
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
21 Bóng ma ở Vidda
Ngay khi lính Đức khuất dạng, Kjelstrup lao xuống dốc, ván trượt của anh để lại dấu vết rõ ràng trên tuyết. Khi đến Haukelid, anh ta nói với bạn, “Cả khu vực này thật tệ hại với bọn Hung Nô.”
“Vừa rồi có hai tên đi ngang qua. Chúng muốn kiếm chuyện gì đấy.”
Haukelid biết rằng họ cần phải loại bỏ bánh mì như một dấu hiệu chắc chắn rằng có ai đó trong làng đã giúp đỡ họ nhưng họ lại rất cần lương thực. Họ chạy xuống Hồ Vågslid, rồi băng qua bề mặt hồ vẫn còn đóng băng. Có nhiều lính Đức hơn trên con đường phía bắc, nhưng hai người đã phát hiện ra chúng trước. Họ trốn trong bụi rậm gần đó cho đến khi mối đe dọa qua đi.
Họ có thể tái hợp với Haugland và Skinnarland tại Nilsbu, một cuộc hành trình dài về phía đông, hoặc quay trở lại quãng đường khoảng 20 dặm mà họ đã đi và hy vọng rằng hoạt động của quân Đức không kéo dài xa đến thế. Họ quyết định quay trở lại vùng núi, hy vọng rằng những cơn gió nổi lên sẽ xóa đi tất cả.dấu vết di chuyển của mình trước khi họ bị đội tuần tra chú ý. Một người theo dõi sắc sảo có thể biết đường trượt tuyết đã được một phút, một ngày hay một tuần. Bất cứ khi nào có thể, họ di chuyển trên những con đường mòn và đỉnh núi đã được dọn sạch tuyết để giảm nguy cơ để lại dấu vết.
Họ tiếp tục chuyến đi vào ngày hôm sau, cho đến khi gió mạnh đến mức họ phải dừng lại. Họ nằm nghỉ dưới một tảng đá nhô ra trên sườn đồi, giờ chắc chắn những cơn gió đã đủ mạnh để xóa sạch dấu vết của họ. Trong đêm một cơn bão ập đến, để lại cho họ hai vùng trũng phủ đầy tuyết trong khung cảnh. Trong vài ngày tiếp theo, họ vẫn ở trong nơi ẩn náu, túi ngủ ướt sũng. Họ ăn các ổ bánh mì, dùng nến làm tan tuyết để lấy nước uống và để dành miếng thịt khô cuối cùng cho đến khi không thể chờ đợi lâu hơn nữa.
Khi cơn bão dịu đi, họ tiến về phía tây. Lúc họ rời xa cuộc truy lùng đang diễn ra, một đồng đội khác đang tiến thẳng vào trung tâm của mối hiểm họa.
*
Chiều muộn ngày 25 tháng 3, Claus Helberg đang trượt tuyết qua Hồ Skrykken để đến Jansbu. Anh cần lấy một số vũ khí và chất nổ, chúng được chôn trong một hầm gần cabin. Sau đó, anh dự định đi xuống Notodden, phía đông nam Rjukan, để kết nối với ổ kháng chiến ngầm ở đó. Khi đến Jansbu, anh thấy cánh cửa hé mở nhưng không có ván trượt bên ngoài hay dấu vết dẫn lên cabin. Anh tháo ván trượt, đút súng vào túi rồi bước vào, tay cầm ba lô.
Nơi đó đã từng bị lục soát, đồ đạc bị lật tung, nệm bị xé toạc, tủ bị vỡ. Ý nghĩ về việc kẻ thù xâm nhập sâu vào lãnh thổ Vidda mà Helberg coi là của mình khiến anh vô cùng bất an. Sau đó, nỗi sợ hãi ập đến là quân Đức có thể vẫn đang ở gần, thậm chí có thể đang ẩn nấp. Anh di chuyển đến cửa sổ để quan sát khu vực xung quanh.
Sau khi tách khỏi các thành viên đội Gunnerside và Chim Én, Helberg đã quay trở lại Fjøsbudalen để lấy quần áo dân sự và giấy tờ của mình. Giấy tờ đứng tên một thư ký từ Oslo. Anh rời đi để gặp những người khác, nhưng khi cơn bão ập đến, anh đã đánh mất bản đồ của mình theo gió. Sự lựa chọn của anh thật rõ ràng: rút lui về cabin hoặc lạc trong cơn bão. Khi trận bão tuyết dịu đi, anh lại lên đường, nhưng lúc đó đồng đội của anh đã phân tán theo các hướng khác nhau trên Vidda.
Cuối cùng anh đã đến được Oslo. Vào ngày 8 tháng 3, anh đến quán cà phê Majorstua, địa điểm đã hẹn trước để gặp Poulsson. Ở thủ đô là một trải nghiệm chóng mặt, đám đông lê bước, những xe điện kêu rít chạy qua, bọn lính Đức đi quanh quẩn. Trong quán, Helberg uống cà phê, cố gắng làm ra vẻ như mình không hề quan tâm đến thế giới.
Vài phút sau, Poulsson đến. Họ vui mừng khôn xiết khi gặp nhau nhưng che giấu cảm xúc bằng một lời chào bình thường. Poulsson nói với Helberg rằng mình sẽ sớm đi Stockholm. Xung quanh Rjukan đang có quá nhiều náo động nên họ không thể mạo hiểm hợp tác cùng nhau. Helberg quyết tâm ở lại, và nhiệm vụ đầu tiên của anh là chuyển kho Skrykken. Hai người tạm biệt nhau rồi ra về theo hai hướng ngược nhau.
Vào ngày 22 tháng 3, sau khi ở trong ngôi nhà an toàn vài tuần, Helberg nhận được một bức thư từ Rolf Sørlie thông báo rằng mọi thứ ở Rjukan đã lắng xuống và việc quay trở lại khu vực này đã an toàn. Điều mà Sørlie không biết và không thể biết là các đoàn tàu và xe buýt chở đầy binh lính đang chạy vào khu vực này từ Oslo ngay ngày hôm đó. Helberg quay trở lại Vidda vào thời điểm tồi tệ nhất có thể.
Nhìn ra ngoài cửa sổ ở Jansbu, Helberg không thấy một bóng người nào. Vẫn còn khó chịu, anh mạo hiểm đi ra ngoài.
Sau đó, từ hướng hồ, anh nhìn thấy ba người lính Wehrmacht đang trượt tuyết về phía cabin. Họ ở cách xa khoảng bốn trăm thước và đang lao tới rất nhanh. Tất cả những gì Helberg mang theo là khẩu súng lục Colt .32. Bị áp đảo về quân số và gần như chắc chắn bị áp đảo về vũ khí, anh biết rằng mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ chạy. Anh chạy vào trong, chộp lấy chiếc ba lô, quay trở lại với ván trượt rồi phóng đi.
Một người lính hét lên bằng tiếng Đức ra lệnh anh dừng lại; theo sau là tiếng súng nổ. Xung quanh anh, tuyết vọt lên như nấm khi những phát súng trượt mục tiêu. Nhìn qua vai, anh đánh giá những tên theo đuổi anh phải là người trượt tuyết có nghề. Anh phải vượt trội hơn. Anh rẽ về phía tây, thẳng vào hướng mặt trời lặn ánh sáng trực diện của nó chắc chắn biến anh thành một mục tiêu khó khăn hơn.
Trong giờ tiếp theo, Helberg đi vòng quanh những ngọn đồi, xuống khe núi, lên thung lũng ngắn và vượt qua những mỏm đá nhô ra. Anh hy vọng có thể tìm ra cách nào đó để che giấu sự thay đổi hướng đi, nhưng quân Đức đã bám quá sát anh. Anh biết rõ địa hình hơn họ, nhưng ngày hôm đó anh đã trượt tuyết rất nhiều dặm. Mười dặm, có thể hơn, từ Hồ Skrykken, cuối cùng anh cũng bắt đầu bỏ xa tất cả ngoại trừ một tên theo đuổi ráo riết, một tên khổng lồ. Dù Helberg có đẩy mạnh gậy chống đến đâu, hắn vẫn duy trì khoảng cách với anh khoảng một trăm thước. Cứ thế trong một giờ nữa, Helberg tiếp tục làm việc đó, thỉnh thoảng liếc qua vai để xem liệu cuối cùng có thoát được hắn hay không. Con chó săn vẫn bám theo dấu vết của anh, công việc của hắn trở nên dễ dàng hơn nhờ những dấu vết anh để lại khi cày qua lớp tuyết.
Trên những con dốc khó khăn, Helberg đã bứt xa hắn ta. Nhưng khi xuống dốc, kẻ truy đuổi lại thu hẹp khoảng cách. Cuối cùng, có lẽ sẽ sớm thôi, hắn sẽ bắt kịp. Hoặc đôi chân của Helberg sẽ quá sức hoặc ván trượt của anh, với lớp sáp kém và các mặt lót kim loại cồng kềnh, sẽ gây bất lợi cho mình. Trong một nỗ lực phi thường, anh nhắm đến mọi ngọn đồi trong tầm với, ngày càng leo cao hơn, mở rộng khoảng cách với kẻ truy đuổi cho đến khi anh không còn nơi nào để đi ngoài việc đi xuống. Nhưng mỗi khi địa hình bằng phẳng, tên lính lại áp sát. Và lúc đó anh gần như đã ở trong tầm bắn.
“Dừng lại! Giơ tay lên!” tên Đức hét lên.
Ngay lúc đó, Helberg đã đưa ra quyết định của mình. Rút khẩu Colt ra khỏi túi, anh dừng lại và quay phắt lại. Tên lính đứng khựng lại đột ngột khi Helberg bắn một phát duy nhất từ khoảng cách 40 thước.
Anh bắn trượt.
Tên lính rút ra một khẩu Luger. Nếu đó là một khẩu tiểu liên thì mọi chuyện đã xong. Bây giờ Helberg đã biết chuyện này sẽ diễn ra như thế nào: ai trút hết băng đạn của mình trước sẽ thua trừ khi giết được người kia. Helberg tính toán rằng tẻn lính không ở vị trí tốt nhất để nhắm trúng. Mặt trời lặn chiếu vào mặt hắn, hắn sẽ đổ mồ hôi trong mắt và cơ bắp sẽ nóng bừng. Helberg giữ vững lập trường của mình.
Tên lính nhanh chóng nổ súng, bắn liền tám phát. Tất cả đều trượt. Biết rằng mình không có thời gian để nạp đạn, tên lính quay người và trượt đi. Chiếc gậy của hắn ấn gấp gáp và mạnh mẽ vào tuyết khi hắn tăng tốc lên đồi.
Helberg trượt theo hắn, Colt một tay, tay kia cầm cả hai cây gậy. Anh không thể để tên lính rời đi, nạp đạn và đuổi theo mình lần nữa. Khi tên lính đến gần đỉnh đồi, Helberg lướt chậm lại. Hắn ở trong vòng 25 thước. Khoảng cách đã đủ gần. Anh nâng khẩu Colt của mình lên và bắn. Tên lính hơi loạng choạng về phía trước rồi ngã sấp trên gậy chống trong tuyết. Có vẻ như hắn cần được nghỉ ngơi.
Helberg ngay lập tức quay đầu và lao xuống dốc. Trong vòng một giờ nữa trời sẽ tối, nhưng anh biết rằng ngày hôm sau những kẻ truy đuổi anh sẽ cố gắng lần theo dấu vết của anh. Anh cần phải đi càng xa càng tốt và băng qua một số hồ nước chỉ có băng để loại bỏ những dấu vết của mình.
Trong ít nhất hai giờ tiếp theo, anh hành trình về phía nam. Anh không thể nhìn rõ, nhưng địa hình chủ yếu bằng phẳng và bản năng của anh đã hướng dẫn anh. Rồi đột nhiên anh cảm thấy mình đang rơi. Anh đã trượt thẳng ra khỏi một vách đá.
Anh rơi xuống một bãi tuyết dày đặc. Khi anh lấy lại hơi thở và nhận ra mình vẫn còn sống, một cơn đau ập đến bao trùm lấy anh. Anh lăn qua, vai trái và cánh tay vô dụng. Nhìn lên vách đá in bóng lên bầu trời đầy sao, anh đoán rằng mình đã rơi từ độ cao 30m trở lên. Anh kiểm tra phần trên cánh tay trái của mình và cảm thấy chắc chắn rằng nó đã bị gãy và vai của anh cũng bị trật. Anh biết mình không thể ở lâu trên núi trong tình trạng như vậy. Anh tự đứng dậy. Ít nhất ván trượt của anh còn nguyên vẹn. Với một cây gậy chống, anh đẩy đi.
Kể từ sáng hôm đó, anh đã đi được khoảng sáu bảy mươi dặm. Anh vẫn còn phải đi xa hơn nữa, giờ đã bị tàn tật, kiệt sức và đói khát. Với tốc độ chậm rãi, đều đặn, cánh tay trái ôm lấy hông, anh tiếp tục đi xuống cuối hồ Møs. Nếu có thể đến được trang trại của Jon và Birgit Hamaren, anh biết rằng họ sẽ giúp đỡ. Vào lúc 8 giờ sáng, cuối cùng anh cũng lê bước đến cửa nhà họ. Birgit đã trả lời. Cô đưa cho anh một ít thức ăn nhưng cảnh báo rằng khoảng 50 lính Đức và bọn Gestapo đang trú ẩn tại một trang trại lân cận – cách đó năm phút đi bộ. Anh trai cô ấy cũng ở đó, bị bọn Đức bắt làm người hướng dẫn. “Anh phải ra khỏi đây,” cô nói với anh.
Nhanh chóng rời đi, Helberg trượt dọc theo bờ hồ Møs, sau đó hướng tới Rauland, một ngôi làng hai mươi dặm về phía nam, nơi anh có một liên lạc khác. Ba mươi sáu giờ đã trôi qua kể từ lần cuối cùng anh ngủ. Với tình trạng kiệt sức và bị thương, anh biết rằng nếu gặp bất kỳ tên Đức nào, anh sẽ chẳng còn chút hơi sức nào chiến đấu.
Cách Rauland một dặm, anh chạy thẳng vào một đội tuần tra. Lính Đức hỏi giấy tờ anh và anh trình ra: “Sverre Haugen.” Họ nói với anh rằng không ai được phép đi du lịch quanh khu vực. Che giấu cánh tay bị thương của mình, Helberg bào chữa mình không biết, nói rằng mình chỉ là một nhân viên bưu điện ra ngoài thăm một người bạn. Những tên lính đã cho phép anh đi qua.
Vào lúc 9 giờ tối. anh đến nhà người liên lạc của mình. Khi cánh cửa mở ra, hai lính Đức đang đứng bên cạnh chủ nhân. Helberg biết chỉ có một con đường mở ra cho anh: bịa chuyện để thoát khỏi tình huống này. Anh mỉm cười và nói dối, giải thích rằng mình đã bị thương khi hướng dẫn quân Đức trên núi và bây giờ cần điều trị y tế. Khi một tên đề nghị anh dùng dây đeo tay, Helberg cởi áo khoác, để lộ khẩu súng lục. Một cách lạnh lùng, anh giải thích rằng công ty anh làm việc cho phép mình mang theo súng phòng khi gặp rắc rối. Những người lính chấp nhận câu chuyện của anh. Họ chơi bài với anh, và thậm chí còn đề nghị đưa anh lên một chiếc xe tải y tế đến thị trấn lân cận để từ đó anh có thể đến bệnh viện Oslo. Helberg mỉm cười và cảm ơn họ. Đúng như lời hứa, ngày hôm sau họ lái xe chở Helberg đi 22 dặm về phía nam, qua trạm kiểm soát này đến trạm kiểm soát tiếp theo, là đến Dalen. “Auf Wiedersehen,” anh nói, vẫy tay chào những người lính trước khi họ lái xe đi.
Có rất nhiều người Đức ở thị trấn ven biển, nhưng nó nằm ngoài vùng cấm và Helberg cảm thấy mình sẽ an toàn ở đó. Con thuyền đi Oslo khởi hành vào sáng hôm sau, vì vậy anh nhận phòng tại khách sạn Dalen, một công trình kiến trúc bằng gỗ: đầu rồng được chạm khắc, ban công tròn và tháp pháo tinh xảo. Sau bữa tối sớm với cá hồi chiên, cà rốt tẩm gia vị và bánh mì dày phết thạch dâu, no nê, anh lui về phòng ở tầng hai. Anh giấu khẩu súng lục trên bậu cửa sổ bên ngoài và rón rén bò lên giường, cánh tay và vai đau nhức.
Ngay sau khi chìm vào giấc ngủ, anh bị đánh thức bởi tiếng đập cửa, tiếng bước chân nặng nề trên hành lang và những mệnh lệnh bằng tiếng Đức. Lính SS dọn sạch mọi phòng và đưa những người ở trong đó ra sảnh. Những vị khách đang buồn ngủ được thông báo rằng Toàn quyền Terboven, cùng với giám đốc an ninh của y, Heinrich Fehlis, đang nắm quyền kiểm soát khách sạn làm trụ sở tạm thời của họ. Với bọn lính bao vây khách sạn và canh gác mọi lối vào, Helberg biết rằng không có lối thoát. Anh ta xuất trình giấy tờ giả, lại nói dối về vết thương của mình và là một trong số ít người được phép trở về phòng thay vì ở lại sảnh cả đêm. Được vào phòng rồi, anh không dám rời đi.
*
Trong khi Helberg bồn chồn nghỉ ngơi trong phòng, Toàn quyền và các quan chức cấp cao của y ngồi xuống hai chiếc bàn dài cạnh lò sưởi. Họ gọi bữa tối và vài chai rượu vang. Cuộc trò chuyện xoay quanh việc họ nên bố trí lại lực lượng an ninh trên khắp Na Uy như thế nào để bảo vệ đất nước tốt hơn trước cuộc xâm lược của Đồng minh.
Khi biết rằng trong số những người bị đuổi ra khỏi phòng vì sự xuất hiện của mình có hai phụ nữ Na Uy trẻ trung, hấp dẫn, Terboven đã mời họ ngồi vào bàn của mình. Một trong số họ, Aase Hassel, nói thông thạo tiếng Đức và đã giành được sự chú ý không mong muốn của Terboven . Sau đó trong buổi tối ngập trong rượu vang, Terboven hỏi Hassel về gia đình cô. Cô nói với y rằng cha cô là một sĩ quan quân đội Na Uy. Thế thì ông ta phải sung sướng, Terboven nói, khi được an toàn và là một phần của lực lượng lao động bắt buộc do người Đức thiết lập gần đây. “Không,” Hassel nói. “Ông ấy đang ở Anh và tôi tự hào về điều đó.”
Mọi người ở bàn đều đứng hình. Sôi sục trước lời nhận xét của cô, Terboven chuyển sự chú ý sang bạn cô. Chẳng bao lâu sau, ông lại bắt đầu chỉ trích những sinh viên đại học đã lầm tưởng mình là “những người yêu nước”.
Hassel buột miệng mà không thể cưỡng lại được. “Tất cả những người Na Uy tốt bụng đều là những người yêu nước.”
Một lần nữa thực khách đều câm lặng. Một lần nữa Terboven giữ im lặng. Ysẽ giải quyết với cô sau.
*
Vào lúc 10:30 sáng hôm sau, với cánh tay được đeo đai, Helberg từ từ đi xuống cầu thang từ phòng mình, một người lính theo sau anh ta. Gestapo đã đưa tất cả trừ một số khách thuê phòng đến Grini để đáp lại một số “hành vi xấu” họ đã thể hiện với Terboven vào đêm hôm trước. Khi đến trại tập trung, Helberg biết rằng mình sẽ không còn có thể có cơ hội khai gian nữa. Giấy tờ tùy thân của anh sẽ được kiểm tra kỹ lưỡng và được xác định là giả. Sau đó cuộc thẩm vấn sẽ bắt đầu nếu anh không nuốt ngay viên nang xyanua.
Tên lính phía sau đá vào lưng anh vì di chuyển không đủ nhanh. Anh lao xuống bậc thang, khẩu Colt tuột khỏi thắt lưng và rơi xuống sàn. Nó dừng lại giữa đôi ủng đen của một tên lính khác. Helberg gần như không thể tin được sự xui xẻo của mình. Người lính nhặt súng lên. “Như anh có thể thấy, nó không được nạp đạn,” Helberg nói bằng thứ tiếng Đức bồi của mình trong khi cố gắng đứng dậy. Anh chắc chắn rằng bây giờ mình đã tiêu rồi.
Một tiếng ồn ào xảy ra sau đó, vài tên lính nói nhanh với nhau về việc phải làm. Vì Terboven và đoàn tùy tùng của y đã rời đi nên không có ai ở đó phản đối lệnh đưa Helberg đến Grini.
Họ quyết định hãy để các sĩ quan ở trại tù giải quyết. Helberg bị đẩy vào hàng tù nhân ra khỏi khách sạn lên một chiếc xe buýt ọp ẹp có cửa sổ tối đen. Anh là một trong những người cuối cùng leo lên xe và tìm được một chỗ trên sàn phía sau xe buýt. Một người lính SS đội mũ thép, trang bị súng trường và lựu đạn, quan sát họ từ phía trước.
Chiếc xe buýt lăn bánh khỏi Dalen trên chặng đường dài 140 dặm đến Oslo, được hộ tống phía trước và phía sau bởi SS đi xe mô tô có toa bên hông. Helberg quyết tâm trốn thoát, bằng cách nào đó, ở đâu đó trên đường đi.
Buổi chiều trôi qua trong im lặng, chiếc xe buýt cố gắng vượt qua những ngọn núi, những người ngồi trên xe run lên vì lạnh. Hai cô gái trẻ ngồi ở ghế bên cạnh Helberg. Một cô mắng anh ta vì đã mạo hiểm mạng sống của họ khi cố lén mang một khẩu súng lục lên xe buýt. Đói bụng và hơi muốn trêu chọc cô, Helberg lấy cuốn sổ của cô, xé vài mảnh giấy và cho vào miệng nuốt. Phản ứng của cô là cho anh một viên ngậm trị đau họng để giúp anh nuốt. Cô tự giới thiệu mình là Aase Hassel và tự hào nói về cha và chú của mình đang ở Anh.
Giữa cuộc trò chuyện của họ, tên lính bước xuống lối đi. “Anh ngồi đằng kia,” gã nói với Helberg, chỉ về phía trước xe buýt. Helberg lê bước phía người lái xe. Nếu tên lính muốn tán tỉnh các cô gái trẻ thì cũng được thôi, nó sẽ cho anh cơ hội. Anh ngồi xuống cạnh cửa và nhìn vào thanh kéo cửa. Từ những cột mốc đi qua, chắc phải cách Oslo ba mươi dặm. Với một chút may mắn, anh có thể đến được khu rừng. Chiếc xe buýt tiến lên một ngọn đồi và ì ạch. Helberg bật dậy, nắm lấy thanh kéo, giật mạnh và nhảy.
Anh ngã nhào xuống đường, đập vào cánh tay bị gãy. Bọn lính canh gác bên trong xe buýt bắt đầu la hét yêu cầu tài xế dừng lại. Trước khi tài xế kịp vâng lời, Helberg đã bò qua cánh đồng phủ đầy tuyết về phía khu rừng. Anh ngã nhiều lần, lần nào cũng chắc chắn rằng quân Đức sắp tiếp cận anh.
Cánh đồng kết thúc bằng một hàng rào dày và cao khiến anh phải dừng bước. Anh không thể vượt qua được. “Dừng lại!” một lính gác Đức hét lên.
Helberg biết mình phải làm gì. Anh chắc chắn sẽ bị bắn, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác. Anh quay lại và lao qua cánh đồng về phía người lính khác đứng trên đường. Một quả lựu đạn phát nổ trên tuyết phía sau anh. Không bị thương, anh tiếp tục. Nhiều tiếng súng vang lên. Không phát nào trúng. Dù sao thì anh cũng không thể cảm nhận được. Anh lao qua đường giữa chiếc xe buýt và một chiếc mô tô, lạng lách để tránh bị lính Đức chặn lại, nhất thời bối rối trước cách tiếp cận trực diện của mình. Sau đó anh chạy qua cánh đồng bên kia đường. Một quả lựu đạn khác phát nổ phía sau anh, quá xa để gây sát thương. Sau đó có thứ gì đó đập mạnh vào lưng anh: quả lựu đạn thứ ba. Anh không thể tránh được nó.
Vụ nổ không bao giờ đến. Quả lựu đạn thúi..
Anh lao thẳng vào rừng và bóng tối. Có thêm vài tiếng súng nữa, nhưng quân Đức chỉ nhắm bắn cầu may. Helberg đi chậm lại để lấy lại hơi thở, rồi luồn qua những tán cây, cánh tay anh buốt giá vì đau đớn tột cùng. Một cơn mưa nhẹ đang rơi, nhưng anh biết rằng dấu vết của mình vẫn còn In rõ trên tuyết vào buổi sáng. Cuối cùng, sau một chuyến đi bộ dài xuyên rừng, anh bắt gặp một tòa nhà dài hình chữ nhật được chiếu sáng từ bên trong. Anh trèo qua hàng rào thép gai bao quanh và loạng choạng đi đến cửa trước.
Một ông già trả lời tiếng gõ cửa. Helberg không thể nói dối. Cánh tay anh đã bị gãy. Anh đẫm máu và choáng váng. Quần áo anh rách rưới. Chắc chắn đêm nay anh không thể đi xa hơn được nữa. Nếu ông già này là một người Na Uy tốt bụng, ông ta sẽ giúp đỡ. Nếu không, Helberg sẽ tiêu đời. Người đàn ông chào đón Helberg vào và nói với anh rằng anh đã đến một bệnh viện tâm thần. Họ có thức ăn, bác sĩ, quần áo và giường ngủ. Helberg đã an toàn.
Đúng 9 giờ sáng ngày 8 tháng 4, Heinrich Fehlis đứng trước bậc thềm khách sạn Dalen trước mặt bốn tiểu đoàn. Sau mười sáu ngày lùng sục Vidda, người của ông cần được giải tỏa. Tất cả họ đều kiệt sức. Một số bị tê cóng ở tay và chân; một số bị gãy xương; tất cả đều bị thời tiết bào mòn, mặt phồng rộp. Họ đang ở trong tình trạng khủng khiếp. Họ đã đi bộ hàng trăm dặm qua những ngọn núi và vùng xung quanh Hồ Mos. Họ đã phải vật lộn vượt qua những cơn bão để tiến vào cao nguyên, lục soát các cabin trên đường đi. Một trong số họ đã bị một tên Na Uy bắn trong một cuộc rượt đuổi từ Hồ Skrykken.
Fehlis đã đến thăm nơi ở của họ vài ngày trước đó, đảm bảo rằng họ có rượu cognac và rượu vermouth để cho vào đồ uống nóng của mình. Bây giờ y cảm ơn họ vì những nỗ lực của mình. “Hàng ngày, các chàng trai của chúng ta đã phải chịu đựng những cuộc hành quân dài ngày mà vẫn tập hợp với tinh thần cao độ, không một lời phàn nàn. Trong quân đội của tôi, các bạn đã thể hiện sự xuất sắc.” Sau đó y cho họ tan hàng. Các tiểu đoàn khác sẽ đến thế chỗ.
Cho đến nay, có rất ít thành tích thể hiện lời tán dương này. Một số kho chứa chất nổ và vũ khí đã được tìm thấy, còn những túp lều nơi chúng được cất giấu đã bị đốt sạch. Đã có một số vụ bắt giữ nhân viên điều hành mạng vô tuyến nhưng không có gì đáng chú ý và chắc chắn không có kẻ phá hoại Vemork nào bị bắt giữ. Nếu cuộc săn lùng của y không sớm đạt được tiến bộ trong việc tìm ra những kẻ chịu trách nhiệm thì báo cáo tình báo của y cho thấy họ có thể là thành viên của cái gọi là Đại đội Độc lập Na Uy số 1 – thế thì Fehlis sẽ phải ngừng việc tìm kiếm.
*
Ở vùng núi cao Hamrefjell, Skinnarland và Haugland định cư vào đêm thứ hai trong một hang động mà họ đã đào từ tuyết. Gió Tây Nam gào thét ngoài khe cửa hẹp, cái lạnh thấm sâu vào tận xương tủy như một căn bệnh. Đã ở ẩn gần một tháng kể từ khi vụ bố ráp ở Đức bắt đầu, họ đã quen với những điều kiện như vậy.
Họ đang ở Nilsbu thì vào ngày 24 tháng 3, Jon Hamaren vội vã đến từ trang trại của mình để cảnh báo họ rằng một cuộc đột kích đang diễn ra. Anh trai của Skinnarland, Olav, là một trong những người bị bắt đầu tiên, Hamaren nói với họ, và bọn lính đã đưa Olav đi hiện đang chiếm giữ khách sạn của anh bên con đập, nơi vợ anh, Ingeleiv, buộc phải phục vụ họ mọi lúc đồng thời cô còn phải chăm sóc đứa con trai nhỏ và đứa con gái mới sinh.
Skinnarland và Haugland đã dọn sạch khỏi Nilsbu vũ khí, thiết bị vô tuyến, và các thiết bị khác và chôn giấu chúng chỗ khác. Sau đó họ trượt tuyết và leo lên những hẻm núi hẹp và những vách đá dựng đứng của Hamrefjell đến một điểm cao hơn năm nghìn bộ. Họ ở đó mười ngày đêm, chỉ có một chiếc lều, một bếp dầu và túi ngủ để giữ ấm. Qua ống nhòm, họ theo dõi đội tuần tra của Đức di chuyển quanh Hồ Møs và những ngọn đồi xung quanh. Đôi khi một chiếc máy bay trinh sát Storch lướt qua trên đầu. Mặc dù lộ diện trên sườn núi nhưng họ biết rằng khó có ai tìm thấy mình. Nếu có ai đến gần lều, họ sẽ phát hiện được từ rất xa. Với địa hình hiểm trở, những kẻ truy đuổi họ thậm chí sẽ gặp khó khăn để tiếp cận được vị trí họ. Điều tuyệt vời nhất là những người Na Uy bị bắt làm hướng dẫn viên địa phương bao gồm Hamaren và những nông dân khác, biết cách giữ quân Đức tránh xa nơi ẩn náu của họ.
Vào ngày 1 tháng 4, khi hoạt động tìm kiếm của Đức Quốc xã đã rời khỏi Hồ Møs, Skinnarland và Haugland quay trở lại Nilsbu. Mặc dù người Đức đã thiết lập một trạm D/F di động bên hồ để đánh hơi đường truyền, nhưng bọn họ đều đặt nó ở một nơi trũng đến mức không thể bắt được tín hiệu Nilsbu. Haugland tiếp tục đào tạo Skinnarland làm người điều hành điện đài, và anh ta đủ thành thạo để gửi tin nhắn đầu tiên đến Trạm Chính một tuần sau đó, mô tả tình trạng náo động, thiếu tin tức từ Haukelid, Kjelstrup hoặc Helberg, và nhu cầu cấp thiết về việc thả dù đồ tiếp tế. Tronstad trả lời với tin tức rằng Poulsson đã đến Thụy Điển cùng với Rønneberg, Strømsheim, Idland, Kayser và Storhaug. Ít nhất những thành viên của đội đã được an toàn.
Vào ngày 16 tháng 4, Hamaren đã cảnh báo Skinnarland và Haugland về hoạt động mới của kẻ thù xung quanh hồ. Cả hai bỏ chạy trở lại vào vùng núi Hamrefjell với tốc độ nhanh và xây dựng hang tuyết của họ. Ngày hôm sau, Skinnarland xuống Nilsbu để điều tra và phát hiện hai bộ ván trượt dựa vào thành cabin. Lo sợ chúng thuộc về người Đức, anh rút lui vào vùng núi để ở lại ẩn náu trong tuyết.
Sáng hôm sau, không có dấu hiệu của bất kỳ cuộc tuần tra nào ở bên dưới, anh và Haugland trượt trở lại Nilsbu. Khi họ cẩn thận tiến đến căn nhà gỗ, họ nhìn thấy những kẻ xâm phạm: Đó là Haukelid và Kjelstrup. Họ tận hưởng một không gian ấm áp và đoàn tụ vui vẻ, và bốn người đàn ông đã chia sẻ với nhau những câu chuyện về cuộc vượt thoát trong gang tấc của họ. Họ cũng thảo luận về sự tàn phá tàn khốc của đàn tuần lộc bị súng máy của Đức tiêu diệt trong khi cuộc bố ráp đang diễn ra. Cuối ngày hôm đó, người nông dân Hamaren đến căn nhà gỗ để nói với họ rằng Claus Helberg đã bị bắn chết khi cố gắng chạy trốn khỏi đội tuần tra Đức. Có rất ít hy vọng báo cáo là sai. Họ chuyển tin tức đến London và thương tiếc sự ra đi của người đồng đội.
Đã đến lúc họ phải khởi động công cuộc kháng chiến của mình. Skinnarland giờ có khả năng truyền tải với tốc độ đủ nhanh để có thể điều hành trạm vô tuyến của riêng mình. Haugland hướng đến Notodden, sau đó tới Oslo, để thành lập mạng lưới truyền tin cho Milorg. Haukelid và Kjelstrup sẽ thành lập các tổ kháng chiến trong khu vực. Đối với cả bốn người đàn ông, nhiệm vụ ban đầu của họ đã hoàn thành. Theo những gì họ biết, họ sẽ không còn liên quan gì đến Vemork nữa.
22 Một môn thể thao quốc gia
VÀO GIỮA THÁNG 4 NĂM 1943, một chiếc xe tải quân sự chạy qua cầu treo vào Vemork. Cố định trong thùng xe tải là một vật trông giống như một thùng thép đựng dung dịch kiềm kali thông thường, một thành phần trong quá trình điện phân. Những gì thùng thực sự chứa là 116 kg nước nặng gần như tinh khiết từ Berlin. Ban đầu nó được sản xuất tại Vemork.
Ngay sau vụ phá hoại vào ngày 28 tháng 2, một dòng người của công ty Norsk Hydro và các quan chức Đức đã đến nhà máy để quyết định số phận của nó. Một số người lập luận rằng tất cả các thiết bị có thể tận dụng được sẽ được chuyển đến Đức, vì việc phá hủy nhà máy gần như đã trở thành một “môn thể thao quốc gia của Na Uy”. Những người khác, bao gồm Bjarne Eriksen, tổng giám đốc Norsk Hydro, muốn khởi động lại Vemork. Esau và Văn phòng Quân khí Quân đội được yêu cầu đưa ra một “quyết định nhanh chóng” và họ đưa ra quyết định: các tế bào phải được sửa chữa và nhà máy được mở rộng càng sớm càng tốt. Cơ sở xử lý nước nặng tại Såheim và Notodden cũng phải nhanh chóng thành lập. Bộ chỉ huy Đức đã cung cấp mọi vật liệu và nhân lực cần thiết (bao gồm cả lao động nô lệ từ nước ngoài) và cảnh báo rằng nếu công việc không được hoàn thành đủ nhanh thì sẽ bị trừng phạt nghiêm trọng.
Vào thời điểm chuyến hàng nước nặng bí mật từ Berlin đến Vemork, công việc suốt ngày đêm ở nhà máy gần như đã hoàn thành. Lô hàng được sử dụng để lấp đầy các tế bào có nồng độ cao mới, khắc phục quá trình tích lũy chậm từng giọt chất quý giá và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất sau vài tháng. Với ba giai đoạn mới và một số tế bào được bổ sung vào quá trình điện phân sơ bộ, người Đức dự kiến sản lượng hàng ngày sẽ sớm đạt 9,75 kg. Với kế hoạch tăng gấp đôi quy mô của nhà máy nồng độ cao một lần nữa, sản lượng hàng ngày có thể đạt gần 20 kg trong năm nay.
Trong khi việc này đang diễn ra, sĩ quan SS Muggenthaler và Trung úy Wirtz, người đứng đầu lực lượng bảo vệ mới tại Vemork, đã hoàn thiện các biện pháp an ninh. Một lính bảo vệ khác được đặt ở vị trí cầu treo và hai người nữa ở cổng đường sắt. Những tên khác tuần tra trong khuôn viên với chó Alsatian cả ngày lẫn đêm. Công binh đặt nhiều mìn hơn ở mọi cách tiếp cận. Hàng rào thép gai được dựng lên. Để chống lại một cuộc tấn công từ trên không, người ta đã giăng thêm những sợi dây dọc khắp thung lũng và đặt các máy tạo sương mù quanh khu vực. Các đường ống được ngụy trang và lưới ngư lôi được dựng lên để bảo vệ đập Hồ Møs. Một lính bảo vệ thường trực được bố trí bên ngoài nhà máy nồng độ cao được xây dựng lại. Tất cả các cánh cửa ngoại trừ một cánh cửa được gia cố bằng thép đều được xây gạch hoặc bịt kín bằng các thanh gỗ. Tương tự, các cửa sổ cũng được chặn hoặc cố định bằng các thanh sắt và lưới thép. Bên trong nhà máy, một đội bảo vệ được trang bị súng tiểu liên.
Muggenthaler đã loại bỏ bất kỳ nhân viên nào được coi là mối đe dọa và các kỹ thuật viên người Đức đảm nhận vai trò trong cơ sở để theo dõi mọi hoạt động bất hợp pháp. Vemork trước đây có thể là một pháo đài, nhưng bây giờ nhà máy nồng độ cao của nó là pháo đài bên trong pháo đài. Và vào ngày 17 tháng 4 năm 1943, lúc 2 giờ chiều, nước nặng bắt đầu chảy qua các tầng tế bào một cách an toàn.
*
Ba tuần sau, vào ngày 7 tháng 5, Câu lạc bộ Uranium gặp nhau tại Viện Vật lý và Kỹ thuật Đế chế ở Berlin. Các nhà khoa học đang chịu áp lực về kết quả hơn bao giờ hết. Khi vận may của Đức trong cuộc chiến ngày càng xấu đi, quân Đồng minh chuẩn bị chiếm lại toàn bộ Bắc Phi và Liên Xô tiếp tục đánh bại Wehrmacht ở Mặt trận phía Đông, bộ chỉ huy Đức Quốc xã cảm thấy khao khát một cách tuyệt vọng về một thứ gì đó sẽ nhanh chóng xoay chuyển tình thế theo hướng có lợi cho họ. Một báo cáo nói rằng “có rất nhiều tin đồn trong dân chúng Đức nói chung về một quả bom mới. Mười hai quả bom như vậy, được thiết kế theo nguyên tắc phá vỡ các nguyên tử, được cho là đủ để phá hủy một thành phố có hàng triệu người.” Tệ hơn nữa, cơ quan tình báo Đức Abwehr tiết lộ rằng người Mỹ đang trên đường tạo ra “bom uranium”. Chương trình nguyên tử của Đức bị xâu xé bởi các phe phái, và các nhà khoa học cũng như trung tâm nghiên cứu của nó hiện không được bảo vệ trước các cuộc ném bom của Đồng minh. Họ cần một bước đột phá để tập trung nỗ lực.
Mục đầu tiên trong chương trình nghị sự của cuộc họp ngày 7 tháng 5 là nước nặng. Chỉ mới ngày hôm trước, tại một hội nghị ở Học viện Nghiên cứu Hàng không Đức, Abraham Esau đã đổ lỗi một phần tiến bộ nguyên tử chậm của họ là vì tình trạng thiếu hụt gần đây của nước nặng. Ông ta muốn nhấn mạnh vào việc sản xuất ở Đức, kế hoạch vốn đã bị đình trệ từ lâu vì nguồn cung rẻ từ Na Uy. Paul Harteck khuyên nghị rằng sau một vài lần thí nghiệm nữa, nhà máy kiểu mẫu Leuna, sử dụng quá trình trao đổi xúc tác của mình, có khả năng mở rộng lượng sản xuất đến năm tấn một năm, nếu được cung cấp cho nó nước được làm giàu từ Vemork hoặc một vài nhà máy điện phân của Ý. Ông cũng đề nghị họ thử một phương pháp khác do Klaus Clusius phát minh, tận dụng điểm sôi cao hơn một chút của nước nặng để tạo ra sản lượng giàu hơn. Esau đã cho phép Leuna thực hiện công việc sơ bộ và giao cho Harteck trách nhiệm xác định liệu phương pháp Clusius có phù hợp ở quy mô công nghiệp hay không. Nhưng khi Vemork hoạt động trở lại và với các dự án bổ sung này, Esau cảm thấy tự tin rằng họ sẽ sớm có đủ lượng nước nặng cần thiết.
Diebner không mấy chắc chắn là có đủ nước nặng cho mọi người. Ông nói rõ rằng mình cần từng giọt cho hai thí nghiệm tiếp theo. Máy làm uranium gần đây nhất của nhóm ông (G-II), sử dụng các khối kim loại uranium lơ lửng trong nước nặng đóng băng, cho thấy khả năng tạo ra neutron ở mức lớn hơn một lần rưỡi so với bất kỳ thí nghiệm nào của Đức cho đến nay. Ông nói, cỗ máy đã chứng minh rằng thiết kế hình khối vượt trội hơn nhiều so với bất kỳ thiết kế nào khác trong việc thúc đẩy phản ứng dây chuyền và ở kích thước phù hợp, nó có thể sẽ tự duy trì.
Heisenberg không đồng ý. Trong suy nghĩ của ông, thiết kế tốt nhất vẫn là một câu hỏi mở. Ông khẳng định kích thước của cỗ máy mới nhất của mình, một quả cầu với các lớp kim loại uranium và nước nặng xen kẽ, là “quá nhỏ để mang lại những giá trị tuyệt đối nhất định.” Nhưng ông nói thêm rằng công ty sản xuất kim loại uranium cho họ đã đúc nó ở dạng tấm, như ông cần, thay vì dạng khối như Diebner yêu cầu. Vì vậy, các thí nghiệm của ông – và lượng nước nặng đòi hỏi – phải được xét ưu tiên. “Điều này không loại trừ khả năng thực hiện một thí nghiệm hình khối tiếp theo, nếu cần thiết,” Heisenberg đề nghị một cách nhún nhường.
Sự căng thẳng trong phòng hiện rõ. Diebner có những người ủng hộ ông, bao gồm cả Harteck, vốn tin rằng Heisenberg mù quáng trước giá trị của bất kỳ thí nghiệm nào không bắt nguồn từ bộ não của chính ông ta. Esau, người đã trưng dụng nước nặng từ Heisenberg cho thí nghiệm mới nhất của Diebner, cho biết ông cần suy nghĩ sâu hơn về việc thí nghiệm của ai nên được ưu tiên hơn. Cuối cùng cả hai người đều nhận được một phần nước nặng và uranium để cho phép họ tiến hành các thí nghiệm quy mô nhỏ, nhưng cả hai đều không hài lòng.
*
Tướng Leslie Groves tỏ ra lo lắng. Và ông không phải là người đàn ông chịu để lại mối lo lắng bị mưng mủ lâu dài. Sinh viên tốt nghiệp trường West Point và MIT cao khoảng 6 bộ, với cái đầu to tròn, mái tóc dày màu nâu và bộ ngực nở nang chứa đầy các huy chương. Groves được biết đến như một “người thực hiện, người dẫn dắt và người kiên trì thực hiện nhiệm vụ.” Được giao trách nhiệm điều hành Dự án Manhattan, ông cũng bị một số nhân viên coi là “kẻ khốn nạn lớn nhất” mà họ từng làm việc dưới quyền: chỉ trích, thô lỗ và tự đại. Cũng chính những người đó lại không muốn ai khác lãnh đạo dự án của Mỹ nhằm đánh bại Đức bằng quả bom.
Như Groves đã thấy, có hai cách bổ sung cho nhau để đạt được mục đích đó: thứ nhất, đẩy nhanh nỗ lực của Mỹ và thứ hai, làm chậm lại tiến độ của kẻ thù. Trước đây, ông đã lãnh đạo một chiến dịch tổng lực thu hút hàng chục nghìn nhà khoa học, kỹ sư và công nhân và thu về hàng trăm triệu đô la. Trên những ngọn đồi ở Tennessee, người ta đã xây dựng những nhà máy hoành tráng để tách đồng vị hiếm U-235 khỏi U-238 bằng hai phương pháp khác nhau. Bên cạnh sông Columbia ở bang Washington, đã bắt đầu xây dựng các lò phản ứng đã sử dụng 200 tấn uranium được điều tiết bằng 1200 tấn than chì. Hợp tác với đồng minh Canada, người Mỹ đang xây dựng một nhà máy nước nặng khổng lồ tại một trạm thủy điện ở Trail, British Columbia. Tại Trường Nông trại Los Alamos ở New Mexico, một thành phố nhỏ gồm các nhà vật lý đang nghiên cứu chế tạo một quả bom phân hạch hoạt động được. Tất cả những nỗ lực này đều mang lại sự lo lắng, nhưng ít nhất chúng cũng nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Groves.
Làm chậm bước kẻ thù thì không. Đầu tiên, ông có thông tin tình báo hạn chế về những bước tiến của quân Đức. Thứ hai, ông không có quyền chỉ đạo các lực lượng tác chiến hoặc máy bay ném bom hướng họ tới các mục tiêu của kẻ thù. Vào cuối tháng 3, ông biết được từ một tờ báo Thụy Điển về sự thành công không kém của chiến dịch phá hoại của Anh chống lại Vemork ở Na Uy, một nhà máy mà ông đã biết từ lâu đã cung cấp cho chương trình của Đức những nguồn lực nước nặng quan trọng.
Thông qua Tham mưu trưởng quân đội, Tướng George Marshall, và Thống chế John Dill, đại diện quân sự hàng đầu của Anh tại Washington, Groves yêu cầu được biết chi tiết về chiến dịch. Trong tháng 4, ông được thông báo rằng nhà máy Vemork sẽ ngừng hoạt động trong hai năm. Sau đó, chỉ vài ngày sau, ông được thông báo rằng thời hạn này đã giảm xuống còn một năm.
Một thời gian ngắn sau, Michael Perrin nói với ông rằng quân Đức sẽ không chế tạo được bom trước khi chiến tranh kết thúc. Perrin, một trong những lãnh đạo của Ủy ban Hợp kim Ống Anh, đang có chuyến thăm Washington vào thời điểm đó. “Có thể bạn đúng,” Groves trả lời. “Nhưng tôi không tin.” Ngay cả khi Perrin đúng, Groves biết rằng có những mối nguy hiểm khác, một trong số đó là tấn công bằng chất phóng xạ.
Từ một báo cáo chi tiết do các nhà khoa học của ông đưa ra, ông biết được rằng nếu người Đức thành công trong việc khởi động lò phản ứng nước nặng, họ có thể dễ dàng tạo ra “một lượng khổng lồ” chất phóng xạ có thể thả xuống một thành phố. Mặc dù báo cáo kết luận rằng có những thách thức trong việc tạo ra một quả bom phóng xạ hiệu quả, nhưng ít nhất người Đức có thể “làm mất khả năng hoàn toàn” một thành phố như London, yêu cầu phần lớn thành phố phải sơ tán.
Sáng ngày 24 tháng 6 năm 1943, Groves triệu tập Vannevar Bush, một người New England mắt xanh, từng phục vụ trong ủy ban giám sát Dự án Manhattan. Hai người thảo luận về tiến độ của chương trình, bao gồm cả khả năng họ sẽ có ít nhất một quả bom sẵn sàng triển khai vào đầu năm 1945. Họ cũng xem xét danh sách các mục tiêu cần tấn công nhằm làm chậm dự án của Đức, các mục tiêu được chỉ ra với sự giúp đỡ của tình báo Anh và Leif Tronstad
. Chúng bao gồm Vemork và một số trung tâm nghiên cứu của Đức. Groves và Bush nhất trí rằng việc chi nửa tỷ USD để sản xuất một quả bom là vô nghĩa nếu họ không “căng ra mọi dây thần kinh suy nghĩ về mặt biện pháp đối phó.”
Vài giờ sau, Bush ăn trưa tại Nhà Trắng với Tổng thống Roosevelt. Ông trình bày cách thức họ “tiến hành rất quyết liệt” và đã lên kế hoạch giao quả bom vào ngày 1 tháng 1 năm 1945. Roosevelt muốn biết quân Đức đang ở đâu trong cuộc chạy đua này. Bush trả lời rằng các nhà khoa học Đức Quốc xã đang “thực hiện công việc nghiêm túc về vấn đề này trước chúng ta và do đó họ có thể đi trước chúng ta”. Tuy nhiên, “các sắp xếp đang được tiến hành” nhằm tấn công một số ít mục tiêu của người Đức có trong danh sách của mình.
Khi Roosevelt đồng ý, Groves đã dồn hết sức mạnh ý chí để thúc đẩy việc này được thực hiện.
*
Đầu mùa hè, Knut Haukelid đang ở trong căn hộ tại Oslo của Trond Five, thủ lĩnh quân kháng chiến và là một người bạn cũ của gia đình thì có tiếng gõ cửa. Trond đến mở cửa và Haukelid nghe thấy giọng nói đặc biệt của chính bố mình, Bjørgulf. Nhanh chóng, anh trốn sang phòng bên cạnh, tuân thủ một trong những quy tắc cơ bản của hoạt động bất hợp pháp: không bao giờ liên lạc với gia đình. Theo những gì gia đình biết thì anh ấy vẫn đang ở Anh. Trong gần hai năm, anh ấy không gặp hay nói chuyện với bất kỳ ai trong gia đình mình, kể cả vợ anh, Bodil. Việc dính líu vào kháng chiến đã buộc cô phải rời đi Thụy Điển vào giữa tháng ba.
Giờ đây hai bố con chỉ còn cách nhau vài bước chân, chỉ cách nhau một cánh cửa, Haukelid muốn phá lệ, bước vào phòng, ôm lấy bố. Họ có thể không phải lúc nào cũng nhìn thế giới theo cùng một cách, nhưng họ vẫn là cha con. Chống lại sự cám dỗ, Haukelid vẫn ẩn mình. Sau vài lời ngắn gọn, Trond tiễn vị khách bất ngờ đi.
Haukelid và Kjelstrup đã dành vài tuần ở thủ đô, nghỉ ngơi và chờ cấp chứng minh thư mới mang tên các thành viên Nasjonal Samling. Khi ở đó, họ biết được rằng Helberg thực tế không hề bị giết khi cố gắng trốn ¹ 1thoát, và tin vui về sự sống sót của anh đã được gửi đến London. Những nguy cơ của người bạn đã khiến họ càng vững tin mình phải luôn cẩn thận và không được nghỉ qua đêm trong khách sạn.
Vào tháng 6, họ rời Oslo để thành lập tổ chức ngầm của mình một cách nghiêm túc. Họ quay trở lại Vågslid trên những chiếc xe đạp mua ở chợ đen, đóng vai khách du lịch đi chơi mùa hè và ngủ trong rừng, tránh khách sạn.
Kế hoạch của họ là tạo ra một căn cứ hoạt động an toàn, sau đó Haukelid sẽ tuyển mộ một số chỉ huy khu vực để lãnh đạo các chi bộ của họ và tập hợp các chiến binh kháng chiến. Vì những chỉ huy này là những người duy nhất biết về sự tồn tại của anh nên họ phải tuyệt đối đáng tin cậy. Sau khi được huấn luyện và vũ trang ngầm, tổ chức sẽ nằm chờ, sẵn sàng thực hiện các cuộc tấn công du kích nhằm tiêu hao sức mạnh của kẻ thù và ngăn cản sự di chuyển của chúng qua hành lang đông tây quan trọng của khu vực từ Oslo đến Biển Bắc.
Haukelid và Kjelstrup xây dựng căn cứ của họ ở vùng núi cao phía tây nam Vågslid, tính từ Hồ Holme. Họ thu thập những viên đá phủ đầy rêu để tạo thành một căn nhà gỗ hai vách trông giống như một đống đá khác nhìn từ xa, nhét đất và than bùn vào giữa các bức tường, khiến chúng cản gió. Đối với cánh cửa và dầm mái, họ tận dụng gỗ từ một mỏ bỏ hoang ở phía nam. Khi đói, họ câu cá hồi trong hồ. Khi mệt mỏi, họ nằm dài dưới nắng, vui mừng vì cuối cùng đã thoát khỏi mùa đông. Haukelid mua một chú chó săn nai sừng tấm từ một nông dân địa phương; họ gọi nó là Bamse (Gấu Nhỏ) và đặt tên cho căn nhà gỗ đang mọc lên của họ theo tên nó, Bamsebu.
Haukelid tạm dừng công việc xây dựng để đến gặp một trong những chỉ huy trung đội mới của mình. Sau đó anh đi tới một ngôi làng cách Dalen vài dặm về phía đông bắc. Ngày 18 tháng 6, như theo kế hoạch, anh gặp Skinnarland tại trang trại của một trong những người liên hệ của họ. Skinnarland đang ở trong tình trạng khủng khiếp. Hai tuần trước, cháu gái của anh đã chết, ngạt thở trong nôi. Bố bé, Olav, người đang bị giam ở Grini vì có mối quan hệ với Einar, thậm chí không thể tham dự đám tang của bé. Sự mất mát là một bi kịch quá lớn đối với người cha già của họ, người hiện đang cận kề cái chết, và Skinnarland không thể nào có thể đến thăm ông khi quân Đức đóng quân rất gần con đập. Ông sống một mình ở Nilsbu, liên tục phải chịu đựng cơn đau nhức vì một chiếc răng cửa bị nứt. Chịu không nổi, ông phải rời nơi ẩn náu, với tư cách là “Einar Hansson”, một thanh tra bảo hiểm nhân thọ, để đến khám một nha sĩ ở ngoại ô Dalen. Người ở Rjukan chắc chắn đã nhận dạng được ông và có khả năng báo cho Gestapo.
Haukelid cố gắng an ủi Skinnarland, và trong vài đêm tiếp theo, họ cố gắng quên rằng mình là những người đang chạy trốn. “Bonzo đang đợi – một cuộc gặp rất thú vị,” Skinnarland viết vào ngày 18 trong nhật ký viết tắt của mình. “Bữa tiệc lớn với kem trứng rất trang trọng,” anh viết nguệch ngoạc ngày tiếp theo. “Bắt đầu tại nha sĩ – trò chơi và trò vui” là nội dung nhập vào nhật ký của anh ấy ngày hôm sau đó. Vào một ngày họ ở bên nhau, Haukelid đưa cho Skinnarland xem danh sách đặt tên con gái Na Uy mà anh tìm thấy trong một cuốn sách. Những cái tên này đã lỗi thời từ lâu nhưng Haukelid đặc biệt thích một cái tên: Kirvil. Anh nói nếu có con gái, anh sẽ đặt tên con bé như vậy. Trong một khoảnh khắc, Skinnarland cũng nghĩ về tương lai, một tương lai mà anh có thể có vợ, con cái, cả cuộc đời sau cuộc đời này. Anh ấy đã hứa với Haukelid rằng nếu anh ấy có một cô con gái, anh ấy cũng đặt tên là Kirvil. Ít lâu sau, Haukelid quay trở lại Bamsebu. Skinnarland ở lại gần hai tuần và thực hiện thêm vài cuộc hẹn nữa tại nha sĩ.
Sau một cuộc hẹn như vậy, khi anh trở về túp lều của mình từ Hồ Møs, Jon Hovden, một nông dân và là một trong những trụ cột hỗ trợ chính của anh, đã đến thăm anh. Lillian Syverstad đã gửi một bức thư ngắn từ anh trai cô là Gunnar để Hovden đưa cho anh ấy. Tin tức trong thư, Skinnarland biết sau khi đọc nó, sẽ phải được gửi đến London ngay lập tức.
*
Vào ngày 8 tháng 7, Tronstad nhận được tin nhắn đáng lo ngại từ Skinnarland: “Vemork dự kiến sẽ cung cấp nước nặng từ khoảng ngày 15 tháng 8”. Wilson yêu cầu ông xác nhận tính chính xác của các báo cáo. John Anderson và Nội các Chiến tranh sẽ cần được cảnh báo.
Cho đến thời điểm đó, Gunnerside đã thành công ngoài mong đợi. Mục tiêu của họ đã bị tiêu diệt. Không một phát súng nào được bắn ra. Không có sự trả thù lớn nào. Mọi thành viên trong đội đã trốn thoát đến nơi an toàn, danh tính của họ người Đức không biết. Tronstad không thể mơ tới một kết quả tốt đẹp hơn. Những lời khen ngợi đến từ mọi nơi, từ bộ chỉ huy cấp cao của Na Uy đến chính Churchill, người đã hỏi thẳng thừng: “Phần thưởng nào sẽ được trao cho những con người anh hùng này?” Thành công này đã nâng cao vị thế của SOE và Đại đội Linge, mang lại cho họ nhiều cơ hội hơn cho các nhiệm vụ trong tương lai ở Na Uy.
Nếu báo cáo của Skinnarland là đúng, người Đức sẽ đưa toàn bộ hoạt động sản xuất trở lại bình thường sớm hơn nhiều so với suy nghĩ ban đầu của Tronstad. Gunnerside có thể đã cắt giảm hai tấn nguồn cung cấp nước nặng của Đức, một nửa số lượng họ cần cho một lò phản ứng đang hoạt động, nhưng Tronstad biết rằng bất kỳ đợt giao hàng mới nào tới Berlin sẽ không thể được chấp nhận, đặc biệt là sau những tuyên bố gần đây được tiết lộ từ Niels Bohr. Sau khi hai nhà vật lý người Đức đến thăm phòng thí nghiệm của ông ở Copenhagen, nhà vật lý người Đan Mạch tuyên bố rằng ông tin chắc bom nguyên tử có thể thực hiện được trong tương lai gần, đặc biệt nếu có đủ nước nặng trong tay để sản xuất các nguyên liệu cần thiết. Khi được hỏi liệu nước nặng có quan trọng về mặt chiến tranh và liệu những nhà máy sản xuất như thế có cần bị phá hủy hay không, Bohr đã trả lời có cho cả hai câu hỏi. Đến từ Bohr, một trong những cha đẻ của vật lý nguyên tử, người cuối cùng cũng sắp được đưa ra khỏi Đan Mạch, tuyên bố này đã khiến Vemork được chú ý trở lại.
Tronstad gửi lệnh đến Skinnarland để điều tra tiến độ tại nhà máy. Vào ngày 19 tháng 7, Tronstad đã viết một báo cáo dài cho SOE về cách “giải quyết vấn đề nước trái cây” một lần nữa, như ông đã mô tả trong nhật ký của mình. Hơn bất cứ điều gì, ông muốn ngăn chặn một vụ đánh bom lớn vào nhà máy như người Mỹ đã thúc giục. Ông nghi ngờ một cuộc oanh tạc như vậy sẽ phá hủy nhà máy nồng độ cao ở tầng hầm, nơi được bảo vệ bởi hàng tấn thép và bê tông phía trên. Ngoài ra, một cuộc tấn công như vậy gần như chắc chắn sẽ gây ra thiệt hại tài sản thế chấp to lớn, cả về cuộc sống của người dân Na Uy hàng ngày kiếm sống xung quanh nhà máy và nền kinh tế Na Uy thời hậu chiến. Hơn nữa, ông nghi ngờ rằng người Đức đang theo đuổi quả bom với sự nhiệt tình như tuyên bố của Bohr. Từ những gì Brun đã thu thập được trong thời gian ở Vemork, chưa kể thông tin tình báo gần đây mà Tronstad và Welsh đã nhận được từ gián điệp của họ ở Thụy Điển, Na Uy và Đức, cơ hội để Đức Quốc xã phát triển một “cỗ máy ma quỷ” là rất hạn chế.
Trong báo cáo của mình, Tronstad khuyên nên thận trọng nhưng cũng đưa ra nhiều lựa chọn khác nhau để chặn đứng sản xuất tại Vemork và làm chậm nỗ lực nguyên tử của Đức Quốc xã. Họ có thể phá hủy một trong những con đập cung cấp nước cho các máy phát điện. Họ có thể nhắm mục tiêu vận chuyển nước nặng từ Vemork đến Đức. Họ có thể phá hoại nhà máy nồng độ cao từ bên trong. Họ có thể tấn công các địa điểm ở Berlin nơi công việc thử nghiệm đang diễn ra hoặc từ nơi nó được quản lý. Ông thậm chí còn cung cấp địa chỉ. Ông không bao gồm việc ném bom vào Vemork hoặc vào hai nhà máy khác ở Såheim và Notodden, những nơi đã hoặc đang sản xuất nước nặng hoặc sắp sản xuất nước nặng.
Thật trùng hợp, khi danh sách các lựa chọn của Tronstad cho cuộc tấn công thứ hai vào vùng nước nặng của Vemork đang được lưu hành trong SOE, ông và người của mình đã được trao giải thưởng của Anh công nhận họ phục vụ trong cuộc tấn công đầu tiên. Vào ngày 21 tháng 7, tại Khu Chiltern, họ tập hợp trong bộ quân phục. Thay mặt Vua George VI, Lord Selborne, bộ trưởng bộ chiến tranh kinh tế giám sát SOE, đã trao tặng Huân chương Phục vụ Xuất sắc cho Rønneberg và Poulsson, và những người khác có mặt (Helberg, Idland, Kayser, Storhaug và Strømsheim) đã được trao tặng Huân chương Chữ Thập. Tronstad nhận Huân chương Đế quốc Anh.

Từ trái sang phải: Haukelid, Poulsson, Ronneberg, Kayser, Kjelstrup, Haugland, Stromsheim, và Storhaug nhận huy chương danh dự chính thức cho sự phục vụ của họ

Tronstad ngồi giữa cùng đội của mình sau Chiến dịch Gunnerside
Sau đó, Selborne tổ chức bữa tối cho tất cả họ tại khách sạn Ritz. Thật là thích hợp khi họ được phục vụ món gà gô, gặm xương cho đến khi sạch đĩa. Có nhiều điều để suy ngẫm về cuộc đấu tranh của họ trên Vidda, những khoảnh khắc căng thẳng trong và sau vụ phá hoại nhưng vẫn còn nhiều điều để cười. Họ nhớ lại thời gian ở bệnh viện Stockholm, nơi hai y tá người Thụy Điển đã tẩy rận và cọ rửa sạch sẽ cho họ. Sau đó, khi được giải thoát khỏi trại, họ đã tham dự La Traviata tại nhà hát opera Stockholm như những con người văn minh đích thực. Sau bữa tối, Tronstad dẫn người của mình ra ngoài thị trấn, nhóm vui vẻ vừa đi vừa hát khi tìm đường đến khu Piccadilly. Tronstad không nói gì về những gì ông đã biết được từ Skinnarland. Ông không muốn buổi tối trở nên chua chát.
Chưa đầy bảy mươi hai giờ sau, một đội máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ thuộc Sư đoàn Không quân số 8 gầm rú trên bầu trời trong xanh phía nam Na Uy. Vì sương mù bao trùm nước Đức, các máy bay ném bom đã phải chuyển hướng bay qua Hamburg. Thay vào đó, họ bắt đầu tấn công một số mục tiêu công nghiệp ở Na Uy, bao gồm cả nhà máy nhôm Norsk Hydro mới khổng lồ ở Herøya. Họ đã thả hơn 1.650 quả bom, san bằng khu vực và giết chết 55 người, chủ yếu là công nhân địa phương. Tronstad lo sợ Vemork có thể là mục tiêu tiếp theo.