Những ngày cuối cùng của Hitler (Bài 6)

Bill O’Reilly

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 15

WASHINGTON, D.C. NGÀY 20 THÁNG 1 NĂM 1945

ĐÂY LÀ LỄ NHẬM  CHỨC LẦN THỨ TƯ chưa từng có tiền lệ của Franklin Delano Roosevelt. Chiến tranh không còn xa lạ với bất kỳ người Mỹ nào ngay cả vào ngày này.

Những thương binh – nhiều người phải chống nạng – nằm trong số 8.000 khách mời lặn lội qua thời tiết khắc nghiệt để chứng kiến ​​lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ của Franklin Delano Roosevelt. Đây sẽ là bài phát biểu nhậm chức đầu tiên trong thời chiến kể từ khi Abraham Lincoln phát biểu cách đây tám mươi năm vào năm 1865. Ngoài ra, đây là lễ nhậm chức đầu tiên được tổ chức tại Nhà Trắng, tại sân sau của tổng thống, hay còn gọi là bãi cỏ phía nam.  Cuối cùng, đây là lần đầu tiên và duy nhất một tổng thống Hoa Kỳ tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ thứ tư.

Cách đó bốn nghìn dặm, Tướng George S. Patton không chú ý lắm đến lễ nhậm chức. Patton đánh giá cao Roosevelt. và tổng thống trìu mến gọi ông là “kỵ binh già” và là “vị tướng chiến đấu vĩ đại nhất của chúng ta, một con người đáng trân trọng”- nhưng Patton đang bận chỉ đạo dọn sạch chiến trường Luxembourg và Bỉ và giải quyết các vấn đề chính sách quân sự.

Vào ngày 10 tháng 2, Dwight Eisenhower sẽ một lần nữa.ra lệnh cho Patton và Quân đoàn số 3 của ông dừng tiến về phía đông và chuyển sang thế phòng thủ.

Tướng Eisenhower (thứ hai từ trái sang) ở Bastogne với các Tướng Bradley và Patton. Người ở phía bên trái là Trung sĩ Jules Grad, một phóng viên của Quân đội.

Cùng lúc đó, Ike chọn Thống chế Anh Bernard Montgomery chỉ huy lực lượng xâm chiếm chính của Đồng minh để vượt qua Sông Rhine có vị trí chiến lược quan trọng.  Trải dài tám trăm dặm dọc theo chiều dài của nước Đức từ Biển Bắc đến Thụy Sĩ, sông Rhine là chướng ngại vật lớn cuối cùng giữa quân Đồng minh và vùng trung tâm của nước Đức. Bằng cách chọn Montgomery thay vì Patton, Eisenhower gần như tin chắc rằng vị chỉ huy Anh sẽ nhận lấy vinh quang khi là vị tướng đầu tiên trong số Đồng minh phương Tây đến được Berlin.

Giống như thể thành tích to lớn của Patton tại Bastogne chưa bao giờ xảy ra.

“Có vẻ hơi buồn cười, mặc dù không vui chút nào, khi nhận xét rằng Tướng Eisenhower không hề đề cập đến cuộc tấn công Bastogne,” ông viết về các cuộc thảo luận gần đây nhất của mình với Eisenhower. Sau đó, khi đề cập đến cuộc họp khẩn cấp ở Verdun đã xoay chuyển cục diện của Trận chiến Bulge, ông nói thêm, “Mặc dù đây là lần đầu tiên tôi gặp ông ấy kể từ ngày 19 tháng 12 – khi ông ấy có vẻ rất vui vì có tôi ở thời điểm quan trọng.”

 Vào cuối cuộc chiến, Thống chế Montgomery chỉ vào bản đồ tóm tắt cho các sĩ quan liên lạc của mình tại sở chỉ huy của ông ở Đức, tháng 4 năm 1945.

Điều thậm chí còn khó chịu hơn, không chỉ đối với Patton mà còn đối với những binh lính Mỹ, là Montgomery đã công khai nhận công lao về chiến thắng của Đồng minh tại Trận Bulge. Monty khẳng định rằng chính lực lượng Anh của ông thuộc Quân đoàn số 21, chứ không phải lực lượng Mỹ, đã ngăn chặn được bước tiến của Đức.

“Ngay khi tôi nhìn thấy những gì đang xảy ra,” Montgomery tuyên bố tại một cuộc họp báo ngày 7 tháng 1, “tôi đã thực hiện các bước để đảm bảo rằng quân Đức sẽ không bao giờ vượt qua được Meuse. Tôi đã thực hiện một số động thái nhất định để đối phó với mối nguy hiểm đang đe dọa. Tôi đã huy động toàn bộ sức mạnh của nhóm quân đội Anh.”

 Những bình luận gây sốc của Montgomery trong cuộc họp báo đã gây tổn hại đáng kể đến quan hệ Anh-Mỹ. Đối với Patton, thật vô lý khi Montgomery được khen thưởng vì hành vi lừa dối như vậy. 

Nhưng đó chính xác là những gì Eisenhower làm.

Mặc dù có đến bốn lính Mỹ phục vụ dọc theo mặt trận Đức cho mỗi một lính Anh, Eisenhower đã khuất phục trước áp lực từ Winston Churchill khi chọn Monty chỉ huy cuộc tấn công chính qua sông Rhine. Lý do là chính trị, nhưng cũng do thực tế. Khu vực công nghiệp quan trọng Ruhr nằm ở phía bắc nước Đức, thuộc phạm vi của quân đội Montgomery. Về mặt lý thuyết, Monty có khả năng nhanh chóng phá hủy nguồn sống của cỗ máy chiến tranh Đức.

Tuy nhiên, quyết định này khiến George S. Patton vô cùng tức tối.

CHƯƠNG 16

AUSCHWITZ-BIRKENAU OSWIECIM, BA LAN *

NGÀY 26 THÁNG 1 NĂM 1945

QUÂN ĐỘI LIÊN XÔ ĐÃ BỎ QUA các tuyến phòng thủ của Đức ở Tiệp Khắc và Hungary và đang nhanh chóng tiến về phía tây. Liên Xô đã chiếm được Warsaw và hiện đang chạy đua qua Ba Lan, với ý định chiếm đóng Berlin trước khi người Mỹ và các Đồng minh khác có thể đến đó. Người Nga đã ở rất gần trại tập trung Auschwitz đến nỗi tiếng nổ đạn pháo của họ có thể nghe thấy từ xa, và thỉnh thoảng làm sáng bừng đường chân trời. Các binh lính canh phòng Đức Quốc xã tại trại tập trung được lệnh phá hủy các lò hỏa táng đang rất muốn rời đi, sợ rằng mình sẽ sớm trở thành tù nhân của Nga. một bản án tử hình chắc chắn dành cho họ.

Mặt đất rung chuyển khi lò hỏa táng Krema V phát nổ.  Các ngọn lửa biến bầu trời mùa đông đen kịt thành màu đỏ tươi. Bọn lính canh chăm chú theo dõi ngọn lửa, nhưng chỉ trong thời gian đủ để biết rằng việc phá hủy đã hoàn tất và không cần thêm thuốc nổ nữa. Chứng cứ ghê rợn giờ đã bị phá hủy.

Krema – tòa nhà gạch đỏ kinh hoàng đó nơi hàng trăm nghìn tù nhân đã bước vào, nhưng không có ai bước ra. Người Do Thái, người Roma, người đồng tính và người khuyết tật bị lùa vào bên trong một căn phòng kín gió và bị đầu độc bằng thuốc trừ sâu gốc xyanua có tên là Zyklon B được thả qua hệ thống thông gió. Cái chết đến chậm rãi khi những tù nhân ngạt thở, bắt đầu cào cấu cố gắng bò ra khỏi phòng, để lại những vết xước kinh dị trên tường.

Auschwitz ở đằng xa.

Giờ đây Krema V không còn nữa. Bốn lò hỏa táng Auschwitz khác cũng đã bị kích nổ.  Adolf Hitler đã ra lệnh dừng các vụ giết người và phải tiêu hủy mọi bằng chứng vật lý về những hành động tàn bạo của mình.

Từ trái sang phải, Anne Frank, Ellen Weinberger, Margot Frank và Gabrielle Kahn uống trà với búp bê của họ sau khi chạy trốn đến Amsterdam từ Đức.

 Vài nghìn tù nhân tụ tập quanh trại hoặc chen chúc bên trong doanh trại khi lính canh Đức lao nhanh vào màn đêm. Các tù nhân chờ đợi. Họ có thực sự được tự do không. Hay số phận tồi tệ hơn sẽ xảy đến với họ. Bởi vì nếu họ học được điều gì đó từ thời gian ở trại tử thần, thì đó là khi mọi thứ dường như không thể trở nên kinh hoàng hơn, thì chúng lại luôn là như vậy.

* * *

 Một người Do Thái Đức 55 tuổi nằm trên giường gỗ trong khu trại dành cho nam giới bị bệnh tại Auschwitz. Lúc đó là 3 giờ chiều – vào ngày 27 tháng 1 năm 1945. Otto Frank và gia đình chuyển đến Hà Lan khi sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã làm gia tăng tình cảm bài Do Thái ở Đức. Sau đó, Đức Quốc xã xâm lược Hà Lan và đất nước bị chiếm đóng.

Hai năm sau, vào ngày 25 tháng 6 năm 1942, tờ Daily Telegraph ở London đã đăng một câu chuyện chạy tít “Người Đức Giết Hại 700.000 Người Do Thái ở Ba Lan”. Tờ Times của London đã sớm đưa tin, “Cuộc Thảm Sát Người Do Thái: Hơn 1.000.000 Người Chết Kể Từ Khi Chiến Tranh Bắt Đầu”, sau đó tờ Guardian lưu ý rằng bảy triệu người Do Thái hiện đang bị Đức giam giữ và Đông Âu là “một lò sát sinh người Do Thái khổng lồ.” Ở Amsterdam, gia đình Frank đang ẩn náu ngay sau khi những bản tin đó xuất hiện. Cuộc sống tồi tàn và ngột ngạt trong căn hộ bí mật của họ, nhưng ít nhất họ chưa bị bắt. Trong hai năm dài, gia đình Frank đã trốn tránh không để bọn Đức Quốc xã phát hiện. Chưa đầy một tháng nữa là quân Đồng minh sẽ đến Hà Lan thì họ đã gặp kết cục bi thảm. 

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1944, một kẻ cung cấp thông tin bí mật, người mà tên chưa bao giờ được biết đến, đã tiết lộ nơi ẩn náu của gia đình Frank cho bọn Gestapo. Gia đình Frank đã bị bắt, và trong vòng một tháng, Otto, vợ ông, Edith, và hai cô con gái tuổi teen, Margot và Annelies, đã bị đưa đến Auschwitz.

Ngay khi họ bước xuống khỏi toa xe chở súc vật,  gia đình đã bị chia cắt. Đàn ông và phụ nữ bị tách ra, con cái của họ bị tách khỏi cha mẹ. Otto Frank đã không gặp vợ và các con gái của mình kể từ tháng 9.

Khi nằm trên giường tầng của mình vào ngày tháng 1 lạnh giá này năm tháng sau, ông Frank không biết gia đình mình còn sống hay đã chết. Ông không biết rằng những phụ nữ mà mình vô vàn yêu thương cũng đã phải chịu đựng những nỗi sỉ nhục mà ông phải chịu, bị lột trần, bị cạo đầu để kiểm tra chấy, rồi xếp hàng để bị xăm một con số lên cánh tay trái. Họ sớm được thông báo rằng con số đó là danh tính mới của mình. Họ không còn có tên nữa.

Trong thời gian ẩn náu, bé Annelies – nhà gọi là Anne –  đã ghi chép chi tiết về cuộc sống trốn tránh của họ. Cô cao khoảng 160cm, với nụ cười dễ mến và má lúm đồng tiền. Đôi mắt cô màu xám, nhuốm chút màu xanh lá cây. Mái tóc gợn sóng của Anne, trước khi bị người Đức cạo nhẵn sọ đầu, có màu nâu và dài đến vai.

* * *

Thật không thể tin được, cả hai cô gái vẫn còn sống khi Otto Frank nghe thấy tiếng hét phấn khích từ bên ngoài khu trại của mình. “Chúng ta tự do rồi,” các tù nhân đang hét lên. “Chúng ta tự do rồi.” Những người lính Liên Xô đang tiến vào trại, bước từng bước thận trọng, đề phòng một cuộc tấn công bất ngờ của bọn Đức. Họ mặc quân phục ngụy trang màu trắng mùa đông và xuất hiện từ trong sương mù tuyết như những bóng ma.

Anne Frank, mười hai tuổi, đang mặc một chiếc áo khoác mới trong một bức ảnh chụp ở Amsterdam, năm 1941.

Những binh lính Liên Xô không chắc họ đã tình cờ phát hiện ra điều gì.  Có xác chết khắp nơi, và những người còn sống trông giống như những bộ xương biết đi, với gò má hõm sâu của những con người cận kề cái chết. “Khi tôi nhìn thấy mọi người, họ chỉ còn da bọc xương. Họ không có giày dép, và trời lạnh cóng. Họ thậm chí không thể quay đầu lại. Họ đứng như những người chết,” một sĩ quan Nga đầu tiên vào trại sau này nhớ lại. “Tôi nói với họ, ‘Quân đội Nga giải phóng các bạn.’ Họ không thể hiểu. Một số ít người có thể chạm vào cánh tay của chúng tôi và nói, ‘Có đúng không. Có thật không.’”

Những binh lính Liên Xô di chuyển từ khu trại này sang khu trại khác, sửng sốt trước những gì mình chứng kiến. “Khi tôi mở cửa khu  trại, tôi thấy máu, người chết, và lẫn với họ, là những phụ nữ vẫn còn sống và khỏa thân,” sĩ quan Liên Xô Anatoly Shapiro nhớ lại. “Thật kinh tởm. bạn không thể ở lại một giây nào. Không ai chôn người chết xuống mồ. Thật không thể tin được. Những binh lính trong tiểu đoàn của tôi đã xin tôi, ‘Hãy để tụi em đi. Tụi em không thể ở lại. Thật không thể tin được.’”

Những người sống sót sau trại tập trung ở Wöbbelin, Đức, được sơ tán đến một bệnh viện dã chiến của Hoa Kỳ để được chăm sóc.

Bất chấp mọi nỗi kinh hoàng mà những người lính này đã chứng kiến ​​trong cuộc hành quân đến Đức, họ biết rằng Auschwitz thì khác. “Chúng tôi chạy đến chỗ họ,”  Eva Mozes, một người sống sót mười tuổi và em gái sinh đôi của em, Miriam, sau này nhớ lại. “Họ ôm chúng tôi, tặng bánh quy và sô cô la. Khi quá cô đơn, một cái ôm có ý nghĩa hơn bất kỳ ai có thể tưởng tượng, bởi vì điều đó thay thế cho giá trị con người mà chúng tôi đang khao khát. Chúng tôi không chỉ khao khát giá trị, mà còn khao khát lòng tốt của con người, và binh sĩ Liên Xô đã cung cấp điều đó.”

 * * *

Otto Frank đứng dậy khỏi giường bệnh để ăn mừng tự do mới tìm thấy. Suy nghĩ của ông ngay lập tức chuyển sang việc tìm kiếm gia đình.

Nhưng ông sẽ không bao giờ tìm thấy họ. Thay vào đó, trong những tuần, tháng và năm sắp tới, ông sẽ khám phá ra những manh mối liên quan đến hành trình của họ, cho phép ông ghép lại những kết cục đau thương của những người thân.

Người vợ yêu dấu của Otto Frank, Edith, đã chết vì đói chỉ sáu tuần trước ngay tại Auschwitz. Các con gái của ông đã được chuyển đến Bergen-Belsen ở miền bắc nước Đức vào mùa thu năm 1944. Margot Frank đã chết vì sốt phát ban vào đầu năm 1945. Em gái của cô, Anne, vẫn còn sống khi cha cô được giải phóng nhưng chỉ còn sống được vài tuần nữa. Cô sẽ chết trong tình trạng trọc đầu và người đầy vết côn trùng cắn, cơ thể gầy mòn của cô cuối cùng đã bị kết liễu bởi một đợt bùng phát bệnh thương hàn giết chết 17.000 tù nhân tại Bergen-Belsen.

Khi đó cô chỉ mới mười lăm tuổi.

Bình luận về bài viết này