (2) có bọn Kỳ Sơn Côn, Kỳ Thịnh Tiểu 33 người, xưng rằng nguyên tại quê quán còn cha mẹ vợ con. Nay xin gửi văn thư cho tỉnh địa phương tra rõ, để gửi tới Ba Lý Khôn, cùng cư trú. Tại Y Lê, Ô Lỗ Mộc Tề cũng cho tra xét để liệu biện cùng một lượt.’

“ Lời tâu có thể chuẩn cho thi hành; bọn Kỳ Sơn Côn tại quê hương còn có thân thuộc, tình nguyện cho di chuyển đến định cư. Nếu đem đến được, bọn chúng yên ỗn sống; tức có thể mượn cách này để ràng buộc, tránh được sự đào thoát lúc bị đi đày; đối với việc an sáp bọn tội phạm nơi cõi ngoài cũng có sự hữu ích.

“ Trước đây lúc bắt đầu phát khiển đi, đáng phải hỏi han các phạm nhân có hay không bà con, khai rõ để phân biệt cùng điều động; điều này do Hùng Học Bằng lo liệu chưa tốt. Nay truyền dụ cho Lý Thị Nghiêu chờ Y Lặc Ðồ gửi văn thư đến, tra rõ từng người về người nhà của các xưởng dân, cấp lương thực và xe, báo cho các tỉnh có đường đi qua, để gửi tống đến Ba Lý Khôn cư trú. Về vụ án bọn xưởng dân, 4 tỉnh tại Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, Giang Nam đều được phân phát an sáp; nay truyền dụ đến các viên Tổng đốc, Tuần phủ tra hỏi các tội phạm, nếu như tình nguyện đem gia quyến đến nơi phát phối (3) để cùng cư trú, thì báo cho tỉnh địa phương để cùng lo liệu một lần, rồi chờ lúc thuận tiện báo lên.”

Lại dụ rằng:

“ Y Lặc Ðồ tâu dâng tấu triệp về bọn xưởng dân, trong đơn khai ‘ Sai đày đến Ô Lỗ Mộc Tề, Ba Lý Khôn gồm 903 tên; trừ dọc đường bị bệnh lưu lại, đào thoát, và bị chết 142 tên.’

“ Bọn xưởng dân này lén vượt biên gây sự, rồi trốn trở về nội địa, tội của chúng vốn không tránh được. Nhân vì số lượng quá nhiều, nên đã ước lượng tình tiết khinh trọng, phát vãng đến Tân Cương cùng các tỉnh an sáp. Nhiều lần giáng chỉ cho các Tổng đốc, Tuần phủ thuộc các tỉnh dọc đường nghiêm sức các thuộc viên cẩn thận trông coi việc áp giải, không đến nỗi sai sót; nếu như đào thoát thì chiếu theo lệ áp giải phạm nhân, xử tử ngay tại chỗ. Từ khi phân ra để áp giải đến nay, kinh qua địa phương các tỉnh cũng nhiều; nhưng chỉ có Hồ Quảng, Giang Tây tâu lên 3 án, kỳ dư các tỉnh vẫn chưa báo về sự đào thoát dọc đường. Về Hồ Quảng, Giang Tây đã tâu 3 án; trừ Lại Bằng Vạn, Dương Ðức Vạn đã bắt được và xử tử; còn phạm nhân Vu Triều Long đến nay vẫn chưa báo bắt được. Có thể thấy các tỉnh đối với phạm nhân quan trọng tẩu thoát, không coi là chuyện đáng lưu ý. Cái gọi là phái binh lùng bắt, chỉ nằm trên giấy tờ tắc trách, không có một chút thực tế; hủ tập đó ăn sâu bền đến không thể phá, thì lấy gì để trừng phạt gian ngoan và khiến quan lại cai trị trở nên nghiêm túc? Nay truyền chỉ thân sức về vụ án áp giải bọn xưởng dân đi qua các tỉnh, các Tổng đốc, Tuần phủ tra rõ đào thoát mấy tên tại tỉnh nào, tại sao không tâu đầy đủ, đã bắt được tên nào hay chưa; hãy phúc tấu lập tức.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1010, trang 8-10)

Tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 38 [8/2-8/3/1777]. (Thanh Càn Long thứ 42). Trịnh Sâm nhận thấy bọn Lê Quý Đôn, Phan Lê Phiên và Uông Sĩ Điển đều ở Thuận Hóa về kinh, biết rõ được tình thế đất đai và tình trạng dân gian ở đấy, bèn hạ lệnh cho bọn này chiếu theo ngạch ruộng đất và binh, dân mà tra cứu, rồi xét định chia bổ tô thuế. Đại lược việc xét định này, tại Thuận Hóa về tô giảm hai phần mười, về số binh giảm một phần ba; nhân đấy giao cho Trấn phủ Phạm Ngô Cầu châm chước thi hành.

       Trịnh Sâm bổ dụng Nguyễn Nhạc giữ chức Trấn thủ tuyên úy đại sứ ở Quảng Nam. Sau khi đã chiếm cứ Quảng Nam, Văn Nhạc sai bộ thuộc là Đỗ Phú Tuấn xin với Trịnh Sâm để được trấn thủ địa phương này; bấy giờ Trịnh Sâm ngại về việc dụng binh, nhân đấy chuẩn y cho. Nguyễn Nhạc bèn sắm sửa binh khí, tích trữ lương thực, ngăn chặn nơi hiểm yếu, phòng giữ nơi quan ải, tiến dần lên thế thịnh vượng hùng cường. Nguyễn Lệnh Tân, Phó đốc thị, muốn trừ diệt sớm đi, nhưng bị Trấn phủ Phạm Ngô Cầu ngăn cản. Lệnh Tân bèn làm tờ khải mật trình bày với Sâm rằng: “Ngô Cầu là người nhút nhát, không có kế mưu, nếu giao phó trong tay Ngô Cầu, tất nhiên Thuận Quảng sẽ bị mất. Xin bãi Ngô Cầu đi mà phái ủy viên tướng khác, ngõ hầu mới có thể giữ được Thuận Quảng“. Trịnh Sâm cho Ngô Cầu là người trầm tỉnh cẩn trọng, không cho lời Lệnh Tân nói là đúng, bèn triệu Lệnh Tân về. Từ đấy, Nguyễn Nhạc được thế vùng vẫy, thế lực của Tây Sơn không ai có thể kiềm chế được.

Tháng 3 [8/4-6/5/1777], Nguyễn Huệ đem quân thủy bộ vào Nam. Tân chính vương lưu Lý Tài ở lại giữ Sài Gòn, rồi tự đem quân tiến đóng ở Trấn Biên [Biên Hòa]. Bộ binh Tây Sơn tập kích miền thượng đạo, Phó tiết chế Nguyễn Cửu Tuấn, Chưởng trường đà Nguyễn Đại Lữ đều chết trận. Lý Tài ở Sài Gòn đánh với thủy binh Tây Sơn cũng không lợi. Tân Chính vương họp bàn các tướng; Tham tán Nguyễn Đăng Trường cho rằng quân địch nhiều quân ta ít, khó mà chống nổi, chi bằng lui về Sài Gòn để tính kế đánh giữ. Vương theo lời, bèn lưu Chưởng cơ Tống Phước Lương đóng ở Trấn Biên, rồi dẫn quân về Sài Gòn. Được vài ngày thì quân Tây Sơn đến, Lý Tài đem quân ra Hốc Môn [Gia Định] cự chiến, chém được tuần sát tên là Tuyên, quân địch hơi lui. Bấy giờ Trương Phước Thận từ Cần Vọt đem quân đến cứu; Lý Tài xa thấy bóng cờ, ngờ là quân Đông Sơn đến đánh úp mình, bèn tự rút quân về. Quân Lý Tài rối loạn chạy đến Tam Phụ [Ba Giồng, Định Tường], bị quân Đông Sơn giết hết.

 Tân Chính vương được thêm quân Phước Thận, bèn lui giữ Tranh Giang [Gia Định]. Chúa đến Đăng Giang [Định Tường]; Nguyễn vương Ánh đem 4.000 quân Đông Sơn đến cứu viện. Chúa bèn dựng cờ Đông Sơn thượng tướng quân rồi đem quân đến Tài Phụ [Giồng Tài, thuộc tỉnh Gia Định]; Chúa bảo Tân Chính vương rằng: “Phía sau Tranh Giang vương tự đương lấy, phía trước Tài Phụ thì ta cáng đáng”.

Tháng 4 [7/5-4/6/1777], quân Tây Sơn đánh Tài Phụ; Chúa đi Long Hưng [Định Tường], gặp mưa to, quân địch đuổi không kịp. Đỗ Thanh Nhân từ Giá Khê dẫn quân lại, Chúa lại đi Trấn Giang [Cần Thơ] hợp quân với Mạc Thiên Tứ. Chúa thấy binh lực của Thiên Tứ ít và yếu, khó chống được giặc, bèn sai Đỗ Thanh Nhân cho thuộc hạ là Cai đội Nguyễn Quân đi Bình Thuận gọi Chu Văn Tiếp và Trần Văn Thức vào cứu.

Một mặt quân Tây Sơn đánh Tranh Giang; Tân Chính vương lùi giữ Trà Tân [Định Tường]. Chưởng cơ Thiêm Lộc đem thủy binh đón đến Ba Việt [Trà Vinh]; Vương sai Tống Phước Hựu giữ Mỹ Lung [Vĩnh Long], Thiêm Lộc giữ Hương Đôi [Vĩnh Long], Tống Phước Hòa quản lĩnh các quân tại mặt trận để chống địch.

Nguyễn Huệ giữ Sài Gòn, giết Tham tán Nguyễn Đăng Trường. Trước kia trong cuộc biến năm Giáp Ngọ [1774], Đăng Trường theo Chúa vào miền Nam không kịp, bèn mang mẹ đến lánh ở Quy Nhơn. Huệ gặp, đối đãi như bậc thầy. Đăng Trường không chịu, từ đi. Huệ nói rằng:

 -“Tiên sinh đi lần này, ý muốn kéo lại trời đất được chăng? Tôi sợ ngày khác ăn năn không kịp”.

 Đăng Trường nói :

 -“Đại trượng phu ở đời, trung hiếu làm đầu, ta nay dắt mẹ đi tìm Chúa, điều nghĩa rõ ràng, còn việc cùng thông được mất là mệnh thôi, việc gì mà hối”.

 Huệ khen giỏi cho đi. Đến đây Đăng Trường lại bị Huệ bắt được. Huệ hỏi rằng :

-“Ngày nay thì tiên sinh thế nào ?”

Đăng Trường trả lời :

-“Ngày nay có chết mà thôi, hà tất phải hỏi”.

 Huệ sai giết; Đăng Trường đến chợ, quay mặt về phương Bắc lạy rồi chịu chết.

Tháng 4 [7/5-4/6/1777], Nghệ An bị nạn đói; triều đình phát chẩn cho dân. Luôn mấy năm, Nghệ An mất mùa đói kém, thây chết đói nối liền với nhau. Triều đình bèn hạ lệnh cho bọn Nguyễn Đình Diễn và Ngô Phúc Lâm trích 15.000 quan tiền và 15 vạn bát thóc trong kho, chia ra phát chẩn. Nguyễn Khản trình bày bốn điều về chính sách cứu đói:

  1. Dời dân đói đến Thanh Hoa khai khẩn ruộng đất;
  2. Mở cửa biển cho các thuyền buôn giao dịch;
  3. Mở đường châu Quy Hợp cho phép dân được thông hành buôn bán với Ai Lao; 4. Cho phép thuyền buôn chở gạo đến trao đổi và được miễn thuế.

Chúa Trịnh Sâm đều thu nhận.

Tháng 6 [5/7-2/8/1777], Trịnh Sâm bổ dụng Hoàng Đình Bảo tức Hoàng Tố Lý giữ chức trấn thủ Nghệ An, Bùi Huy Bích giữ chức Đốc đồng. Đình Bảo là cháu Hoàng Ngũ Phúc, đỗ Hương tiến [Cử nhân], Trịnh Doanh gả con gái cho, uy quyền ngày càng to lớn. Gặp lúc Phạm Ngô Cầu, Trấn thủ Thuận Hóa, cho trạm chạy thư về triều tâu:

Nguyễn Văn Nhạc, giặc Tây Sơn, cướp bóc quấy rối mặt Nam, cần phải phòng bị“.

Sâm bèn hạ lệnh cho Đình Bảo thay Hoàng Đình Thể làm trấn thủ và Bùi Huy Bích giúp việc, riêng sai Đình Thể đốc suất binh lính 5 cơ, đội; đóng ở Bố Chính [Quảng Bình], để làm thanh thế yểm trợ cho Ngô Cầu.

Mở trường thi hương ở Thuận Hóa. Trước đây, triều đình hạ lệnh dò tìm những người hiền tài ẩn dật còn sót lại ở Thuận Hóa, để cân nhắc tài năng bổ dụng. Sau đó, Phạm Ngô Cầu dâng nói:

Thuận Quảng trãi qua binh lửa lâu ngày, việc học tập của học trò bỏ qua gián đoạn, nên chưa thấy có người nào xin thi hạch. Vậy xin làm phép quyền nghi, đều tùy theo sức học của học trò, hễ ai có thể thông được bài thơ, bài phú và hiểu biết công việc hiện thời, thì được tham dự tập hợp để thi khảo, sẽ cân nhắc lấy người trúng cách, để cổ vũ chí khí của sĩ phu“.

Trịnh Sâm theo lời, bèn hạ lệnh cho Trấn ty thi khảo một lần, đầu đề dùng thơ phú và văn sách, rồi chọn lấy người trội hơn làm Hương cống, loại thứ nhì làm Sinh đồ, để thu dùng những sĩ tử văn học.

Tháng 7 [3/8-1/9/1777], Tham tán Trần Văn Thức từ Phú Yên vào cứu viện, quân đến Bình Thuận, đánh nhau với quân địch, thua chết. Quân Tây Sơn xâm phạm Ba Việt [Vĩnh Long]. Thiếu phó Tôn Thất Chí, Nội tả Nguyễn Mẫn, Chưởng cơ Tống Phước Hựu đều bị bệnh chết, còn một mình Chưởng cơ Tống Phước Hòa chống nhau với địch, đánh nhiều trận thắng.

Tháng 8 [2/9-30/9/1777], Nguyễn Huệ thêm quân đánh Hương Đôi. Chưởng cơ Thiêm Lộc chạy đi Ba Việt. Tân Chính vương thấy quân ít lương hết, bàn kế chạy về Bình Thuận cùng Chu Văn Tiếp họp quân, rốt cục không xong. Các tướng đều tản mát, Chưởng cơ Tống Phước Hòa than rằng:

 “Chúa lo thì tôi phải chết, nghĩa không thể tránh được”; rồi tự tử.

Ngày Tân Hợi [19/9/1777], Tân Chính vương bị hại chết, 18 người quan theo hầu đều bị giết.

Chúa Nguyễn Phúc Thuần lui về Long Xuyên. Tháng 9 [1/10-30/10/1777], Nguyễn Huệ sai Chưởng cơ Thành xâm phạm Long Xuyên. Ngày Canh Thìn [18/10/1777], Chúa bị hại. Cha con Chưởng cơ Trương Phước Thận, Lưu thủ Lương và Tham mưu Nguyễn Danh Khoáng đều chết cả.

Chúa ở ngôi 12 năm, thọ 24 tuổi, không có con nối dõi. Lúc đầu táng ở huyện Bình Dương [Gia Định]; năm Gia Long thứ 8 [1809] cải táng về núi La Khê [huyện Hương Trà, Thừa Thiên], lăng gọi là Trường Thiệu.

Bấy giờ Nguyễn vương Phúc Ánh thoát nạn, lên thuyền đậu ở sông Khoa thuộc Long Xuyên [Cà Mâu], rồi dời đến đóng ở đảo Thổ Chu [Kiên Giang]. Phía Tây Sơn Nguyễn Huệ lui quân về Quy Nhơn, để lại đồ đảng là Tổng đốc Chu, Hổ tướng Hãn, Tư khấu Oai, Điều khiển Hòa, Cai cơ Chấn, chia giữ các dinh tại miền Nam.

Tháng 10 [31/10-29/11/1777] Nguyễn vương cử binh từ Long Xuyên, tiến đến Sa Đéc. Chưởng dinh ngoại hữu Đỗ Thanh Nhân cùng với thuộc hạ là cai đội Lê Văn Quân nhóm họp những nghĩa dũng ở Ba Giồng [Định Tường], làm hịch truyền đi các nơi. Thống nhung Nguyễn Văn Hoằng, Chưởng dinh Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Điều khiển Dương Công Trừng, Cai cơ Hồ Văn Lân đều đem quân đến họp. Tháng 11 [30/11-29/12/1777], đánh úp Điều khiển Hòa ở dinh Long Hồ [Vĩnh Long] cả phá được. Tháng 12 [30/12/1777-27/1/1778] đánh chiếm được Sài Gòn.

 Tháng 9 [1/10-30/10/1777], tại miền Bắc Chúa Trịnh bổ dụng Hoàng Đình Thể chức Đốc lãnh ở Thuận Hóa. Trước đây, Đình Thể đóng đồn ở Bố Chính [Quảng Bình], gặp lúc ấy giặc cướp ở huyện Khang Lộc [huyện Quảng Ninh, Quảng Bình],  và Lệ Thủy [Quảng Bình] nổi dậy, đường sá đi lại bị ngăn trở. Ngô Phúc Oánh, Lưu thủ Động Hải [Đồng Hới, Quảng Bình], đem việc nguy cấp báo về triều. Triều đình hạ lệnh cho Đình Thể đi đánh, bình định hai huyện này; vì thế Đình Thể được bổ dụng chức Đốc lãnh.

Tháng 12 [1/10-30/10/1777], sai bọn Vũ Trần Thiệu, tả thị lang bộ Lại, sang nhà Thanh. Trịnh Sâm có chí toan cướp ngôi vua, nhân gặp kỳ tuế cống (4), làm tờ biểu mật tâu với triều đình nhà Thanh rằng: “Nhà Lê không có người con cháu nào hiền tài“, rồi căn dặn Trần Thiệu đem việc ấy vào tâu với vua nhà Thanh. Lại sai viên Nội giám cùng đi để dâng của đút và xin phong tước. Khi đi đến hồ Động Đình [tỉnh Hồ Nam], Trần Thiệu giả vờ có bệnh, đương đêm đem tờ biểu đốt trước mặt sứ bộ, rồi uống thuốc tự tử. Sau Vũ Trần Thiệu được truy tặng hàm Thượng thư.

Về phía nhà Thanh, nhân viên quan tại tỉnh Tân Cương là Sách Nặc Mộc Sách Lăng tâu viên Tù trưởng An Nam trốn sang Trung Quốc là Hoàng Công Toản bị bệnh mất tại Ô Lỗ Mộc Tề. Triều đình nhà Thanh chấp nhận cho  con y cho làm người đứng đầu dân An Nam bị an sáp, để lo việc ước thúc:

Ngày 3 Ất Mùi tháng 12 năm Càn Long thứ 42 [1/1/1778]. Dụ Quân cơ đại thần:

Cứ Sách Nặc Mộc Sách Lăng tâu ‘Người  An Nam tên Hoàng Công Toản bị bệnh mất tại Ô Lỗ Mộc Tề (5).’ Bọn Hoàng Công Toản là ngoại Di nội phụ, cho an sáp tại xứ này, vốn là dân không có gì khác. Nhưng y có quyến thuộc hơn 100 người,  bình thường là người đứng đầu, để dùng vào việc ước thúc. Nay dân Di ở dưới vẫn muốn con cháu y làm người đứng đầu, thì Sách Nặc Mộc Sách Lăng đừng ngại, đến gần điều tra rõ con y cho làm người đứng đầu 1 lần, để dùng vào việc ước thúc. Nếu như bọn thuộc hạ không cần người đứng đầu để ước thúc, thì cũng không cần bày biện ra; để cho đám quyến thuộc này cùng được quản thúc chung với các Di khác, lại càng thỏa hiệp. Ðưa văn bản này theo độ khẩn 400 lý 1 ngày [200 km.], truyền dụ Sách Nặc Mộc Sách Lăng hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 1046, trang 3).

Chú thích

1.Y Lặc Ðồ: một quan chức coi tỉnh Tân Cương.

2.Ba Lý Khôn: hiện nay là một huyện thuộc tỉnh Tân Cương.

  1. 3. Phát phối: đưa đi đày.

4.Tuế cống: năm đã qui định phải đi cống.

5.Ô Lỗ Mộc Tề: thủ phủ tỉnh Tân Cương.

 

 

 

 

 

 

Bình luận về bài viết này