NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

JOSEPH CUMMINS
Trần Quang Nghĩa dịch
GIỚI THIỆU
Tất cả các cuộc chiến tranh được đưa vào cuốn sách này đều là những sự kiện dữ dội, những cuộc chiến mà chính Thần Chiến tranh cũng sẽ tự hào. Không phải các trò đấm đá thoáng qua hay sự kình chống khua chiêng gióng trống, mà là những cuộc chiến tranh đẫm máu, những cuộc chiến tranh đã bóp nghẹt và làm rung chuyển thế giới. Bắt đầu từ Chiến tranh Hy Lạp-La Mã và kết thúc bằng Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan, mỗi cuộc chiến tranh trong số 25 cuộc chiến tranh vĩ đại nhất trong lịch sử này đều có tầm quan trọng phi thường trong việc biến thế giới thành nơi chúng ta thấy ngày nay, dù tốt hơn hay tệ hơn. Có một lý do cho một cuốn sách như Chiến tranh Vĩ đại nhất trong lịch sử – đó là để nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta được sinh ra từ lửa và máu, được hình thành bởi xung đột nhiều hơn là hòa bình. Chiến tranh hiếm khi là điều bất ngờ, chỉ là một cú sốc.
Chiến thắng của người Hy Lạp trước người Ba Tư trong Chiến tranh Hy Lạp-La Mã đã giúp nền văn hóa và văn học Hy Lạp, một nền tảng ý thức vô cùng quan trọng về tính cá nhân và khả năng bất diệt của tinh thần con người, tồn tại. Các cuộc chiến tranh Punic giữa Rome và Carthage, dù tàn bạo đến đâu, cũng đã mang lại cho những người chúng ta sống ở thế giới phương Tây nền văn minh, luật pháp, tiền bạc và ngôn ngữ của chúng ta. Các cuộc chinh phạt của người Hồi giáo vào thiên niên kỷ đầu tiên đã truyền bá thông điệp của Allah trên khắp vùng Trung Đông hiện đại ngày nay và vào Bắc Phi và Tây Ban Nha, và các cuộc Thập tự chinh và Reconquista của Tây Ban Nha đã chiến đấu để giành lại vùng lãnh thổ đã mất này (cả về thể xác và tinh thần) nhân danh Chúa Kitô, do đó thiết lập nên sự chia rẽ tôn giáo sâu sắc và đầy tính bạo lực tồn tại cho đến tận ngày nay.
Các cuộc nội chiến đẫm máu đã định hình nước Pháp, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga, giải phóng các thế lực mới. Một số thế lực này (việc bãi bỏ chế độ nô lệ và lật đổ các chế độ áp bức cũ) là tích cực, trong khi những thế lực khác (sự xuất hiện của chủ nghĩa toàn trị ở Liên Xô của Lenin và Trung Quốc của Mao) là tiêu cực lớn.
Bao gồm 25 cuộc chiến tranh trong 300 trang tương đối ngắn có nghĩa là người ta phải tập trung vào những gì là thiết yếu. Mỗi chương của cuốn sách này bao gồm một cuộc chiến tranh duy nhất và cung cấp trước tiên một cái nhìn tổng quan nhanh chóng, rồi sau đó là các câu chuyện chi tiết về trận đánh quyết định nhất của cuộc chiến, tiểu sử ngắn gọn các nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất của cuộc xung đột và hai hoặc ba đoạn viết ngắn bàn về các khía cạnh khác nhau của cuộc xung đột, từ những đổi mới quân sự (trong Chiến tranh Punic, có nghĩa là một mũi sắt nhọn nhỏ hung dữ trên mũi tàu được gọi là corvus) cho đến mô tả về một khía cạnh đặc thù của cuộc chiến tranh, chẳng hạn, trong chương Thế chiến thứ nhất, “Cuộc sống trong hào tự sát” cung cấp một tóm tắt về cuộc sống trong chiến hào của Mặt trận phía Tây.
Bên cạnh việc cung cấp cả cái nhìn tổng quan và mô tả chi tiết hơn về từng cuộc chiến trọng đại, làm thay đổi thế giới này, những gì tôi cố gắng mô tả rõ ràng cả chiến lược và trận chiến. Từ tiếng Anh war đến với chúng ta từ từ tiếng Anh cổ werre (và tiếng Pháp cổ guerre). Cả hai đều bắt nguồn từ tiếng Đức cổ werran, có nghĩa là “tệ hơn”, nhưng cũng có một biến thể gốc tiếng Đức cổ khác, verwirren, có nghĩa là “làm cho hỗn loạn”.
Chiến tranh là những chuyện khó hiểu. Bất kỳ mô tả xác thực nào về chiến đấu cũng nắm bắt được điều này – tiếng súng nổ (hoặc tiếng giáo mác); tiếng la hét của những người bị thương và hấp hối; những cuộc tiến quân đột ngột và những cuộc rút lui hỗn loạn. Các trận chiến làm thay đổi, theo nghĩa đen, nhận thức của một người về thế giới. Khi chàng trai trẻ Goethe dũng cảm và ngốc nghếch lang thang giữa Trận chiến Valmy quan trọng trong Chiến tranh Cách mạng Pháp, anh đã nhìn thấy mặt đất và bầu trời nhuộm màu bởi thứ mà sau này anh mô tả là “một sắc đỏ như máu”. Sự tự phụ của một nhà thơ Đức lãng mạn? Tuy nhiên, 60 năm sau, một người lính Liên bang trong Trận Antietam của Nội chiến Hoa Kỳ đã nhận thấy cùng một hiện tượng dưới một loạt đạn và hỏa lực pháo binh, cảnh quan chuyển sang màu đỏ xung quanh anh.
Đây là loại chi tiết mà tôi đã tìm cách cung cấp góc nhìn của một người lính về các trận chiến trong Những cuộc Chiến tranh Vĩ đại nhất trong Lịch sử, và tôi cũng đã tìm cách xem xét cuộc sống của các vị tướng và nhà lãnh đạo có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự hỗn loạn của chiến tranh. Hannibal có thực sự đã thề nguyền tiêu diệt người La Mã không? Napoleon Bonaparte chỉ bị thúc đẩy bởi lòng tự cao tự đại, hay ông đã cố gắng theo cách riêng của mình để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn cho người dân Pháp? Hernan Cortez đã bước vào đế chế Mexica phức tạp chỉ với một nhóm binh lính nhỏ và chiếm lấy nó như thế nào và tại sao Montezuma lại cho phép ông ta làm như vậy? Và Mao Trạch Đông đã chuyển từ một chàng trai trẻ vụng về từ vùng quê, thích đồ ăn cay nóng và những cô gái nông dân mũm mĩm, thành một nhà cách mạng có ý chí sắt đá, tuyên bố rằng, “Chúng ta đều biết quyền lực chính trị có được từ nòng súng”?
Tôi hy vọng quyển sách sẽ cung cấp một cách tiếp cận mới mẻ, giúp loại bỏ sự nhầm lẫn được Clausewitz gọi một cách khéo léo là “sương mù chiến tranh” và cung cấp một câu chuyện hấp dẫn về những cuộc xung đột đã tạo nên con người chúng ta ngày nay.
1 CÁC CUỘC CHIẾN TRANH HY LẠP-BA TƯ
500-449 TCN
MỘT CUỘC XUNG ĐỘT KÉO DÀI GIỮA CÁC THÀNH BANG HY LẠP VÀ ĐẾ CHẾ BA TƯ, KẾT THÚC VỚI VIỆC NGƯỜI HY LẠP ĐẨY LÙI MỘT CUỘC XÂM LƯỢC LỚN CỦA NGƯỜI BA TƯ
TỔNG QUAN: ĐẨY LÙI LÀN SÓNG BA TƯ – VÀ CỨU ĐƯỢC NỀN VĂN MINH [TÂY PHƯƠNG]
Được Cyrus Đại đế khởi nghiệp vào năm 559 TCN, Đế chế Ba Tư đã nhanh chóng trỗi dậy từ những đồng cỏ của Iran ngày nay. Đến năm 500 TCN, đây là một lãnh thổ trải dài từ Pakistan ở phía đông, về phía tây qua Trung Á đến Macedonia ở phía bắc và đến Ai Cập ở phía nam. Đây là nơi sinh sống của 20 triệu người, trong tổng số dân số thế giới lúc đó ước tính là 100 triệu người.
Người Hy Lạp gọi người Ba Tư là bọn man rợ, nhưng nhìn chung họ khá văn minh. Họ xây dựng đường sá và cung điện đẹp, mang lại hòa bình cho các vùng xa xôi và giới thiệu hệ thống tiền đúc quy mô lớn đầu tiên trên thế giới. Giới quý tộc Ba Tư tuân thủ các lý tưởng hiệp sĩ về danh dự, lòng dũng cảm và tinh thần hiệp sĩ. Tuy nhiên, Ba Tư là một chế độ chuyên quyền; thậm chí còn trầm trọng hơn đối với các nước láng giềng, người Ba Tư tin rằng nhà cai trị của họ, người mà họ xưng là “Vị Vua Độc tôn” hoặc “Vị Vua Vĩ đại”, cai trị tất cả các dân tộc trên thế giới.
Ngược lại, quốc gia Hy Lạp hiện nay được chia thành nhiều thành bang. Mặc dù đôi khi có mối quan hệ bất hòa với nhau, nhưng các nhà nước này có chung một nhận thức mạnh mẽ về mối quan hệ họ hàng, gọi chung là người Hy Lạp. Hơn nữa, họ chia sẻ tinh thần dân chủ, cho phép tranh luận chính trị cởi mở và ủng hộ các hình thức chính phủ đại diện dựa trên nguyên tắc đa số. Thật vậy, họ phản đối mạnh mẽ việc cai trị bởi một cá nhân và bám chặt vào quyền tự do của họ.
Những triết lý chính trị tương phản này đã đưa hai nền văn hóa vào một cuộc xung đột. Cuộc đụng độ đầu tiên xảy ra vào năm 500 TCN tại Ionia, nay là miền tây Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà người Ba Tư đã chinh phục liên tục trong nửa thế kỷ trước đó. Các thành bang Hy Lạp trong khu vực đó đã nổi dậy chống lại người Ba Tư và nhận được sự hỗ trợ từ hai thành bang Athens và Sparta. Người Ba Tư, dưới thời Vua Darius, đã mất sáu năm để đàn áp cuộc nổi loạn và khiến Darius quyết tâm trả thù người Hy Lạp.
Năm 492, Darius cử cháu trai và con rể Mardonius xâm lược Thrace Macedonia; Mardonius có thể khuất phục các tỉnh phía bắc Hy Lạp này tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, một cơn bão sau đó đã phá hủy hạm đội của ông gần Mũi Athos, và buộc ông phải rút lui về Ba Tư. Năm 490, Darius bất mãn đã cử cháu trai Datis xâm lược Attica. Nhưng một lực lượng nhỏ người Athens đã đánh bại một đội quân Ba Tư lớn hơn nhiều trên đồng bằng Marathon, chủ yếu là do vũ khí và chiến thuật vượt trội, và người Ba Tư buộc phải rút lui mà không thể trừng phạt Athens một cách thỏa đáng. Đối với người Hy Lạp, đây là một chiến thắng phi thường, nâng cao sĩ khí; đối với người Ba Tư, đó là một mất mát khó chịu nhưng không thảm khốc.
Sau cái chết của Darius vào năm 486, con trai ông là Xerxes lên ngôi vua và cẩn thận bắt đầu lên kế hoạch xâm lược Hy Lạp. Tham vọng của Xerxes không chỉ là trừng phạt người Hy Lạp vì chiến thắng mới nổi của họ tại Marathon, mà còn sử dụng Hy Lạp làm điểm khởi đầu cho một cuộc tấn công lớn hơn về phía tây. Ông đã cử sứ giả đến Athens và Sparta, yêu cầu các thành bang Hy Lạp phải phục tùng quyền lực của mình; người Athens ném sứ giả xuống hố, còn người Sparta bỏ sứ giả xuống giếng. Quyết tâm trả thù, Xerxes bắc cầu qua Hellespont để cho phép quân đội của mình an toàn vượt qua eo biển đầy bão tố dẫn vào Biển Đen, và đến năm 480 đã dẫn dắt một lực lượng có lẽ là hai trăm nghìn quân xâm lược vào đất liền Hy Lạp trong khi lực lượng hải quân hùng mạnh của ông tiếp cận bằng đường biển.
Để chống lại cuộc xâm lược, người Hy Lạp đã thành lập một tổ chức gồm các thành bang, Liên minh Hy Lạp, và quyết định tiến hành một chiến dịch kết hợp trên bộ và trên biển để đẩy lùi quân Ba Tư. Lực lượng hải quân, do nhà lãnh đạo người Athens Themistocles chỉ huy và bao gồm khoảng 270 thuyền chiến gọi là trireme có 3 hàng chèo, sẽ tiến về phía bắc để đương đầu với hạm đội Ba Tư, có khoảng 1.200 trireme. Trong khi đó, Vua Leonidas của người Sparta sẽ tiến về phía bắc với đội quân tinh nhuệ nhỏ được tuyển chọn kỹ lưỡng của mình.
Tại đèo núi hẹp Thermopylae, 300 chiến binh thiện chiến người Sparta của Leonidas, dẫn đầu một lực lượng gồm khoảng 8.000 quân Hy Lạp khác, đã anh dũng ngăn chặn quân Ba Tư trong ba ngày trước khi bị tiêu diệt. Cùng lúc đó, cách đó 40 dặm (64 km) ở đầu phía bắc của đảo Eurobea, hải quân Hy Lạp đã giao chiến với hạm đội Ba Tư trong một loạt các cuộc giao tranh gần cảng Artemesium, và cuối cùng giành chiến thắng sau trận chiến kéo dài ba ngày, khiến hạm đội Ba Tư bị chậm lại nhưng không hề bị tiêu diệt.
Bất chấp những thất bại này, quân đội Ba Tư vẫn tiếp tục tiến lên. Vào giữa tháng 8, Xerxes hành quân mà không gặp sức kháng cự nào qua Attica và chiếm Athens. Người Hy Lạp rút lui về đảo Salamis, ngay ngoài khơi, nơi hải quân của Xerxes do người Phoenicia chỉ huy chuẩn bị thực hiện đòn kết liễu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Themistocles, người Hy Lạp đã giành được chiến thắng vang dội khi dùng mưu trí đánh bại quân Ba Tư trong trận hải chiến Salamis. Với những cơn bão mùa thu đang kéo đến và lo sợ rằng cuộc rút lui của mình qua Hellespont có thể bị người Hy Lạp cắt đứt, Xerxes đã quay trở lại Ba Tư, tuy nhiên, để lại một lực lượng đáng kể dưới sự chỉ huy của Mardonius, anh rể của ông.
Vừa lấy lại lòng tự tin, quân Hy Lạp đã áp đảo lực lượng của Mardonius trong trận Plataea vào tháng 8 năm 479, do đó đã chấm dứt hiệu quả nỗ lực chinh phục Hy Lạp của Xerxes. Xung đột không liên tục giữa hai bên tiếp tục ở Tiểu Á, Ai Cập và Síp trong một vài năm, nhưng vào năm 449, với việc ký kết Hòa ước Callias, Ba Tư đã đồng ý tránh xa Biển Aegean.
TRẬN ĐÁNH ĐÃ LÀM THAY ĐỔI CỤC DIỆN CUỘC CHIẾN VÀ LÀM CHO NGƯỜI Sparta BẤT TỬ
Trận chiến Thermopylae, 480 TCN
Đối với một cậu bé chăn cừu núp sau một tảng đá, có vẻ như toàn bộ thế giới đang tề tựu trước mặt; quả vậy, có rất nhiều chủng người mà cậu chưa bao giờ nhìn thấy tập hợp cùng nhau trên vùng đất xa xôi và nhiều đá này của vùng Đông Bắc Hy Lạp. Có người Assyria nhiều râu trang bị những chiếc gậy có gắn đinh sắt; người Scythia với những chiếc cung ngắn; người Ấn trong trang phục truyền thống dhoti bằng vải cotton; người bộ tộc Caspian với những chiếc dao găm; người Ethiopia phủ lên mình lớp sơn chiến tranh màu đỏ và trắng và đội da đầu ngựa với tai và bờm ngựa vẫn còn gắn trên mũ; người Ả Rập, người Sarangia, người Pisidia, người Moschia – như sử gia Herodotus đã mô tả, tất cả các quốc gia cổ đại của Châu Á.
Điều đặc biệt làm cậu bé chăn cừu kinh ngạc là đoàn Chiến binh Bất tử, đội cận vệ riêng của Vua Xerxes gồm 10,000 hiệp sĩ Ba Tư, họ mặc áo giáp sáng bóng và đi cùng với những chiếc xe ngựa chở hành lý của riêng họ chở theo các phi tần và người hầu riêng. Ấn tượng nhất trong số tất cả, tất nhiên, là chính nhà vua, đang di chuyển trên cỗ xe ngựa hoàng gia của mình, được kéo bởi 10 con ngựa được chọn đặc biệt từ vùng Nisaean của Ba Tư, nổi tiếng với đàn ngựa giống.
Herodotus tuyên bố rằng lực lượng lớn này có tới ba triệu người, nhưng điều đó không có khả năng xảy ra; các nhà sử học hiện đại ước tính Xerxes có khoảng 210.000 binh lính, bao gồm 170.000 bộ binh, 8.000 kỵ binh, 2.000 người đánh xe ngựa và quân đoàn lạc đà, và 30.000 người Thracia và Hy Lạp. Bất kể con số chính xác là bao nhiêu, toàn bộ Hy Lạp hẳn đã run sợ trước sự tiến đánh của người được gọi là Vị Vua Vĩ đại phương Đông, đang tiến rầm rộ về phía tây, quyết tâm chinh phục các quốc gia mới nổi này, đặc biệt là Athens và Sparta một lần và mãi mãi.
Nhiệt Môn
Gần như cách duy nhất để quân đội của Xerxes đến được miền trung Hy Lạp là qua một con đường hẹp giữa núi và biển, tại một nơi gọi là Thermopylae (Nhiệt Thủy Môn), vì có suối nước nóng lưu huỳnh. Vào khoảng ngày 14 tháng 8 năm 480, Vua Leonidas của Sparta đã đến đây trước người Ba Tư, cùng với 300 dũng sĩ Sparta và 8.000 chiến binh Hy Lạp khác. Chỉ những chiến binh Sparta để lại con trai ở nhà mới được phép đi cùng nhà vua, để dòng dõi của họ khỏi bị tuyệt tự. Lực lượng đi cùng với các chiến binh Sparta mang theo các người hầu của họ, hay Helots, cũng như nhiều người khác từ miền trung Hy Lạp. Tất cả đều ở rất xa quê hương của họ, ở đây, lần đầu tiên, một đội quân Hy Lạp chiến đấu để bảo vệ toàn bộ quê hương Hy Lạp.
Với tiếng gầm của biển ở phía sau, và mũi họ bị hành hạ bởi mùi trứng thối từ các suối bốc lên, vua Sparta và tùy tùng của ông đã leo lên con đèo quanh co và nhiều đá đến điểm hẹp nhất của nó, một địa điểm được gọi là Cổng Giữa, rộng tối đa là 20 yard (18 m). Một bức tường cổ xưa, đổ sụp đứng ở đây, và Leonidas cẩn thận chỉ đạo quân lính của mình xây dựng lại nó trong khi tôi tớ của họ dỡ hàng tiếp tế. Bên trái của họ, sừng sững phía trên quân Sparta, là những vách đá thẳng đứng của Núi Kallidromon. Bên phải của họ là Biển Aegean, ngày nay cách Thermopylae tới hàng dặm (5 km), nhưng vào thời điểm đó, nó nằm ngay sát con đèo.
Leonidas, tên có nghĩa là “như sư tử” và được cho là hậu duệ của Hercules [con của thần Zeus, vị anh hùng nổi tiếng trong thần thoại Hy Lạp], đảm nhận vai trò chỉ đạo trực tiếp hàng phòng ngự, ra lệnh với sự quyết liệt xuất phát từ lòng phẫn nộ lẫn tuyệt vọng, vì ông biết rằng quân Ba Tư sẽ sớm tiến đến. Để ngăn cản bước tiến của họ, ông ra lệnh cho một đơn vị Sparta tiến vào đồng bằng ở phía bên kia đèo, vào Thessaly, để đốt cháy và tàn phá vùng nông thôn ở đó và tước đoạt nguồn cung cấp lương thực của quân Ba Tư. Trong khi đó, Leonidas nhanh chóng nhận ra rằng mình có thể bị đánh úp. Đó là nếu kẻ thù sử dụng một con đường độc đạo gồ ghề và hẹp chạy qua các dãy núi Kallidromon hướng về phía tây vị trí của mình, xuất hiện ở phía nam của dãy núi khoảng một giờ hành quân từ Thermopylae. Những huyền thoại sau này lan truyền về con đường này cho rằng đó là một tuyến đường bí mật, nhưng thực tế là nó được biết đến rộng rãi tại địa phương và Leonidas ngay lập tức hiểu được tầm quan trọng của nó. Không chút do dự, ông đã cử khoảng một nghìn người Phocia – người Hy Lạp bản địa – để canh giữ con đường nơi nó chạy ra khoảng 6 dặm (10 km) về phía sau ông. Thật không may, vì lực lượng Sparta của ông quá ít, nên ông đã không cử bất kỳ chiến binh cừ khôi nào trong số những chiến binh này để đi cùng với lực lượng Phocia.

Bên dưới những vâch đá cao của núi KALLIDROMON, bên cạnh suối khoáng nóng THERMOPYLAE 300 chiến binh SPARTA của LEONIDAS đã dũng cảm ngăn chặn lực lượng BA TƯ khổng lồ.
Tranh sơn dầu của MASSIMO TAPARELLI D’AZEGLIO vẽ vào năm 1823,
Chuẩn bị cho trận chiến
Đôi quân khủng của Xerxes đã đến vào ngày hôm sau, một đoàn diễu hành khổng lồ, làm rung chuyển mặt đất của người và thú. Lều trại của Đại vương được dựng lên và ông chỉ thị cho các chỉ huy của mình cử các trinh sát đi thăm dò các vị trí của quân Sparta. Khi các trinh sát trở về, quỳ gối trước Xerxes, họ mô tả một cảnh tượng phi thường mà họ đã chứng kiến: quân Sparta, như thể không có bất kỳ mối bận tâm nào trên thế gian, đang tập thể dục và chải mái tóc dài của mình trước các vị trí phòng thủ của họ.
Đại Vương không thể tin được hành vi này. Tại sao những người Sparta này không run sợ trước mặt ông? Tại sao họ không rút lui?
Đi cùng Xerxes ngày hôm đó là Demaratus, một vị vua Sparta, người trước đó đã thua trong cuộc đấu tranh giành quyền lực ở Sparta và chạy trốn đến Châu Á và giờ đã trở về Hy Lạp cùng với người Ba Tư, hy vọng sẽ được trao Sparta như một phần thưởng khi Xerxes giành chiến thắng. Demaratus không bối rối trước thái độ có vẻ thoải mái của người Sparta, nói với Xerxes, “Những người đàn ông này đang chuẩn bị cho trận chiến sắp tới và họ quyết liệt thách thức việc chúng ta tiến vào đèo. Việc người Sparta chải chuốt tóc tai cẩn thận để chuẩn bị cho cái chết là hành vi bình thường… Nếu những con người này có thể bị đánh bại… thì sẽ không còn ai khác trên toàn thế giới dám giơ tay chống lại ngài nữa.”
Xerxes quyết định chờ thêm vài ngày nữa trước khi hành động, không phải vì ông sợ lực lượng nhỏ và khá lạ này, mà vì ông muốn cho hạm đội của mình, bị hư hại trong cơn bão, có thời gian để đuổi kịp ông. Nhưng vào sáng ngày 18 tháng 8, khi hạm đội vẫn còn chậm trễ, ông đã ra lệnh tấn công trực diện vào tuyến phòng thủ của Sparta.
Một cuộc tấn công trực diện không phải là một cách tiếp cận lý tưởng, và Xerxes cùng đội ngũ của ông chắc chắn biết điều này, nhưng có vẻ như không có cách nào khác để đánh bại quân Hy Lạp, những người có hai bên sườn được bảo vệ rất tốt. Xerxes đã cử quân Medes của mình, một dân tộc cổ xưa từ nơi hiện là tây bắc Iran, vào trước. Họ tập trung cách đó vài trăm thước, đội mũ sắt hình vòm và mang theo giáo ngắn, cung tên, và bắn một cơn mưa tên lên bầu trời buổi sáng rực rỡ và rơi xuống lực lượng Sparta, đang che chắn mình bằng khiên. Sau đó, quân Medes tấn công, ồ ạt xông vào bức tường khiên đồng khổng lồ của người Sparta, từ dưới khiên đâm ra tua tủa những ngọn giáo dài và sắc nhọn. Do đèo hẹp, quân Medes không thể triển khai quân số áp đảo hơn để đẩy lùi địch và đã bị tàn sát trong đợt tấn công đầu tiên. Vì vậy, Xerxes đã cử một làn sóng Medes mới. Họ quỳ xuống sau những đống xác chết và bắn tên vào quân Sparta, đội hình của họ vẫn tiếp tục giữ vững và những trận mưa tên nảy bật lên khỏi tấm khiên lấp lánh của họ như những món đồ chơi.
Thermopylae giờ đây nhanh chóng trở thành một cảnh hỗn loạn không thể diễn tả được khi quân Medes hét hò chiến đấu và chiến đấu để tiếp cận quân Sparta trong không gian hẹp, đôi khi nhảy qua xác đồng đội mình để chém quân Hy Lạp. Quân Sparta đâm quân Ba Tư bằng giáo, hoặc chém họ bằng kiếm, và giữ vững vị trí. Họ cũng áp dụng các chiến thuật sáng tạo, ví dụ như quay lại và giả vờ bỏ chạy, để quân Medes truy đuổi họ một cách điên cuồng cho đến khi quân Sparta dừng lại giữa chừng và phản kích trở lại. Cuối cùng, khi chiều đến, Xerxes đã cử lực lượng bất tử đầu tiên của mình vào trận, nhưng ngay cả những đội quân tinh nhuệ này cũng không thể tiến thêm được một tấc nào trước hàng phòng ngự kiên cường Sparta.
Màn đêm buông xuống và một cơn bão khủng khiếp ập đến đánh úp những chiến binh khi họ đang nghỉ ngơi.

Chiến thuyền Trime của Hy Lạp và Ba Tư đụng độ trong trận hải chiến SALAMIS, năm 480 TCN.
Tranh sơn dầu của ANDREW HOWARTH thế kỷ 20.
Con đường dẫn đến chiến thắng
Xerxes chắc chắn rằng quân Hy Lạp sẽ kiệt sức sau ngày đầu tiên, và vì vậy, vào lúc rạng sáng, ông đã tung thêm đội quân Bất tử của mình vào trận; nhưng họ lại bị đẩy lui. Trên thực tế, vì đội hình của mình quá hẹp nên quân Sparta có thể thay thế thường xuyên những chiến binh phía trước với quân lính mới, và do đó không hề mệt mỏi. Khi ngày trôi qua, Xerxes hứa hẹn với người của mình bất cứ điều gì nếu họ phá vỡ được phòng tuyến của Hy Lạp, nhưng ngay cả những chiến binh Bất tử cũng không muốn tấn công bức tường lá chắn dường như không thể xuyên thủng đến mức họ phải bị các tướng quân vung roi thúc đẩy tiến về phía trước.
Tối hôm đó, Xerxes rút quân và bắt đầu cân nhắc nước đi tiếp theo. Bị lực lượng nhỏ bé đến mức khôi hài này giữ chân, ông lâm vào thế khó, vì hải quân của ông, bị tàu chiến ba tầng của Themistocles quấy nhiễu và bị bão liên tiếp tấn công, đã không thể tiến đủ gần để tiếp tế.
Đêm đó, Xerxes đang họp với các tướng sĩ của mình thì một người dân địa phương tên là Ephialtes được dẫn đến trước mặt ông. Lúc đầu, Xerxes không tin vào mắt mình tại sao đưa một thường dân đến trước mặt ông? Nhưng sau đó, Ephialtes, đang run rẩy, được cho phép nói; chẳng mấy chốc, hắn đã thuyết phục Xerxes rằng mình đã tìm ra cách giúp vua Ba Tư giành chiến thắng trước người Hy Lạp. “Với hy vọng được đền đáp xứng đáng”, như Herodotus nói, Ephialtes đề nghị dẫn đường cho quân Ba Tư đi dọc theo con đường dẫn đến phía sau vị trí của Leonidas. Bất kể người Ba Tư có biết về sự tồn tại của con đường này hay chưa, chỉ có dân địa phương như Ephialtes mới có thể dẫn họ đi an toàn trên con đường đó.
Xerxes chấp nhận lời đề nghị, và 1.000 chiến binh Bất tử, được trao cơ hội chuộc tội, đã đi theo tên phản bội lên lỏi qua những ngọn núi trong bóng tối.
Thật không may cho người Sparta, lực lượng Phocian được cử đến để bảo vệ hẻm núi là một đội dân quân nghiệp dư, và thậm chí còn không buồn bố trí lính canh gác. Khi người Ba Tư xuống núi lúc bình minh đang ló dạng, quân Phocian đã bị bất ngờ và rút lui đến một sườn đồi gần đó. Quân Ba Tư không để ý đến họ và ngay lập tức tiến lên đèo, hướng đến Thermopylae. Một số trinh sát Phocian đã chạy trước, cảnh báo được Leonidas, mang đến cho ông tin tức không hoàn toàn bất ngờ (và thực sự có một truyền thuyết kể rằng nhà tiên tri Megistias, đang đi cùng lực lượng Sparta, đã cảnh báo Leonidas rằng “cái chết đang đến cùng với bình minh”).
Leonidas giờ đây phải đối mặt với một quyết định khó khăn: ông có thể rút lui toàn bộ lực lượng của mình về phía nam, để lại con đèo cho Xerxes, hoặc ông có thể chiến đấu đến chết. Rõ ràng là không do dự, ông đã chọn cách của người Sparta: chết trong danh dự. Ông đã gửi trở lại Hy Lạp gần như toàn bộ lực lượng mà ông có, ngoại trừ 300 dũng sĩ Sparta, 900 người Helot và khoảng 400 người Thebes đã chọn ở lại với ông. Sau đó, chờ đợi cuộc tấn công từ cả phía sau lẫn phía trước, những chiến binh của ông điềm nhiên chải tóc dài và mài kiếm.
Cuộc tấn kích tiếp theo của quân Ba Tư ập đến, lúc đầu chỉ từ phía trước, và lần này dữ dội hơn bao giờ hết, một lần nữa lại bị roi da quật thúc đẩy về phía trước. Nhiều người trượt chân xuống biển và chết đuối, trong khi một số bị chính đồng đội của họ giẫm đạp, những người khác bị giáo địch đâm xuyên qua hoặc kiếm thù chém rơi rụng. Nhưng dần dần, với quân số vô tận, người Ba Tư đã có thể chiến đấu theo cách của mình giữa nhóm nhỏ người Sparta, đánh bật các mũi giáo của họ bằng kiếm; chém vào mũ sắt của họ; và đập lõm khiên và chém vỡ áo giáp cho đến khi người Sparta lùi lại. Vào thời điểm này, Leonidas đã bị giết và một cuộc tàn sát dữ dội giành lấy thi thể ông bắt đầu. Người Hy Lạp đã đánh đuổi kẻ thù bốn lần, giết chết nhiều nhân vật Ba Tư cao quý, bao gồm cả hai người anh em cùng cha khác mẹ của Xerxes.
Sau đó, bỗng nghe một tiếng kêu vang lên từ phía sau của quân Hy Lạp: “Chúng đến rồi!” Lực lượng Bất Tử giờ đã tấn công từ phía sau. Bị bao vây, quân Sparta rút lui về một ngọn đồi nhỏ. “Tại nơi này”, như sử gia Herodotus nói, “họ đã chống đỡ đến phút cuối cùng, bằng kiếm, nếu họ vẫn còn kiếm, và nếu không, thậm chí bằng tay và răng của mình.”
Không thể đánh bại người Sparta trong cuộc chiến tay đôi, người Ba Tư lùi lại và bắn tên, tiêu diệt từng kẻ thù một. Một số người Thebes đã đầu hàng, nhưng không có một người Sparta hay Helot nào của họ chịu khuất phục.
Cái giá của chiến thắng
Xerxes vô cùng tức tối trước quyết tâm kháng cự của người Sparta đến nỗi ông đã ra lệnh chặt đầu Leonidas và treo lên một ngọn giáo cho mọi người chứng kiến. Đây là một hành động không bình thường đối với một vị vua thường tôn trọng kẻ thù dũng cảm của mình, nhưng ông dường như đã hiểu ngay rằng, trong khi ông đã thắng trận, thì người Hy Lạp đã giành được một chiến thắng tâm lý quan trọng. Để chống lại điều này, ông đã chôn cất tất cả binh sĩ Ba Tư đã chết, chỉ để lại khoảng 1.000 nghìn người, và mời các thủy binh từ tàu thuyền của mình, cuối cùng vừa mới cập bến, đến tham quan chiến trường, hy vọng thuyết phục họ rằng chiến thắng của ông ít tốn kém hơn thực tế.
Trên thực tế, Thermopylae đã khiến Xerxes phải trả giá rất đắt. Một phần là do mất đi lợi thế chiến lược: nếu Leonidas từ bỏ Thermopylae, Xerxes có thể cử kỵ binh và bộ binh hạng nhẹ của mình truy đuổi quân đội Hy Lạp đang tháo chạy, tiêu diệt họ và khiến phần còn lại của Hy Lạp không có khả năng phòng thủ. Do đó chiến thắng của Hy Lạp mang tính biểu tượng mạnh mẽ. Leonidas đã chọn cái chết, không chỉ vì Sparta, mà còn vì toàn thể Hy Lạp, một sự thật được hiểu rộng rãi ngay sau trận chiến. Các lực lượng Hy Lạp đã noi theo tấm gương đầy cảm hứng của Leonidas và đoàn kết lại khi họ có thể dễ dàng tan rã trước quá nhiều nguy hiểm, và cuối cùng sẽ đánh bại Xerxes tại Salamis và Plataea.
Nếu không có sự kháng cự quyết tử ở Thermopylae, gần như chắc chắn rằng miền trung và miền nam Hy Lạp sẽ đầu hàng Xerxes. Như Ernle Bradford, một sử gia về trận chiến Thermopylae đã nói, “Cái chết của Leonidas và 300 chiến binh được chọn của ông được nhìn nhận vào thời điểm đó như một ngọn đuốc, không phải để đốt cháy giàn hỏa táng, mà là để thắp sáng cho nhân dân Hy Lạp vốn đã chia rẽ và thiếu quyết đoán từ trước đến nay.”

ATTICA và vùng lân cận, năm 480 TCN.
Trận chiến Thermopylae và cuộc chuyển quân đến Salamis
THEMISTOCLES: NGƯỜI THỦ LĨNH THÔ KỆCH ĐÃ LỪA HẠM ĐẠI BA TƯ VÀ CỨU LẤY ATHENS
Ngoài sự kiện rằng ông sinh năm 525 TCN với mẹ là người nước ngoài và cha là Neocles, người xuất thân từ một gia đình quý tộc Athens nhưng không giàu có hay nổi tiếng, người ta biết rất ít về cuộc sống thời thơ ấu của Themistocles. Khi trưởng thành, ông có lẽ đã từng là một thương gia trong một thời gian, và trở thành luật sư, một công việc béo bở trong xã hội Athens khét tiếng hay kiện tụng. Các nhà sử học, bao gồm Herodotus, Thucydides và Plutarch, mô tả Themistocles như một kiểu ông trùm chính trị ồn ào: hòa đồng và thu hút nhưng xảo quyệt, một người đàn ông biết cách tạo dựng các mối quan hệ và lợi dụng chúng. Hầu hết những nhân vật Athens nổi tiếng đều xa lánh ông vì cho rằng ông thô lỗ (và có lẽ vì lý do chính đáng, ông được biết đến là người không ngại nhận hối lộ, nói dối và gian lận để đạt được thành công); vì vậy, ông đã vun đắp cho tầng lớp thấp hơn, những người ủng hộ ông đã giúp ông được bầu vào chức vụ công.
Vào thời điểm chiến thắng vẻ vang của người Hy Lạp tại Marathon năm 490, Themistocles đã trở thành strategos, hay vị tướng được bầu, của một bộ phận lực lượng Athens. Có tầm nhìn xa, ông hiểu rằng chiến thắng tại Marathon, mặc dù là một chiến thắng lớn, nhưng không chấm dứt cuộc chiến chống lại Ba Tư, mà chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến khác lớn hơn nhiều chắc chắn sẽ xảy ra. Vì vậy, ông đã thúc đẩy thành công việc sử dụng lợi nhuận từ một mỏ bạc do nhà nước sở hữu để xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh của Athens và một bến cảng kiên cố cho các con tàu ở Piraeus. Những nhân vật Athens nổi tiếng chế giễu việc này – bộ binh mới là một nghĩa vụ danh dự, không phải hải quân, bọn chèo thuyền theo truyền thống vốn bị coi là một đám gây rối hay nhậu nhẹt- nhưng Themistocles biết rằng hải quân Ba Tư phải bị đẩy lùi nếu Hy Lạp muốn được tự do. Như Plutarch cho rằng ông từng nói, “Tôi có thể không biết cách lên dây đàn lia hay chơi đàn hạc nhưng tôi biết cách chiếm một thành phố nhỏ và vô danh và làm cho nó trở nên nổi tiếng và vĩ đại.” Themistocles chắc chắn đã làm được, và chiến lược sáng suốt của ông trong cuộc xâm lược của Ba Tư gần như chắc chắn đã cứu Hy Lạp.
Tuy nhiên, giống như nhiều nhà lãnh đạo vĩ đại thời chiến khác, Themistocles đã không được may mắn như vậy trong thời bình. Bị nghi ngờ nhận hối lộ, ông đã bị tẩy chay vào một thời điểm nào đó giữa năm 476 và 471 và đã nghỉ hưu. Sau khi bị người Sparta tuyên bố là kẻ phản bội, và một số người cho rằng ông là điệp viên Ba Tư (mặc dù không có bằng chứng xác thực nào về điều này), ông đã trốn khỏi Hy Lạp. Trớ trêu thay, ông đã xuất hiện ở Ba Tư, nơi ông được nhà vua mới, Artaxerxes, chấp nhận và được phong làm thống đốc của một tỉnh Ba Tư. Ông qua đời – có thể là do bệnh tật, mặc dù Thucydides tuyên bố ông đã tự tử – vào năm 459.
Cái chết của ông không thích hợp với một nhân vật phức tạp nhưng xuất chúng như vậy, nhưng ông sẽ luôn được nhớ đến như một nhà lãnh tụ đã cứu đất nước mình trong thời điểm hiểm nghèo. “Dưới sự lãnh đạo của Themistocles,” nhà sử học Peter Green viết, “người Athens… đã sống qua giờ phút đẹp nhất của mình.”
TRẬN CHIẾN SALAMIS
Vào cuối tháng 9 năm 480, bất chấp sự chậm trễ do trận Thermopylae và chiến thắng của người Hy Lạp tại Artemesium, Xerxes đã sẵn sàng để nếm trải hương vị chiến thắng. Lực lượng của ông đã chiếm được Athens, đốt cháy Acropolis cũ để khói đen có thể nhìn thấy từ xa, một tín hiệu báo trước ngày tận thế cho những người vẫn chống đối ông. Nhưng trên đảo Salamis, cách bờ biển Attica hơn một dặm (1,5 km), trong tầm nhìn của khói, một nhóm người Hy Lạp đã quyết tâm chống cự. Dưới sự chỉ huy của Themistocles, họ là những thủy thủ và binh lính từ nhiều quốc gia khác nhau của Liên minh Hy Lạp, và dưới sự chỉ huy của họ, họ có khoảng 370 chiến hạm gỗ với ba tầng mái chèo và một mũi húc ở phía trước, là trụ cột của công cụ chiến đấu trên biển trong thế giới cổ đại.
Cách đó không xa, tại bến cảng Phaleron, một lực lượng gồm hơn 700 chiến thuyền ba tầng Ba Tư đang neo đậu, có khả năng dễ dàng áp đảo hạm đội Hy Lạp. Nhiều chỉ huy Hy Lạp đã hoảng sợ, nhưng Themistocles vẫn giữ được bình tĩnh. Biết rằng chìa khóa để chiến thắng là buộc quân Ba Tư phải chiến đấu ở eo biển Salamis rộng 1 dặm (1,5 km), nơi họ không thể mang quân số vượt trội của mình ra chiến đấu, ông đã quyết định thực hiện một kế hoạch táo bạo.
Vào đêm ngày 24 tháng 9, dưới sự che chở của bóng đêm, ông đã cử một nô lệ được sủng ái, Sicinnus, đột nhập vào phòng tuyến của Ba Tư và tự nộp mình. Sicinnus, tuyên bố mình mang một thông điệp từ Themistocles, đã được đưa đến gặp Xerxes. Anh ta nói với Đại vương rằng Themistocles đã sẵn sàng phản bội đất nước của mình và đứng về phía Ba Tư, và rằng người Hy Lạp đang chuẩn bị chạy trốn khỏi Salamis. Nếu Xerxes cử các tàu ba tầng của mình ra ngoài vào đêm đó, ông có thể bắt được chúng. Có lẽ vì thông tin do kẻ phản bội Hy Lạp Ephialtes cung cấp tại Thermopylae là chính xác và rất quan trọng, nên Xerxes tin Sicinnus và cử các tàu ba tầng của mình ra ngoài. Chèo thuyền suốt đêm, người Ba Tư mệt lử, và vào buổi sáng, họ ngạc nhiên khi thấy người Hy Lạp không rút lui mà đã sẵn sàng tấn công. Bị mắc kẹt trong eo biển hẹp, nơi mà, như Themistocles đã dự đoán, họ không thể khai thác lợi thế về số lượng của mình, quân Ba Tư kiệt sức đã bị quân Hy Lạp quyết tâm tiêu diệt. Thất bại này đã chấm dứt nỗ lực chinh phục Hy Lạp của Xerxes.
SPARTA: CỖ MÁY GIẾT CHÓC HIỆU QUẢ NHẤT TRONG THẾ GIỚI CỔ ĐẠI
Người Sparta là một trong những dân tộc bí ẩn nhất trên thế giới. Mặc dù những chiến binh tuyệt vời của họ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền dân chủ Hy Lạp, nhưng xã hội của họ lại hướng nội, bị ràng buộc bởi đẳng cấp, phân tầng cao và không hòa đồng.
Thành bang Sparta, tại địa điểm của thị trấn Sparti hiện đại ở phía đông nam Peloponnese, có lẽ bắt đầu hình thành vào khoảng năm 1000 TCN khi các làn sóng bộ lạc nói tiếng Hy Lạp định cư tại năm ngôi làng trên một đồng bằng màu mỡ. Những ngôi làng này hợp nhất để tạo thành một thành phố duy nhất, Sparta, đã chinh phục các bộ lạc lân cận ở Laconia và Messenia vào thế kỷ thứ tám TCN.
Sau đó, khi đã có được nguồn nhân lực và nền nông nghiệp đáng kể, người Sparta bắt đầu phát triển nền văn minh kỳ lạ của mình.
Đứng đầu trong bậc thang xã hội và kinh tế của họ là người Spartiate, thành viên duy nhất có thể bỏ phiếu, họ sống trong những nơi về cơ bản là các khu doanh trại quân sự tập thể trong thành phố. Bên dưới họ là Perioikoi, hay “Những hàng xóm”, những người tự do hành quân và chiến đấu bên cạnh người Spartiate nhưng không được bỏ phiếu. Ở dưới cùng của bậc thang là người Helot, một lực lượng lao động bao gồm nông dân Laconia và Messenia cùng con cháu của họ. Không tự do, nhưng không hoàn toàn là nô lệ, họ phải nộp một nửa sản phẩm của mình cho người Spartiate. Là một nhóm người kiêu hãnh, người Helot thường được theo dõi cẩn thận, đề phòng họ nổi loạn, và họ đã làm như vậy trong nhiều trường hợp.
Các nhà sử học ước tính rằng tỷ lệ cư dân tự do so với không tự do của Sparta là một trên mười lăm, có thể là lý do tại sao giới cai trị Sparta tập trung mọi nỗ lực của họ vào việc nuôi dạy thiếu niên thành những chiến binh hung hãn. Kỷ luật của người Sparta là phi thường. Bất kỳ bé trai sơ sinh nào bị dị tật đều bị bỏ lại phơi nắng trên đồi cho đến chết hoặc bị ném xuống vách đá. Tất cả những đứa trẻ khác đều bị tách khỏi cha mẹ khi mới bảy tuổi và được nuôi dưỡng trong những khu nhà lớn. Chúng được nuôi ăn bằng một chế độ ăn ít ỏi để chúng học cách tự kiếm ăn và chịu đựng gian khổ; đồng thời, chúng có thể bị đánh, đôi khi đến chết, nếu chúng bị bắt quả tang đang ăn trộm. Ngay cả các vị vua Sparta cũng sống bằng cùng một loại cháo đen loãng và bánh mì lúa mạch như bất kỳ người Sparta nào khác; thức ăn không hấp dẫn đến nỗi một du khách đến Sparta đã thốt lên, “Bây giờ tôi hiểu tại sao người Sparta không sợ chết!”
Về mặt chính trị, người Sparta rất bảo thủ. Họ có hai vị vua phụ trách các vấn đề quân sự, mặc dù trong thời bình, các Ephot, hay “Người giám sát”, được bầu, có thẩm quyền đối với các vị vua. Có một hội đồng và một viện nguyên lão, nhưng các cuộc tranh luận trong những ngôi nhà này được quyết định bởi bất kỳ ai có thể hét to nhất, một tập tục được những người Hy Lạp khác chế giễu không ngừng.
Sau khi đóng vai trò anh hùng trong Chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư, Sparta đã tham chiến và đánh bại Athens trong Chiến tranh Peloponnesian, kết thúc vào năm 404 TCN.
Nhưng cuối cùng Sparta đã bị các quốc gia Hy Lạp khác đánh bại, nhờ sự giúp đỡ của Ba Tư, và bị chinh phục cùng với phần còn lại của thế giới đã biết bởi Alexander Đại đế.