Bỏ rơi Việt Nam (Bài 10)

James H. Willbanks

Trần Quang Nghĩa dịch

10 Sài Gòn Thất Thủ 

LỆNH MỚI TỪ HÀ NỘI

Quan sát sự sụp đổ nhanh chóng của nửa phần phía bắc Nam Việt Nam và nhận ra rằng Thiệu và lực lượng của ông ta đang ở thế bí, Bộ Chính trị Bắc Việt quyết định rằng việc chờ đợi đến năm 1976 để phát động cuộc tấn công cuối cùng không còn cần thiết nữa. Theo tướng Trần Văn Trà của QĐNDVN, Tướng Giáp là người đầu tiên nhận ra rằng đã đến lúc phải giáng đòn cuối cùng. Tin rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến trường là rất khó xảy ra, Giáp kết luận rằng lực lượng Nam Việt Nam, với tốc độ hơn một tiểu đoàn tan rã mỗi ngày, đã bị suy yếu đến mức họ “không thể đối phó với các lực lượng ngày càng mạnh hơn của cách mạng Việt Nam, về mặt quân sự hoặc chính trị.” Lê Duẩn đồng ý với Giáp;  cùng nhau họ thuyết phục các đồng chí của mình  trong ban lãnh đạo Bắc Việt rằng đã đến lúc đập tan chính quyền “bù nhìn” bằng một chiến dịch quyết định được thiết kế để chấm dứt chiến tranh một lần và mãi mãi. Vào ngày 25 tháng 3, Bộ Chính trị đã gửi điện cho Tướng Dũng ở miền Nam để “tiến lên một bước lớn” nhằm nắm bắt “cơ hội ngàn năm có một nhằm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa”, do đó đảm bảo “thống nhất Tổ quốc”. Dũng, háo hức chiếm Sài Gòn, đã đồng ý với đánh giá của Bộ Chính trị, nhưng ông muốn có thêm vài ngày để “tấn công, tiêu diệt, và làm tan rã” các lực lượng Nam Việt Nam còn lại trên bờ biển giữa Tuy Hòa và Cam Ranh trước khi phát động một cuộc tấn công mới. Viết trong hồi ký của mình sau chiến tranh, ông giải thích rằng “Kẻ thù lúc này đang hoang mang và hoảng loạn và đang bị lực lượng của chúng tôi truy đuổi sát bên lưng… Lực lượng chúng tôi chỉ chịu các thiệt hại nhỏ trong chiến đấu;  tinh thần chiến đấu của quân đội chúng tôi đã tăng lên rất nhiều. Chúng tôi vẫn mạnh về mặt hậu cần—chỉ một phần đạn dược dành cho kế hoạch đã được sử dụng, và một lượng đạn dược khá lớn đã được thu giữ từ kẻ thù,” nhưng “kẻ thù sẽ không tan rã và bỏ chạy nếu chúng tôi không gây ra những đòn chí mạng, nhanh chóng và liên tục.”

Bộ Chính trị đồng ý, thúc giục Dũng tiêu diệt lực lượng kháng cự còn lại và tiến về Sài Gòn càng nhanh càng tốt. Dũng đã làm đúng như vậy, đẩy lực lượng của mình hơn một nghìn dặm dọc theo bờ biển một cách nhanh chóng, hoàn thành một trong những chiến công hậu cần lớn nhất và phức tạp nhất của cuộc chiến. Các đoàn quân lực lượng lớn, thiết bị và xe cộ, nhiều thứ trong số đó được tịch thu từ miền Nam, di chuyển xuống xa lộ ven biển hướng về Sài Gòn. Các lực lượng khác áp sát thủ đô từ phía tây và phía nam.

Vào ngày 3 tháng 4, Tướng Dũng đến sở chỉ huy mới của mình ở phía tây Lộc Ninh, chỉ cách Sài Gòn 60 dặm về phía bắc. Lúc này, Dũng có trong tay 16 sư đoàn bộ binh được hỗ trợ bởi xe tăng, công binh, pháo binh và các đơn vị phòng không và được tổ chức thành năm quân đoàn (1, 2, 3, 4 và Lực lượng Chiến thuật 232, một đội hình quân đoàn mới thành lập gồm bốn sư đoàn). Khi các lực lượng này di chuyển về phía các vị trí tấn công, Dũng và đội ngũ của ông đã hoàn thành kế hoạch của họ. Vào ngày 8 tháng 4, Dũng nhận được một lệnh khác từ Hà Nội, tái khẳng định quyết định tấn công Sài Gòn trước khi kết thúc tháng. Dũng thừa nhận đã nhận được lệnh và, vì chưa chọn mật danh, nên đã đề xuất rằng chiến dịch này được đặt tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, và Bộ Chính trị đã đồng ý bằng điện tín trả lời vào ngày 14 tháng 4.

Trong khi Dũng tập hợp lực lượng, Thiệu đã khảo sát quân đội Nam Việt Nam sẵn sàng bảo vệ thủ đô: ba sư đoàn trong Quân đoàn III của Quân đội Việt Nam Cộng hòa (5, 18 và 25) và ba sư đoàn trong Quân đoàn IV (7, 9 và 21), cộng với những tàn quân của các sư đoàn Thủy quân Lục chiến và Nhảy dù, một số tiểu đoàn thiết giáp, một số nhóm biệt động đã rời rã, và những binh lính sống sót sau thảm họa ở Quân đoàn I và II, tổng cộng khoảng 60.000 quân. Quân đội Nam Việt Nam rõ ràng bị áp đảo về số lượng, nhưng con số không nói lên toàn bộ câu chuyện. Theo một viên chức Sài Gòn, việc mất hai khu vực Quân đoàn phía bắc đã “đánh một đòn nghiêm trọng vào uy tín và tinh thần của lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa vì nó liên quan đến sự thảm bại của các đơn vị thiện chiến nhất trong QĐVNCH.” Trong khi Bắc Việt, đang thắng lợi, bắt đầu tăng cường tấn công, thì quân miền Nam  mất tổ chức và suy sụp tinh thần đã thể hiện những đặc điểm của một đội quân chủ bại ngay cả trước khi trận chiến đỉnh cao ở Sài Gòn bắt đầu.

Dân chúng cũng đau xót trước chuỗi chiến thắng dường như bất tận của Bắc Việt. Một viên chức chính phủ tuyệt vọng nói rằng sự sụp đổ liên tiếp của các tỉnh “giống như một trận tuyết lở”. Thật không may, nỗi sợ hãi và thất bại chung lại không giúp đoàn kết mọi người lại với nhau đằng sau chính quyền và quân đội. Cả binh lính và dân chúng dường như đều quan tâm chủ yếu đến số phận của chính mình. Một nhà báo quan sát thấy cảm giác hoảng loạn và tuyệt vọng ngày càng tăng ở Sài Gòn đã lưu ý rằng “không có tinh thần hỗ trợ hoặc hy sinh nào được hiệu triệu”. Viễn cảnh về một chiến thắng lừng lẫy của Cộng sản khiến người dân miền Nam sợ hãi dưới mọi cấp độ, nhưng hầu hết đều làm rất ít hoặc không làm gì để ngăn chặn điều đó. Nỗi kinh hoàng bắt đầu lan rộng trong số các công chức, thành viên quân đội và công chúng nói chung.  Người Công giáo và bất kỳ ai đã ủng hộ hoặc làm việc với người Mỹ theo bất kỳ cách nào đều đặc biệt sợ hãi. Trớ trêu thay, những tuyên bố của các quan chức tại Hoa Kỳ đã góp phần nuôi dưỡng cơn cuồng loạn đang lan rộng. Henry Kissinger, người đã thay thế William Rogers làm ngoại trưởng vào năm 1973, đã làm chứng trước Ủy ban Tài chính Thượng viện rằng những người được coi là “nguy hiểm đến tính mạng” ở Việt Nam bao gồm “tất cả những người phục vụ trong bộ máy hành chính của chính quyền Nam Việt Nam, trong nhiều cơ quan lập pháp ở các tỉnh, trong nhiều lực lượng cảnh sát khác nhau, [và] tất cả những người làm việc cho Hoa Kỳ trong nhiều chương trình khác nhau của nước này”.Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger cho biết có tới 200.000 người Việt Nam có thể bị thảm sát trong cuộc tiếp quản của Cộng sản. Những tuyên bố như vậy đã được lan truyền rộng rãi ở Sài Gòn, làm gia tăng sự tuyệt vọng và viễn cảnh khủng bố.  Mặc dù thành tích trước đây của người Cộng sản trong những trường hợp như vụ thảm sát Huế đã tạo ra căn cứ để báo động, nỗi sợ hãi bao trùm xã hội miền Nam  là một phản ứng thái quá gây ra tình trạng tê liệt gần như hoàn toàn tại thời điểm cần phải hành động để bảo vệ thành phố.

Người miền Nam càng sợ hãi hơn khi có tin đồn Hoa Kỳ đang lập kế hoạch di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn. Đại sứ Martin đã cố gắng dập tắt những tin đồn này. Ông tiếp tục duy trì quan điểm chính thức của Hoa Kỳ rằng Nam Việt Nam, nếu được cung cấp thêm viện trợ, có thể ổn định chiến trường. Phó của ông, Wolfgang Lehman, đã nói với những thính giả tại một cuộc họp của đại sứ quán vài ngày sau khi Đà Nẵng thất thủ rằng theo quan điểm của ông, “Về mặt quân sự, Bắc Việt không có khả năng phát động một cuộc tấn công vào Sài Gòn”.

Tuyên bố của Lehman thật khôi hài. Đến cuối tuần đầu tiên của tháng 4, trừ một vài vùng đất nhỏ ở Phan Rang và Phan Thiết trên bờ biển, hai phần ba Nam Việt Nam đã rơi vào tay Bắc Việt. 6 trong số 13 sư đoàn của QLVNCH đã biến mất, cùng với nhiều quân lính khác trong các đơn vị biệt động, địa phương quân, không quân và hỗ trợ. Tổn thất về vũ khí, vật tư và thiết bị là rất lớn. Ngược lại, Bắc Việt, tích lũy hết thắng lợi này sau thắng lợi khác, đã tiến vũ bão về Sài Gòn gần như không hề hấn gì. Tướng Dũng viết, “Số người chết và bị thương rất nhỏ so với những chiến thắng đã giành được, và chi phí về vũ khí và đạn dược là không đáng kể.”

Tốc độ tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam rõ ràng đã làm tê liệt bộ máy lãnh đạo của Nam Việt Nam. Chính quyền dân sự, dường như choáng váng, có vẻ hoạt động như thể không có gì xảy ra. Bộ máy lãnh đạo quân sự thì chẳng khá hơn là bao.  Một nỗ lực đã được thực hiện để đưa ra một kế hoạch phục hồi các sư đoàn bị phá tan trong cuộc di tản miền bắc, nhưng kế hoạch hoàn thành dựa trên khoản viện trợ quân sự bổ sung khổng lồ của Hoa Kỳ để thay thế các thiết bị bị mất trong cuộc rút lui. Những người lập kế hoạch đã đề xuất tái trang bị cho ba sư đoàn bộ binh vào ngày 15 tháng 6. Nhận ra rằng số phận của Sài Gòn sẽ được giải quyết theo cách này hay cách khác từ lâu trước đó rồi, Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ đã nói với Tham mưu trưởng Liên quân rằng kế hoạch này không khả thi và yêu cầu họ quay lại bàn giấy. Khi TMTLQ  phớt lờ yêu cầu của DAO, Thiếu tướng Homer D. Smith, người thay thế Thiếu tướng Murray chỉ huy DAO vào giữa năm 1974, đã ra lệnh cho ban tham mưu của mình đưa ra kế hoạch tái thiết đơn vị của riêng mình.  Họ đã làm như vậy, và TMTLQ nhanh chóng thông qua khuyến nghị của Hoa Kỳ, nhưng từ chối điều động các tiểu đoàn được xây dựng lại vào các sư đoàn vẫn đang hoạt động như DAO đã đề xuất. Thay vào đó, bộ tư lệnh cấp cao của Nam Việt Nam kiên quyết giữ lại các bộ tư lệnh sư đoàn có các đơn vị đã bị phá hủy ở phía bắc. Cực kỳ suy yếu và không được tích hợp hoàn toàn vào hệ thống phòng thủ của Sài Gòn, các bộ tư lệnh này đã nhanh chóng bị phá hủy lần thứ hai khi quân BV tấn công thành phố.

KHÔNG CÓ CỨU GIÚP TỪ WASHINGTON

Chính quyền Ford cũng choáng váng trước sự sụp đổ đột ngột của Nam Việt Nam ở nửa phía bắc đất nước. Vào ngày 22 tháng 3, Tổng thống Ford đã viết thư cho Thiệu, cam kết rằng ông “quyết tâm ủng hộ Việt Nam Cộng hòa một cách kiên quyết vào thời điểm quan trọng này. Với mục đích tôn vinh trách nhiệm của Hoa Kỳ trong tình hình này, tôi…  đang tham vấn khẩn cấp với các cố vấn của tôi về các hành động mà tình hình có thể yêu cầu và luật pháp cho phép.” Thiệu đã trả lời vào ngày 25 tháng 3, ngay khi Huế bị bỏ lại cho Cộng sản, với một lá thư của riêng ông mô tả tình hình quân sự là “nghiêm trọng” và đưa ra lời kêu gọi “Chính phủ Hoa Kỳ phải thực hiện lời cam kết” của mình là “bảo vệ hòa bình ở Việt Nam.” Ông đặc biệt yêu cầu Ford “ra lệnh một cuộc không kích B-52 ngắn nhưng mạnh mẽ” nhằm vào lực lượng tập trung và căn cứ hậu cần của kẻ thù ở Nam Việt Nam và “cung cấp cho chúng tôi các phương tiện cần thiết để ngăn chặn và đẩy lùi cuộc tấn công.” Ford đã trả lời bằng một lá thư gửi Thiệu trong đó ông nói: “Ông và người dân của ông có thể tin tưởng vào sự ủng hộ vững chắc liên tục của tôi và quyết tâm của tôi trong việc làm mọi thứ có thể để giúp đỡ Việt Nam Cộng hòa. Một lần nữa, tôi tin tưởng rằng những nỗ lực chung của chúng ta sẽ thành công.” Ford nói thêm rằng ông cần đánh giá trực tiếp tình hình quân sự ở Nam Việt Nam và ông đang cử Tham mưu trưởng Lục quân Frederick Weyand đến Sài Gòn.

Theo cố vấn thân cận của mình là Nguyễn Tiến Hưng, Thiệu không ấn tượng với lời đảm bảo của Ford vì ông tin rằng Ford và các cố vấn của ông đang hạ thấp mức độ nghiêm trọng của tình hình. Thiệu dần đi đến kết luận rằng tổng thống Mỹ đang rút lui khỏi các cam kết trước đó. Hưng cho.biết rằng Thiệu phàn nàn: “Ford dường như không quan tâm. Ông ấy đang đi nghỉ ở Palm Springs trong khi chúng ta đang hấp hối. Khi nào thì ông ấy sẽ phản hồi?”

Tướng Weyand đến Sài Gòn vào ngày 27 tháng 3. Ông ngay lập tức đến thăm Tổng thống Thiệu và đảm bảo với ông về “sự ủng hộ kiên định” của Tổng thống Ford. Ông nói với Thiệu rằng mình đến Sài Gòn để xem xét “các lựa chọn và hành động mở ra cho Hoa Kỳ để hỗ trợ miền Nam”. Sau khi gặp Đại sứ Martin và Thiếu tướng Smith, Weyand và đoàn của ông đã dành sáu ngày tiếp theo để đánh giá toàn diện tình hình quân sự và tiến hành các chuyến đi kiểm tra đến nhiều địa điểm khác nhau trên khắp miền Nam. Trước khi rời Sài Gòn, Weyand nói với Tổng thống Thiệu, “Chúng tôi sẽ cung cấp cho ngài sự hỗ trợ mà ngài cần và sẽ giải thích nhu cầu của ngài với Quốc hội”.

Weyand trở về Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 4 và gặp Tổng thống Ford tại Palm Springs vào ngày hôm sau. Mặc dù rất bi quan về tình hình, ông nói với Ford rằng theo ông một khoản tiền và vũ khí nữa có thể giải cứu các mục tiêu của Hoa Kỳ ở miền Nam.  Ông báo cáo rằng chính phủ Việt Nam Cộng hòa đang trên bờ vực của một thất bại quân sự hoàn toàn, nhưng người miền Nam đã chiến đấu hết mình với tất cả các nguồn lực có sẵn.  Weyand nói rằng họ sẽ không thể chiếm lại được lãnh thổ đã mất, nhưng với nhiều đạn dược và thiết bị hơn, họ có thể thiết lập một hệ thống phòng thủ vững chắc xung quanh Sài Gòn. Ông đề xuất Ford đệ trình một yêu cầu viện trợ bổ sung lên Quốc hội để xin 722 triệu đô la để thay thế vật tư bị mất trong cuộc rút lui thảm khốc từ Quân đoàn I và II. Số tiền này sẽ được sử dụng để cung cấp 744 khẩu pháo, 446 xe tăng và xe bọc thép chở quân, hơn 100.000 khẩu súng trường, hơn 5.000 súng máy và 11.000 súng phóng lựu, khoảng 120.000 tấn đạn dược trên bộ và trên không, và khoảng 12.000 xe tải. Với thiết bị này, theo đánh giá của Weyand, miền Nam có thể trang bị cho 8 sư đoàn bộ binh và biệt động và 27 trung đoàn độc lập khác được thành lập từ lực lượng lãnh thổ hiện có—một lực lượng gần bằng lực lượng Cộng sản đang tiến về Sài Gòn. Weyand cho biết yêu cầu bổ sung, ngoài đáp ứng nhu cầu vật chất của quân miền Nam, sẽ cung cấp một cú hích tâm lý cho người miền Nam, những người “đang rất gần bờ vực của nỗi tuyệt vọng và chủ nghĩa chủ bại có thể nhanh chóng làm sụp đổ toàn bộ cấu trúc”.

Ngay cả trong chính quyền của Ford, các quan chức cũng không đồng tình về kế hoạch của Weyand và sự khôn ngoan của bất kỳ nỗ lực nào nhằm có thêm viện trợ cho Sài Gòn. Đầu tiên, nhiều cố vấn của tổng thống tin rằng Quốc hội khó có thể chấp thuận yêu cầu như vậy. Một bản ghi nhớ của chính quyền trong giai đoạn này nêu rõ: “Tuy nhiên, bất kỳ yêu cầu nào về viện trợ quân sự bổ sung đều có khả năng bị từ chối thẳng thừng. Có những lời chỉ trích mạnh mẽ về việc QLVNCH bỏ lại nguồn vật tư quân dụng và lạm dụng phụ nữ và trẻ em trong cảnh hỗn loạn của cuộc rút lui.” Các nhân viên của Ford, sau khi thăm dò ý kiến Quốc hội, đã thông báo với tổng thống rằng nhiều nhà lập pháp sẽ không ủng hộ ông; những người khác sẽ phản bác kịch liệt bất kỳ yêu cầu viện trợ mới nào. Một số cố vấn còn nghi ngờ rằng liệu người miền Nam có thể cầm cự đủ lâu để viện trợ đến kịp với họ, ngay cả khi bằng một phép màu nào đó, Quốc hội chịu phê duyệt một phần hoặc toàn bộ số tiền. Họ đã trích dẫn một đánh giá của Cơ quan Tình báo Quốc phòng vào ngày 3 tháng 4 cho rằng miền Nam chỉ còn sống đến ba mươi ngày.

Một khuyến cáo khác đến từ nhiếp ảnh gia Nhà Trắng David Kennerly, người đã đi cùng Weyand đến miền Nam. Sau khi trở về, ông đã vào gặp tổng thống một cách riêng tư. Sau khi để Weyand ở Sài Gòn và đi thực tế “nội địa” để tự mình xem những gì đang xảy ra, Kennerly đã đánh giá tình hình khác nhiều so với Weyand.  Cũng đã bay đến Campuchia, ông rất buồn trước những gì ông đã chứng kiến ​​ở hai quốc gia này. Tại Nha Trang, khi đi quan sát trên chuyến bay của quân đội miền Nam, Kennerly đã bay qua một con tàu do bọn lính VNCH nổi loạn chiếm giữ, chúng đã chĩa súng bắn vào trực thăng của ông. Tại Campuchia, ông đã chứng kiến ​​những bệnh viện đầy binh lính và thường dân. Ông nói với tổng thống: “Campuchia đã không còn nữa và tôi không quan tâm các tướng lĩnh nói gì với ngài; họ đang nói dối ngài nếu họ nói rằng Việt Nam còn hơn ba hoặc bốn tuần nữa. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó sẽ không kéo dài bao lâu nữa.”

Bất chấp đánh giá của Kennerly và những cố vấn tổng thống khác nghi ngờ tính khả thi của việc cố gắng xin thêm tiền cho Sài Gòn, Kissinger, luôn lưu tâm đến tính biểu tượng của các hành động của Mỹ, đã thúc giục Ford yêu cầu toàn bộ 722 triệu đô la do Tướng Weyand đề xuất để gửi một tín hiệu không chỉ đến miền Nam mà còn đến các đồng minh khác của Mỹ trên toàn thế giới rằng Hoa Kỳ luôn tuân thủ các cam kết của mình.

Với thảm họa đang diễn biến ở miền Nam, Ford đã phải đối mặt với một cuộc chiến khó khăn để thuyết phục Quốc hội phân bổ thêm tiền cho lực lượng của Thiệu. Vào ngày 3 tháng 4, tổng thống Mỹ đã gợi ý trong một cuộc họp báo rằng 55.000 sinh mạng người Mỹ đã bị phí phạm vì Quốc hội từ chối thực hiện các cam kết theo các điều khoản của Hiệp định Paris. Ông tuyên bố “Tôi nghĩ rằng người dân Mỹ phải đưa ra phán quyết về việc ai có lỗi hoặc lỗi ở đâu”. Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhận xét của ông khiến nhiều người trong Quốc hội tức giận. Thượng nghị sĩ Robert C. Byrd (Dân chủ-WV) cho biết, “Một số cam kết được bịa ra khi không có cam kết nào tồn tại, và sau đó Quốc hội bị đổ lỗi vì không thực hiện những cam kết đó”. Vào ngày 8 tháng 4, Thượng nghị sĩ Henry Jackson (Dân chủ-WA) cáo buộc rằng Nixon đã đưa ra “những thỏa thuận bí mật bằng văn bản” mà không tham khảo ý kiến ​​của Quốc hội và yêu cầu cho biết bản chất của những lời hứa này. Chính quyền Ford trả lời rằng Nixon không hứa bất cứ điều gì riêng tư mà ông đã không hứa nhiều lần trước công chúng. Điều này đúng theo mức độ Ford biết vào thời điểm đó, bởi vì bằng chứng hiện có cho thấy bản thân vị tổng thống mới vẫn chưa xem hết toàn bộ thư từ của Nixon với Thiệu. Bất chấp lời giải thích của Ford, nhiều người trong Quốc hội đã tin rằng một thỏa thuận bí mật đã được ký kết với Thiệu.

 Vào thời điểm này, Tổng thống Ford, được Henry Kissinger khuyến khích nhưng bị cố vấn đối nội Robert Hartmann và Thư ký báo chí Ron Nessen ngăn cản, đã ra trước phiên họp chung của Quốc hội vào ngày 10 tháng 4 để yêu cầu khoản viện trợ quân sự bổ sung đầy đủ 722 triệu đô la và 250 triệu đô la khác cho viện trợ kinh tế và cứu trợ người tị nạn. Ford khẳng định rằng thảm họa hiện tại ở miền Nam là hậu quả của “sự không chắc chắn về viện trợ tiếp theo của Hoa Kỳ”, vì việc cắt giảm viện trợ “báo hiệu sự miễn cưỡng ngày càng tăng của chúng ta trong việc hỗ trợ quốc gia đang đấu tranh để tồn tại”. Ông yêu cầu Quốc hội giúp ông “giữ lời hứa của Hoa Kỳ trên toàn thế giới”. Tổng thống nhấn mạnh rằng viện trợ bổ sung cho Sài Gòn “phải nhanh chóng và đầy đủ” và nếu không hành động sẽ chỉ dẫn đến “thảm họa sâu sắc hơn”. Ông yêu cầu Quốc hội phê duyệt dự luật trước ngày 19 tháng 4, tức chỉ còn chín ngày nữa.  Nếu có nghi ngờ về phản ứng có thể có của quốc hội đối với yêu cầu viện trợ mới, thì nó đã nhanh chóng bị xua tan bởi phản ứng tại chỗ đối với bài phát biểu của tổng thống. Không một tràng pháo tay nào chào đón lời kêu gọi của Ford về viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, và thậm chí hai đảng viên Dân chủ đã bỏ ra ngoài giữa chừng bài phát biểu.

Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, yêu cầu viện trợ bổ sung đã bị thất bại ngay từ đầu. Các sự kiện ở Campuchia đã không giúp ích gì cho tình hình. Khmer Đỏ cộng sản đã sẵn sàng tràn ngập Campuchia trong phút chốc. Hai giờ trước khi tổng thống phát biểu trước Quốc hội, Đại sứ John Gunther Dean đã gửi điện từ Phnom Penh yêu cầu khởi xướng Chiến dịch Eagle Pull (Đại bàng Rút), giai đoạn cuối cùng của cuộc di tản của Mỹ khỏi thủ đô Campuchia. Sau năm năm Hoa Kỳ nỗ lực và chi tiêu hơn một tỷ đô la vào Campuchia, vào sáng ngày 17 tháng 4, Khmer Đỏ chiến thắng tiến vào Phnom Penh, kết thúc quá trình tham gia của Mỹ vào đất nước này.

Những bóng đen về sự sụp đổ sắp xảy ra của Campuchia và thảm họa đang diễn ra ở miền Nam lù lù hiện ra khi Quốc hội xem xét yêu cầu viện trợ quân sự của tổng thống. Như các nhân viên Nhà Trắng đã dự đoán, ngay cả những người ủng hộ trước đây của Hoa Kỳ về chính sách ở miền Nam, như Thượng nghị sĩ Byrd, một lần nữa lên tiếng phản đối viện trợ mới cho Sài Gòn. Byrd tuyên bố rằng “bất kỳ hỗ trợ quân sự bổ sung nào cho Campuchia hoặc miền Nam đều sẽ rơi vào tay những kẻ mà chúng ta hiện đang chống đối” và bày tỏ “mối nghi ngờ rằng việc chi thêm tiền của Hoa Kỳ, ngoại trừ cho mục đích nhân đạo, có thể làm thay đổi tiến trình của các sự kiện”. Các nhà lập pháp khác thậm chí còn kiên quyết hơn. Dân biểu Abzug (Dân chủ-NY) đã viết thư cho tổng thống, cáo buộc rằng “các chính sách sai trái và sự can thiệp quân sự bất hợp pháp trong thập kỷ qua” của chính phủ Hoa Kỳ “phần lớn là nguyên nhân gây ra hoàn cảnh bi thảm hiện tại của miền Nam”. Bà yêu cầu Ford “ngay lập tức ngừng mọi viện trợ quân sự cho chính phủ đã mất uy tín của Tổng thống Thiệu”.

Các đại diện của chính quyền đã bị thẩm vấn nghiêm khắc trong các phiên điều trần của quốc hội về yêu cầu viện trợ. Ngoại trưởng Kissinger đã làm chứng trước Ủy ban Tài chính Hạ viện, nói rằng “miền Nam không còn nơi nào khác để hướng đến. Nếu không có sự giúp đỡ của chúng ta, miền Nam không còn hy vọng, ngay cả trong việc điều chỉnh tốc độ diễn tiến của các sự kiện mà miền Nam đã dũng cảm chống lại trong nhiều năm”.  Ông cũng cảnh báo rằng “nếu Hoa Kỳ tạo ra ấn tượng là mình bỏ rơi những người đã sát cánh hết lòng với chúng ta trong một thời gian dài—mà không có một chút nỗ lực kiểm soát tình hình, thì điều đó sẽ không giúp ích gì cho vị thế quốc tế của chúng ta”. Những lời kêu gọi như vậy đã rơi vào những lỗ tai điếc.

Các quan chức chính quyền khác đã bày tỏ nỗi  ngờ vực nghiêm trọng, cho dù cố gắng đưa ra lý lẽ để xin thêm tiền. Khi Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger làm chứng, ông được hỏi liệu quân miền Nam có thể giữ được lãnh thổ mà họ hiện đang chiếm đóng khi họ có trang thiết bị và vũ khí được trang trải bằng yêu cầu bổ sung hay không. Ông trả lời, “Chúng ta phải thừa nhận rằng khả năng là không cao… [nhưng] vẫn có cơ hội”. Khi Tướng Weyand làm chứng về dự luật viện trợ bổ sung trước Ủy ban Tài chính Hạ viện, ông được dân biểu Jamie Whitten của Mississippi hỏi, “Có cơ sở nào cho yêu cầu của ông không ngoại trừ để duy trì một bộ mặt, có lẽ là trên báo chí và trên các phương tiện truyền thông, khi chúng ta biết tỏng rằng hồi kết là điều không thể tránh khỏi?” Weyand trả lời yếu ớt, “Vâng, thưa ông, để tôi nói thế này: đôi khi phong cách theo đó chúng ta làm mọi việc, mà ông gọi là bộ mặt, cũng đều quan trọng như bản chất.” Những lời điều trần như vậy không giúp ích gì nhiều cho lập luận của chính quyền về gói viện trợ bổ sung. Không có gì ngạc nhiên khi Quốc hội bác bỏ yêu cầu của tổng thống và sau đó tập trung sự chú ý vào việc sơ tán dự kiến ​​của công dân Hoa Kỳ. Khi chính quyền yêu cầu miễn trừ các hạn chế pháp lý đối với lực lượng quân sự để công dân Việt Nam đã làm việc cho Hoa Kỳ có thể được sơ tán cùng với người Mỹ, những thành viên theo chủ nghĩa tự do ở cả hai viện đã lên án đề xuất này bằng những lời lẽ cực đoan nhất.  Tại Hạ viện, Bella Abzug đã lớn tiếng tuyên bố: “Luật này chỉ là cái cớ để Hoa Kỳ ở lại Việt Nam và sử dụng vũ lực quân sự nếu cần thiết để duy trì quyền kiểm soát… để nếu chúng ta lỡ không thích những gì xảy ra ở đó, chúng ta có thể một lần nữa can thiệp vào các vấn đề của quốc gia đó…. Nó chẳng khác một nghị quyết Vịnh Bắc Bộ mới.”

Một cuộc thăm dò của tạp chí Time vào ngày 14 tháng 4 đối với 30 nghị sĩ đã đi thăm các quận của họ trong kỳ nghỉ lễ Phục sinh cho thấy nhiều cử tri của họ đã “chán ngấy và mất hứng thú” với các sự kiện ở miền Nam. Một bài báo đi kèm với cuộc thăm dò đã trích dẫn lời của đảng viên Dân chủ Don Bonker của Washington, nhận xét, “Mọi người đã kiệt sức. Họ muốn chôn vùi ký ức về Đông Dương. Họ coi đó là một chương bi thảm trong đời sống người Mỹ, và họ không muốn tiếp tục dính líu vào đó nữa.”  Theo bài báo, điển hình cho những bình luận mà các nghị sĩ nghe được là lời nhận xét giận dữ của Dan Merwin, một lính cứu hỏa ở Girard, Ohio, y đã nói về miền Nam Việt Nam: “Họ đang đi xuống cống mà không chịu chiến đấu, và chúng ta đang bàn đến việc gửi cho họ hàng trăm triệu đô la? Tôi không thể hiểu điều đó. Chúng ta ở Tây Virginia có người đang chết đói.” Những thái độ như được mô tả trong bài báo của Time và các tạp chí khác, cùng với lập trường hiếu chiến của Quốc hội, đã phản ánh rõ ràng người miền Nam sẽ không thể nhận được thêm sự giúp đỡ nào từ Hoa Kỳ.

Thiệu rất nản lòng vì chính quyền Ford không thể thuyết phục Quốc hội thông qua dự luật viện trợ quân sự khẩn cấp. Trong một bài phát biểu được truyền hình toàn quốc vào ngày 4 tháng 4, ông đổ lỗi cho mọi người về những thất bại quân sự, quy kết những thảm họa cho sự phản bội của quân đội người Thượng (trong lực lượng địa phương quân), sự hèn nhát và chủ nghĩa chủ bại trong lực lượng vũ trang, âm mưu của các điệp viên nước ngoài, và thậm chí các chương trình phát sóng của “các đài phát thanh nước ngoài như BBC và Đài Tiếng nói Hoa Kỳ”. Thay vì đích thân chấp nhận một phần lớn trách nhiệm, ông sau đó đã chỉ trích Hoa Kỳ vì đã không đến giúp đỡ miền Nam như hai tổng thống đã hứa. “Người ta tự hỏi,” ông nói, “liệu những cam kết của Hoa Kỳ có đáng tin cậy không và liệu lời nói của Hoa Kỳ có giá trị gì không.” Sau khi chỉ trích gay gắt người Mỹ, Thiệu nói rằng chỉ có Hoa Kỳ mới có thể mang đến phép màu cứu vãn tình hình. Nếu viện trợ của Hoa Kỳ tiếp tục đến “từng giọt một… chúng ta sẽ mất dần đất đai vào tay Cộng sản Bắc Việt cho đến ngày chúng ta mất tất cả.  Do đó, tôi hy vọng rằng người dân Mỹ và Quốc hội Mỹ hiện đã thấy rõ tình hình thực tế… và hậu quả của những hành động của mình trong hai năm qua và  họ sẽ hỗ trợ chúng ta theo cách thực tế hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và đầy đủ hơn để chúng ta có thể bảo vệ phần lãnh thổ còn lại của mình.”

Điều đó đã không xảy ra. Vận mệnh của Thiệu và đất nước ông đã sa sút đến mức vào ngày 8 tháng 4 Trung úy Nguyễn Thành Trung, một phi công lái máy bay chiến đấu F-5E của Không quân Việt Nam, thực hiện hai đợt ném bom vào Dinh Độc Lập và sau đó bay đến sân bay Bắc Việt chiếm đóng tại Phước Long, nơi anh hạ cánh trong sự chào đón nồng nhiệt dành cho một người hùng. Thiệu, từ lâu đã lo sợ về khả năng xảy ra đảo chính, đã gần như điếng người bởi cuộc tấn công vào dinh thự.  Mặc dù sau đó được phát hiện là một hành động biệt lập và không phải là một phần của cuộc đảo chính, vụ đánh bom dinh tổng thống đã chứng minh rõ ràng tình hình đang bắt đầu vỡ vụn.

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH

Trong khi Thiệu lo lắng về các âm mưu đảo chính và Tổng thống Ford cùng các cố vấn của ông chiến đấu với Quốc hội, Tướng Dũng, ban tham mưu và các đơn vị dã chiến đã hoàn tất các công tác chuẩn bị để phát động Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngay trước khi cuộc tổng tấn công bắt đầu, Lê Đức Thọ đã đến sở chỉ huy của Dũng ở Lộc Ninh, sau khi đi từ Hà Nội bằng máy bay, ô tô và xe máy. Ông mang theo lệnh tấn công cuối cùng, bắt đầu bằng “Tiến tới Thắng lợi Cuối cùng!” Lệnh xác nhận Dũng là tổng chỉ huy của chiến dịch và bổ nhiệm Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Hùng, một đảng viên Cộng sản cao cấp sinh ra ở miền Nam, làm chính ủy. Trần Văn Trà và Lê Đức Anh được bổ nhiệm làm phó chỉ huy quân sự cho Dũng.

Kế hoạch chiến dịch của Dũng kêu gọi một cuộc tấn công ba mũi nhọn vào Sài Gòn.  Cuộc tấn công chính sẽ diễn ra ở phía đông và do Quân đoàn IV Bắc Việt chỉ huy, bao gồm các sư đoàn 6, 7 và 341. Họ sẽ rời khỏi vị trí của mình ở các tỉnh Tây Ninh và Bình Long, phía bắc và tây bắc Sài Gòn, tiến về phía đông dọc theo chân núi của Cao nguyên Nam Bộ, chiếm đóng Tỉnh Lâm Đồng, và sau đó tấn công từ đó để chiếm Xuân Lộc, thủ phủ của Tỉnh Long Khánh và là cứ điểm chính của QLVNCH bảo vệ Sài Gòn dọc theo Đường 1. Để trói chặt lực lượng QLVNCH trong và xung quanh Sài Gòn để họ không thể tăng viện cho Xuân Lộc, Lực lượng Chiến thuật 232 mới được thành lập, bao gồm bốn sư đoàn quân Bắc Việt, sẽ tiến lên từ Đồng bằng và cắt đứt Đường 4. Đồng thời, quân đoàn III Bắc Việt sẽ tăng cường các cuộc tấn công vào khu vực Tây Ninh để kềm chân Sư đoàn 25 QLVNCH tại chỗ và chuyển hướng sự chú ý khỏi việc quân Bắc Việt IV di chuyển về phía đông.

 TRẬN XUÂN LỘC

Sư đoàn 341 Bắc Việt đã mở cuộc tấn công chính từ phía tây bắc sau một trận pháo cối, pháo kích và tên lửa 4.000 quả, khiến một phần lớn thành phố bốc cháy (xem bản đồ 18). Các cuộc tấn công hỗ trợ được thực hiện từ phía bắc-đông bắc và phía đông bởi các sư đoàn 7 và 6 Bắc Việt. Tấn công bằng xe tăng T-54, Sư đoàn 341 tiến về phía trung tâm thành phố. Đến rạng sáng ngày hôm sau, quân Bắc Việt đã chiếm được đồn cảnh sát, khu nhà CIA, và căn cứ biệt động địa phương. Tuy nhiên, Sư đoàn QLVNCH 18, dưới quyền Chuẩn tướng Lê Minh Đảo, đã chiến đấu kiên cường, chiến đấu tay đôi trong nhiều trường hợp trong khi tiến hành rút lui có trật tự vào thành phố, nơi họ thiết lập một phòng tuyến vội vã nhưng chắc chắn. Một trong những lý do khiến những người lính này chiến đấu rất cừ là vì họ được chỉ huy một cách khéo léo.  Tướng Đạo tuyên bố một cách thách thức, “Tôi thề sẽ giữ Xuân Lộc. Tôi không quan tâm đối phương có bao nhiêu sư đoàn tấn công tôi, tôi sẽ đánh bại chúng.”

Ông và các sĩ quan của ông ở lại và chiến đấu cùng với những bịnh lính của mình, một tình huống không thường thấy trong những thảm họa trước đó ở phía bắc trong các Quân khu I và II. Ngoài ra, binh  lính đã chiến đấu rất cật lực vì họ không phải lo lắng về gia đình mình, bởi hầu hết thân nhân họ đã được sơ tán đến Sài Gòn trước khi trận chiến chính bắt đầu. Một yếu tố khác trong thành công ban đầu của trận phòng thủ tại Xuân Lộc là Sư đoàn 341 quân Bắc Việt, chủ yếu gồm những tân binh, kinh nghiệm non nớt, không phải là một đơn vị tinh nhuệ.

Bản đồ 18. Trận chiến Xuân Lộc, tháng 4 năm 1975.

Sáng ngày 10 tháng 4, Trung đoàn 43 QLVNCH  đã tiến hành nhiều cuộc phản công liên tiếp vào quân địch, khiến họ phải thoái lui.  Thiếu tướng Lê Trọng An, chỉ huy quân đoàn Bắc Việt, đã ra lệnh tung các trung đoàn dự bị từ các sư đoàn 6 và 7 vào cuộc chiến, nhưng QLVNCH vẫn kiên trì giữ vững các vị trí của mình trong và xung quanh Xuân Lộc. Dũng, người đã quen với việc giành được chiến thắng như chẻ tre không cần chiến đấu, đã rất ấn tượng với “sự ngoan cường của kẻ thù”. Lúc này Xuân Lộc đã trở thành một đống đổ nát bốc cháy. Nhiếp ảnh gia tạp chí Time Dirck Halstead đã đưa tin rằng “hầu như mọi tòa nhà đều bị phá hủy. Những xác chết cháy đen của những bộ đội Bắc Việt nằm rải rác trên đường phố, nơi rõ ràng là đã diễn ra giao tranh ác liệt trong từng ngôi nhà không lâu trước đó”. Mặc dù điều kiện bên trong thành phố rất khủng khiếp, lực lượng VNCH vẫn cố thủ không chịu đầu hàng. Thật không may, họ bị cô lập, vì quân địch đã chặn đường cao tốc phía tây thành phố, do đó ngăn cản được quân tiếp viện từ Sài Gòn.  Ngày 11 tháng 4, quân Bắc Việt một lần nữa thực hiện một cuộc tấn công dữ dội, đánh vào Trung đoàn 52 ở phía tây bắc thành phố dọc theo Đường 20 và Trung đoàn 43 cùng Tiểu đoàn Biệt động quân 82 ở trung tâm thành phố. Bộ Tổng tham mưu, lo sợ rằng quân Bắc Việt đang tìm cách bao vây Xuân Lộc, đã ra lệnh tung quân từ Củ Chi tấn công các chốt chặn dọc theo Đường 1 và đã vận chuyển hai tiểu đoàn của Lữ đoàn Nhảy dù số 1 bằng trực thăng đến một khu vực ngay phía nam Xuân Lộc. Hiện giờ lực lượng có nhiệm vụ bảo vệ Xuân Lộc, là hơn 25.000 binh sĩ VNCH, chiếm gần một phần ba số còn lại của Quân lực miền Nam.

Với sự hỗ trợ chặt chẽ của Không quân Việt Nam, những người lính của Sư đoàn 18 bắt đầu giành được ưu thế trong trận chiến. Trung đoàn 43 đã đẩy quân Bắc Việt ra khỏi trung tâm thành phố, Trung đoàn 52 vẫn giữ nguyên vị trí dọc theo Đường 20, và Sư đoàn Nhảy dù 1 đang chiến đấu theo hướng nam. Được khích lệ bởi sức chống trả quyết liệt của quân miền Nam, Tướng Smith đã gửi một thông điệp tới các Tham mưu trưởng Liên quân, tuyên bố rằng quân miền Nam “đã thắng hiệp một” của trận chiến Xuân Lộc. Ông ca ngợi “lòng dũng cảm và hăng say của quân đội Chính phủ Việt Nam” và kết luận rằng thành tích của họ “dường như đã giải quyết được câu hỏi tạm thời là, ‘Quân đội miền Nam có chiến đấu được không?’”

Cả quân miền Nam và Nhà Trắng Ford đều tạm thời được khích lệ bởi sự kiên cường của Sư đoàn 18 miền Nam tại Xuân Lộc.  Trong nhiều tuần, các cố vấn của Ford đã cung cấp cho tổng thống những ước tính ngày càng bi quan về khả năng sụp đổ hoàn toàn của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Đô đốc Gaylor, CINCPAC, đã báo cáo từ Honolulu rằng “Sài Gòn chỉ có thể cầm cự được vài tuần. . . . Trừ khi Hoa Kỳ can thiệp mạnh mẽ hoặc một sự tạm dừng có chủ đích của Bắc Việt, nếu không nó sẽ biến mất.” Cuối cùng thì cũng có tin tốt. Chính quyền hy vọng rằng vì thế tại Xuân Lộc sẽ thuyết phục Quốc hội rằng Nam Việt Nam có thể xứng đáng được giải cứu, nhưng điều đó đã không xảy ra. Bất chấp lòng quả cảm của những chiến sĩ VNCH ở Tỉnh Long Khánh, hầu hết các dân biểu đều cảm thấy như Robert Michael của đảng Cộng hòa Illinois, ông ta đã báo cáo rằng các cử tri của mình tin rằng tính miễn cưỡng chiến đấu của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam đã chỉ ra rằng Hoa Kỳ “chỉ nên cung cấp viện trợ nhân đạo”.

Khi Washington và Sài Gòn theo dõi trận chiến ở tỉnh Long Khánh, Tướng Dũng, không muốn bị trói buộc trong một trận chiến ở ngoại vi Sài Gòn, đã thúc giục lực lượng của mình tăng gấp đôi nỗ lực để tiêu diệt lực lượng bảo vệ tại Xuân Lộc. Ông đã điều động Trung đoàn 95B được hỗ trợ thiết giáp vào trận chiến chống lại Trung đoàn 52. Đồng thời, ông ra lệnh cho Cụm pháo binh 75 nhắm các khẩu pháo 130 mm tầm xa của mình vào căn cứ không quân Biên Hòa để giữ chân Không quân Việt Nam trên mặt đất. Ông ra lệnh cho Quân đoàn II, đang trong quá trình chiếm Phan Rang, tiếp tục tiến về phía nam dọc theo bờ biển để chiếm Phan Thiết, sau đó xoay về phía tây để đánh Xuân Lộc nếu miền Nam vẫn giữ được thành phố Xuân Lộc vào thời điểm họ đến đó. Các trận chiến sau đó đã diễn ra rất ác liệt ở cả hai bên.  Quân đội Nam Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ rất tốt, nhưng vào buổi tối ngày 14 tháng 4, khi quân đội Bắc Việt áp sát quân phòng thủ VNCH, các đơn vị của Sư đoàn 6 Bắc Việt đã lén lút luồn lách đi bọc qua các vị trí miền Nam và di chuyển xuống Đường 1 hướng về Trảng Bom trên đường đến Biên Hòa, vốn là chướng ngại vật cuối cùng giữa quân Bắc Việt và Sài Gòn.

Sư đoàn 18 QLVNCH đã chiến đấu anh dũng, nhưng đến ngày 15 tháng 4, quân số và hỏa lực vượt trội của đối phương đã đảo ngược tình thế. Một nhà phân tích quân sự phương Tây đã nhận xét: “Giống như chạy đua hai mươi dặm với một thí sinh chạy một mình hết quãng đường trong khi thí sinh kia chạy tiếp sức bốn người. Đơn giản là QLVNCH không thể nào giành chiến thắng.” Tướng Đạo buộc phải sơ tán lực lượng của mình ra khỏi thành phố. Vào ngày 16 tháng 4, trực thăng đã giải cứu những người sống sót của Trung đoàn 43.  Cùng ngày đó, quân Bắc Việt cuối cùng đã đánh bại Trung đoàn 52, lúc này đã mất 70 phần trăm quân số ban đầu. Quân Bắc Việt đã chiếm Xuân Lộc trong trận đánh lớn cuối cùng của cuộc chiến. Theo một quan sát viên, quân miền Nam đã chiến đấu “xuất sắc”, buộc bộ tư lệnh quân Bắc Việt phải sử dụng trận chiến như một “cối xay thịt”, hy sinh các đơn vị của mình để tiêu diệt lực lượng QLVNCH không thể thay thế. Sư đoàn 18 đã cầm cự trong ba tuần trước muôn vàn khó khăn, phá hủy 37 xe tăng địch và giết hơn 5.000 kẻ thù. Nếu phần còn lại của quân miền Nam cũng chiến đấu kiên cường và quả cảm như Sư đoàn 18, thì kết quả của cuộc chiến có thể đã khác hẳn.

Sự sụp đổ của Xuân Lộc đã giáng một đòn chí mạng vào yêu cầu viện trợ bổ sung của Tổng thống Ford. Khi lời điều trần của các thành viên trong chính quyền Mỹ không thuyết phục được Quốc hội hành động, Ford đã lên tiếng công kích. Vào ngày 16 tháng 4, phát biểu trước Hiệp hội Biên tập viên Báo chí Hoa Kỳ, tổng thống một lần nữa cáo buộc Quốc hội đã từ bỏ nghĩa vụ hỗ trợ miền Nam của Hoa Kỳ. Ông nói, “Tôi chỉ muốn phát ốm khi vào phút cuối cùng của quý cuối cùng, đất nước đã không thực hiện nỗ lực đặc biệt đó, một cam kết nhỏ, gói viện trợ bổ sung cho kinh tế và quân sự” cần thiết để tránh được “tình hình bi thảm này”. Những bình luận như vậy không giúp ích gì cho sứ mệnh của Ford, vì chúng khơi dậy thêm sự thù địch của Quốc hội về những cam kết “bí mật” được cho là của Nixon và làm bùng lên cơn thịnh nộ của những người đã kiên quyết phản đối viện trợ thêm cho Sài Gòn.

Vào ngày 16 tháng 4, khi những binh sĩ sống sót sau trận chiến Xuân Lộc đang được di tản, Nguyễn Tiến Hưng, với tư cách là phái viên cá nhân của Tổng thống Thiệu, đã đến Washington để biện hộ cho Sài Gòn. Ông mang theo hồ sơ chứa các lá thư của Nixon và Ford đã hứa sẽ hỗ trợ cho miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của ông là tìm cách hoãn cuộc bỏ phiếu về khoản phân bổ bổ sung trong khi ông theo đuổi một giải pháp thay thế cho dự luật. Ông sẽ kêu gọi Ford vay 3 tỷ đô la mỗi năm trong ba năm, với lãi suất do Quốc hội quyết định. Trong một lá thư mà Hưng trình lên Ford, Thiệu nói số tiền này sẽ là “‘khoản vay tự do’, một khoản vay cho phép chúng tôi tự vệ trước bọn xâm lược và mang lại cho chúng tôi cơ hội hợp lý để tồn tại như một quốc gia tự do.” Thiệu tin rằng ông vẫn có thể trụ vững và chống lại Cộng sản ở Đồng bằng sông Cửu Long nếu được đảm bảo tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Sau đó, ông thừa nhận rằng Hưng đã được cử đi “để đóng vai một bộ trưởng nội các trở thành kẻ ăn xin”.

Nhưng để ăn xin thì cũng đã quá muộn. Vào ngày 17 tháng 4, yêu cầu viện trợ của chính quyền đã bị bác bỏ khi Ủy ban Quân vụ Thượng viện bỏ phiếu không phê duyệt khoản viện trợ bổ sung cho Sài Gòn. Đầu tuần, các thành viên ủy ban đã gặp Ford để thảo luận về tình hình ở Đông Nam Á. Ford đã viết trong hồi ký của mình rằng cuộc họp rất căng thẳng và rằng “thông điệp của các Thượng nghị sĩ rất rõ ràng: hãy rút lui, nhanh chóng”. Jacob Javits, đảng viên Cộng hòa của New York, nói rằng, “Tôi sẽ đưa cho các vị một khoản tiền lớn để di tản, nhưng không đưa một xu nào cho viện trợ quân sự”. Mặc dù dự luật vẫn đang được tranh luận tại các ủy ban khác, nhưng đó là một vấn đề đã chết.  Sau đó, Hưng viết rằng mình đã bị choáng váng váng bởi tin tức về cuộc bỏ phiếu của Ủy ban Quân vụ. Nhiệm vụ của ông đã tan vỡ vì “không có ai để nói chuyện về Khoản vay Tự do”.

THIỆU TỪ CHỨC

Vị trí của Thiệu và thậm chí cả sự an toàn cá nhân của ông đã trở nên bấp bênh. Vào ngày 18 tháng 4, đặc công Bắc Việt đã tấn công trạm radar Phú Lâm ở ngoại ô Sài Gòn. Khi Tướng Toàn, tư lệnh Quân đoàn III, gọi điện để thông báo cho tổng thống về cuộc tấn công mới vào trạm radar, ông cũng xác nhận rằng tuyến phòng thủ ở Xuân Lộc đang bên bờ vực sụp đổ và Phan Rang đã thất thủ. Sau đó, ông nói với Thiệu rằng binh lính VNCH đã “ủi sập và san phẳng” khu mộ tổ tiên của Thiệu bên ngoài Phan Rang. Sự xúc phạm khủng khiếp này cho thấy Thiệu đã sa sút đến mức nào trong mắt của đồng bào mình.  Đến lúc này, cựu trung tướng QLVNCH Lâm Quang Thi đã viết, Thiệu đã trở thành “người bị căm ghét nhất ở Việt Nam”.

Sau ngày hôm đó, một nhóm chính trị ôn hòa và các nhân vật đối lập đã đối đầu với Thiệu và nói với ông rằng họ sẽ công khai yêu cầu ông từ chức nếu ông không tự nguyện từ chức trong vòng sáu ngày. Thiệu đã đáp trả bằng cách bắt giữ một số sĩ quan quân đội cấp cao, bao gồm cả tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Phú, người mà ông khẳng định phải chịu trách nhiệm nhiều hơn ông về thảm họa quân sự này. Tướng Đồng Văn Khuyên đã viết sau chiến tranh rằng Thiệu đã tin gần như đến phút cuối cùng rằng người Mỹ sẽ không để ông và đồng bào của mình phải chịu thất bại; nhưng cuối cùng, tổng thống miền Nam cũng nhận ra rằng thời gian đã hết. Thủ đô của ông đã bị quân đội Bắc Việt bao vây, nhân dân không còn ủng hộ ông nữa, và giờ đây rõ ràng là Hoa Kỳ đã bỏ rơi ông.

Vào ngày sau khi yêu cầu viện trợ bổ sung bị bác bỏ, Đại sứ Martin đã gửi điện tín cho Kissinger rằng ông tin rằng các thành viên của Bộ Tổng tham mưu có thể sẽ có động thái loại bỏ tổng thống miền Nam khi rõ ràng là Hoa Kỳ sẽ không cung cấp thêm viện trợ. Martin cho biết ông có ý định đến gặp Thiệu “trừ khi được chỉ thị ngược lại” và bảo ông ta rằng “vị trí của ông trong lịch sử sẽ được đảm bảo hơn khi tất cả những điều thực sự có ý nghĩa mà ông đã hoàn thành được ghi chép lại,” và nếu Thiệu khăng khăng muốn tiếp tục nắm quyền, ông sẽ bị “ghi nhớ vì đã cản trở  thực hiện những nỗ lực cứu vớt những gì còn lại của Việt Nam như một quốc gia tự do hợp lý.” Martin sẽ “hoàn toàn làm rõ” rằng ông chỉ lên tiếng cho chính mình “như một người bạn” và nói thêm rằng “kết luận khách quan và vô tư của ông là nếu Thiệu không làm điều này [tự nguyện rời chức vụ], các tướng lĩnh của ông sẽ buộc ông phải ra đi.” Trong cùng một thông điệp, Martin cũng thúc giục mạnh mẽ vị ngoại trưởng thuyết phục Liên Xô và Trung Quốc hãy sử dụng ảnh hưởng của mình để khiến Bắc Việt chấp nhận lệnh ngừng bắn và các cuộc đàm phán mới. Kissinger trả lời cùng ngày trong một thông điệp có ghi chú “Bí mật. Chỉ dành riêng cho Kênh Martin.” Ông nói với Martin: “Tôi đã thảo luận về [thông điệp] Saigon 710 của ông với Tổng thống. Không có phản đối nào đối với tiến trình của ông như ông đã nêu trong Đoạn 9.” Tổng thống đã bật đèn xanh cho Martin cố gắng thuyết phục Thiệu từ chức.

Kissinger đã gặp Anatoly Dobrynin, đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ, để yêu cầu hỗ trợ. Sau đó, Liên Xô đã truyền đạt thông tin rằng Bắc Việt không có kế hoạch tấn công Sài Gòn trong chiến dịch hiện tại của họ. Đây có thể là cảm nhận của Moscow, nhưng Bắc Việt, tự tin chiến thắng quân sự cuối cùng nằm trong tầm tay, đã quyết tâm nắm bắt cơ hội của mình. Một điệp viên miền Nam, nằm bên trong Trung ương cục Miền Nam từ chiến trường vào ngày 17 tháng 4, báo cáo rằng quân đội Bắc Việt đang có kế hoạch chiếm Sài Gòn; bất kỳ cuộc đàm phán nào, có hoặc không có Thiệu, đều không được đặt ra. Ông ta nói rằng bộ tư lệnh cấp cao của Cộng sản đã thề sẽ vào Sài Gòn để kỷ niệm ngày sinh của Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 5.

Vào tối Chủ Nhật, ngày 20 tháng 4, Đại sứ Martin đã đến thăm Tổng thống Thiệu. Ông mang theo bản ước tính tình báo mới nhất của CIA. Bức tranh mà ông vẽ ra thật ảm đạm. Ông nói với Thiệu: “Tôi tin rằng trong vài ngày nữa, các vị tướng của ông sẽ đến bảo ông từ chức”. Ngoài ra, Martin còn nói rằng Bắc Việt đã đưa ra những dấu hiệu rõ ràng rằng họ sẽ không đàm phán chừng nào Thiệu vẫn còn là tổng thống. Martin không nói với Thiệu rằng ông ta nên từ chức, nhưng cho biết mình  chỉ nói với tư cách là một người bạn chứ không phải với tư cách chính thức, ông bình luận rằng quyết định rời chức vụ là của Thiệu và Thiệu tự đưa ra. Tổng thống miền Nam hỏi liệu việc ông từ chức có thể có tác động tích cực đến cuộc bỏ phiếu viện trợ tại Quốc hội hay không. Martin trả lời rằng điều đó có thể giúp ích, nhưng có lẽ không — rằng đó là một “cuộc mặc cả đã qua rồi”. Thiệu lặng lẽ lắng nghe tất cả những điều này và đảm bảo với đại sứ rằng ông sẽ “làm điều gì tốt nhất cho đất nước”.

Cuối ngày hôm đó, Thiệu được Đại sứ Pháp Jean-Marie Merillon đến thăm. Đại sứ cũng nói với tổng thống rằng mình đã nghe tin đồn có nhiều vị tướng đã chuẩn bị buộc ông phải từ chức nếu ông không chịu từ chức. Không rõ liệu thực sự có một âm mưu loại bỏ Thiệu hay không. Tướng Viên, đứng đầu Tổng Tham mưu Liên quân, sau đó cho rằng Martin và Merillon đã sai: “Tôi chắc chắn rằng về phía chúng tôi hoàn toàn không có áp lực nào từ bất kỳ vị tướng nào buộc Thiệu phải từ chức”. Tuy nhiên, Viên thừa nhận đã gặp một nhóm bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn và Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, nhưng nhấn mạnh rằng nhóm này họp để thảo luận về tình hình chứ không phải để âm mưu chống lại Thiệu. Một số nhà quan sát cho rằng nhóm này có kế hoạch kêu gọi Thiệu từ chức.

Bất kể bản chất của các cuộc họp, ngày hôm sau, trong nỗ lực ngăn chặn bất kỳ sự lật đổ nào, Thiệu đã triệu tập các thành viên chủ chốt trong chính phủ của mình đến Dinh Độc lập. Ông bắt đầu bằng cách kể lại chi tiết các cuộc thảo luận của mình với Đại sứ Martin và Merillon. Sau đó, ông nói rằng ông sẽ đưa ra quyết định dựa trên phản ứng của họ và liệu họ có coi ông là trở ngại cho hòa bình hay không. Không ai nói một lời. Theo cố vấn của tổng thống Nguyễn Hưng, Thiệu ngay lúc đó đã quyết định từ chức.

Ngày hôm sau Thiệu xuất hiện trước một phiên họp toàn thể của Quốc hội. Trong bài phát biểu dài ba giờ được truyền hình toàn quốc này, một bài diễn văn dài dòng và đầy cảm xúc, ông đã chỉ trích Hoa Kỳ vì đã không thực hiện đúng các cam kết của mình: “Hoa Kỳ đã không tôn trọng các lời hứa của mình. Thật vô nhân đạo. Thật bất tín. Thật vô trách nhiệm.” So sánh cuộc tranh luận gần đây của quốc hội Mỹ về yêu cầu viện trợ bổ sung với “việc mặc cả ở chợ cá”, ông nói rằng ông “không thể để người khác mặc cả về sinh mạng của những người lính chúng ta”. Sau đó, ông tuyên bố quyết định từ chức và chuyển giao chính phủ cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Thiệu kết luận: “Tôi ra đi hôm nay. Tôi xin đồng bào, lực lượng vũ trang và các nhóm tôn giáo tha thứ cho những sai lầm trong quá khứ của tôi khi còn nắm quyền. Đất nước và tôi sẽ biết ơn các bạn. Tôi thật không xứng đáng. Tôi từ chức, nhưng tôi không đào ngũ”. Ngày hôm sau, với sự hỗ trợ của các quan chức Hoa Kỳ, Thiệu rời Sài Gòn đến Đài Loan.

Vào thời điểm Hương nhậm chức, trận chiến ở Xuân Lộc, mặc dù vẫn chưa kết thúc, đã được định đoạt. Quân Bắc Việt, tiến gần hơn đến Sài Gòn mỗi phút, không quan tâm đến việc đàm phán với tổng thống mới hoặc bất kỳ ai khác.  Hãng thông tấn chính thức của Bắc Việt gọi sự thay đổi trong lãnh đạo là một “chương trình múa rối” và lên án chính quyền mới là “chế độ Thiệu mà không có Thiệu”.

Tuy nhiên, Hương đã cố gắng tiếp cận những người Cộng sản.  Ông kêu gọi một lệnh ngừng bắn ngay lập tức và thành lập Hội đồng Hòa giải Quốc gia theo Hiệp định Hòa bình Paris.  Ông cũng đề xuất Chuẩn Tướng Phan Hòa Hiệp làm thành viên đặc biệt đến Hà Nội.  Bắc Việt trả lời một cách trịch thượng rằng đề xuất ngừng bắn của Hương “không lừa dối được ai” và “không thể nào giúp người Mỹ tránh khỏi thảm bại”.

 Vào thời điểm này, chú ý ​​của người Mỹ đã chuyển tâm sang cuộc tản cư.  Vào ngày 23 tháng 4, Ford đã phát biểu tại Đại học Tulane ở New Orleans.  Tổng thống nói rằng, “Nước Mỹ có thể lấy lại được cảm giác tự hào đã tồn tại trước Việt Nam.  Nhưng nước Mỹ không thể đạt được điều đó bằng cách tái chiến một cuộc chiến đã kết thúc đối với người Mỹ”. Cùng ngày hôm đó, Đại sứ Martin đã gửi điện cho Kissinger rằng sắp đến lúc thực hiện Frequent Wind (Chiến dịch Gió lốc), tức cuộc sơ tán người Mỹ khỏi Sài Gòn.

SỰ SỤP ĐỔ CỦA SÀI GÒN

Trong khi chính quyền mới của miền Nam tìm kiếm một cách vô vọng giải pháp cứu lấy Sài Gòn, Tướng Dũng và ban tham lam của ông đã hoàn thành công tác chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công cuối cùng. Vào ngày 22 tháng 4, Dũng đã nhận được một thông điệp từ Bộ Chính trị chỉ thị cho ông phát động “cuộc tấn công vào kẻ thù từ mọi hướng không chậm trễ. Hành động ngay bây giờ là bảo đảm chắc chắn chúng ta sẽ giành được chiến thắng hoàn toàn.” Kế hoạch của Dũng, một biến thể của chiến thuật “hoa sen nở rộng” từng được sử dụng rất hiệu quả ở Ban Mê Thuột, kêu gọi các mũi đột kích nhanh chóng chiếm lấy 5 cứ điểm chủ chốt trong thành phố: Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia, Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất và Bộ Tư lệnh Quân Khu Thủ đô, trụ sở chỉ huy các đơn vị QLVNCH bảo vệ thành phố  Dũng lý luận luận rằng một khi những “trung tâm thần kinh quan trọng này bị đập tan… quân đội và chính quyền Sài Gòn sẽ như một con rắn không đầu. Những gì còn lại của hệ thống phòng thủ và đàn áp của họ sẽ tan rã, quần chúng sẽ nổi dậy … và Sài Gòn sẽ được giải phóng nhanh chóng.”

 Sài Gòn hiện được bảo vệ bởi tàn quân của năm sư đoàn QLVNCH dàn trận thành một vòng tròn cách trung tâm thành phố từ 30 đến 50 km. Dũng không muốn một trận chiến dây dưa với các lực lượng này cũng như việc họ rút lui vào thành phố, nơi quân đội của ông sẽ phải chiến đấu với họ từng nhà một. Do đó, ông đề xuất chia nhỏ lực lượng của mình. Trong khi một bộ phận quân đội của ông trói chặt quân miền Nam ở khu vực bên ngoài, lực lượng còn lại sẽ tiến vào trung tâm thành phố. Để thực hiện kế hoạch này, ông đã cho điều động lực lượng bảo vệ các tuyến đường chính, cầu và các vị trí then chốt dẫn vào Sài Gòn để chuẩn bị cho một cuộc tấn công bằng xe bọc thép thọc vào các cơ sở then chốt. Đồng thời, ông đề xuất sử dụng pháo binh, một khẩu đội tên lửa phòng không SA-2 và một nhóm máy bay ném bom A-37 đã tịch thu được của miền Nam để đánh bật Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất.

Dũng ấn định các mũi tấn công vành đai vào ngày 26 tháng 4 và cuộc tấn công chính vào trung tâm thành phố vào ngày hôm sau. Sau khi hoàn thiện kế hoạch, Dũng ra lệnh cho lực lượng của mình, hiện có tổng cộng hơn 130.000 quân, vào các vị trí tấn công (xem bản đồ 19). Quân đoàn Bắc Việt IV (ba sư đoàn), sau khi chiếm được Xuân Lộc và Trảng Bom, sẽ tiếp tục đi xuống Đường 1 từ phía đông để tấn công Biên Hòa và sau đó là Sài Gòn. Quân đoàn Bắc Việt II (bốn sư đoàn) di chuyển xuống Đường 2 hướng về Bà Rịa và Vũng Tàu.

Bản đồ 19. Chiến dịch Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 1975.

Ở phía tây nam, Lực lượng Chiến thuật 232 (bốn sư đoàn) và một số trung đoàn độc lập chuẩn bị tấn công các vị trí của QLVNCH dọc theo Đường 4 để cắt đứt đường vào Sài Gòn từ Đồng bằng sông Cửu Long.  Ở phía tây bắc, Quân đoàn 3 (bốn sư đoàn) chuẩn bị tấn công Sư đoàn 25 QLVNCH tại các vị trí của họ dọc theo Đường 1 ở gần Trảng Bàng và Củ Chi. Khi các quân đoàn khác hoàn thành việc di chuyển của mình, ba sư đoàn dự bị của Quân đoàn 1 Bắc Việt đã đến các khu vực tập kết phía đông Bến Cát. Trận chiến đỉnh cao để bảo vệ sự sống còn của miền Nam sắp bắt đầu.

Vào ngày 26 tháng 4, quân Bắc Việt đã phát động các cuộc tấn công hỗ trợ bởi các sư đoàn 6, 7 và 341 của Quân đoàn Bắc Việt vào Biên Hòa và căn cứ cũ của Hoa Kỳ tại Long Bình. Cùng lúc đó, các sư đoàn 304 và 325 của Quân đoàn Bắc Việt đã tấn công các vị trí QLVNCH tại Long Thành nhằm cắt đứt Đường 15, tuyến đường bộ còn lại giữa Sài Gòn và Vũng Tàu trên bờ biển. Sư đoàn 312 Sao Vàng đã tấn công Bà Rịa, tại chân Bán đảo Vũng Tàu.  Các cuộc tấn công hỗ trợ sẽ cầm chân những lực lượng bảo vệ QLVNCH tại chỗ, để họ không thể tăng viện cho Sài Gòn khi thành phố bị tấn công trực diện.

Vào sáng sớm ngày 27 tháng 4, cuộc tấn công chính của quân Bắc Việt vào Sài Gòn bắt đầu. Sau một loạt tên lửa, lực lượng quân Bắc Việt “tấn công như một cơn bão” từ năm hướng. Họ tiến lên nhanh chóng. Về phía đông, Quân đoàn IV  Bắc Việt đã áp sát Biên Hòa, trong khi hai sư đoàn tràn qua Long Thành sau một trong những trận chiến xe tăng dữ dội nhất của cuộc chiến. Về phía nam, Lực lượng Chiến thuật 232 đã cắt Đường 4 cách thành phố 19 km, giao tranh với các đơn vị của sư đoàn 7, 9 và 22 VNCH. Về phía đông nam, Sư đoàn 3 của quân Bắc Việt đã công kích Sư đoàn 3 QLVNCH được xây dựng lại và tàn dư của Lữ đoàn Nhảy dù 1, đẩy lùi họ ra khỏi Bà Rịa và áp sát Vũng Tàu.  Về phía bắc và tây bắc, Quân đoàn III Bắc Việt phong tỏa đường 1 giữa Tây Ninh và Sài Gòn, bao vây Sư đoàn 25 VNCH tại Củ Chi.

Khi quân Bắc Việt tiến gần đến thành phố, các chính trị gia miền Nam đang tranh luận xem ai nên lãnh đạo đất nước. Mặc dù nhiều người cảm thấy rằng Tổng thống Hương sẽ từ chức ngay sau khi nhậm chức để ủng hộ một người mạnh hơn có thể lãnh đạo cuộc chiến chống lại Cộng sản hoặc đàm phán một thỏa thuận, nhưng ông đã không làm như vậy. Hương là một  ông già tốt bụng, nhưng ông bị hen suyễn và xơ vữa động mạch và không đáp ứng được yêu cầu của cuộc khủng hoảng hiện tại. Ông sớm phải chịu áp lực lớn phải từ chức. Sau một thời gian do dự, Hương, viện dẫn sự tôn trọng hiến pháp, nói rằng nếu Quốc hội không muốn giữ ông làm tổng thống nữa, thì họ phải bỏ phiếu bãi nhiệm ông. Quốc hội trả lời rằng Hương phải từ chức.  Cùng lúc đó, một cuộc tranh luận gay gắt nổ ra trong hội nghị giữa những người ủng hộ Thiệu theo đường lối cũ, những người ủng hộ việc đưa Tướng Dương Văn Minh  (Big Minh) lên nắm quyền, và những người khác thì cho rằng Tư lệnh Không quân Nguyễn Cao Kỳ nên được bầu làm tổng thống để tiếp tục cuộc chiến.

Trong khi cuộc tranh cãi về chức tổng thống diễn ra dữ dội, Quân đội Bắc Việt tiếp tục khép chặt vòng vây quanh Sài Gòn. Cuối cùng, vào ngày 27 tháng 4, ngay sau khi bốn tên lửa BV bắn vào thành phố, Hương triệu tập Quốc hội “để chọn ra một nhân vật chính trị thay thế nguyên thủ quốc gia và đàm phán với phía bên kia”. Vào lúc 6:45 tối, Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm triệu tập hội nghị và đọc bức thư của Chủ tịch Hương. Thừa nhận rằng “chúng ta đã thua” và “không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đàm phán”, Hương tuyên bố rằng ông đang sẵn sàng trao lại quyền điều hành chính phủ cho Tướng Minh, người từ lâu khoe khoang về các mối quan hệ của mình với phe Cộng sản. Sau khi bức thư được đọc, Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, cùng với Tướng Viên Tổng tham mưu trưởng và Trung tướng Nguyễn Văn Minh, chỉ huy phòng thủ Sài Gòn, đã tóm tắt tình hình quân sự ảm đạm. Ngay sau đó, hội đồng, với một phần ba số thành viên bỏ phiếu trắng, đã bỏ phiếu bầu Big Minh làm tổng thống, giao cho ông nhiệm vụ “tìm cách khôi phục hòa bình cho miền Nam”. Những người bỏ phiếu cho vị tổng thống mới rõ ràng hy vọng rằng ông sẽ sử dụng các mối quan hệ của mình để mở các cuộc đàm phán với phía Bắc Việt. Hy vọng như vậy là không thực tế. Phe Cộng sản đang nắm thế thượng phong trên chiến trường, và chiến thắng cuối cùng đã ở trong tầm tay họ. Bộ Chính trị đã nhất trí quyết định chống lại một giải pháp đàm phán, bất kể bất kỳ thay đổi chính trị nào ở Sài Gòn.

Vào lúc rạng sáng ngày 28 tháng 4, quân biệt kích  Bắc Việt từ Quân đoàn IV đã chiếm được đầu bên kia của Cầu Tân Cảng, chỉ cách trung tâm Sài Gòn 5 km, cắt đứt tuyến đường bộ duy nhất còn lại giữa thủ đô và Biên Hòa. Lực lượng xâm nhập Bắc Việt đã tiến vào thành phố trong nhiều ngày qua, chen lẫn vào những đoàn người tị nạn đổ về Sài Gòn để tránh xa vùng giao tranh. Khi vào được bên trong thành phố, chúng tự tái lập thành các tổ từ 10 đến 15 người. Mỗi tổ được giao một mục tiêu cụ thể. Danh sách mục tiêu bao gồm các cơ sở chính như doanh trại, bãi đạn dược và đồn cảnh sát. Các tổ này sẽ tham gia hành động khi lực lượng chính của quân Bắc Việt bắt đầu tấn công Sài Gòn. Lực lượng xâm nhập khác được giao nhiệm vụ bảo vệ các cây cầu để trấn áp quân miền Nam tìm cách ngăn chặn đoàn xe tăng và đoàn xe cơ giới tiến vào thành phố.  Một phóng viên người Ý sau đó đã viết rằng ông đã được một sĩ quan cấp cao của Bắc Việt cho biết hơn 1.500 lính biệt kích đã xâm nhập vào thành phố trong tuần trước khi miền Nam đầu hàng.

Vào lúc 5:15 chiều ngày 28 tháng 4, khi quân Bắc Việt đang chuẩn bị lần cuối cùng cho cuộc tấn công vào Sài Gòn, Chủ tịch Hương chính thức từ chức trong một buổi lễ tại Dinh Độc Lập. Hương phát biểu trước, nói với Minh: “Tướng quân, nhiệm vụ của ngài rất nặng nề, nhưng nếu ngài toàn tâm toàn ý cứu đất nước… và phấn đấu để lập lại hòa bình và đảm bảo rằng việc  đổ máu sẽ chấm dứt, thì những công lao mà ngài đã làm sẽ được các thế hệ trẻ ghi nhớ mãi mãi.” Khi Minh bước lên bục, ông nói, “Tôi không thể hứa với ngài điều gì. Trong những ngày tới, chúng ta sẽ không có gì ngoài những khó khăn, những khó khăn khủng khiếp. Những quyết định phải đưa ra là nghiêm trọng và quan trọng, tư thế chúng ta là một tư thế khó khăn.” Ông dừng lại một lúc và sau đó một phóng viên đã viết rằng mình và các đồng nghiệp có mặt nghĩ rằng Minh sắp tuyên bố đầu hàng. Tuy nhiên, vị tổng thống mới tiếp tục, “Mệnh lệnh cho quân lính của chúng ta là ở lại nơi họ đang ở, bảo vệ vị trí của mình, bảo vệ bằng tất cả sức mạnh lãnh thổ còn lại của chúng ta.” Sau đó, ông tuyên bố: “Tôi chấp nhận trách nhiệm tìm cách đạt được lệnh ngừng bắn, đàm phán, hòa bình trên cơ sở Hiệp định Paris. Tôi sẵn sàng chấp nhận bất kỳ đề xuất nào theo hướng này.” Như một cử chỉ thiện chí, ông tuyên bố rằng ông sẽ phóng thích tất cả tù chính trị và dỡ bỏ các hạn chế đối với báo chí. Ông kết luận bằng cách kêu gọi những người đang tìm cách chạy trốn khỏi đất nước “hãy ở lại đây để cùng chúng tôi và tất cả những người có thiện chí xây dựng một miền Nam mới cho tương lai.”

Ngay khi Minh kết thúc bài phát biểu của mình, 5 chiếc A-37 bị địch tịch thu tấn công Tân Sơn Nhất, phá hủy ba chiếc AC-119 và một số chiếc C-47. Do đó, cuộc không kích duy nhất của Bắc Việt trong cuộc chiến này là câu trả lời cho nỗ lực thúc đẩy các cuộc đàm phán của Minh. Phe Cộng sản cũng phát sóng phản hồi sau đây trên Đài Giải phóng một giờ sau bài phát biểu của Minh:

Sau khi tên phản bội Nguyễn Văn Thiệu ra đi, những kẻ thay thế y, cụ thể là bè lũ Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu, vẫn kiên quyết giữ vững cuộc chiến của chúng, giữ vững lãnh thổ hiện tại của chúng trong khi kêu gọi đàm phán. Rõ ràng là bè lũ này vẫn tiếp tục ngoan cố kéo dài cuộc chiến để duy trì chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nhưng họ không lừa được ai cả. Cuộc chiến sẽ không dừng lại cho đến khi toàn bộ quân đội Sài Gòn hạ vũ khí và tất cả các tàu chiến Mỹ phải rời khỏi vùng biển miền Nam. Hai điều kiện của chúng ta phải được đáp ứng trước khi có bất kỳ lệnh ngừng bắn nào.

Trong khi phi công Bắc Việt tấn công Tân Sơn Nhất và người miền Nam chuyển giao quyền lực cho Tướng Minh, lực lượng Bắc Việt di chuyển vào vị trí cho cuộc tấn công cuối cùng vào Sài Gòn. Về phía đông nam của thành phố, Sư đoàn quân Bắc Việt 325 đã đến thị trấn Nhơn Trạch, từ đó các khẩu pháo 130 mm tầm xa của họ có thể bắn vào Tân Sơn Nhất. Về phía tây thủ đô, một sư đoàn quân Bắc Việt khác dưới quyền Thiếu tướng Di Thiên Tích ban ngày thì ẩn mình. Khi trời tối, lực lượng di chuyển vào các vị trí tấn công dọc theo sông Vàm Cỏ, chảy dọc theo rìa phía tây nam của Sài Gòn. Sau này, Dũng đã viết rằng “không còn nơi nào an toàn” cho lực lượng ngụy quyền.

Về phía đông Sài Gòn, sau một trận pháo kích qua đêm, cuộc tấn công cuối cùng vào Biên Hòa đã bắt đầu. Trung tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn III, đã rời Biên Hòa về Sài Gòn.  Khi tiếng đạn pháo nổ, phần còn lại của ban tham mưu của Toàn cũng bỏ chạy. Tạp chí Time, đưa tin rằng Toàn đã thừa nhận riêng tư rằng trận chiến giành Sài Gòn đã thua, trích lời một quan sát viên quân sự Hoa Kỳ nói rằng hầu hết các lãnh đạo cấp cao của QLVNCH đã thực sự cam chịu sự thảm bại: “Tinh thần và sự lãnh đạo của họ đang trôi tuột đi.” Quan điểm ảm đạm của các nhà lãnh đạo đã có tác động tàn phá đến các lực lượng được cho là đang chiến đấu trong trận chiến đỉnh cao giành Sài Gòn. Như một phi công trẻ của không quân miền Nam sau này đã nói, “Chúng tôi—những người trẻ tuổi—chúng tôi mong đợi sẽ tiếp tục chiến đấu. Nhưng làm sao chúng tôi có thể chiến đấu khi không còn tướng lĩnh nào chỉ huy chúng tôi nữa?”

Vào sáng sớm ngày 29 tháng 4, quân đội Bắc Việt bắt đầu một cuộc tấn công bằng tên lửa vào Tân Sơn Nhất. Trong cuộc tấn công, hai Thủy quân Lục chiến Mỹ bảo vệ an ninh đã thiệt mạng.Trung sĩ Darwin Judge và Hạ sĩ Charles McMahon Jr. là những quân nhân Mỹ cuối cùng hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam.

Quân Bắc Việt tiếp nối cuộc pháo kích tên lửa bằng các quả đạn pháo bắn ra từ các khẩu pháo 130 mm tầm xa ở Nhơn Trạch. Hỗn loạn bùng phát khi binh lính và phi công miền Nam tranh nhau leo lên bất cứ thứ gì có thể bay được. Phi hành đoàn của một chiếc C-130 chở quá tải đã đẩy binh lính ra khỏi thang dốc hàng hóa phía sau để máy bay có thể đạt đủ tốc độ chạy trên đường băng để cất cánh. Một chiếc máy bay khác, một chiếc C-7 Caribou vận tải, đã quay khỏi đường băng, đâm sầm và bốc cháy. Các phi công Không quân Việt Nam điều khiển bất cứ thứ gì có thể bay được và cất cánh đến Thái Lan; cuối cùng 132 máy bay đã đáp xuống Căn cứ Không quân U Tapao ở Thái Lan.

Cùng ngày hôm đó, Trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh Không quân Việt Nam, và một nhóm gồm 30 sĩ quan không quân cao cấp có vũ trang đã xông vào khu liên hợp DAO tại Tân Sơn Nhất và yêu cầu họ phải được sơ tán ngay lập tức.  Tướng Smith chỉ đạo tùy viên không quân phụ tá của mình, Trung tá Dick Martin, thông báo với các sĩ quan rằng họ sẽ bị bắn ngay tại chỗ trừ khi họ buông vũ khí và bình tĩnh lại. Họ đã làm đúng yêu cầu và Martin đã nhốt họ. Sau đó, họ được sơ tán. Trong đánh giá cuối cùng, DAO sau đó đã báo cáo rằng sự cố này “báo hiệu tình trạng mất hoàn toàn quyền chỉ huy và kiểm soát” của lực lượng không quân “và làm trầm trọng thêm tình hình vẫn đang xấu đi”.

Trong khi cơn tuyệt vọng và nỗi kinh hoàng đang ngự trị tại Tân Sơn Nhất, Tổng thống Ford đã triệu tập một cuộc họp với các cố vấn của mình tại Nhà Trắng. Sau nhiều cuộc thảo luận, Tổng thống Ford đã chỉ đạo thực hiện các giai đoạn cuối của Chiến dịch Gió Lốc. Các cuộc tấn công bằng đạn pháo và tên lửa đã loại trừ khả năng cho bất kỳ cuộc sơ tán nào nữa bằng máy bay cánh cố định từ Tân Sơn Nhất.  Trong nhiều ngày tiếp theo, trực thăng của Hoa Kỳ đã vận chuyển khoảng 7.100 quân nhân và nhân viên dân sự của Hoa Kỳ và Việt Nam ra khỏi Sài Gòn, nhiều trực thăng bốc lên từ mái tòa nhà đại sứ quán. Các tàu hải quân đã vận chuyển hơn 70.000 dân miền Nam đến các tàu của Hoa Kỳ ở Biển Đông. Trong một trong nhiều thảm kịch của cuộc chiến, người Mỹ đã bỏ lại 420 người Việt đã làm việc cho họ và đã được hứa sẽ cho sơ tán. Đại tá Harry Summers, một sĩ quan quân đội được giao nhiệm vụ tại Đại sứ quán Hoa Kỳ, sau đó đã viết rằng sự cố này là “một ngày đáng xấu hổ đối với nước Mỹ” và việc sơ tán đại sứ quán là “Lịch sử Chiến tranh Việt Nam thu nhỏ”. Như những gì đã xảy ra trong phạm vi lớn hơn, người Mỹ đã đưa ra những lời hứa hẹn mà họ không thực hiện được.

Khi cuộc sơ tán của người Mỹ bắt đầu nóng lên, cảnh tượng hỗn loạn đã nhấn chìm thành phố. Đám đông xuống đường, lật đổ xe hơi, đốt phá các tòa nhà và cướp bóc. Những căn hộ và văn phòng cũ của người Mỹ là mục tiêu chính của những tên hôi của, chúng lấy đi mọi thứ có thể mang được, thậm chí cả vật dụng trong phòng tắm. Một phóng viên sau đó đã viết: “Trong chớp mắt, chúng mở ngăn kéo, xé rèm cửa, đổ hết đồ trong tủ lạnh, lấy khăn trải giường, chăn, bát đĩa, ghế xoay, máy đánh chữ, quạt máy . . . . Đó là một màn biểu diễn ấn tượng về cơn thịnh nộ, điên cuồng và hả hê của những kẻ có máu hôi của.”

Các đoàn quân Bắc Việt tiến chậm rãi vào trung tâm thành phố, gặp rất ít sức kháng cự. Bộ chỉ huy quân sự Sài Gòn hầu như không còn tồn tại. Gần 7:00 tối, tân Tổng tham mưu trưởng, Trung tướng Vĩnh Lộc, đã ban hành lệnh đầu tiên và duy nhất trong ngày, cảnh cáo các sĩ quan và binh lính của mình không được “chạy trốn như chuột”, và hứa rằng, “Từ giờ trở đi, tôi và các tướng lĩnh chỉ huy sẽ có mặt giữa các anh em… suốt ngày đêm.” Ngay sau đó, Lộc lên trực thăng để di tản. Hầu hết các chỉ huy cấp cao khác cũng đã đánh bài chuồn. Một phóng viên đã quan sát tiến trình sụp đổ của lực lượng vũ trang miền Nam và chính quyền dân sự ở Sài Gòn sau đó đã viết: “Giống như các con rối không còn có dây điều khiển, toàn bộ bộ máy chính quyền Sài Gòn đang sụp đổ. Không có trật tự, không có quân đội, không có quyền lực nào ngoài súng và vũ khí mà rất nhiều, rất nhiều người vẫn còn và đang sử dụng.”

Vừa qua 5:00 sáng  vào ngày 30 tháng 4, Đại sứ Martin, mang theo lá cờ Mỹ đã cuốn lại mà ông lấy từ văn phòng của mình, khởi hành bằng trực thăng CH-46 đến tàu U.S.S. Blue Ridge đang neo ở ngoài khơi Biển Đông. Vào lúc 10:24 sáng, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố VNCH đầu hàng vô điều kiện. Gần như ngay lập tức, những người lính miền Nam bắt đầu cởi bỏ vũ khí và quân phục, cố gắng hòa mình vào đám đông để tránh sự trả thù của những kẻ chiến thắng. Một số người đã chọn cách khác. Một đại tá QLVNCH đã đến Quảng trường Lam Sơn, nơi có đài tưởng niệm những người lính miền Nam đã hy sinh trong chiến tranh. Ông chào bức tượng người lính khổng lồ rồi tự kết liễu đời mình bằng khẩu súng lục.

Đến trưa, xe tăng của Quân đoàn II của Tướng Dũng ầm ầm tiến qua vùng ngoại ô Sài Gòn và tiến vào thành phố mà không bị cản trở, theo sau là những chiếc xe tải mui trần chở đầy bộ đội Bắc Việt được trang bị vũ khí hạng nặng. Một đoàn xe tăng lăn bánh qua Đại lộ Công Lý xuống Đại lộ Thống Nhất hướng về Dinh Độc Lập. Chiếc xe tăng dẫn đầu, số 843 do thiếu tá Bắc Việt Nguyễn Văn Hòa chỉ huy, đã đâm ngã sầm cổng dinh. Những chiếc xe tăng khác theo sau, đỗ thành hình bán nguyệt trên sân dinh trước cầu thang. Một bộ đội Bắc Việt nhảy xuống khỏi xe tăng, chạy lên các bậc thang và bắt đầu vẫy lá cờ xanh và đỏ với ngôi sao vàng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời một cách hân hoan. Neil Davis, một phóng viên chiến trường của Reuters, đã hỏi tên người lính và chàng trai trẻ trả lời, “Nguyễn Văn Thiệu.” Với tình tiết mỉa mai đó, Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc.

[Với người dịch, hình ảnh đọng lại trong thời khăc lịch sử đó là vào trưa ngày 30/4, khi tôi hăm hở xách máy quay phim 8mm lên đường đến Dinh Độc Lập, định bụng quay những cảnh tượng lịch sử của từng nhóm dân chúng tụ tập tại đó, vẫy tay chào đón các chú bộ đội mặt mũi hiền lành ngồi trên xe tăng trước Dinh. Nhưng khi vừa đi đến đường Phan Thanh Giản (nay là đường Điện Biên Phủ), tôi bỗng thấy chạy lúp xúp tới là một tiểu đội lính Nhảy Dù của VNCH, trong quân phục chỉnh tề, vai đeo súng M16, trong đội hình hai hàng dọc, chạy bên cạnh là một tiểu đội trưởng chỉ huy. Khẩn trương nhưng không hoảng loạn, họ quẹo qua đường Mạc Đỉnh Chi . Có thể thấy rõ họ thuộc lực lượng phòng thủ Dinh Độc Lập vừa được lệnh giải thể sau khi Tướng Minh tuyên bố đầu hàng. Tội vội núp sau một thân cây cổ thụ bên đường, vừa nhắm máy quay vào họ vừa phập phồng lo sợ một phản ứng khó lường của một nhóm kẻ vừa thua cuộc có thể cay cú trước một người chĩa ống kính vào mình, xúc phạm đến cảm xúc đổ vỡ,  tuyệt vọng. Bỗng họ tấp vào một vỉa hè rộng trên đường Mạc Đỉnh Chi, lặng lẽ cởi súng, cứ ba cây chụm đầu làm một tháp súng, sau đó đặt mỗi mũ bê-rê màu đỏ thắm đặc trưng lên từng mũi súng. Rồi, vẫn lẵng lặng, họ cỡi giày bốt, xếp thành hàng ngay ngắn, như sau một buổi diễn tập thường ngày trên quân trường. Cuối cùng, họ nhanh chóng trút bỏ bộ quân phục rằn ri, chất thành một đống gọn gàng. Giờ đây, họ đôi chút ngượng ngịu và trông buồn cười trong bộ áo thun với quần đùi trước cả thế giới. Sau tiếng hiệu lệnh của tiểu đội trưởng, các kẻ thua cuộc lập tức xếp lại hai hàng dọc. Không có quân phục bậm trợn và vũ khí sắt lạnh, lúc này trông họ chẳng khác một nhóm tù binh bất lực. Lại một tiếng quát, và cũng nhanh chóng như khi đến, đầu hơi cúi xuống, trong cõi im lặng nặng nề, họ buồn bã bước nhanh về phía đường Tự Đức (nay là đường Nguyễn Văn Thủ), tại đó họ quẹo trái và mất hút vào ngã rẽ của lịch sử ].

KẾT LUẬN

Lực lượng Bắc Việt đã kiểm soát toàn bộ miền Nam vào ngày 3 tháng 5 năm 1975. Chỉ 55 ngày sau cuộc tấn công đầu tiên vào Ban Mê Thuột vào ngày 10 tháng 3, lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa đã hoàn toàn sụp đổ, dẫn đến thất bại hoàn toàn của một đội quân một triệu người, mất 5 tỷ đô la vũ khí và thiết bị, và sự sụp đổ của miền Nam như một quốc gia có chủ quyền và độc lập. Sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều lý thuyết và các lý giải khác nhau đã xuất hiện về cách thức và lý do tại sao miền Nam đã đánh thua cuộc chiến. Nhiều người đã chỉ trích Hiệp định Hòa bình Paris có sai sót nghiêm trọng, dẫn đến thất bại của miền Nam khi cho phép 100.000 quân Bắc Việt ở lại miền Nam sau lệnh ngừng bắn. Những người khác, cho rằng Sài Gòn có thể tránh được thảm họa nếu có sự hỗ trợ tiếp tục của Hoa Kỳ, cáo buộc Mỹ đã bỏ rơi miền Nam. Những người có lập trường này đổ lỗi cho Quốc hội Mỹ vì đã từ chối phân bổ kinh phí cho viện trợ quân sự bổ sung.  Những người khác cho rằng Nixon, nếu vẫn tại vị và không bị mất uy tín bởi vụ bê bối Watergate, sẽ phản ứng mạnh mẽ trước các động thái quân sự của Bắc Việt vào năm 1975. Tất cả những quan điểm này đều có một số giá trị, nhưng tất cả đều có thể tranh cãi. Bởi vì vấn đề bao quát về lý do  cuộc chiến lại thất bại khó thể được giải quyết, ta thử giải quyết vấn đề hạn hẹp hơn ở đây là trả lời câu hỏi liệu việc Việt Nam hóa, như một chính sách, có góp phần vào sự sụp đổ của miền Nam hay không.

Bất kỳ đánh giá nào về việc Việt Nam hóa đều phải diễn ra ở hai cấp độ. Cấp độ trước tiên của phân tích liên quan đến mục đích đã nêu của chương trình. Nixon muốn “đảo ngược việc ‘Mỹ hóa’ cuộc chiến… rút nửa triệu quân khỏi Việt Nam theo cách không gây ra sự sụp đổ ở miền Nam… đàm phán một lệnh ngừng bắn và một hiệp ước hòa bình”. Rốt cục, ông mong muốn rút Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam và đạt được “hòa bình trong danh dự”.  Xét một cách khách quan (đặc biệt là nếu là người Mỹ chứ không phải người miền Nam), Việt Nam hóa đã làm được điều đó. Quân đội Hoa Kỳ đã rút lui, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết, một lệnh ngừng bắn (mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn) đã được khởi xướng, và miền Nam đã tồn tại thêm hai năm nữa. Một báo cáo năm 1980 của tổ hợp BDM về những bài học chiến lược rút ra được trong Chiến tranh Việt Nam đã lưu ý: “Dựa trên các mục tiêu do Chính quyền Nixon đặt ra (tức là rút quân đội Hoa Kỳ khỏi VNCH và đưa ra một giải pháp đàm phán cho cuộc chiến), Việt Nam hóa phải được coi là một thành công”.

Tuy nhiên, báo cáo đó đã thừa nhận theo cách quá nhẹ nhàng rằng Hoa Kỳ cuối cùng đã bị cản trở trong mục tiêu Việt Nam hóa của mình là tăng khả năng ngăn chặn kẻ thù của quân đội miền Nam. Những quan sát viên khác thì kém tử tế hơn nhiều.  Một số cho rằng Việt Nam hóa đã mang lại cho Hoa Kỳ một phương cách không bẽ mặt nhằm thoát khỏi cuộc chiến không thể thắng và Hiệp định Paris được ký kết nhằm đạt được một “khoảng thời gian hợp lý” sau khi Hoa Kỳ rời đi trước khi miền Nam đầu hàng một cách không thể tránh khỏi. Một trong những người chỉ trích gay gắt nhất về chính sách này là chuẩn tướng quân đội đã nghỉ hưu Douglas Kinnard, ông đã viết vào năm 1985 rằng “khi người dân Hoa Kỳ xem thảm họa trên truyền hình vào mùa xuân năm 1975, họ đã thấy một sự kiện có nhiều nguyên nhân. Chỉ cần kết luận ở đây rằng nếu trước đó chưa đủ rõ ràng, thì cuộc tháo chạy cuối cùng đã phơi bày sự gian lận và lừa dối của việc Việt Nam hóa”.  Một nhà sử học khác, Joan Hoff, cũng chỉ trích Việt Nam hóa, khẳng định rằng nó “dẫn đến sự mở rộng được che đậy cũng như công khai của cuộc chiến tranh ở Đông Dương, một kết quả mà cả những người phản đối và những người ủng hộ khái niệm này trong những tháng đầu tiên của chính quyền mới đều không lường trước được.” Cả hai đánh giá này đều chỉ trích Nixon và các khía cạnh chính trị của chính sách Việt Nam hóa. Tuy nhiên, cần nhớ rằng chính quyền Nixon đã thừa hưởng tình hình ở Việt Nam [từ chính quyền Johnson của đảng Dân chủ]. Mặc dù không còn nghi ngờ gì nữa chính sách của Nixon, khi được thực thì rốt ráo, là có sai sót, nhưng Việt Nam hóa đã phải chịu thất bại vì một số lý do—một số lý do là do cách chính quyền Nixon thực thi chính sách, nhưng cũng có một số lý do phát huy tác dụng từ lâu trước khi Richard Nixon nhậm chức. Tại sao Việt Nam hóa lại thất bại. Những lý do cơ bản nào dẫn đến sự sụp đổ của một lực lượng mà Hoa Kỳ đã tốn nhiều thời gian, công sức và tiền bạc?

Lý do đầu tiên trong hai lý do chính liên quan đến thời điểm thi hành chính sách Việt Nam hóa; lý do thứ hai, có liên quan chặt chẽ đến lý do đầu tiên, là nỗ lực định hình quân đội miền Nam mô phỏng theo hình ảnh của quân đội Hoa Kỳ.  Việt Nam hóa, với tư cách là một chính sách chính thức, chỉ được thiết lập từ năm 1969. Một cuộc khảo sát năm 1974 đối với các sĩ quan cấp tướng của Hoa Kỳ cho thấy hầu hết dường như đều chấp thuận chương trình Việt Nam hóa nhưng tin rằng Washington đã đợi quá lâu để bắt đầu. Hoa Kỳ đã tiến hành hoạt động cố vấn quân sự kể từ những năm 1950, nhưng sau khi lực lượng tác chiến quy ước quy mô lớn của Hoa Kỳ bắt đầu triển khai ở miền Nam vào năm 1965, hoạt động cố vấn đã đóng vai trò thứ yếu. Với sự khởi đầu chính thức của kế hoạch Việt Nam hóa vào năm 1969, con lắc đã chuyển sang giai đoạn cải tổ quân đội miền Nam; thật không may, lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút lui nhanh hơn thời gian quân miền Nam có thể cải tiến. Sự thay đổi trọng tâm từ các hoạt động chiến đấu quy mô lớn của Hoa Kỳ sang việc chuẩn bị cho miền Nam gánh vác gánh nặng chiến đấu đã diễn ra quá muộn.  Với quá nhiều vấn đề tồn tại lâu dài trong quân đội miền Nam, rất ít điều có thể đạt được trong khoảng thời gian tương đối ngắn giữa lệnh của Nixon ban ra về Việt Nam hóa chiến tranh và cuộc rút quân cuối cùng của Hoa Kỳ. “Kẽ hở lớn nhất của chương trình Việt Nam hóa là không cung cấp cho VNCH đủ thời gian để cải tổ toàn diện,” cựu tướng QLVNCH Nguyễn Duy Hinh đã viết. “Chương trình được khởi xướng từ những cân nhắc chính trị của Hoa Kỳ, và được thực hiện quá vội vàng. Mặc dù có thể đạt được sự gia tăng quân số khá nhanh chóng, nhưng gần như không thể phớt lờ chất lượng và khả năng kỹ thuật của một lực lượng quân sự gồm một triệu người trong vòng vài năm.”

Hinh đã đúng. Thật vậy, những bình luận của ông không chỉ áp dụng cho chương trình Việt Nam hóa chính thức, mà còn cho toàn bộ nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm huấn luyện lực lượng vũ trang Nam Việt Nam kể từ những ngày đầu tiên Hoa Kỳ tham gia vào Đông Nam Á.  Nhiều vấn đề góp phần vào sự sụp đổ năm 1975 có thể khắc phục được bằng cách thiết lập một cách tiếp cận có tính toán hơn đối với việc “Việt Nam hóa” chiến tranh trong những ngày đầu của cuộc xung đột. Điều này đúng về khía cạnh đặt nặng việc đào luyện chỉ huy và loại binh chủng nào cần phát triển.

Mặc dù các bằng chứng sau đó đã chứng minh rằng miền Nam chủ yếu đối phó với một cuộc nổi loạn nội bộ vào thời gian đầu của cuộc xung đột, trọng tâm của những hoạt động cố vấn đầu tiên của Hoa Kỳ là xây dựng một lực lượng quy ước của miền Nam để đẩy lùi một cuộc xâm lược  kiểu Triều Tiên từ phía Bắc. Do đó, thay vì kết cấu một lực lượng bao gồm các đơn vị địa phương nhỏ, cơ động có thể chống lại quân nổi dậy du kích, thì quân đội miền Nam lại đã trở thành một hình ảnh phản chiếu của Quân đội Hoa Kỳ những năm 1960 với các sư đoàn nặng nề và quá  phụ thuộc vào hỏa lực và công nghệ.

Báo cáo của Tập đoàn BDM năm 1980 về các bài học chiến lược đã học được trích dẫn một số lý do cho cách tiếp cận sai lầm này đối với việc xây dựng quân đội miền Nam. Trong số đó, lý do chính là không học được từ kinh nghiệm của Pháp, không nhận thức được tính nghiêm túc của mối hiểm họa chống nổi loạn, sự tương đồng hời hợt với kinh nghiệm của Hàn Quốc khiến người Mỹ tin rằng các chiến thuật có thể được chuyển giao, và sự tự tin thái quá quen thuộc có xu hướng phớt lờ tiếng nói của người Việt và không cổ vũ việc nghiên cứu cẩn thận tình hình. Lặp lại những phát hiện này, nhà phân tích quân sự Andrew Krepinevich Jr. cáo buộc trong cuốn Quân đội và Việt Nam rằng Quân đội Hoa Kỳ “chỉ nói suông về học thuyết chống nổi loạn” và khăng khăng tiến hành chiến tranh ở miền Nam giống như họ đang tham gia một cuộc xung đột quy ước trên đồng bằng châu Âu. Cách tiếp cận này đã có tác động to lớn đến nỗ lực xây dựng một lực lượng miền Nam khả thi.  Không thoải mái với cách tiếp cận chống nổi loạn “mới” và tin rằng bản chất của cuộc xung đột ở miền Nam chủ yếu là một cuộc xâm lược  từ miền Bắc, các nhà lãnh đạo Quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu xây dựng một lực lượng xung quanh cái mà Krepinevich gọi là “khái niệm” hoặc “chiến tranh đơn vị lớn” dựa trên trực thăng, hỏa lực mạnh và việc làm tiêu hao lực lượng địch. Ngay từ những ngày đầu thành lập, QLVNCH đã nhận được rất ít loại huấn luyện chống nổi loạn từ các cố vấn Hoa Kỳ, vốn là thành viên của Quân đội Hoa Kỳ chính quy và đã được đào tạo theo hệ thống đó.  Do đó, việc xây dựng một đội quân trông giống và chiến đấu như Quân đội Hoa Kỳ vẫn là động lực cho các nỗ lực cố vấn ban đầu và tiếp tục theo chương trình Việt Nam hóa từ khi chính thức hóa vào năm 1969 cho đến khi Hoa Kỳ rút quân vào năm 1973. Cách tiếp cận của người Mỹ chắc chắn có ý nghĩa hơn trong giai đoạn sau của cuộc chiến so với giai đoạn đầu của cuộc xung đột. Tuy nhiên, kết quả chung là một lực lượng rất tốn kém, chủ yếu dành cho phòng thủ tĩnh và phụ thuộc vào công nghệ và số lượng lớn đạn dược và các loại quân trang quân dụng  khác. Như nhà sử học Gabriel Kolko sau này đã viết, “QLVNCH sớm có tất cả các điểm yếu của công nghệ Hoa Kỳ và ít ưu điểm của nó”; do đó, công nghệ trở thành nguồn phụ thuộc và gây mất tập trung cho QLVNCH.

Một khi đã xác định được hướng đi ban đầu, thì quân miền Nam không thể đi ngược lại.  Đến khi xuất hiện bằng chứng thuyết phục rằng mối đe dọa trước mắt là có tính nội chiến chứ không phải là vấn đề tấn công xuyên biên giới, thì đã quá muộn để có thể thay đổi lớn về cơ cấu lực lượng miền Nam và khái niệm tác chiến. Thật trớ trêu, khi quân Bắc Việt chuyển sang chiến thuật kiểu quy ước  vào giai đoạn sau của cuộc chiến và bắt đầu đưa một số lượng lớn quân tác chiến vào miền Nam, quân miền Nam, vốn từ đầu được huấn luyện để chiến đấu theo kiểu chiến tranh đó, đã tỏ ra vô cùng thiếu xót cho nhiệm vụ này. Sau khi trở nên phụ thuộc quá nhiều vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, miền Nam tỏ ra không có khả năng tiếp tục chiến tranh khi không còn sự hỗ trợ của Hoa Kỳ nữa.

Những vấn đề liên quan đến việc xây dựng năng lực quân sự miền Nam vững mạnh đã trở nên phức tạp hơn khi quân tác chiến Hoa Kỳ đến VN vào năm 1965. Các lực lượng Hoa Kỳ đã đến chiến trường, sẵn sàng dấn thân trong một “trận chiến lớn” chống lại bọn xâm lược miền Bắc.  Kết quả là, miền Nam gần như bị gạt sang một bên và bị đẩy xuống vai trò hỗ trợ; vì nhiều chỉ huy Hoa Kỳ có cảm nhận là chỉ riêng lực lượng Hoa Kỳ là có thể đánh bại Cộng sản, sự tham gia của QLVNCH chỉ là tối thiểu. Khi người Mỹ đến, “người dân bản địa” về cơ bản được bảo đứng yên và hãy nhìn xem và học hỏi những người chuyên nghiệp. Như cựu đại sứ Bùi Diễm đã nói, “Việt Nam hóa bắt đầu vào năm 1965, không phải năm 1968, nhưng người Mỹ chưa bao giờ thực hiện được vì họ mong đợi chiến thắng đến sớm không cần có sự tham gia của người Việt Nam.” Chủ nghĩa dân tộc như vậy đã thúc đẩy một sự tự tin sai chỗ, làm mất uy tín không chỉ miền Nam mà còn cả những nỗ lực trước đó của người Pháp. Tính kiêu ngạo của người Mỹ đã ảnh hưởng bất lợi đến tinh thần và động lực của người miền Nam.  Một cựu sĩ quan QLVNCH đã viết sau chiến tranh rằng “những trận chiến mà người Mỹ đã chiến đấu rất ngoạn mục với hỏa lực áp đảo và đội hình rầm rộ đã thu hút sự chú ý của giới báo chí. . . . Kết quả tất nhiên là ấn tượng nhưng sai lầm ở chỗ người Mỹ đang giành làm hết công việc chiến đấu cho người miền Nam. Điều này đã cung cấp cho người Cộng sản nhiều vũ khí tuyên truyền hơn cho cuộc chiến chính trị của họ: ‘Việt Cộng đã chiến đấu với người Mỹ để cứu nhân dân Việt Nam.’ Đó là một phát ngôn rất hiệu quả; nó thậm chí còn thuyết phục được rất nhiều người Mỹ.” Vào thời điểm Nixon nhậm chức và khởi xướng chương trình Việt Nam hóa, nền tảng cho thảm họa đã được xây dựng. Đại tá Vũ Văn Ước, cựu sĩ quan chỉ huy tác chiến của không quân miền Nam, bình luận: “Ngay cả trong các hoạt động chung giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, QLVNCH chỉ được giao một vai trò nhỏ và . . . chiến thuật được đặt dưới sự giám sát của các cố vấn Hoa Kỳ. Trong tình hình đó, QLVNCH cảm thấy quá lệ thuộc vào lực lượng Hoa Kỳ và người ta khó có thể nói rằng các hoạt động này nằm trong thẩm quyền của Việt Nam. . . . do đó, QLVNCH hoàn toàn đánh mất khái niệm mình là một đạo quân độc lập.”

Khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút lui, Tướng Abrams và MACV đã được giao nhiệm vụ cho thấy là không thể hoàn thành là cố gắng chuẩn bị cho miền Nam Việt Nam sẵn sàng chịu trách nhiệm cho cuộc chiến.  Nhận thức được những vấn đề tồn tại lâu dài trong quân đội miền Nam vốn phải mất nhiều năm mới có thể giải quyết, người Mỹ chỉ tập trung vào giải pháp dễ dàng nhất: tăng cường lực lượng quân miền Nam về mặt nhân lực và trang thiết bị, vũ khí tinh vi. Nỗ lực này đã tạo ra một trong những lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới, ít nhất là về mặt quân số. Tuy nhiên, như Tướng Phillip Davidson đã chỉ ra trong cuốn Chiến tranh Việt Nam, “Một đội quân như vậy có thể cải tiến về vẻ bề ngoài khi trang bị và huấn luyện từ nước ngoài tiêu xài phí phạm cho nó , nhưng sự cải tiến như vậy là lừa dối, vì nền tảng của lực lượng vẫn còn mục nát”.

Thật trớ trêu, việc mở rộng lực lượng, từ lâu được coi là thước đo “thành công” của nỗ lực Việt Nam hóa, chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề, dẫn đến sự suy giảm tỷ lệ binh lính thực sự biết chiến đấu trong các đơn vị.  Việc mở rộng QLVNCH đã làm suy giảm chất lượng, làm loãng năng lực của các đơn vị và làm quá tải một số ít sĩ quan tài giỏi, như được minh họa bằng việc thành lập và giải thể sau đó của Sư đoàn QLVNCH số 3, đơn vị này đã sụp đổ trước cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt vào Quảng Trị năm 1972.

Cùng với việc mở rộng QLVNCH là nỗ lực cố vấn được cải thiện nhằm tăng cường sự tham gia của QLVNCH vào việc bảo vệ quốc gia của họ. Thật không may, việc tập trung nhiều hơn vào nỗ lực cố vấn, mặc dù có thể là có ý định tốt, đã gây ra một số hậu quả không lường trước được. Bửu Viên, một cố vấn cá nhân thân cận của Tổng thống Thiệu, đã nói sau chiến tranh: “Sự hiện diện của các cố vấn Hoa Kỳ ở mọi cấp bậc trong hệ thống quân sự đã tạo ra trong giới lãnh đạo Việt Nam một tâm lý phụ thuộc vào lời khuyên và gợi ý của họ.  Mặc dù một số sĩ quan miền Nam không thích sự hiện diện lấn lướt của người đồng cấp Mỹ, hầu hết họ đều cảm thấy tự tin hơn khi có cố vấn bên cạnh. Những ý tưởng có thể là của họ, nhưng họ cảm thấy an tâm hơn khi những ý tưởng đó được các cố vấn người Mỹ đồng tình hơn là khi chúng được cấp trên của họ đề xuất.”

Bảo Long, một cựu sĩ quan QLVNCH, nói với nhà báo Paul Hendrickson: “Người Mỹ đã đến và tiếp quản và đẩy chúng tôi sang một bên. Chúng tôi đã mất đi bản sắc của mình.” Theo một cựu tướng lĩnh QLVNCH, bản sắc không phải là thứ duy nhất bị mất khi các cố vấn tiếp quản:

Quyền lực và ảnh hưởng của các cố vấn Hoa Kỳ trên chiến trường có xu hướng làm lu mờ vai trò của các chỉ huy đơn vị Việt Nam. Ví dụ, các hoạt động của một đơn vị có xu hướng tuân theo các đường lối do cố vấn đề xuất.  Trong nhiều trường hợp, chính cố vấn là người đem đến thắng lợi trong trận chiến bằng cách kêu gọi hỗ trợ hỏa lực hoặc không quân chiến thuật hiệu quả từ các nguồn lực của Hoa Kỳ. Điều này dần dần tạo ra sự phụ thuộc quá mức và đôi khi là hoàn toàn vào các cố vấn Hoa Kỳ. Do đó, sáng kiến, trách nhiệm và uy tín mà chỉ huy đơn vị thường nắm giữ bị ảnh hưởng rất nhiều và về lâu dài, sự hiện diện của các cố vấn đã khiến các sĩ quan QLVNCH mất đi cơ hội phát triển khả năng chỉ huy và lãnh đạo của mình

Các sĩ quan miền Nam không phải là những người duy nhất có quan điểm này; một vị tướng Hoa Kỳ, trả lời nghiên cứu của Tướng Kinnard năm 1974, đã nói: “Có quá nhiều cố vấn. Kết quả là, các cố vấn trở thành người điều hành và chuyển hướng năng lượng của các đối tác QLVNCH khỏi nhiệm vụ chính của họ và đồng thời để lại ít động lực cho các chỉ huy thực hiện hành động của riêng mình.” Tướng Melvin Zais, cựu chỉ huy Sư đoàn Không vận 101 tại Việt Nam, có lẽ đã nói rõ nhất:

Chúng ta không giỏi làm việc với người Việt Nam và tôi bắt đầu thấy bất mãn trong lòng, tự nghĩ, “Cuộc chiến này sẽ không bao giờ kết thúc cho đến khi người Việt Nam đủ giỏi để giành chiến thắng. Chúng ta hẳn phải tách mình ra khỏi công việc, nhưng chúng ta không làm vậy. Chúng ta không huấn luyện đội;  chúng ta giống như năm cầu thủ bóng bầu dục đại học xuống để huấn luyện một đội bóng trung học và đã tự sắp xếp mình vào đội hình.. . .  đến lúc chúng ta không được chơi nữa và QLVNCH sẽ phải tiếp quản.

Khi thời điểm đó đến, lực lượng Hoa Kỳ đã không làm tốt công tác chuẩn bị cho QLVNCH tiếp quản. Cựu quan chức CIA Douglas Blaufarb đã viết rằng “sự hoảng loạn” của giới lãnh đạo Việt Nam trước sự suy giảm hỗ trợ của Hoa Kỳ “gây ra bởi, người ta chỉ có thể giả định, việc tập thể sĩ quan Việt Nam bỗng nhận thức được rằng họ chưa thực sự chuẩn bị tốt cho nhiệm vụ của mình. Trong phân tích cuối cùng, những người đã thực hiện trò hề này chưa bao giờ bị nó đánh lừa.”  Blaufarb nói thêm, chỉ có người Mỹ bị lừa dối, “chủ yếu là do họ không biết gì về thực tế chính trị của một vùng đất mà họ đã sống và làm việc trong nhiều năm mà không biết được những sự thật cơ bản nhất về bối cảnh xung quanh họ.”

Bất chấp những nỗ lực đầy tham vọng nhằm xây dựng quân đội miền Nam và tăng cường nỗ lực cố vấn, thực tế chính trị mà Blaufarb ám chỉ phản ánh những vấn đề có tính hệ thống lâu đời trong xã hội và quân đội miền Nam đã làm giảm khả năng thành công trong việc Việt Nam hóa chiến tranh và biến miền Nam thành một lực lượng chiến đấu khả thi. Tham nhũng, bắt đầu từ đỉnh cao của xã hội, đã thấm nhuần vào mọi tầng lớp xã hội và có tác động tàn phá đến quân đội. Nó hủy hoại tinh thần và sức chiến đấu, góp phần vào tỷ lệ đào ngũ cao ngất ngưởng và làm suy yếu nghiêm trọng toàn bộ cấu trúc năng lực tác chiến của miền Nam

Bản chất chính trị của hệ thống phân cấp quân đội làm trầm trọng thêm tình trạng tham nhũng tàn khốc.  QLVNCH thực chất là sự mở rộng của bộ máy chính trị của Thiệu; do đó, mục đích thực sự của quân đội không phải là quân sự mà là chính trị. Các chỉ huy chủ chốt là những người được bổ nhiệm vì lý do chính trị, vì lòng trung thành của họ đối với Thiệu chứ không phải vì chuyên môn của họ với tư cách là chỉ huy, một thông lệ, theo Blaufarb, đảm bảo cho tình trạng tham nhũng và bất tài: “Thành tích chiến đấu không được đền đáp; binh lính không được quan tâm; và những yêu cầu của tinh thần thượng võ—Nhiệm vụ, Danh dự, Tổ quốc —không được đáp ứng.” Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, chỉ huy trận đánh thảm họa ở Lào, là một ví dụ điển hình về những kẻ được bổ nhiệm chính trị tham nhũng đã nắm giữ các vị trí chủ chốt. Các tướng lĩnh của Thiệu cạnh tranh nhau trong việc giành được ân sủng của ông và cả thành quả của sự tham nhũng, khiến việc tạo ra một cấu trúc chỉ huy tích hợp tập trung vào việc chiến đấu là điều không thể. Một vị tướng của QLVNCH đã mô tả “sự bất đồng gần như bất phục tùng” đã ngăn cản bất kỳ chuỗi chỉ huy thuyết phục nào hoặc khái niệm hoạt động chung.

Một yếu tố khác góp phần vào thất bại cuối cùng của Việt Nam hóa và sự sụp đổ tiếp theo của lực lượng miền Nam là bản thân Thiệu: ông là một tai họa với vai trò là tổng tư lệnh. Sau khi quân đội Hoa Kỳ rời đi, ông trở nên quá cứng nhắc, kiểm soát chặt chẽ quân đội và tham gia quá sâu vào các vấn đề tác chiến mà lẽ ra nên để các chỉ huy trên chiến trường giải quyết. Bị tước đi khả năng linh hoạt trong việc ra quyết định và ở phía sai lầm của các mệnh lệnh gây nhầm lẫn và thường xung đột, các chỉ huy quân sự, nhiều người trong số đó lại được bổ nhiệm vì lập trường chính trị và không phù hợp để chỉ huy các đội hình đơn vị lớn chống lại một kẻ thù lão luyện như Bắc Việt, đã không đáp ứng được nhu cầu của thời điểm đó. Sự nhầm lẫn và bất lực này ở cấp cao nhất đã dẫn đến việc thiếu một chiến lược khả thi. Như một sĩ quan QLVNCH đã giải thích sau chiến tranh, “Việt Nam hóa thực sự có nghĩa là Mỹ hóa.. . . Không thể quay lại một cuộc chiến tranh theo kiểu Việt Nam. Nó sẽ phải được tiến hành theo cách của Mỹ. . . . Tất cả những người tham gia cuộc đấu tranh nhanh chóng nhận ra rằng các yếu tố quan trọng của lợi thế hỏa lực của miền Nam—sức mạnh không quân và hải quân Hoa Kỳ—sẽ không còn sử dụng được. Nhưng các nhà lãnh đạo miền Nam đã quá chậm chạp để nhận ra những sự hoán đổi này trong chiến lược tổng thể.” Do đó, khi Bắc Việt bắt đầu tăng cường hoạt động sau khi Phước Long thất thủ, Thiệu và các tướng lĩnh của ông không thể cùng nhau lập ra một kế hoạch phòng thủ để ngăn chặn cuộc tấn công của Cộng sản. Mệnh lệnh thảm khốc của Thiệu từ bỏ Tây Nguyên đã dẫn đến sự hoảng loạn và đẩy nhanh chiến thắng của Bắc Việt.

Tình hình năm 1975 có thể đã được cứu vãn, bất chấp những sai lầm đã mắc phải ở cấp trên, nếu lực lượng miền Nam được lãnh đạo tốt trên chiến trường. Tuy nhiên, lãnh đạo là một trong những vấn đề quan trọng và tồn tại lâu dài nhất mà Việt Nam hóa, bất chấp mọi nguồn quỹ và nỗ lực đã bỏ ra, không thể khắc phục được. Những lính bộ binh, thủy thủ và phi công miền Nam đã chiến đấu rất tốt khi được lãnh đạo một cách khéo léo, nhưng những trường hợp này, chẳng hạn như ở An Lộc năm 1972 và Xuân Lộc năm 1975, là ngoại lệ chứ không phải là quy luật, do khả năng lãnh đạo chiến đấu kém cỏi.

Vấn đề lãnh đạo bao gồm năng lực chiến thuật kém, cũng như thiếu tinh thần chiến đấu. Bản chất chính trị của giới lãnh đạo quân sự cấp cao có nghĩa là nhiều nhà lãnh đạo đã giành được các chức vụ mà họ không đủ tiêu chuẩn; những chỉ huy không đủ tiêu chuẩn cũng rất phổ biến ở các cấp chỉ huy thấp hơn. Phần nhiều, các mối quan hệ gia đình, tình hình tài chính và trình độ học vấn chính thức quyết định việc lựa chọn sĩ quan và thăng chức sau đó.  Một phương thức có hệ thống nhằm tuyển dụng hoặc lựa chọn những nhà chỉ huy có khả năng tốt từ hàng ngũ quân nhân chưa bao giờ được phát triển. Thay vào đó, phương thức mà Thiệu sử dụng nhằm.duy trì quyền lực của mình (“quyền lực mua được”, như Tướng Davidson gọi tên) đảm bảo những người ủng hộ chính trị bất tài và những người thân bất tài sẽ được cất nhắc vào các vị trí lãnh đạo, làm sinh sôi tràn lan tệ nạn tham nhũng gây suy yếu tinh thần và kỷ luật. Như một cựu sĩ quan QLVNCH đã nói, “Hầu hết các chỉ huy cấp cao đều là bọn tôi tớ của chế độ Thiệu và họ đã đề bạt một số tướng lĩnh lười biếng, tham nhũng và không đủ tiêu chuẩn nhờ tính phục tùng hèn hạ của họ… do đó phá vỡ hoài bão của các sĩ quan trẻ tuổi.” Những sĩ quan này không còn mấy động lực để đứng trước binh sĩ và dẫn dắt họ vào trận chiến.  Một cựu tướng lĩnh cao cấp của miền Nam đã nói, “Theo thông lệ, trong trường hợp giao tranh ác liệt, các chỉ huy sẽ bay đi bằng trực thăng, để lại trận chiến cho các binh sĩ trên trận địa. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến tinh thần quân đội  . . . hiệu suất của các đơn vị bị ảnh hưởng nghiêm trọng . . . trong một xã hội phương Đông, nơi uy tín, lòng dũng cảm và sự khôn ngoan của người lãnh đạo là cực kì quan trọng, những đặc điểm tiêu cực này của người chỉ huy rất có tác hại.” Như Robert Komer, phó của CORDS đã viết vào năm 1972, “Cho dù chính quyền và quân đội miền Nam được đào tạo, trang bị và tổ chức tốt đến đâu, thì những nhà lãnh đạo kém cỏi thường vẫn là gót chân Achilles của họ.” Komer đã đúng. Dưới thời những nhà lãnh đạo kém cỏi, lòng quả cảm và sức bền bĩ chiến đấu của người lính miền Nam thường bị lãng phí.  Thiếu tá Không quân Thomas N. Bibby, trong một nghiên cứu được viết tại Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu Thủy quân Lục chiến, đã tóm tắt một cách hùng hồn tình hình, viết rằng “lãnh đạo trong lực lượng vũ trang Nam Việt Nam hội  đủ tất cả những đặc điểm tồi tệ nhất có thể. Họ thiếu năng lực để hoàn thành nhiệm vụ khi khủng hoảng xảy ra; tính quyết chiến để nắm bắt và giành lại được thế chủ động từ kẻ thù; và cuối cùng là uy tín đạo đức để duy trì lòng trung thành của binh lính và người dân miền Nam.”

Tình hình đã xuống đến mức tồi tệ nhất khi toàn bộ lực lượng sụp đổ vào năm 1975, nhưng điều cần lưu ý là các chỉ huy, chứ không phải binh lính, đã sụp đổ. Như Arnold Isaacs lưu ý, “Binh sĩ không sụp đổ trong chiến hào của mình, cho dù thiếu nguồn cung cấp. Binh sĩ tan rã khi các chỉ huy cấp cao của họ—tầng lớp xã hội miền Nam gần như độc quyền hưởng thụ các phần thưởng vật chất và chính trị của liên minh Hoa Kỳ—rời bỏ họ.”

Hoạt động cố vấn ban đầu và chương trình Việt Nam hóa sau đó đã không tạo ra được một lực lượng chiến đấu tự cung tự cấp. Thực tế này, cùng với những điểm yếu và khuyết điểm cố hữu của chế độ Thiệu, đã dẫn đến thảm họa 1975. Đối mặt với một cuộc khủng hoảng có quy mô thảm khốc, Thiệu khăng khăng không tin Hoa Kỳ sẽ thôi can thiệp, ngay cả sau khi Quốc hội thông qua luật cấm Nhà Trắng làm bất cứ điều gì.  Ảo tưởng tự áp đặt của ông, được thúc đẩy bởi những lời hứa lặp đi lặp lại của Nixon, đã ngăn cản miền Nam xây dựng một chiến lược thuyết phục, khả thi trong khuôn khổ của hoàn cảnh hạn chế về nguồn lực sau khi Hoa Kỳ ngừng viện trợ quân sự. Miền Bắc Việt Nam, linh hoạt hơn nhiều, đã có thể nắm bắt thời cơ khi có cơ hội và đánh tan lực lượng miền Nam, lật đổ chế độ Sài Gòn trong quá trình này. Một cựu đại tá miền Nam đã nói như sau: “Việt Nam hóa không chỉ là hiện đại hóa và mở rộng quân đội miền Nam; về cơ bản đó là một chiến lược đòi hỏi người Việt Nam phải tự sống còn khi Hoa Kỳ giảm đáng kể sự hỗ trợ. Nếu Tổng thống Thiệu và Bộ Tổng tham mưu nhận thức đầy đủ về thực tế này, có lẽ họ đã bắt đầu xây dựng một chiến lược để đối phó với nó. Thay vào đó, quân đội miền Nam không có bất kỳ điều chỉnh nào về học thuyết, tổ chức hoặc huấn luyện để bù đắp cho sự ra đi của quân đội và hỏa lực Mỹ.”

Mặc dù Hoa Kỳ đứng nhìn và không làm gì khi Bắc Việt tấn công, sự sụp đổ đột ngột của miền Nam không thể chỉ đổ lỗi cho sự khoanh tay hoặc việc cắt giảm viện trợ quân sự của Hoa Kỳ. “Các lực lượng Sài Gòn đã phải chịu sự thiếu hụt hậu cần đáng kể trong năm cuối cùng của cuộc chiến,” Arnold Isaacs đã viết, “nhưng sự thiếu hụt đó không quá nghiêm trọng như sau này được cáo buộc trong nỗ lực đổ lỗi hoàn toàn cho Quốc hội về thất bại, và rõ ràng sự thiếu hụt vật chất không phải là nguyên nhân duy nhất hoặc thậm chí không nhất thiết là nguyên nhân chính khiến chế độ Sài Gòn suy yếu về mặt quân sự và chính trị. Tổn hại về mặt tâm lý do cắt giảm viện trợ gần như chắc chắn lớn hơn tổn hại thực tế. Đối với giới tinh hoa quân sự và quan liêu vốn rất thiếu tự tin, thì việc cắt giảm là một hành động mang tính biểu tượng của hành động bỏ rơi của Hoa Kỳ, một đòn giáng mà giới lãnh đạo miền Nam không bao giờ phục hồi được.”

Quân đội Hoa Kỳ đã xây dựng quân đội miền Nam theo hình ảnh của riêng mình, nhưng kết quả là một sự giống nhau rỗng tuếch.  Do đó, cuộc tấn công cuối cùng của miền Bắc vào năm 1974 cho thấy Việt Nam hóa là một thất bại thảm hại. Theo báo cáo cuối cùng của Sư đoàn Lục quân, DAO Sài Gòn, đã nêu: “Tóm lại, lực lượng Hoa Kỳ đã hướng dẫn QLVNCH về chiến đấu, chiến thuật hỗ trợ chiến đấu và kỹ thuật quản lý trong một đấu trường không bị giới hạn bởi những hạn chế về đô la, nhưng có quyền tự do quyết định và thực hiện các quyết định chiến thuật và thứ tự các kế hoạch chiến đấu dựa trên nhu cầu an ninh của quốc gia—một triết lý hoàn toàn bị đảo ngược bởi những ràng buộc được thiết lập với mức tài trợ thấp và các cắt giảm lớn dần đối với các ủy quyền thực hiện chương trình. Hậu quả thể hiện ở sự rối loạn, bất an, miễn cưỡng thực hiện các kế hoạch chiến thuật, sự suy thoái của lãnh đạo và quyền kiểm soát, và cuối cùng là thất bại về mặt quân sự.”

Rõ ràng, quá trình Việt Nam hóa bắt đầu quá muộn, kìm hãm sáng kiến ​​của miền Nam và gây ra tình trạng lệ thuộc vào sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, và không giải quyết được những điểm yếu cơ bản dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của quân đội miền Nam.  Gabriel Kolko, trích dẫn lời của một số tướng lĩnh QLVNCH sau chiến tranh, đã viết rằng “Hoa Kỳ đã xoay xở để biến một đội quân vốn đã không đủ mạnh thành một đội quân tệ hơn, khiến nó hoàn toàn phụ thuộc vào trang thiết bị và học thuyết của Mỹ”. Do không có sự hỗ trợ liên tục của Hoa Kỳ, lực lượng đó đã sụp đổ vào năm 1975 trong vòng chưa đầy hai tháng.

Có nhất thiết phải như vậy không? Việc tìm ra những kết quả thay thế cho sự sụp đổ của miền Nam vào năm 1975 là rất khó khăn—có quá nhiều biến số. Kết quả có thể đã khác nếu Hiệp định Hòa bình Paris không cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam sau lệnh ngừng bắn. Kết quả có thể đã khác nếu Tổng thống Nixon không bị buộc từ chức vì vụ bê bối Watergate hoặc nếu Tổng thống Ford có thể thuyết phục Quốc hội cung cấp hỗ trợ tiền tệ và/hoặc quân sự cho Sài Gòn vào năm 1975. Kết quả có thể đã khác nếu Thiệu tiến hành cải cách nội bộ và xem xét các chiến lược quân sự thay thế trước khi quá muộn. Tác động của những sự kiện như vậy đã được các nhà sử học và nhà phân tích quân sự tranh luận, và nhiều lập luận đã được đưa ra liên quan đến tác động cuối cùng của việc thay đổi một hoặc nhiều biến số này.  Rõ ràng, việc cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam đã đẩy nhanh sự sụp đổ của miền Nam, cũng như việc thiếu cải tổ nội bộ và thiếu viện trợ quân sự của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, những yếu tố này không giải thích đầy đủ sự sụp đổ hoàn toàn và đột ngột của quân đội miền Nam, vốn, xét cho cùng, là không được chuẩn bị tốt để chiến đấu với quân đội Bắc Việt. Bất chấp những “chiến thắng” được tuyên bố trong cuộc xâm lược Campuchia, hoạt động xuyên biên giới Lào và cuộc đối đầu thành công với quân đội Bắc Việt trong cuộc chiến năm 1972, xét cho cùng, Việt Nam hóa đã thất bại và thất bại thảm hại. Bản thân ý tưởng này không phải là xấu. Có lẽ cục diện năm 1975 có thể đã khác nếu Hoa Kỳ có cách tiếp cận khác để chuẩn bị cho miền Nam công cuộc phòng vệ của mình.

Đầu tiên, nỗ lực này đáng lẽ phải bắt đầu nghiêm túc ngay từ những ngày đầu của cuộc xung đột.  Tự cung tự cấp lẽ ra phải là nhiệm vụ ưu tiên chứ không phải là màn trình diễn phụ như khi so sánh với “cuộc chiến tranh lớn” do các sư đoàn và lữ đoàn Hoa Kỳ tiến hành. Nếu chương trình được thực hiện vào năm 1963, có lẽ quân đội miền Nam có thể tự vệ ngay từ khi cuộc nổi dậy của VC bắt đầu diễn ra; do đó, sẽ không cần phải đưa số lượng lớn quân đội Hoa Kỳ đến tham chiến ở Đông Nam Á. Trong trường hợp đó, Hoa Kỳ sẽ không cần phải “Việt Nam hóa” cuộc chiến tranh như một vỏ bọc để rút quân.

Thứ hai, Hoa Kỳ nên giúp quân đội miền Nam xây dựng một lực lượng phù hợp với mối đe dọa thực tế tại thời điểm nỗ lực của Hoa Kỳ bắt đầu. Trong những ngày đầu, mọi dấu hiệu đều chỉ ra rằng mối đe dọa chính là một cuộc nổi dậy trong nước. Do đó, loại lực lượng cần thiết là một lực lượng chống nổi dậy—được tổ chức, huấn luyện và trang bị để chống lại bọn du kích.  Những chiến thuật như vậy đòi hỏi phải được đào tạo chuyên biệt và được thực hiện tốt nhất bởi các đơn vị cơ động nhỏ có thể tiếp cận với du kích và loại bỏ sự ủng hộ của dân chúng. Việc nhấn mạnh nhiều hơn vào các chương trình bình định sẽ bổ sung cho loại lực lượng này và dẫn đến sự ủng hộ gia tăng của dân chúng dành cho chính quyền Sài Gòn.

Thứ ba, có thể vào một thời điểm nào đó trong quá trình phát triển của quân đội miền Nam sẽ xuất hiện nhu cầu cho một lực lượng nhằm chiến đấu trong một “cuộc chiến tranh lớn”. Tuy nhiên, lực lượng quy ước này nên được đào tạo để chiến đấu bằng tính cơ động và hỏa lực, chứ không phải dựa vào hỏa lực và công nghệ hạng nặng, như quân miền Nam đã làm trong Chiến dịch Lam Sơn 719 và Chiến dịch Phục sinh năm 1972. Ngay cả những quan sát viên hời hợt nhất về bối cảnh chính trị Hoa Kỳ cũng có thể dự đoán vào năm 1974–75 sự hỗ trợ hậu cần của Hoa Kỳ không thể và sẽ không kéo dài mãi mãi.  Thật không may, khi Thiệu và chế độ của ông nhận ra rằng viện trợ quân sự sẽ không còn nữa, thì tình hình đã quá muộn để thay đổi khái niệm hoạt động mà QLVNCH đã được huấn luyện. Tướng Viên đã viết sau chiến tranh, “Bằng cách quá phụ thuộc vào lời hứa của Hoa Kỳ về việc tiếp tục hỗ trợ và giúp đỡ, Chính phủ Việt Nam đã trở nên tự mãn và quá thiển cận để phát triển một chiến lược có thể chấp nhận được nhằm bảo vệ miền Nam trong dài hạn. Do đó, khi đối mặt với thực tế khắc nghiệt về ý đồ của Bắc Việt vào năm 1975, thì đã quá muộn rồi.” Bị ràng buộc vào phong cách chiến tranh của Mỹ, miền Nam không thể hoạt động trong môi trường hạn chế về tài nguyên.

Cuối cùng, Hoa Kỳ đã phạm một sai lầm lớn khi không thúc giục miền Nam  giải quyết các vấn đề cơ bản tiềm ẩn ngăn cản việc hình thành một lực lượng chiến đấu khả thi. Hoa Kỳ đã có cơ hội ngay từ đầu để ép buộc Sài Gòn dọn dẹp nhà cửa của chính mình. Các quan chức Hoa Kỳ đáng lẽ phải đe dọa sẽ giảm mạnh hỗ trợ nếu miền Nam không dẹp bớt nạn tham nhũng trong quân đội, thúc đẩy việc phi chính trị hóa cấp bậc sĩ quan và tiến hành cải cách chính trị trong nước sâu rộng. Yêu cầu những cải cách như vậy, vốn sẽ là một quyết định khó khăn vào thời điểm Hoa Kỳ mới tham gia vào miền Nam, có lẽ sẽ khiến Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, nhưng làm như vậy có thể đã ngăn chặn được sự mất mát sinh mạng của 58.000 người Mỹ và vô số người Việt (cả miền Bắc lẫn miền Nam). Không có động lực để cải cách, hệ thống tham nhũng trở thành mục tiêu dễ dàng cho bộ máy tuyên truyền Cộng sản và khiến người lính trung bình tự hỏi tại sao mình phải chiến đấu cho đất nước này, một đất nước bị một nhóm nhỏ đục khoét và kiểm soát.

Tuy nhiên, chúng ta bị để lại với một đánh giá còn dang dở về hiệu quả của Việt Nam hóa. Suy cho cùng, quá trình này đã không được thực hiện đến khi hoàn thành. Hoa Kỳ không duy trì tiến trình (như chúng ta đã và đang làm ở Nam Hàn) cũng không cung cấp hỗ trợ đã hứa cho miền Nam, do đó cắt ngắn chương trình trước khi nó được thực hiện đến nơi đến chốn. Khi Hiệp định Hòa bình Paris cho phép 100.000 quân Bắc Việt ở lại miền Nam và người Mỹ rút lại sự hỗ trợ đã hứa, miền Nam đã trở nên diệt vong: Việt Nam hóa không có cơ hội ngăn chặn cục diện cuối cùng của cuộc chiến trong những hoàn cảnh này.

Việt Nam hóa không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến thất bại của miền Nam, nhưng nó đã chứng tỏ là một yếu tố chính khi kết hợp với chế độ Thiệu suy yếu, sự trỗi dậy của Bắc Việt sau lệnh ngừng bắn, và việc Hoa Kỳ rút lại sự hỗ trợ. Mong muốn rời khỏi Việt Nam của Hoa Kỳ, Hiệp định Hòa bình Paris có nhiều khiếm khuyết, và chính sách Việt Nam hóa chậm trễ và cuối cùng là không đầy đủ đã tạo ra bối cảnh cho sự sụp đổ của lực lượng vũ trang miền Nam. Nghĩ rằng mình đã có tất cả các câu trả lời khi tham chiến, người Mỹ đã gạt miền Nam sang một bên. Nhưng sau khi người Mỹ nhận ra rằng họ không thể giành chiến thắng trong cuộc chiến, Tổng thống Nixon bắt đầu rút quân trong khi nỗ lực tăng cường năng lực chiến đấu của miền Nam. Tuy nhiên, sau khi Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết, rõ ràng là Hoa Kỳ đã không làm một cách thỏa đáng trong việc chuẩn bị cho miền Nam chiến đấu trong các trận chiến của riêng họ.  Như cựu tướng Viên đã nói, “Sức mạnh của miền Nam và lực lượng vũ trang của nó chủ yếu được xây dựng dựa trên viện trợ nước ngoài, chứ không phải dựa trên nguồn lực quốc gia. Do đó, số phận của miền Nam phụ thuộc vào những người bạn Mỹ của nó.” Khi những “người bạn” đó quyết định từ bỏ cuộc đấu tranh, kết quả cuối cùng là sự sụp đổ của Sài Gòn và sự sụp đổ của miền Nam như một quốc gia.

Ngoài ra, người miền Nam đáng phải chịu một phần lớn trách nhiệm, bởi vì họ thiếu ý chí cần thiết để tự cứu mình. Việt Nam hóa không thể làm gì để khắc phục tình trạng thiếu ý chí, nhưng nó có thể đã đặt ra các điều kiện tiên quyết cho sự sụp đổ của miền Nam.  Bình luận có tính dự báo nhất về hiệu quả của Chiến tranh Việt Nam hóa được đưa ra bởi một sĩ quan cấp tướng Hoa Kỳ để đáp lại cuộc khảo sát của Tướng Kinnard về cuộc chiến năm 1974. Ông nói, “Chúng ta đã sai lầm khi cố gắng áp đặt hệ thống của Hoa Kỳ lên một dân tộc không muốn nó, không thể xử lý nó và có thể thua vì đã cố gắng”.  Thật không may, đánh giá đó đã được chứng minh là đúng vào năm 1975.

Câu chuyện đau thương, bi thảm này dạy cho chúng ta biết điều gì? Để giành chiến thắng, một lực lượng quân sự phải được huấn luyện và trang bị để chiến đấu với đúng kẻ thù, được lãnh đạo bởi những con người dũng cảm, có kỹ năng, và có mục đích đáng để chiến đấu và hy sinh. Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nên ghi nhớ bài học đơn giản này trong tương lai nếu cân nhắc đến một sự can thiệp tương tự. Những ý định tốt nhất trên thế giới đều vô nghĩa nếu không có sự lãnh đạo và gắn kết trong bất kỳ lực lượng nào hình thành nên  liên minh.  Trong trường hợp Việt Nam, Hoa Kỳ nên thúc đẩy “Việt Nam hóa” sớm hơn nhiều và gây ảnh hưởng để đạt được những thay đổi triệt để trong xã hội miền Nam và duy trì tiến trình khi mọi việc trở nên khó khăn. Kết quả cuối cùng có thể đã khác nhiều nếu các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự Hoa Kỳ nhớ đến câu trích dẫn được cho là của T. E. Lawrence về việc hỗ trợ quân đội nước ngoài: “Họ làm điều đó một cách không hoàn hảo còn tốt hơn là bạn tự làm điều đó một cách hoàn hảo, vì đó là đất nước của họ, cuộc chiến của họ và thời gian của bạn thì có hạn.” Không ai, có vẻ như vậy, nhớ đến những lời tiên tri đó trong suốt thời gian dài Hoa Kỳ lầm lũi bước vào cơn ác mộng Việt Nam.


Dịch xong ngày 17 tháng 4 năm 2025

Bình luận về bài viết này