
Triệu Sơn Hà
Sư Minh Tuệ đã và đang là một hiện tượng gây sốt toàn thể xã hội Việt Nam trong suốt nhiều tháng qua. Viết về Sư Minh Tuệ, thiết nghĩ không cần lập lại các thông tin chung chung mà đại chúng đã tỏ tường. Người viết mạnh dạn đi luôn vào nội dung ý chính với lưu ý rằng bài viết này có những nội dung đòi hỏi người đọc phải có tìm hiểu và kiến thức nhất định về Đạo Phật
- Các quả vị Thánh (tứ thánh quả)
Trong Phật giáo nguyên thủy mục tiêu tu hành của một hành giả sự giác ngộ hoàn toàn (Bodhi) thành một vị A-la-hán. Quá trình này có bốn giai đoạn tiến bộ còn gọi là bốn quả vị thánh là Dự Lưu (Sotapanna), Nhất Lai ( Sakadagāmi), Bất Lai (Anagami) và A-la-hán (Arahant). Các văn bản Phật giáo cổ nhất miêu tả Đức Phật đề cập đến những người ở một trong bốn giai đoạn này là những người cao quý (bậc thánh trí). Việc giảng dạy về bốn giai đoạn giác ngộ là yếu tố trung tâm của các phái bộ Phật giáo thời kỳ đầu
Bốn quả Thánh còn được gọi là Sơ quả Tu đà hoàn, Nhị quả Tư đà hàm, Tam quả A na hàm và Tứ quả A la hán. Thành tựu Thánh quả A la hán là mục tiêu tối hậu, giải thoát hoàn toàn mọi chi phối của phiền não sanh tử, chứng đắc Niết bàn. “Sanh đã tận, lậu đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
- Sơ quả Tu đà hoàn, còn gọi Nhập lưu hay Thất lai. Hành giả phát huy tuệ giác thiền quán quét sạch ba kiết sử Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ. Bậc Sơ quả biết rõ thân và tâm vô thường; dứt trừ hoài nghi về Tam bảo, hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng; tin tưởng tuyệt đối vào nhân quả, trì giới, bố thí, tham thiền, không còn mê tín. Bậc Sơ quả còn bảy lần tái sanh nữa để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.
- Nhị quả Tư đà hàm, còn gọi Nhất lai, là quả vị đã đoạn trừ ba kiết sử đầu và làm suy yếu hai kiết sử kế tiếp là Dục và Sân. Bậc Nhị quả còn một lần tái sanh nữa để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.
- Tam quả A na hàm, còn gọi Bất lai, là quả vị đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục và Sân). Bậc Tam quả không bị tái sanh vào cõi Dục, thường sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc, từ đó tu hành và chứng đạt quả tối thượng.
- Tứ quả A la hán, quả vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười kiết sử, gồm năm hạ phần kiết sử nói trên và năm thượng phần kiết sử (Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh). Hữu ái tức luyến ái sự hiện hữu, trú vào cõi Sắc. Vô hữu ái tức ưa thích sự không hiện hữu, trú vào cõi Vô sắc. Mạn là tâm kiêu mạn, chấp thấy có sự chứng đắc. Trạo cử, sự dấy động của tâm, kể cả sự thao thức về chứng ngộ. Vô minh là si mê, mê mờ vì các kiết sử ngăn che. Quả vị A-la-hán còn gọi là Vô sanh, không còn tái sanh, chấm dứt sinh tử luân hồi, chứng đắc giải thoát Niết-bàn.
Xét trường hợp của Sư Minh Tuệ, qua quan sát liên tục từ khi sư xuất hiện cho đến chuyến du hành Ấn Độ hiện nay, những gì Sư đã thể hiện cho thấy Sư đã tu tập với một ý chí, với công phu và sự tinh tấn vượt khỏi tất thảy giới hạn khả năng tu tập của một người bình thường.
Phát nguyện tu đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chứng tỏ Sư tin tưởng tuyệt đối vào lời dạy (Pháp) của Đức Phật Như Lai, Đức Thế Tôn.
Qua các lời trao đổi, hỏi đáp với Phật tử các nơi (Sư tự nhận không giảng pháp) chứng tỏ Sư tinh thông Kinh Kệ, Giáo Lý. Qua lời kể về hành trình tu tập, từ lúc chuẩn bị ở nhà, xin phép cha mẹ xuất gia, tập ăn ngày một bữa, tập ngủ trên tư thế kiết già,… và qua những lời khuyên (giáo huấn) mà Sư gởi đến người dân trong đó Sư luôn đề cập vấn đề đầu tiên là giữ Giới (5 giới đối với cư sĩ tại gia) chứng tỏ Sư chọn con đường tu tập là Pháp Hành, giữ giới cực kì nghiêm mật (từ môi trường Giới sẽ sinh ra Định và Tuệ)
Hành trình tu pháp môn đầu đà suốt 6 năm qua chứng tỏ Sư đã phá được Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ.
Qua cách Sư thể hiện khi giao tiếp với người dân, qua cách Sư Minh Tuệ ứng xử với những sự cố (kiếp nạn) trong nhiều tháng qua đã chứng tỏ Sư đã vượt thắng Tham- Sân- Si hay ít nhất là Sư đã kiểm soát được những tâm hành nguyên thủy này. Về thành quả tu tập, ít nhất Sư đã đạt được trạng thái tâm trong sạch, tâm thanh tịnh trong một thời gian dài (mà tất thảy chúng ta đều đã và đang chứng kiến)
Về kỹ thuật, qua lời truyền đạt của Sư thì Sư đã thực hành thâm sâu cả Thiền Quán (Vipassana) và Thiền Định (Samatha). Về Thiền Quán, trong nhiều lần trả lời Phật tử Sư đã nhấn mạnh Sư thiền mọi lúc, mọi nơi không ngưng nghỉ, ngay cả hành trình đi bộ đầu trần chân đất khắp đất nước cũng là Thiền. Về kỹ thuật Thiền Định, đầu tiên Sư đã tập suốt ba năm và thành công trong việc bỏ ngủ nằm, chỉ ngồi (kiết già) là hạnh khó nhất trong 13 hành Đầu Đà. Ngoài ra Sư cũng có thời gian dài tu tập hình thức Độc cư Viễn ly, tu tập trong hang đá ở Khánh Hòa trong khoảng 2 năm. Thời gian dài thực hành công phu như vậy khó có thể nào mà Sư chưa từng nhập vào trong các tầng Thiền Định, nói cách khác là Sư dễ dàng nhập các tầng thiền Định này (như trong Kinh sách cũng đã miêu tả)
Như vậy từ quan sát và nghiên cứu, người viết mạnh dạn nhận định Sư Minh Tuệ hoàn toàn có khả năng chứng đắc các quả vị từ một tới ba là các quả vị đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục và Sân).
2. Con đường Bồ Tát đạo
Đạo Phật thực hành tại Việt Nam chủ yếu là dòng Phật Giáo Đại Thừa Bắc Truyền. Phật Giáo Nam tông Tiểu Thừa (nguyên thủy) chỉ một số ít Phật tử ở miền Nam và Nam Trung Bộ biết đến và thực hành cho nên không thể không nhắc đến Con đường Bồ Tát đạo
Theo truyền thống Đại Thừa thì mục đích tu tập của hành giả ngoài 4 quả vị Thánh để giải thoát còn một con đường cao thượng hơn tất thảy, con đường tu của bậc đại thừa Bồ tát. Theo truyền thống này, trong các quả tu chứng trước khi thành Phật, thì quả Bồ tát là cao hơn cả, tốt đẹp viên mãn hơn cả. Muốn đến quả đó, con đương tu hành tất nhiên phải trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, gian khổ, hơn tất cả những con đường mà một bậc Thanh Văn (người tu giải thoát theo giáo pháp của Đức Phật) trải qua.
Tu hạnh Bồ tát là phát nguyện lo cho chúng sanh trước bản thân. Đó là lời tuyên bố tự nguyện hy sinh bản thân mình, hy sinh cả sự giác ngộ của mình vì tất cả mọi loài. Và một vị Bồ tát là một người chỉ sống vì hạnh nguyện đó, hoàn thành công hạnh qua việc thực hành sáu ba-la-mật (lục độ) – bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ – nỗ lực để giải thoát cho tất cả các loài hữu tình. Nguyện lực của một Bậc Bồ Tát như vậy là vô cùng lớn, sự tu tập hoàn toàn là vì lợi ích chúng sinh chứ không phải chỉ để đạt quả vị Phật.
Sư Minh Tuệ nhấn mạnh mình phát nguyện tu đạt Chánh Đẳng Chánh Giác, là quả vị Phật tối thượng. Trong truyền thống Đại Thừa thì trong quá trình tu tập vô cùng dài (hàng triệu triệu kiếp sống/ rất nhiều A tăng kỳ đại kiếp) để một Bậc Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có thể xuất hiện thì hành giả đang tu tập trên con đường Bồ tát đạo. Ngay cả Đức Phật Thích Ca, trước khi đạt quả Phật Toàn Giác, thì truyền thống Đại Thừa xem ngài là một Bậc Bồ Tát đã tu tập từ vô lượng kiếp trước.
Đức Pháp chủ Thích Trí Quảng trong những bài giảng gần đây về Tu Chứng Đắc cũng chỉ rõ những khả năng thu hút quần chúng của một hành giả tu đúng Chánh pháp, ở đây chúng ta hiểu rằng hành giả ấy đang đi trên con đường Bồ tát đạo trước khi đạt quả vị Phật ở vô lượng kiếp sống về sau. Hoặc một vị Bồ tát, một Vị A La hán khi tái sinh để giáo hóa quần chúng thì trong kiếp sống này vị ấy có những đặc điểm phi thường và xuất chúng.
Hay như Tiến sĩ Thần học Jenny Uyên Chu trong những bài nói về Sư Minh Tuệ trên Youtube cũng nói rõ những khả năng phi thường mà Sư thể hiện là kết quả phước báu do tu tập từ nhiều tiền kiếp trước, mà ở kiếp sống này thể hiện ra (thực hiện pháp tu 13 hạnh đầu đà, khả năng đi bộ đầu trần chân đất, cơ thể có hương thơm,…)
Như vậy ở đây, Sư Minh Tuệ cũng có thể được xem là một hóa thân của một bậc Bồ tát trong kiếp sống này. Và trong truyền thống Đại thừa thì hành giả tu tập trên con đường Bồ tát đạo có nguyện lực cao cả, không những tu bổ trí tuệ bản thân mà còn mang lợi ích đến mọi chúng sinh, giúp đỡ chúng sinh hướng về Phật quả. Vị Bồ tát tái sinh nầy, tuy chưa nhập Niết-bàn, nhưng hoàn toàn bất thối chuyển trên con đường thành Phật, có khả năng tự chủ trong Luân hồi, xuất hiện trong thế gian dưới nhiều dạng khác nhau để cứu độ chúng sinh. (ở đây có những giải thích khác biệt ở kinh điển Đại Thừa và các kinh điển Nikaya nguyên thủy)
3. Bậc Chân tu
Hướng tâm về Sư Minh Tuệ, xuất phát từ lòng thành kính và ngưỡng mộ nên người viết thử tra lục kiến thức, tìm hiểu tài liệu để hiểu rõ hơn hành trình tu tập và các quả vị thành tựu mà Ngài có thể chứng đắc ngay trong hiện tại.
Những quả vị trong tứ thánh quả là những quả vị chứng đắc mà Đức Thế Tôn đã giảng dạy cho những đệ tử đầu tiên của ngài. Và rất nhiều đệ tử của Đức Thế Tôn đã chứng quả Giải Thoát ngay trong thời ấy, số lượng lên đến hàng ngàn vị
Những chí nguyện cao cả của một hành giả tu tập trên con đường Bồ tát đạo và những lợi ích của vị ấy mang lại cho toàn thể chúng sanh là những khái niệm truyền cảm hứng cho đại chúng xuất phát từ tư tưởng Phật Giáo Đại Thừa, được các bậc tổ sư phát triển tiếp nối từ truyền thống những lời dạy của Đức Phật
Những quả vị này, vốn viết ra cho mọi người hiểu rõ con đường tu tập, chứng đắc của một bậc Chân tu, tu đúng Chánh Pháp của Đức Phật. Và dẫu cho hành giả ấy chưa chứng đắc một quả vị nào trong bốn quả vị thánh, dẫu cho hành giải ấy không phải là một bậc Bồ tát, một bậc A La Hán, hay một thiên thần tái sinh trong kiếp sống này. Điều đó không hề ngăn cản chúng ta hết lòng ngưỡng mộ hình ảnh hiếm hoi về một Bậc Chân tu khổ hạnh, đầu trần chân đất, ba y một bát, ngày ngày rảo bước khất thực, gieo duyên và giáo hóa tất thảy mọi người trên đất nước Việt Nam. Hình ảnh liên tưởng đến hình ảnh của chính Phật Thích Ca và thời kỳ tăng đoàn đầu tiên của ngài.
Đối với đa phần phật tử Việt Nam, hình ảnh ấy có sức cuốn hút, gây xúc động mãnh liệt như thể không thể cưỡng lại, còn đối với các tầng lớp người dân, hình ảnh ấy là một hình ảnh tuyệt đẹp, lương thiện, truyền cảm hứng, giúp mọi người nhìn lại vào tâm của mình, học cách sống tốt hơn, thương yêu nhau nhiều hơn. Và như thế theo người viết, Sư Minh Tuệ đã chứng đắc một vị trí cao quý, một dấu ấn sâu đậm trong lòng tất cả những người dân lương thiện không những ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, ít nhất là đối với những ai đã biết đến Sư, đã theo dõi hành trình của Sư và nguyện cầu mong mọi điều tốt đẹp nhất đến với Sư trong hành trình tu tập giải thoát, đạt quả vị Vô Thượng Chẳng Đẳng Chánh Giác!
SG 21/12/2024
Pingback: Nhà tu khổ hạnh nổi tiếng của Việt Nam Minh Tuệ ở Sri Lanka giữa những trở ngại | Nghiên Cứu Lịch Sử