Nguyễn Vương qua tranh của người Pháp
Trần Thanh Ái
- Cầu viện vua Xiêm
Quốc Sử Quán đã ghi những lần Nguyễn Ánh sai sứ sang Xiêm từ khi giữ chức Đại nguyên soái 1778 đến khi bại trận ở Rạch Gầm – Xoài Mút 1785: lần thứ nhất vào tháng 6 năm Mậu Tuất 1778 Nguyễn Ánh sai cai cơ Lưu Phước Trung sang giao hiếu và liên lạc với Mạc Thiên Tứ và Tôn Thất Xuân, lần thứ hai vào tháng 6 năm Canh Tý 1780 sai cai cơ Tham và Tĩnh sang Xiêm giao hiếu, lần thứ ba vào tháng 8 năm Nhâm Dần 1782 sai Cai cơ Lê Phước Điển, Tham mưu Lê Phước Bình mang hoa vàng hoa bạc sang Xiêm thông hiếu, và lần thứ tư vào mùa Xuân năm Quý Mão 1783 cử Châu Văn Tiếp đi cầu viện sau trận hỏa công thất bại ở Bến Nghé. Cả bốn lần đều diễn ra trong thời gian Nguyễn Ánh đảm trách việc nước, ban đầu với chức Đại nguyên soái (1778) và sau đó ở ngôi vương (1780). Mục đích của đoàn sứ giả đầu tiên là để giao hảo sau khi Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định và mời Mạc Thiên Tứ và Tôn Thất Xuân về nước, nhưng không có kết quả. Còn mục đích của chuyến công cán thứ hai cũng là để giao hảo sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi vương, nhưng kết quả là sứ giả thì bị tống giam, Tôn Thất Xuân cùng cả con cháu Mạc Thiên Tứ và bị hại, tổng cộng 53 người (Quốc Sử Quán 1993, tr. 365). Đến khi tình hình trong nước nguy cấp thì triều đình Nguyễn Ánh vẫn phải cố quên đi thảm kịch ấy để tiếp tục cử sứ thần đi cầu viện vào các năm 1782 và 1783.
3.1. Phái đoàn đi cầu viện Xiêm năm 1782
Khi biết tin Đỗ Thanh Nhơn bị Nguyễn Ánh xử tử (tháng 3 năm Tân Sửu, 1781), quân Tây Sơn như mở cờ trong bụng, vì đó là một mãnh tướng trong nhóm Gia Định Tam hùng. Đúng như dự kiến của các thủ lĩnh quân Tây Sơn, sau khi Đỗ Thanh Nhơn chết, nội bộ quân Nguyễn Ánh chia rẽ, quân Đông Sơn kẻ thì nổi loạn, kẻ khác chạy về hàng ngũ Tây Sơn. Tháng 3 năm Nhâm Dần 1782, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ kéo quân vào Gia Định đánh phá, Đỗ Nhàn Trập là cựu binh của quân Đông Sơn làm phản chạy theo Tây Sơn, khiến đội thủy binh bị tan rã với cái chết của Man Hòe. Nguyễn Ánh phải lui về Giồng Cai Lữ rồi Bến Lức, và “sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng cai cơ Cao Phước Trí mượn đường Chân Lạp sang Xiêm cầu viện”. Nhưng vì triều đình Campuchia cũng đã bị quân Tây Sơn khống chế, nên phái đoàn cầu viện sa vào tay đối phương: “Chân Lạp ngầm giúp Tây Sơn, bèn giết chết bọn Hữu Thụy” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 213). Về chuyến đi này, một nhà truyền giáo người Tây Ban Nha tiết lộ cho chúng ta biết được kết cục đau thương qua ghi chép của ông: trong thư đề ngày 7 tháng 7 năm 1782 cha Castuera viết thư cho linh mục tỉnh dòng ở Manila: “Đoàn sứ giả gồm 150 người đi cầu viện vua Xiêm, đã bị người Campuchia tàn sát toàn bộ” (Pérez L. 1940, tr. 87). Cũng trong lần chạy loạn này, hoàng thái hậu và cung quyến may mắn thoát được mẻ lưới của Tây Sơn, nhờ mưu trí của Bá Đa Lộc, như Quốc Sử Quán ghi: “Năm Nhâm Dần (1782), hoàng thái hậu và cung quyến sang Chân Lạp lánh nạn Tây Sơn, được tin có âm mưu làm phản, Bá Đa Lộc bày kế giúp từ giá và cung quyến chạy thoát về Tam Phụ” (Quốc Sử Quán, 1993, tr. 476).
3.2. Châu Văn Tiếp cầu viện vua Xiêm năm 1783
Quốc Sử Quán ghi vắn tắt về lần cầu viện này như sau: “sau cuộc bại trận ở Bến Nghé [1783], Chu Văn Tiếp chạy sang Xiêm cầu viện. Vua Xiêm bằng lòng, sai Văn Tiếp theo đường núi trở về, mà sai tướng là Thát Xỉ Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, tiếng là sang cứu viện mà ngầm dặn đón vua sang nước họ” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 220).
Vì Châu Văn Tiếp có mật báo cho Nguyễn Ánh nên tháng 2 năm Giáp Thìn 1784 Nguyễn Ánh chấp nhận lên thuyền của Thát Xỉ Đa đi Xiêm: “Vua nhận được biểu rất mừng, bèn đến Long Xuyên họp với tướng Xiêm. Tướng Xiêm cố mời vua sang Xiêm. Vua bất đắc dĩ phải theo lời” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 220).
Bên cạnh ghi chép của Quốc Sử Quán, còn có ghi chép của các nhà truyền giáo liên quan đến việc Nguyễn Ánh trông chờ sự cứu viện của vua Xiêm. Trong thư đề ngày 14 tháng 11 năm 1783 viết từ Sa Đéc gửi ông Descourvières, nhà truyền giáo Langenois cho biết:
“nhà vua do dự giữa việc đi Manila cùng với hai linh mục dòng Phan Sinh và Đức Cha [Bá Đa Lộc], hay là quay trở về kinh đô Huế, vì chưa được quân Đàng Ngoài bảo đảm; mặt khác, vì đang chờ vua Xiêm trả lời việc cầu viện, nên nhà vua đã thoắt hiện thoắt ẩn trong vùng Hà Tiên hai ba lần cùng với những người Mã Lai ở Kampot” (Launay A. 1925, tr. 80).
Đoạn thư trên đây hé lộ cho người đọc những phương án mà có thể Nguyễn Ánh và các cận thần đã cân nhắc: một là đi Manila lánh nạn cùng với hai linh mục dòng Phan Sinh người Tây Ban Nha là Santiago Ginestar và Emmanuel de Castuera và Bá Đa Lộc, hai là trở về kinh đô Huế sau khi được chính quyền Đàng Ngoài cho phép (nếu vậy hóa ra là trước đó đã có liên lạc với Đàng Ngoài chăng?), ba là chờ đợi phản hồi của vua Xiêm về lời cầu viện của Châu Văn Tiếp. Trong số ba phương án đó, phương án thứ ba là ít phiêu lưu nhất và do đó cũng an toàn nhất, vì Nguyễn Ánh có thể nương nhờ vào một số thủ lãnh trong vùng. Người Mã Lai mà Langenois nói ở trong thư có lẽ chính là Vinh Li Ma (Đại Nam Thực lục) hay Vinh Ma Ly (Đại Nam Liệt truyện), người đã chiến đấu trong đội quân của Nguyễn Ánh ở Điệp Thạch/Lũy Thạch [Hòn Chông] vào mùa hạ năm Quý Mão 1783 trước khi cai cơ Lê Phước Điển mặc áo ngự chấp nhận bị bắt để giải vây cho Nguyễn Ánh.

Khu vực người Việt cư trú (7) ở Bangkok từ 1782-1851 (Roy E. V. 2017, tr. 26)
- Kế hoạch cầu viện người Tây Ban Nha
Như đoạn trích dẫn từ thư của Langenois bên trên, đã từng có phương án cầu viện người Tây Ban Nha ở Philippines qua trung gian hai linh mục dòng Phan Sinh. Thế mà Đại Nam thực lục không có chữ nào nhắc đến kế hoạch cầu viện này, còn Đại Nam Liệt truyện có ghi mấy dòng trong phần Truyện các quan 25 như sau:
“…còn tên Gia Đố Bi và Ma Nộ E đều là người nước Y Pha Nho. […] Gia Đố Bi và Ma Nộ E cũng theo Đa Lộc xin gắng sức theo làm việc. Năm Quý Mão [1783], sai vượt biển sang Lã Tống (tên một đảo lớn ở Phi Luật Tân) cầu giúp binh, giữa đường gặp binh thuyền của Tây Sơn, bị giết chết.” (Quốc Sử Quán 1993, tr. 477).
Gia Đố Bi và Ma Nộ E là ai? Hai người Y Pha Nho này có liên quan gì đến Bá Đa Lộc? Nguyễn Ánh gặp họ ở đâu mà vạch ra kế hoạch đi Philippines cầu viện? Đó là những câu hỏi cần phải tìm lời giải đáp để từng bước giải mã kế hoạch cầu viện này.
Tạ Chí Đại Trường cho rằng Quốc Sử Quán đã sai khi kể tên Gia-cô-vi, mà theo ông đó là Jacques Liot, như là một trong hai người được Nguyễn Ánh cử đi Lã Tống:
“Sử quan ghi vắn tắt hai người: Gia-cô-vi và Ma-nộ-ê là dân Hi-ba-nho được lệnh sai đi Lữ tống xin binh giúp vào năm Quý Mùi(1) (1783). Gia-cô-vi(2) (tên thường dùng chỉ Jacques Liot) không có can dự vào vụ này. Hai người sứ của Nguyễn Ánh là L.M. Ginestar và thầy giảng Emmanuel thuộc dòng Phăng-xi-cô” (Tạ Chí Đại Trường 1973, tr. 177).
“Dòng Phăng-xi-cô” mà Tạ Chí Đại Trường nói ở trên chính là dòng tu Phan Sinh (tiếng Pháp viết là franciscains). Đúng là Jacques Liot không có tham gia vào đoàn đi cầu viện Manila, vì lúc ấy ông là hiệu trưởng trường dòng vừa dời đến Chantabun, ông lại là người Pháp, và trực thuộc Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris, nên hoàn toàn không phù hợp để đàm phán với chính quyền Tây Ban Nha ở Philippines, là chỗ dựa của các nhà truyền giáo dòng Phan Sinh. Và cũng đúng là Ginestar và Emmanuel là tên của hai nhà truyền giáo được Nguyễn Ánh cử đi Manila cầu viện, như Ginestar đã tường thuật một năm sau đó trong thư gửi về Manila năm 1784:
“Ngày 19 tháng 3 [năm 1783] chúng tôi nhận được tin là vua mới [Nguyễn Nhạc] đã đánh bại vua cũ [Nguyễn Ánh]. […] Ít lâu sau khi chúng tôi đến hòn đảo này(3), nhà vua cũng đến lánh nạn vì đi cùng đường. Hoàng thượng ở phía Bắc đảo, còn chúng tôi ở phía Tây. Nhà vua thân hành đến thăm vị đại diện tông tòa [Bá Đa Lộc], người mà ông đã rất đỗi tin tưởng. […] Mặc dù thuộc ba quốc tịch khác nhau, nhưng chúng tôi sống chung khá hòa thuận, nhưng khi biết tin quân địch đang đến gần, cha Emmanuel [Castuera] và tôi quyết định đi Manila bằng ghe bầu mà nhà vua phái đi Manila xin viện binh và lương thực cho quân đội đang chết đói” (Pérez L. 1940, tr. 92).
Tuy nhiên, Tạ Chí Đại Trường lại không biết là Gia Đố Bi, hay Gia-cô-vi theo cách đọc của ông, lại là cách phiên chuyển tên riêng Santiago của ông Ginestar sang chữ nôm, nguyên do là vì tài liệu của L. Pérez mà Tạ Chí Đại Trường tham khảo chỉ ghi họ Ginestar mà thôi. Đã thế, tên riêng Jacques của nhà truyền giáo Liot lại được Nguyễn Ánh viết bằng nhiều chữ nôm khác nhau(4) trong thư từ của mình, trong đó có cả Gia-cô-bê và Gia-cô-vi, khiến khi nghiên cứu các thư này Tạ Chí Đại Trường tưởng đâu là Quốc Sử Quán đã nhầm với tên của Jacques Liot(5).
4.1. Tình huống dẫn đến kế hoạch cầu viện Tây Ban Nha
Vậy cơ duyên nào khiến hai nhà truyền giáo Tây Ban Nha này gặp Nguyễn Ánh và sau đó được cử đi Manila cầu viện? Năm 1782, khi Gia Đố Bi, tức Santiago Ginestar mới từ Manila đến giáo xứ Chợ Quán thuộc giáo đoàn Đàng Trong, thì quân Tây Sơn tấn công Sài Gòn, nên ông cùng với Ma-nộ-ê (tức Emmanuel Castuera, đến Chợ Quán năm 1780) tháp tùng cùng đoàn của Bá Đa Lộc chạy nạn sang Campuchia. Tháng 10, khi tình hình đã tạm yên, cả đoàn không về lại Sài Gòn, mà xuôi dòng sông Hậu và dừng chân ở giáo xứ Mặc Bắc (nay thuộc Trà Vinh), nằm cách cảng Bãi Xào không xa để tạm thời đặt chủng viện. Địa điểm này rất thuận lợi cho đường ra biển nên được chọn, vì Bá Đa Lộc nhận thấy rằng chiến tranh sẽ còn ác liệt hơn, trong khi đất Campuchia không còn có thể ẩn náo được nữa. Sau khi tổ chức lễ Các Thánh (1 tháng 11 năm 1782) xong, Bá Đa Lộc phân công nhiệm vụ cho các linh mục, còn ông thì đi gặp nhà vua với mục đích mà ông cho biết là “để thăm viếng nhà vua và làm phép cho các con chiên trong triều đình”. Bá Đa Lộc dự định cho đoàn ở lại Mặc Bắc cho đến lễ Phục Sinh (khoảng tháng 4). Nhưng tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại kéo quân vào Gia Định, và Nguyễn Ánh lại phải lui về Ba Giồng cùng với một nhúm quân chưa đầy trăm người. Ngày 20 tháng 3 năm 1783, đoàn xa giá của Nguyễn Ánh chạy ngang qua Mặc Bắc khiến Bá Đa Lộc phải cho đoàn đi ngay lập tức, để tránh đoàn quân Tây Sơn đang truy đuổi. Ông quyết định đi ra một hòn đảo thật xa đất liền(6) để lánh nạn (Launay A. 1925, tr. 78). Về việc này, Sử Ký Đại Nam Việt Quấc triều cung cấp cho chúng ta vài chi tiết bổ sung cho tình huống này:
“Đức-Thầy đã đi qua làng Tây-Nhâm(7) và đam [đem] các học trò theo mình. Khi ấy có hai thầy cả về dòng ông thánh Phan-xi-cô, là thầy Gia-cô-bê và thầy Ma-no-e, khi trước theo Đức-Thầy sang gò Phú-quấc [đảo Phú Quốc], sau lại ở làng Tây-Nhâm mà coi sóc bổn đạo. Hai ông ấy thì rất có lòng sốt sắng đạo đức và khôn ngoan. Vậy bởi hai ông ấy là người nước Hi-xi-pha-nha [Tây Ban Nha], thì vua xin chịu khó lấy tên mình mà đi sứ sang bên Ma-ni-la xin quan Quận công cai thành ấy thay mặt vua Hi-xi-pha-nha sai tàu cùng nhiều binh sĩ đến cứu giúp mình” (Khuyết danh 1885, tr. 39-40).
Còn những người trong cuộc nói gì? Bản tường trình của Bá Đa Lộc viết từ Bangkok đề ngày 5 tháng 12 năm 1783 cung cấp thêm thông tin bổ sung như sau:
“Hai nhà tu hành này vì bệnh tật và đang phải rời xa giáo xứ, nên rất sợ phải đi Xiêm; họ thường nói là đối với họ đi công cán ở Manille còn dễ hơn là phải đi Xiêm, nơi mà người ta bắt giam tất cả người xứ Đàng Trong. Kết cục là, vì vua Đàng Trong lúc ấy đang ở trên cùng một hòn đảo với chúng tôi, cách khoảng một ngày rưỡi đường, ông cũng đang nghĩ đến việc cử người đi Manila xin cầu viện, hai linh mục dòng Phan Sinh bèn quyết định lợi dụng cơ hội này để trở về tu viện của họ” (Launay A. 1925, tr. 79).
Emmanuel Castuera là một trong hai nhà truyền giáo Tây Ban Nha nói trên cho biết thêm thông tin về việc được cử đi Philippines như sau trong thư đề ngày 14 tháng 7 năm 1784 viết cho cha tỉnh dòng ở Manila:
“Nhà vua đến tìm chúng tôi ít lâu sau khi ông đến đảo và xin ngài giám mục vui lòng giúp ông thu phục lại vương triều đang trong cơn nguy nan. Đức Cha [Bá Đa Lộc] hỏi ý kiến chúng tôi xem Manila có thể giúp được gì không. Chúng tôi trả lời là không, vì Manila không có lực lượng quân sự nào. Mặc dầu vậy, theo lời nài nỉ của nhà vua, ông quyết định cử một trong hai chúng tôi đi Manila, cùng với một sứ thần của nhà vua, để xin cầu viện, hoặc ít ra là để tìm một chỗ để nhà vua nương náu, cho đến khi nhà vua Tây Ban Nha nhận được tin báo là ông đã đến lãnh địa của ngài” (Pérez L., 1940, tr. 92).
4.2. Về tình huống bị bắt
Ngay sau đó, Bá Đa Lộc nhận được tin họ bị bắt. Trong thư viết từ Bangkok đề ngày 5 tháng 12 năm 1783, ông cho biết như sau:
“Họ đến nơi [chỗ Nguyễn Ánh ở] an toàn; nhưng vì thuyền của nhà vua chuẩn bị đi Manila chưa sẳn sàng nên hai linh mục buộc phải quay về, và trên đường trở lại, họ rơi vào tay của quân nổi loạn và bị đưa về Hà Tiên. Năm người Đàng Trong trong đoàn của hai linh mục và bảy người khác do tôi cử đi theo làm nhiệm vụ chèo thuyền, tất cả đều nhảy xuống biển và về báo cho tôi biết tin xấu này.” (Launay 1925, tr. 79).
Trong thời gian này, nhiều thông tin có nhiều chi tiết bổ sung cho nhau được lan truyền trong giới truyền giáo: ngày 14 tháng 11 năm 1783 Langenois viết một bức thư gửi Descourvières, có đoạn:
“Hai linh mục dòng Phan Sinh không hề hay biết gì, lúc ấy đang ở trên đảo Phú Quốc, và biệt lập trên con thuyền lớn của chủng viện, đang sẳn sàng lên đường đi Hà Tiên và từ đó sẽ đi Manila, thì một thuyền địch trong số tám chiếc được cử đi thám thính, mà họ tưởng là thuyền của vua, lao về phía họ vào chiều ngày 12 tháng 7. Tất cả bọn tùy tùng đều nhảy xuống biển. Quân địch trói hai linh mục lại và lột sạch, từ quần áo đến đồ tế lễ, sách vở, bình rượu thánh, và 260 đô la Tây Ban Nha…. Trừ một thùng sách khác, trong đó có bình rượu lễ thứ tám, bốn tượng và một ảnh Đức Bà mà họ trả lại” (Launay A. 1925, tr. 80).
Có lẽ ngay sau tình huống này thì Nguyễn Ánh bị thống suất Tây Sơn là Phan Tiến Thận bao vây ở hòn Điệp Thạch thuộc Phú Quốc, khiến cai cơ Lê Phước Điển xin mặc áo ngự lâm trận để giải cứu Nguyễn Ánh (tháng 6 năm Quý Mão).
4.3. Kết cục của hai nhà truyền giáo
Như đã trích dẫn bên trên, Quốc Sử Quán ghi là hai nhà truyền giáo Tây Ban Nha bị quân Tây Sơn bắt và giết chết sau khi lên đường. Chúng ta nhận ra ngay là thông tin đó không đúng, vì năm sau (1784), hai ông vẫn còn viết thư từ gửi về Philippines sau đó, như hai thư vừa trích dẫn.
Mấy tháng sau vụ bắt bớ, khi đến Bangkok, tình cờ Bá Đa Lộc gặp sứ thần của Tây Sơn ở đó; họ bảo đảm với ông là hai nhà truyền giáo ấy chỉ bị bắt thôi, chứ không có gì nguy hiểm đến tính mạng, cũng như chỉ bị mất hết tiền bạc, còn các dụng cụ cúng tế và sách vở thì vẫn còn nguyên (Launay A. 1925, tr. 80).
Một bằng chứng khác: trong một thông báo công bố tại Sài Gòn vào tháng 12 năm 1783, người chỉ huy phong trào Tây Sơn ở đó cho biết: “Sau khi bắt được hai thầy tu, chúng tôi đã dẫn họ về đây [Sài Gòn] để điều tra, nhưng sau khi xem xét kỹ mọi chuyện, và không tìm thấy chút nghi ngờ nào về nổi loạn, chúng tôi tuyên bố họ được tha bổng” (Nouvelles des Missions Orientales… 1787, tr. 51). Những tài liệu khác xuất bản sau đó cho chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời của hai nhà truyền giáo này. “Manuel Castuera sinh ngày 26 tháng 12 năm 1752 tại tỉnh San Gabriel, sang Philippines năm 1779, đến xứ Đàng Trong năm 1780, từ trần tại đó vào ngày 12 tháng 2 năm 1790. Năm 1785, ông có viết quyển Historia de la persecucion y guerras de Cochinchina”. Về Santiago Ginestar, ông “sinh ngày 16 tháng 2 năm 1752 tại Valencia, được cử đi Đàng Trong năm 1782, trở về Manila năm 1796…, mất ngày 22 tháng 11 năm 1809. Năm 1784 viết quyển La historia de las guerras de Cochinchina y Camboja”(8) (Platero E. G. 1880, tr. 561-562).
- Tiếp tục cầu viện Bồ Đào Nha
Năm 1836, nhà ngoại giao Thụy Điển A. Ljungstedt thường trú tại Macao xuất bản một quyển sách trong đó ông ghi khá cụ thể:
“Trong thư đề ngày 18 tháng 12 năm 1786, nhà vua [Đàng Trong] đã khẩn khoản xin toàn quyền thành Goa gửi cho ông 30 thuyền chiến, 10.000 binh lính chưa kể thủy thủ đoàn, và lương thực dùng trong một năm; cùng với 10.000 súng hỏa mai và 10.000 khiên mộc cho binh sĩ. Đổi lại, nhà vua sẽ đối xử với người Bồ Đào Nha như là quốc gia được ưu đãi nhất, hoặc hơn thế nữa, với tư cách là thần dân. Họ sẽ sở hữu một dải đất với toàn quyền tự do xây pháo lũy và có quyền treo cờ quốc gia mình” (Ljungstedt A. 1836, tr. 128).
Hình như đây là tài liệu công bố sớm sủa duy nhất cho biết Nguyễn Ánh có viết bức thư đề ngày 18 tháng 12 năm 1786 đặt vấn đề cầu viện toàn quyền Bồ Đào Nha(9). Ljungstedt còn cung cấp thêm nhiều chi tiết: A. V. Rosa, mà Quốc Sử Quán gọi là Ăng Tôn Nui, về đến Goa năm 1787 cùng với một bộ trưởng của vua Đàng Trong và một viên tướng với 60 lính hầu. Dự thảo được trình cho viên toàn quyền Francis da Cunha e Meneyes xem xét, nhưng không thấy nói về các cam kết và các điều khoản quy định về lực lượng cứu viện. Sau đó, sứ thần Đàng Trong rời Goa, và A. V. Rosa được Nguyễn Ánh ban thưởng phẩm hàm đại thần danh dự. Ljungstedt nói thêm, trong những bữa tiệc khoản đãi các thần dân Bồ Đào Nha quan trọng và khách quý nước ngoài ở Macao nhân ngày sinh của Vua hay Hoàng hậu, người ta còn thấy A. V. Rosa mặc áo phẩm triều có thêu những huy hiệu tương ứng với phẩm hàm của ông ta (Ljungstedt A. 1836, tr. 129). Được biết vào thời điểm ấy tác giả không có mặt ở Macao, vậy ông lấy thông tin từ đâu để viết ra những chi tiết này?
Điều đáng ngạc nhiên là chỉ mấy tháng trước khi viết bức thư cầu viện đó, trong một thư(10) gửi cho viên chỉ huy hạm đội Pháp ở vùng Đông Ấn và toàn quyền Pondichéry, Nguyễn Ánh cho biết là có tàu đến từ Goa đến rước ông, có mang theo thư của hoàng hậu Bồ Đào Nha và toàn quyền Goa, nhưng ông đã thẳng thừng từ chối, vì “chỉ muốn kết nối tình hữu hảo với người Pháp, chớ không với nước nào khác” (Cordier H. 1906, tr. 89).
Tuy nhiên, trong bản tường trình của Paul Nghị hé lộ chi tiết vào cuối năm 1786, khi mòn mỏi chờ tàu Pháp của Richery đến rước, Nguyễn Ánh có viết một bức thư gửi người Bồ Đào Nha, nhưng Paul Nghị không biết nội dung trong thư (Cordier H. 1906, tr. 630). Được biết, Richery đưa Paul Nghị trên con tàu Le Castries từ Pondichéry về đến đảo Thổ Châu ngày 1 tháng 9 năm 1786, hẹn đầu tháng 12 sẽ trở lại đón Nguyễn Ánh. Nhưng ngày hẹn đã trôi qua mà Richery thì biền biệt nên Nguyễn Ánh đã đồng ý tiếp kiến phái viên Bồ Đào Nha, và trao cho ông ta một bức thư gửi toàn quyền Goa như vừa nói. Bức thư này hiện đang ở đâu? Làm sao nhà ngoại giao A. Ljungstedt biết được nội dung thư? Đây là tài liệu hiếm hoi tiết lộ một phần nội dung xin cầu viện của Nguyễn Ánh. Trong một diễn biến khác, trong thư gửi bá tước Conway đề ngày 14 tháng 6 năm 1788, Bá Đa Lộc có thông báo cho ông ta biết là phái viên Bồ Đào Nha được cử đi Xiêm năm 1786 khi trở về Goa đã mang theo hai sứ thần của vua Đàng Trong xin cầu viện, và đã phải dừng chân ở Macao đợi mùa gió thuận (Cordier H. 1906, tr. 117). Thông tin này được chính hai sứ thần của Nguyễn Ánh báo cho Bá Đa Lộc biết, nên việc Nguyễn Ánh cầu viện Bồ Đào Nha là hoàn toàn có thật.
Mặt khác, trong một bức thư viết bằng chữ nôm gửi Jacques Liot đề ngày 1 tháng 2 năm Cảnh Hưng 48 (nhằm ngày 19 tháng 3 năm 1787), Nguyễn Ánh có nhắc lại việc ông đã cử Khiêm Hòa Hầu và Thiệm Mẫn Hầu đến gặp Jacques Liot để giải thích cặn kẽ lý do ông gửi sứ giả Đàng Trong đi Goa (Cadière L. 1926, tr. 39).
![]() |
![]() |
| Thư chữ nôm Nguyễn Ánh viết gửi Jacques Liot ngày 1 tháng 2 Cảnh Hưng 48 (19/3/1787) | Phần đầu bức thư Nguyễn Ánh gửi J. Liot: bản tiếng Pháp của L. Cadière sang (trên) và bản chữ quốc ngữ của Tạ Chí Đại Trường (dưới) |
Mãi sau này, năm 1925, A. Launay cho xuất bản thư từ và nhật ký của các nhà truyền giáo trong vùng, người ta mới có thêm nhiều thông tin khác: trong nhật ký viết năm 1786, nhà truyền giáo Letondal ở Macao có nói đến việc phái đoàn xứ Đàng Trong đi tàu của Antonio Vincenti Rosa dừng chân ở Macao:
“Trong số các tàu thuyền đến đây [Macao], có một chiếc trước đó đã dừng chân ở Xiêm để tìm vua Đàng Trong. Viên thuyền trưởng tên là Antonio Vincenti Rosa, ông mang đến hai viên quan triều đình Đàng Trong, một người thì không xứng lắm với phẩm hàm này, còn người kia thì được xem như là vua hay anh/em của vua, mặc dù vua không có anh em nào, và như là quan đầu triều của vua Đàng Trong, quan đặc mệnh toàn quyền” (Launay A. 1925, tr. 156).
Letondal cung cấp thêm nhiều chi tiết xung quanh mối quan hệ giữa người Bồ Đào Nha và hai vị quan này với ý nghi ngờ về tính thực tế của kế hoạch liên kết:
“Hai vị quan này cùng với 17-18 lính hầu […] được bố trí cho ở trong thành, để người ngoại quốc không trông thấy họ, hoặc để họ được an toàn hơn, vì mặc dù người ta đồn thổi về những điều khoản hào phóng của vua Đàng Trong đối với người Bồ Đào Nha, mà tôi sẽ trình bày sau đây y như những gì họ phô trương, mặc dù vậy vẫn có chỗ để nghi ngờ về tính thực tế của những điều khoản ấy, và cả về việc thực hiện chúng (Launay A. 1925, tr. 157).
Letondal ghi được một phần của dự thảo hiệp ước giữa Bồ Đào Nha và Đàng Trong, nhưng không cho biết ông đã lấy tài liệu từ đâu. Trong dự thảo này có một số điều khoản đáng lưu ý như sau:
“1° Vua xứ Đàng Trong hàng năm sẽ trả 10.000 đô la Tây Ban Nha(11) cho đến mãi mãi cho vua xứ Goa(12) và cũng bấy nhiêu tiền cho Đức Vua Bồ Đào Nha để tỏ lòng biết ơn, và để bù đắp công lao mà người Bồ Đào Nha đã bỏ ra để giúp vua Đàng Trong lấy lại ngai vàng.
2° Hoàng thượng xứ Đàng Trong sẽ cho tự do truyền đạo Thiên Chúa trên toàn lãnh thổ của ngài, và cho xây cất nhà thờ ở mọi nơi cần thiết.
3° Hàng năm, Hoàng thượng sẽ cung cấp cho người Bồ Đào Nha một lượng gỗ đủ để đóng mới hai con tàu. […]
5° Nhà vua xứ Đàng Trong trao cho Bồ Đào Nha nhiều cảng, và trong những cảng này họ sẽ xây thành lũy, nhà vua cho họ quyền buôn bán, cống nạp, v.v. với tất cả các nước châu Âu, để thần dân Bồ Đào Nha có thể buôn bán với những cường quốc này; ông chỉ dành quyền buôn bán với người Trung Hoa cho thần dân của ông […]” (Launay A. 1925, tr. 157-158).
Letondal không có ghi nhận nào về cam kết từ phía Bồ Đào Nha, cũng như lực lượng chi viện cho Đàng Trong như thế nào. Tuy nhiên, theo quan sát của Richery trong thư gửi Cossigny ngày 11 tháng 12 năm 1786: “Qua mọi nguồn tin ai ai cũng đều có cùng ý kiến cho rằng người Bồ Đào Nha đang dự định hay đang chuẩn bị tàu bè để đi Đàng Trong. Tôi chỉ được biết sự thật từ những báo cáo này khi đi đến một cảng của người Bồ Đào Nha” (Cordier H. 1906, tr. 589).
Cũng cần nhắc thêm là trong vụ này Quốc Sử Quán chỉ nói về việc tháng giêng năm Đinh mùi [1787], Ăng Tôn Nui nước Bút Tu Kê đến Vọng Các đưa quốc thư và xin đón vua đi Goa theo lời cầu viện của hoàng cả Cảnh, nhưng vì thấy vua Xiêm không bằng lòng, Nguyễn Ánh đành “bảo kín Ăng Tôn Nui hãy về” (Quốc Sử Quán 2002, tr. 227).
- Cầu viện Hà Lan
Từ những thông tin từ nguồn thứ cấp về việc Nguyễn Ánh cầu viện Hà Lan đã được giới thiệu trong phần đầu bài viết, chúng tôi vẫn không tìm ra bằng chứng nào cho thấy Nguyễn Ánh đã gửi sứ giả đi cầu viện Hà Lan, hoặc Hà Lan đã từng cung cấp phương tiện cần thiết cho Nguyễn Ánh để lấy lại ngai vàng. Tuy nhiên, có một dấu vết khá mờ nhạt hiện ra: trong dự thảo hiệp ước giữa Bồ Đào Nha mà Letondal đã ghi vào nhật ký năm 1786 của mình có một chi tiết khá bất ngờ. Đó là việc trong điều khoản số 8o liên quan đến việc cho phép một đại sứ Bồ Đào Nha bên cạnh triều đình Đàng Trong, lại có một thông tin được chèn vào một cách bất thường liên quan đến hành trạng của Nguyễn Ánh sau khi viện binh Xiêm bị đánh bại vào đầu năm 1785: “Hoàng thượng Bồ Đào Nha sẽ có một đại sứ bên cạnh triều đình của vua Đàng Trong, sau khi bị người Xiêm lừa gạt, và vì không còn gì để bám víu, ngài đã quyết định đi Batavia hay Malacca để xin cầu viện người Hà Lan, mà trước đây họ đã từng giúp đỡ ông” (Launay A. 1925, tr. 158).
Mặc dù xuất hiện trong một ngữ cảnh khá bất thường, nhưng thông tin trên rất nhanh nhạy, vì nó được ghi nhận ngay sau khi Nguyễn Ánh cử sứ thần đi Goa xin cầu viện. Tuy không giúp người đọc vén được bức màn bí mật về quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Hà Lan trong giai đoạn này, nhưng nó khiến cho người đọc càng quan tâm đến những thông tin từ nguồn thứ cấp đã nói trên đây, và tin rằng có thể một lúc nào đó các nhà nghiên cứu sẽ cung cấp thêm nhiều dữ liệu hiện còn nằm im trong một kho tư liệu nào đó trên thế giới.
Kết luận
Trên đây là một bảng tổng kết không đầy đủ về những nỗ lực cầu viện nước ngoài của Nguyễn Ánh để khôi phục ngai vàng. Mặc dù không hoàn chỉnh, nhưng bảng tổng kết này cũng quá đủ cho những ai dùng nhãn quan đời thường để kết tội Nguyễn Ánh “bán nước”, “cõng rắn cắn gà nhà”, hay “rước voi về giày mả tổ”. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là có thể dễ dãi chấp nhận cách lấy công chuộc tội sau khi đã cân phân giữa công và tội như không ít nhà nghiên cứu đã làm kể từ hội nghị về Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được tổ chức ở Thanh Hóa tháng 10 năm 2008 đến giờ. Để những chương đau buồn của lịch sử ít lặp lại, cần phải xác định nghiêm túc, khách quan và chính xác những bài học xương máu mà cha ông chúng ta đã trải qua, và vun đắp ngay từ bây giờ những điều kiện cơ bản giúp cho thế hệ mai sau tránh càng xa càng tốt những sai lầm trong quá khứ. Trong chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ cố gắng áp dụng cách tiếp cận mà chúng tôi đã nói sơ qua trong phần mở đầu của bài viết này để phân tích vấn đề trong những bài viết sắp tới.
(Bà đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay, số tháng 5 năm 2025)
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
Cadière L. 1926. Nguyễn Ánh et la Mission, Documents inédits. Tạp chí Bulletin des Amis du Vieux Hué, số tháng Janvier-Mars 1926.
Cordier H. 1906. La correspondance générale de la Cochinchine (1785-1791). Tạp chí T’oung Pao, Vol. VII No 5.
Khuyết danh, 1885. Sử ký Đại Nam Việt Quấc triều. Sài Gòn: Imprimerie de la Mission.
Launay A. 1925. Histoire de la mission de Cochinchine, Vol. III. Paris: Librairie Orientale et Américaine, Maisonneuve Frères Editeurs.
Ljungstedt A. 1836. An Historical Sketch of the Portuguese Settlements in China. Boston: James Munroe & Co.
Nouvelles des missions orientales, reçues au Séminaire des missions étrangères, à Paris, en 1785 & 1786, Phần 1, 1787. Amsterdam.
Pérez L. 1940. La révolte et la guerre de Tây-Sơn d’après les franciscains espagnols de Cochinchine. Tạp chí Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, số XV, 1940.
Phan Huy Lê, 2008. Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX. Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số 11 năm 2008.
Platero E. G. 1880. Catálogo biográfico de los religiosos Franciscanos de la provincia de San Gregorio Magno de Filipinas. Manila: Imprenta del Real Colegio de Santo Tomás.
Quốc Sử Quán, 1993. Đại Nam Chính biên Liệt truyện sơ tập (quyển đầu – quyển 33). Huế: Nxb Thuận Hóa.
Quốc Sử Quán, 2002. Đại Nam Thực lục, tập 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Roy E. V. 2017. Siamese Melting Pot: Ethnic Minorities in the Making of Bangkok.
Singapore: ISEAS – Yusof Ishak Institute.
Tạ Chí Đại Trường 1968. Những bức thư chữ nôm của Nguyễn Ánh do giáo sĩ Cadière sưu tập. Tập san Sử Địa, số 11. Sài Gòn: Nhà sách Khai Trí.
Tạ Chí Đại Trường 1973. Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802. Sài Gòn: Nxb Văn Sử học.
(1) Tạ Chí Đại Trường ghi sai: Năm 1783 là năm Quý Mão.
(2) Tạ Chí Đại Trường nhầm khi viết: “Liot có tên trong Liệt truyện (quyển 28 Bá Đa Lộc), tuy Liệt truyện lẫn với LM Ginestar” (1973, tr. 123). Thật ra, Liệt truyện không hề nhắc đến Jacques Liot, mặc dù ông là người trao đổi thư từ thường xuyên với Nguyễn Ánh từ năm 1783 đến 1789, mà chỉ nhắc đến Santiago Ginestar và Emmanuel de Castuera, là hai người Tây Ban Nha được cử đi Manila cầu viện. Vì cách phiên chuyển tên châu Âu sang chữ Nôm của Santiago Ginestar và Jacques Liot rất gần với nhau nên Tạ Chí Đại Trường nhầm lẫn giữa hai người.
(3) Dịch giả M. Villa ghi chú đó là đảo Phú Quốc.
(4) Trong khoảng thời gian từ ngày 22 tháng mười một năm Cảnh Hưng 44 (nhằm ngày 15 tháng 12 năm 1783) đến ngày 24 tháng 12 năm Cảnh Hưng 49 (nhằm ngày 19 tháng 1 năm 1789), Nguyễn Ánh đã gửi nhiều thư bằng chữ nôm cho Jacques Liot. L. Cadière (1926, tr. 15) đã ghi nhận rằng Nguyễn Ánh viết tên của nhà truyền giáo này bằng nhiều ký tự khác nhau, dựa vào tên riêng (Jacques), hay họ của ông (Liot), tùy theo bối cảnh giao tiếp:
– dựa vào tên riêng Jacques: khi thì viết là 嘉姑陂 (Gia-cô-bê), khi thì lại viết là 加陂沙 (Gia-bê-sa), hay 嘉姑陂, hay 牙姑陂 (Nha-cô-bê), hay 雅歌伯 (Nhã-ca-bá), hay 嘉姑爲 (Gia-cô-vi).
– dựa vào họ (Liot): 離温 (Li-ổn).
(5) Trong tiểu luận “Những bức thư chữ nôm của Nguyễn Ánh do giáo sĩ Cadière sưu tập” được in trong tập san Sử Địa số 11 năm 1968, Tạ Chí Đại Trường đã giới thiệu và dịch các bức thư của Nguyễn Ánh viết bằng chữ nôm nói trên.
(6) Trong các thư viết từ Bangkok đề ngày 5 tháng 12 năm 1783 và từ Pondichéry đề ngày 20 tháng 3 năm 1785, Bá Đa Lộc không nói rõ đảo nào, nhưng trong thư đề ngày 14 tháng 11 năm 1783, Langenois nói đó là đảo Coal (Launay A. 1925, tr. 80), là tên mà người châu Âu thường dùng để gọi đảo Phú Quốc.
(7) Chúng tôi chưa tìm ra tên gọi hiện nay của địa điểm này.
(8) Chúng tôi đã để công tìm kiếm hai quyển sách này của hai nhà tu dòng Phan Sinh, nhưng chưa có kết quả. Quyển Estado Geográfico, Topográfico, Estadístico, Histórico-religioso, de la Santa y Apostólica Provincial de S. Gregorio Magno của tác giả F. Huerta xuất bản năm 1865 tại Binondo (Philippines) được nhiều tài liệu khác trích dẫn khi nói về hai công trình do Manuel Castuera và Santiago Ginestar viết về Đàng Trong, nhưng cũng không cho biết là hai công trình này đã in hay chỉ còn ở dạng bản thảo viết tay, và nếu chỉ là bản thảo thì hiện nay đang được lưu trữ ở đâu. Hy vọng thời gian sẽ giúp làm sáng tỏ hơn, để độc giả Việt Nam có thêm nguồn tư liệu tham khảo mới.
(9) Trong số các tác giả hiện đại, hình như chỉ có F. Mantienne nói đến thư này trong quyển Monseigneur Pigneau de Béhaine (1999). Vì chưa có sách này trong tay, nên chúng tôi chưa biết tác giả lấy thông tin từ đâu.
(10) Thư không đề ngày, nhưng trong thư có một số chi tiết giúp người đọc có thể suy luận ra ngày tháng biên thư: “vào tháng 10 năm nay, trẫm nhận được một thư báo cho biết mọi chuyện [về hoàng tử Cảnh ở Pondichéry). Trẫm rất vui”. Đó chính là thư mà linh mục Paul Nghị đã gửi cho Nguyễn Ánh khi được Richery đưa từ Pondichéry về đến đảo Thổ Châu vào ngày 1 tháng 9 năm 1786. Và như vậy, thư không đề ngày nói trên được viết sau tháng 10 năm 1786.
(11) Nguyên văn: piastre.
(12) Ý muốn nói là toàn quyền xứ Goa, thuộc địa của Bồ Đào Nha trên đất Ấn Độ.

