Ngô Đình Diệm: yêu nước, độc tài và chống Cộng?

Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Câu hỏi: Liệu một cá nhân có thể đồng thời kiêm cả 3 “nhà”? Thực tế, chẳng có gì mâu thuẫn, nếu xét trường hợp cụ Ngô Đình Diệm
I. YÊU NƯỚC và CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
Nếu lòng yêu nước có muôn vàn cách thể hiện và thực hiện, thì lòng yêu nước của cụ Ngô Đình Diệm được cụ Hồ Chí Minh nhận định là: “Ông ấy yêu nước theo cách của ông ấy”. Chưa cần nói tới chuyện cụ Hồ năm 1946 đã mời cụ Ngô làm thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, do chính cụ Hồ làm chủ tịch. Nhưng chuyện này không thành.
Tiện đây, xin nói thêm: Nếu cách chung nhất thể hiện lòng yêu nước là giữ vững biên giới của tổ quốc, thì chủ nghĩa cộng sản lại phấn đấu để xóa bỏ biên giới, sau khi xóa bỏ tư hữu, đặng tạo ra một “thế giới đại đồng”. Thật khó tưởng tượng khi nước ta và Trung Quốc tiến tới chủ nghĩa cộng sản… Lúc này, 100 triệu dân Việt sẽ chỉ là một dân tộc thiểu số (trong một đại gia đình 1500 triệu dân; mà dân ta chỉ chiếm 1/15), còn ngôn ngữ Việt chỉ là một thứ tiếng địa phương (!).
- Yêu nước ngay từ khi bắt đầu làm quan
– Từ điển wikipedia cho thấy nhân vật Ngô Đình Diệm này sinh trưởng trong một gia đình nền nếp, trọng học vấn và rất mộ đạo – cả đạo Nho và đạo Thiên Chúa. Thời trẻ, Ngô Đình Diệm học rất giỏi (từng được tặng học bổng sang Paris du học, nhưng từ chối), hạnh kiểm rất tốt, cá tính rất độc lập. Khi mới 20 tuổi đã đỗ đầu trong kỳ thi tốt nghiệp về Hành chính công, được làm việc ở thư viện Hoàng Gia, rồi được bổ nhiệm chức tri huyện (đứng đầu hành chính huyện Hương Trà, tình Thừa Thiên).
Ông thăng tiến rất nhanh qua các chức vụ hành chính, đồng thời cũng rất nổi tiếng nhờ năng lực cao, tính cần mẫn và đức liêm khiết.
Năm 1929, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận. Sau đó 4 năm, ông trở thành vị thượng thư trẻ nhất dưới triều vua Bảo Đại.
2. Sau 3 tháng làm thượng thư: Từ đó, nuôi chí chống Pháp
Vua Khải Định mất năm 1925, hoàng tử Vĩnh Thụy lên nối ngôi – tức vua Bảo Đại – nhưng vị hoàng tử 12 tuổi này vẫn sống ở Paris để học tiếp trung học và đại học. Việc triều chính do hoàng gia và 5 vị thượng thư điều hành theo nếp cũ, dưới sự “bảo hộ” (thực chất là chi phối, áp đặt) của thực dân Pháp.
Năm 1932, vua Bảo Đại về nước. Ở tuổi 19, nhà vua muốn thực hiện những cải cách mới, xuất phát từ những điều thu nhận được qua học tập và quan sát được ở châu Âu. Vua ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, trước tiên là cho về hưu đồng loạt tất cả 5 vị thượng thư đương chức – do các vị này không còn thích hợp với thời thế nữa. Đây là tiếng sét làm chấn động dư luận cả nước. Rồi tên tuổi 5 vị thượng thư mới cũng gây một luồng dư luận rất xôn xao: Vì các vị này đều có học vấn tân tiến và có đầu óc cải cách, trong đó Phạm Quỳnh từng ca ngợi thể chế dân chủ của Anh và Nhật (chế độ quân chủ lập hiến); còn vị thượng thư trẻ nhất là Ngô Đình Diệm (32 tuổi) được cụ Phan Bội Châu ca ngợi bằng một bài thơ còn lưu truyền đến nay. Ý đồ sâu kín của nhà vua đã rõ: Ông vẫn làm vua nhưng sẽ ban hành Hiến Pháp.
Cũng dịp trên, ông Ngô Đình Diệm còn được bầu làm Tổng thư ký (đứng đầu) Uy ban Cải cách Hành chính – mục đích là vận động để triều đình có thêm những thực quyền. Ở cương vị này, ông đề nghị chính quyền bảo hộ Pháp chấp nhận 2 điều: a) Thống nhất Trung kỳ và Bắc Kỳ làm một đơn vị hành chính (theo đúng hiệp ước 1884 mà Pháp đã ký với triều đình ta) điều này giúp triều đình có thêm vị thế mới, và b) Cho phép Viện Dân biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận mọi vấn đề, gồm cả chính trị. Do không được phía Pháp chấp nhận, ông liền từ chức thượng thư Bộ Lại, chỉ sau 3 tháng tại chức. Đồng thời, ông trả lại mọi huân, huy chương và các vinh dự đã được tặng thưởng. Khi thấy nhà vua không dám phản kháng, ông đã nói thẳng: Với tình trạnh này, vua nước ta chỉ còn là công cụ của Pháp.
Từ đó, ông bắt đầu vận động chống ách cai trị của thực dân Pháp, có lần bị bắt giam khiến hai người anh phải làm đơn (kể lể công lao) để xin tha cho em. Có thời gian ông ủng hộ Hoàng thân Cường Để (nhân vật được cụ Phan Bội Châu đưa sang Nhật để chuẩn bị thay thế Bảo Đại khi có cơ hội). Khi Nhật thua trận (1945) ông chuyển sang vận động Mỹ ủng hộ phong trào cách mạng chống Pháp và chống Cộng mà ông đang nhen nhóm, gồm cả biện pháp vận động các nhân vật cộng sản (Việt Minh) quay về hàng ngũ quốc gia với ông.
3. Theo mô hình chính trị Mỹ, nhưng…
Thành công lớn nhất của Ngô Đình Diệm là dùng biện pháp trưng cầu ý dân, nhờ vậy, đã phế bỏ được quốc trưởng Bảo Đại (đã nói ở bài trước), để tự mình trở thành tổng thống với bản Hiến Pháp 1956, theo mô hình “cộng hòa tổng thống” (hay “Tổng thống chế”). Đây là bản Hiếp Pháp khác biệt (về chất) với Hiến Pháp 1959 của miền Bắc (coi là hai bản hiến pháp cùng thời).
Cùng dịch từ chữ president, nhưng miền Bắc gọi (rất đúng) là “chủ tịch”) trong khi miền Nam gọi (càng đúng) là “tổng thống”. Té ra, chủ tịch có thể đứng đầu một cuộc họp, một hội thảo, một địa phương (xã, huyện, hau cả nước. Còn tổng thống chỉ có một nghĩa: Đứng đầu cả nước. Sự khác nhau là ở chỗ, chủ tịch chẳng qua do quốc hội (vài trăm đại biểu) bầu ra, chỉ nặng tính biểu tượng, mà ít quyền; còn tổng thống do toàn dân (vài chục triệu) trực tiếp bầu ra, do vậy nắm giữ toàn bộ ngành hành pháp; do vậy, quyền lực rất lớn mà quốc hội không thể bỏ phiếu bãi miễn.
– Hiến Pháp 1959 ở miền Bắc tuy có nhiều yếu tố chưa phù hợp với tiến trình nhân loại bước vào nền văn minh công nghiệp (ví dụ, không chấp nhận quyền tư hữu, không cho phép đa nguyên và phân lập ba quyền) nhưng lại rất thích hợp với tình hình xã hội lúc đó: Đó là: 1) Dân rất tin cụ Hồ và tin đảng Cộng Sản (gương hy sinh của đảng viên trong kháng chiến giành độc lập) và 2) Phù hợp với trình độ dân trí đương thời (tâm lý tiểu nông).
– Cũng vậy, Hiến Pháp 1956 dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm cũng thích hợp với tình hình xã hội (hỗn độn, nhiều phe phái và tôn giáo tranh chấp nhau), cần dẹp yên để tập trung chống Cộng. Chính do vậy, quyền hành của tổng thống vốn đã lớn, càng thêm lớn do Hiến Pháp 1956 cho phép. Và càng lớn do chính tổng thống tự lộng quyền. Theo một tính toán thời đó, cứ 10 đô la (viện trợ của Mỹ) chính quyền của tổng thống Diệm buộc phải dành ra 8 đô la cho việc trị an xã hội, chỉ còn 2 đô la dành cho kinh tế và kiến thiết.
II. TRỞ THÀNH NHÀ ĐỘC TÀI
Trong khi đó, lực lượng “nằm vùng” của đảng Cộng Sản dần dần phát triển, tạo ra nguy cơ bất ổn còn mạnh mẽ hơn, bền vững hơn và lâu dài hơn những xung đột trong nội bộ chế độ. Theo một số nhận định sau này, đây là nguyên nhân chính (bên cạnh các nguyên nhân khác – như gia đình trị, coi công giáo như quốc đạo (trấn áp Phật Giáo), hoặc khăng khăng không cho Mỹ đem quân vào Việt Nam)… khiến tổng thống Diệm nhanh chóng trở thành nhà độc tài.
III . TIÊN PHONG CHỐNG CỘNG
– Năm 1960, phong trào Cộng Sản quốc tế bắt đầu chia rẽ. Liên Xô nhận ra thế yếu của chủ nghĩa Cộng Sản trong cạnh tranh mọi mặt với phe tư bản, do vậy chủ trương chung sống hòa bình, thi đua hòa bình. Ngược lại, Trung Quốc coi đó là dấu hiệu đầu hàng, nên chủ trương đấu tranh liên tục, mạnh mẽ, tới khi chủ nghĩa tư bản sụp đổ.
– Cũng năm 1960, đảng Cộng Sản Việt Nam – rất được dân tin tưởng – đã có Nghị Quyết “giải phóng miền Nam” bằng bạo lực, do vậy ngả về Trung Quốc, rất được Trung Quốc ủng hộ và khuyến khích. Năm 1960, Mặt trận giải phóng miền Nam đã tiến hành đấu tranh vũ trang, lấy bài hát Giải Phóng miền Nam làm quốc ca. Thanh niên miền Bắc sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp thống nhất đất nước, dẫn đầu họ là những chiến binh thiện chiến – sản phẩm của chiến thắng Điện Biên Phủ.
– Nhưng cũng năm 1960, nhân loại bắt đầu nhận thức rõ một chân lý thời đại: Sau khi Tuyên Ngôn Nhân Quyền ra đời, coi tư hữu là quyền con người thì mâu thuẫn sinh-tử giữa hai phe chính là ở đây. Những nước thu hẹp quyền tư hữu (tiến tới xóa bỏ) đều khó phát triển, thậm chí lụn bại, sụp đổ với nền kinh tế tập thể, coi quốc doanh là chủ đạo. Những nước sống sót chính là nhờ nới bớt.
– Nếu ngay từ năm 1960, tổng thống Diệm chấp nhận để Mỹ đưa quân vào miền Nam thì vẫn kịp cứu vãn được tình hình. Việt Nam có thể trở thành hai nước (Nam – Bắc) giống như Hàn Quốc và Triều Tiên hiện nay. Cả hai sẽ cùng được kết nạp vào Liên Hợp Quốc và cùng thi đua hòa bình. Thực tế là thi đua phát huy động lực sản xuất do quyền tư hữu mang lại, hay là làm ngược lại.
Nhưng mọi tư liệu, cả công khai và giải mật – đều cho thấy tổng thống Diệm đã cự tuyệt. Câu nói của ông với các bạn Mỹ cho ta thấy lý do (đại ý): Xin các bạn hiểu cho: Lịch sử hàng ngàn năm của nước Việt chúng tôi chưa bao giờ có chính quyền nào dựa vào quân đội nước ngoài để tồn tại mà được dân chúng coi là chính nghĩa.
Rốt cuộc, tổng thống Ngô Đình Diệm là người chống Cộng, nhưng cô đơn, buộc phải thành độc tài, rồi bị Mỹ loại trừ.
Nhừng Tổng hợp lại, ông Diệm chưa đủ tiêu chuẩn để được bài hát Giải phóng miền Nam xếp vào “bè lũ bán nước”.
Bài này có ý nói là ông Ngô Đình Diệm chống cộng là vì chủ nghĩa cộng sản chủ trương thế giới đại đồng, xóa bỏ biên giới : “Thật khó tưởng tượng khi nước ta và Trung Quốc tiến tới chủ nghĩa cộng sản… Lúc này, 100 triệu dân Việt sẽ chỉ là một dân tộc thiểu số (trong một đại gia đình 1500 triệu dân; mà dân ta chỉ chiếm 1/15), còn ngôn ngữ Việt chỉ là một thứ tiếng địa phương (!)”. Có thật thế không?
Cho tới nay, khi mà ảo tưởng đã chấm dứt, thì chắc ai cũng thấy là thực ra ở VN, TQ hay Nga chủ nghĩa cộng sản chỉ là phương tiện còn chủ nghĩa dân tộc mới là mục đích. Nhất là ở VN thậm chí cuốn Das Kapital cũng không có bản dịch hoàn chỉnh ra tiếng Việt, mà các lãnh tụ cộng sản VN chắc cũng có ai đọc? Các bài viết của Hồ Chí Minh cũng chỉ có khoảng 5% nói về chủ nghĩa cộng sản! Thành ra mục tiêu của Đảng Cộng sản VN là tranh đấu vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước chứ còn chuyện thế giới đại đồng thì hãy đợi đấy! Ngay cả trong kinh điển của chủ nghĩa cộng sản cũng nói là chuyện xóa bỏ biên giới chỉ xảy ra ở giai đoạn cuối, sau khi đã thực hiện được “các tận sở năng và các thụ sở nhu”. Với lại ngay trong thời gian là đồng minh, được TQ giúp đỡ nhiều mà VN cũng đã đề phòng ông bạn này, nên khi họ trở mặt thì cũng không bị bất ngờ.
Vậy vì sao Ngô Đình Diệm chống cộng? Theo tôi thì lịch sử Ngô triều đã chỉ rõ là vì quyền lợi của gia đình, gia tộc ông ta, thứ nữa là muốn Công giáo hóa toàn miền nam.
Chuyện “cụ Hồ năm 1946 đã mời cụ Ngô làm thủ tướng chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” thì cũng chỉ căn cứ vào lời của “cụ Ngô”, không thấy “cụ Hồ” nói gì, cũng không có bên thứ ba độc lập nào xác nhận! Chỉ có chuyện “cụ Hồ” đã cứu mạng “cụ Ngô” thì không ai tranh cãi gì. Nếu chậm tí nữa thì có lẽ “cụ Ngô” đã đi theo bào huynh Ngô Định Khôi rồi chứ chẳng chờ đến ngày 2/11/1963.
Lại thêm chuyện “cụ Hồ” gửi cành đào mừng xuân cho “cụ Ngô” nữa. Có người nói là gửi ông Maneli – trưởng phái bộ kiểm soát đình chiến Ba Lan – vì ông này có thể liên hệ cả 2 bên, khi gửi thì “cụ Hồ” có nhận xét với Maneli là “Ông ấy yêu nước theo cách của ông ấy”.. Nhưng BBC tiếng Việt có bài viết về hồi ký của ông này trong giai đoạn đó thì tuyệt nhiên không đề cập gì đến sự kiện này.
Tóm lại tác giả viết dông dài nhưng rốt lại là ý “cụ Hồ” cùng với “cụ Ngô” cũng sàng sàng như nhau! Nhưng có quá nhiều nghi vấn khiến người ta hoài nghi lập luận này.
ThíchThích
Hay quá bạn. Nghiên cứu lịch sử phải vậy. Góc nhìn trung lập, tôn trọng các bên. Nói và trích dẫn các nguồn đầy đủ. Đừng như bọn học nửa vời. Nghe người ta nói là bắt đầu sửng cồ này nọ và bay vào ăn thua đủ. Cảm ơn bạn đã cho tôi 1 cái nhìn tổng quát về bài viết
ThíchThích
Cám ơn bạn đã đọc bình luận và cho ý kiến!
ThíchThích
Có 1 số ý kiến cho rằng phải thống nhứt các đảng Cộng Sản rùi mới có thể thực hiện được những mục tiêu XHCN. 1 phần vì tính dân tộc, Mác & Lenin nói rõ, sẽ phá hoại chủ nghĩa xã hội, phá hoại sự đoàn kết giữa các đảng Cộng Sản mí nhao
ThíchThích
Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 5b) | Nghiên Cứu Lịch Sử