
Đỗ Ngọc Giao
03-Aug-2024
1. Giới thiệu
[Lương]Cao tăng truyện 高僧傳 là một tài liệu kể chuyện 257 vị ‘cao tăng’ bên Tàu từ thời trào Hán tới trào Lương (c 67–519), do một vị tăng khác, Thích Huệ Kiểu 釋慧皎 (497–554), chép lại. Học giả bên ta coi Cao tăng truyện là ‘nguồn cứ liệu vô cùng quý báu để tham khảo nghiên cứu về sử Phật giáo’,[1] đặc biệt là truyện Khang Tăng Hội.
Bài này góp thêm vài ý quanh việc dùng Cao tăng truyện để tìm hiểu lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Truyện sẽ lấy theo bổn dịch tiếng Anh của Yang[2] ở Sở nghiên cứu Phật học Giới tràng (Tô Châu, China); độc giả quan tâm có thể coi thêm bổn dịch tiếng Việt của ban dịch thuật Đại Tạng kinh (bổn này nhiều chỗ khó hiểu hoặc khác với bổn của Yang).[3]
2. Khảo cứu
2.1. Hagiography
Hagiography (tiếng Anh) là tên gọi chung thứ văn/thơ mô tả chuyện đời của những vị ‘thánh’ Công giáo bên châu Âu hơn 2000 năm qua, từ giữa thế kỷ 2 CE tới nay, do những hagiographer là giáo nhơn chép lại bằng đủ thứ tiếng. Dù vậy, hagiography chẳng phải là biography theo cái nghĩa ‘ghi lại chuyện đời của một người có thực, với những sự thực (fact) đã xảy ra trong đời của họ’,[4] mà là ghi lại những điều đã tạo nên cái ‘thánh’ của một người và chỉ ra cái ‘thánh’ đó cho thiên hạ thấy để tôn thờ, vậy thôi. Từ những chuyện kể (story), chủ đề (theme) và motif có sẵn, hagiographer chọn ra dữ liệu nào hợp với câu truyện mình muốn kể cho từng vị thánh, rồi lấy dùng. Truyện kể lại nhơn phẩm (conduct) mẫu mực của vị thánh, ngoài ra là những cái ‘đức’ (virtue) khác, trong đó thế nào cũng có những phép mầu mà Chúa bày ra, thông qua vị thánh, khi ông còn sống, và cả sau khi ông chết, nơi mộ phần hoặc di tích của ông—loại phép mầu này gồm những việc lạ thấy được, thí dụ chữa bịnh, trừ tà, và những việc lạ chẳng thấy được, thí dụ xá tội.[5]
Có 6 loại chuyện kể trong hagiography.[6]
- vita: những việc mà vị thánh đã làm trong đời;
- passio: vị thánh (martyr) bị hành hình vì niềm tin của mình hoặc vì điều gì do Chúa an bài;
- inventio (revelatio): tìm thấy di cốt của vị thánh;
- translatio: đưa di tích (relic) của vị thánh vô nhà thờ hoặc dời qua ‘điện’ (shrine) mới;
- visio: vị thánh hiện ra cho ai thấy;
- miraculum: phép mầu do Chúa bày ra thông qua vị thánh.
Với học giả phương Tây, hagiography là một thứ văn/thơ ‘trình diễn’ (performative genre) cho biết những gì liên quan tới con người, thời đại và ý nghĩ (ideological aims) của chính hagiographer, chớ chẳng phải con người và thời đại của các vị thánh mà họ kể. Dù sao, khi nghiên cứu sử, cũng có khi phải cần tới dữ liệu của hagiography, kể cả cái phần mà sử gia cho là ‘vô dụng’ nhứt trong đó, tức là phép mầu. Sử liệu (historical information) ở ngay trong cái cách mà hagiographer vận dụng những ‘đề tài’ (topos) có sẵn, cho mỗi câu truyện [miễn là ta biết dò ra mẩu sử liệu đó].[7]
2.2. Cao tăng truyện và hagiography
Cao tăng truyện phần nhiều là vita (ghi lại những việc mà vị tăng đã làm trong đời), một ít là miraculum (ghi lại phép mầu do Phật bày ra thông qua vị tăng), thí dụ các truyện An Huệ Tắc 安慧則, Thích Huệ Viễn 釋慧遠, Thích Đàm Dực 釋曇翼. Vậy phải chăng ba vị đó là ‘cao tăng’ thôi sao? Không, gần như ai cũng là ‘cao tăng’ hết. Để tạo nên cái ‘cao siêu’ cho các vị tăng, và chỉ ra cái ‘cao siêu’ đó cho thiên hạ thấy mà tôn thờ, thì tác giả (Thích Huệ Kiểu) chọn ra những motif có sẵn trong tài liệu bổn xứ và/hoặc kinh sách Ấn Độ, rồi gán cho từng vị tăng. Muốn biết Cao tăng truyện có những motif gì, và lấy từ đâu, thì cần khảo sát kỹ hơn; ở đây tôi nêu một số làm thí dụ và tạm gọi là nhóm motif ‘cao tăng’.
Xả thân
- Thích Đàm Xứng 釋曇稱 cho cọp ăn thịt, để nó khỏi phá làng.
- Thích Pháp Tấn 釋法進 xẻ thịt đùi cho người đói ăn.
- Thích Tăng Phú 釋僧富 móc tim gan cúng thần, để thế mạng cho một đứa nhỏ.
Thông minh xuất chúng
- Buddhabhadra 佛馱跋陀羅 một ngày học bằng người khác học 30 ngày.
- An Thế Cao 安世高 lảu thông mọi thứ, kể cả tiếng con vật, biết chuyện kiếp trước.
- Dharma-kāla 曇柯迦羅 lần đầu đọc Pháp Thắng Tỳ Đàm và nghe giảng sơ qua là hiểu hết.
- Thích Đạo Dong 釋道融 hồi nhỏ đọc Luận Ngữ một lần là thuộc làu.
Nhớ dai
- Thích Pháp Tướng 釋法相 tụng kinh hơn 100,000 chữ.
- Thích Đạo Tung 釋道嵩 tụng kinh 300,000 chữ.
- Thích Pháp Cung 釋法恭 tụng kinh 300,000 chữ.
Có phép lạ
- Bôi Độ 杯度 ngồi chén qua bờ,…
- Thích Đàm Hoắc 釋曇霍 đi lẹ như gió,…
- Thích Đàm Thỉ 釋曇始 gươm chém chẳng chết,…
- Thích Pháp Lãng 釋法朗 chui qua lỗ khóa,…
Quỷ thần kiêng nể
- Thích Huệ Nguy 釋慧嵬
- Bạch Tăng Quang 帛僧光
- Trước Đàm Du 竺曇猷
Thân chẳng hư sau khi chết/thiêu
- Thích Hiền Hộ 釋賢護 sau khi thiêu còn ngón tay.
- Thích Pháp Tấn 釋法進 sau khi thiêu còn cái lưỡi.
- Thích Pháp Tự 釋法緒 chết sau 7 ngày thân chẳng bốc mùi.
Thân có hương thơm sau khi chết
- Thích Huệ Thông 釋慧通
- Thích Pháp Kỳ 釋法期
- Thích Huệ Vĩnh 釋慧永
Giảng kinh dị thường
- Thích Đàm Thúy 釋曇邃 giảng cho thần.
- Thích Hoằng Minh 釋弘明 giảng cho ma.
- Thích Đàm Siêu 釋曇超 giảng cho rồng.
Truyền giới dị thường
- Thích Pháp Yên 釋法安 truyền cho cọp.
- Thích Đàm Ung 釋曇邕 truyền cho thần núi.
- Thích Pháp Độ 釋法度 truyền cho thần núi.
Hiện hình sau khi chết
- Thích Huyền Cao 釋玄高
- Thích Huệ Nguơn 釋慧元
Cao tăng truyện cũng dùng một số motif trong chuyện kể dân gian,[8] thí dụ:
- D1625 ‘Tượng khóc’: truyện Dharmakṣema 曇無懺. ‘Tượng ra mồ hôi’ trong truyện Thích Pháp Duyệt 釋法悅 cũng ở nhóm này.
- Q221 ‘Bị trừng phạt vì xúc phạm thần/Phật’: truyện Thích Pháp Mẫn 釋法湣.
Tóm lại, nhóm motif ‘cao tăng’ đã tạo nên lớp dữ liệu hagiography của Cao tăng truyện; nói cách khác, Cao tăng truyện là một thứ hagiography của Phật giáo.
2.3. Đọc lại và hiểu lại truyện Khang Tăng Hội
Học giới trong nước 50 năm qua ‘khảo cứu’ truyện Khang Tăng Hội nhiều lắm, ngặt nỗi người ta chưa nhận ra lớp dữ liệu hagiography trong truyện để lọc bỏ nó đi.
2.3.1. Đọc lại truyện
Tác giả Cao tăng truyện xếp Khang Tăng Hội 康僧會 (viết tắt ‘KTH’) vô nhóm đầu tiên dịch kinh, gồm 15 người Ấn và Tây Á. Dưới đây lược dịch truyện KTH, chia ra 4 đoạn cho dễ hiểu, bỏ qua đoạn kể chuyện Chi Khiêm, một vị ‘cư sỹ’ (upasaka) người Indo-Scythian,[9] sang Giang Đông (phía đông sông Dương Tử) làm việc trong trào của vua nước Ngô là Tôn Quyền (182–252), và dịch 49 bộ kinh từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu.
Đoạn 1. Vita
Gia đình KTH gốc ở Sogdia, nhưng đã qua Ấn sanh sống mấy đời. Cha của KTH qua Giao Chỉ làm ăn. KTH mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mãn tang thì xuất gia. KTH có chí lớn, giữ giới, hiểu biết, rộng rãi, cần cù học hỏi. Nhờ vậy, lảu thông 3 tạng kinh Phật, 6 bộ kinh Tàu, và những thuật khác, kể cả thiên văn, nói giỏi viết hay.
Đoạn 2. Miraculum
Lúc đó Phật giáo đã truyền tới nước Ngô nhưng dân chưa theo. KTH muốn hoằng pháp và xây chùa tháp, nên đi sang phía đông tới Kiến Nghiệp nước Ngô năm 248, dựng tượng Phật, thuyết pháp—ông là vị ‘khất sỹ’ (śramaṇa) đầu tiên ở nơi này. Tôn Quyền mời gặp hỏi qua đây mần chi, KTH đáp Phật đã nhập niết bàn nhưng ‘xá-lị’ (thánh tích của ngài) cả ngàn năm sau vẫn còn, vua Asoka từng xây 84,000 cái tháp giữ xá-lị [ở nhiều nơi] để khuyến đạo (ý KTH muốn xin giúp xây tháp). Tôn Quyền nói nếu KTH đưa xá-lị ra thì y cho xây tháp, bằng không sẽ phạt tội khi quân. KTH xin bảy ngày, cầu Phật, chẳng được. Xin thêm bảy ngày, vẫn chẳng được. Xin thêm bảy ngày chót, một miếng xá-lị hiện ra trong bình, chiếu 5 màu rực rỡ. Tôn Quyền tới coi, đổ xá-lị ra cái dĩa bằng đồng làm bể luôn dĩa. KTH nói xá-lị này có bị ‘kiếp hỏa’ (the fire at the end of kalpa) đốt, hay bị búa bằng kim cương đập, cũng chẳng hề chi. Tôn Quyền sai đập thử. KTH vái trong bụng cho xá-lị đừng bể. Quả nhiên, xá-lị còn nguyên mà búa với đe thì mẻ. Tôn Quyền liền cho xây tháp và chùa; nhờ vậy Phật giáo lan khắp Giang Đông.
Đoạn 3. Vita
Tôn Hạo (242–284), cháu ruột Tôn Quyền, lên ngôi, ra lịnh đốt bớt chùa chiền, kể cả chùa của KTH, nhưng quần thần can gián. Sau đó, Tôn Hạo xúc phạm tượng thần, nên bị mắc bịnh lạ, phải mời KTH tới giảng pháp, cho nghe kinh Bồ-tát bổn nghiệp 菩薩本業經 rồi thọ 5 giới, mới hết. KTH bị bịnh và mất năm 280 dưới trào Tấn Võ Đế (236–290).
Đoạn 4. Miraculum
Dưới trào Tấn Thành Đế (321–342) xảy ra loạn Tô Tuấn, tháp của KTH bị đốt, viên quan Hà Sung giúp xây lại. Có viên tướng Triệu Dụng chẳng tin Phật pháp, khinh khi tam bảo, vô chùa nói tăng: ‘Nghe đồn tháp này thỉnh thoảng chiếu sáng, nhưng ta chẳng tin chuyện tào lao. Chừng nào chính mắt ta thấy chiếu sáng mới tin.’ Tức thì tháp chiếu 5 màu nhấp nháng rồi sáng trưng khắp chùa. Triệu Dụng nổi ốc cùng mình, hết dám nghi ngờ thần lực của Phật và công lao của KTH. Y liền cho xây một cái tháp nhỏ ở mé đông trong chùa, và vẽ hình KTH [để thờ] mà nay vẫn còn.
Note của tác giả (Huệ Kiểu)
Một tài liệu ghi rằng Tôn Hạo cho [lấy búa] đập thử xá-lị, chớ chẳng phải Tôn Quyền; tôi cho rằng có lẽ là như vậy.
2.3.2. Nhận xét
Đoạn 1.
Sogdia là một nơi theo văn minh Iran ở Trung Á (thế kỷ 6 BCE – 11 CE), mà người Tàu kêu bằng 康居 Khang Cư hoặc 粟特 Túc Đặc. Những vị tăng mang họ ‘Khang’ trong tiếng Tàu đều là người Sogdian sanh sống bên Tàu; ngoài KTH ra, trong truyện còn có Khang Tăng Uyên 康僧淵, Khang Pháp Lãng 康法朗, và Thích Pháp Bằng 釋法平 cũng mang họ Khang. Khang Tăng Uyên, khi bọn họ bị người Tàu ghẹo cái mũi lõ và cặp mắt sâu, đã nói một câu thiệt hay: ‘Trên mặt, mũi là núi, mắt là hồ. Núi chẳng cao thì sao có phép lạ, hồ chẳng sâu thì sao có nước trong.’
Giao Chỉ thời KTH chẳng phải đồng bằng sông Hồng thôi mà gồm luôn một phần của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây ngày nay. Truyện nói cha của KTH qua Giao Chỉ làm ăn, điều đó chẳng có nghĩa là (1) KTH ắt phải đẻ ra ở đồng bằng sông Hồng, hoặc (2) mẹ của KTH ắt phải là người bổn xứ ở đồng bằng sông Hồng.
Truyện nói KTH lảu thông kinh sách Phật Nho và nhiều môn khác, điều đó cũng chẳng có nghĩa là (1) KTH ắt phải học những thứ đó ở đồng bằng sông Hồng, hoặc (2) Phật giáo ắt phải có ở đồng bằng sông Hồng trước khi KTH đẻ ra. Mà đó là motif ‘thông minh xuất chúng’ (nêu ở 2.2) gán cho nhiều vị tăng, đặc biệt là những vị tăng dịch kinh, thí dụ KTH—bởi nếu chẳng ‘thông minh xuất chúng’ và ‘lảu thông kinh sách’ thì làm sao đáng mặt ‘cao tăng’?
Đoạn 2.
Đoạn này nêu một điều lạ mà xưa nay chưa ai lưu ý: KTH đi sang phía đông để tới Kiến Nghiệp nước Ngô. Kiến Nghiệp ngày nay là Nam Kinh ở Giang Tô, phía bắc so với Giao Chỉ, vậy giả sử KTH từ bất cứ nơi nào ở Giao Chỉ muốn tới Kiến Nghiệp thì phải đi theo hướng bắc, chớ đi theo hướng đông thì ra biển mà thôi. Vì sao truyện nói KTH đi theo hướng đông? Có lẽ là bởi gia đình KTH ở Ấn Độ, nên từ đó ông phải đi theo hướng đông thì mới qua tới Kiến Nghiệp. Một tài liệu khác cho biết KTH là con của thừa tướng Khang Cư, đã đi từ Ấn Độ sang kinh đô nước Ngô năm 241.9
Phép mầu do Phật bày ra thông qua KTH ở đoạn này, ta cũng gặp ở truyện Thích Đàm Dực 釋曇翼. Truyện kể Đàm Dực xây chùa Tràng Sa ở Kinh Châu (Hồ Bắc), chùa bị hư trong cuộc chiến giữa hai nước Tiền Tần và Đông Tấn những năm 378–383. Sau đó Đàm Dực trở về sửa chùa, thành tâm cầu nguyện thì được một miếng xá-lị, đem để trong bình bằng vàng trên điện, rồi quỳ lạy xá-lị, khấn rằng nếu đây là xá-lị của Phật thì xin chiếu sáng. Nửa đêm, bình đựng xá-lị chiếu ra 5 màu rực rỡ, sáng trưng khắp chùa, tăng chúng trông thấy, ai nấy thất kinh.
Đoạn 3.
Đoạn này kể chuyện Tôn Hạo xúc phạm tượng thần nên bị mắc bịnh lạ, đây là motif Q221 (nêu ở 2.2). Bởi vậy, chuyện KTH giảng kinh cho Tôn Hạo hết bịnh thì chẳng phải sự thực, mà là một giai thoại chỉ ra cái ‘cao siêu’ của KTH cho thiên hạ thấy thôi.
Đoạn 4.
Đoạn này kể thêm một phép mầu do Phật bày ra thông qua KTH sau khi ông chết, ở nơi có di tích của ông (chùa).
2.3.3. Hiểu lại truyện
Tới đây, ta đã biết những motif tạo nên cái ‘cao siêu’ của KTH—tức là lớp dữ liệu hagiography trong truyện KTH.
Vậy, ta cần lọc bỏ lớp dữ liệu hagiography đó đi, nếu muốn tìm hiểu chuyện đời của KTH như một người có thực, với những sự thực đã xảy ra trong đời của ông [theo cái nghĩa biography]. Làm được vậy, ta sẽ hiểu đôi ba nét trong biography của KTH như sau:
- KTH là một vị tăng người Sogdian;
- KTH đã đi từ Ấn Độ sang phía đông tới miền Giang Đông (Giang Tả) bên Tàu, sau năm 240;
- KTH được trào đình của nước Ngô giúp xây chùa, hoằng pháp;
- KTH mất năm 280 vì bịnh.
Truyện chẳng nói KTH dịch kinh gì, nhưng những tài liệu khác cho biết ông dịch Lục Độ Tập Kinh 六度集經, Tiểu Bổn Bát Nhã 小本般若 (Aṣṭasāhasrikāprajñāpāramītā sūtra),[10] và Cựu Tạp Thí Dụ Kinh 舊雜譬喻經 (the sutra of ancient miscellaneous avadāna stories).[11]
Theo cách hiểu như trên, thì KTH là một vị ‘cao tăng’ trong lịch sử Phật giáo xứ Tàu, chớ chẳng phải ‘cao tăng’ trong lịch sử Phật giáo xứ ta.
Độc giả, nhứt là những vị xưa nay tôn thờ KTH như một vị ‘cao tăng’ trong lịch sử Phật giáo xứ ta, ắt sẽ hỏi rằng xứ ta chẳng có cao tăng hay sao?
Tất nhiên xứ ta có cao tăng; xin coi bên dưới.
2.4. Tìm hiểu lịch sử Phật giáo với Cao tăng truyện
2.4.1. Truyền bá Phật giáo ở nước Tàu
Cao tăng truyện cho biết số ‘cao tăng’ qua các trào vua.

Hình trên cho biết đại khái lịch sử Phật giáo bên Tàu:
- thời kỳ du nhập: Hán, Đông Ngô (25~220), với 7 vị tăng phương tây sang dịch kinh Phật;
- thời kỳ phát triển: Tấn (266~420), với 40% vị tăng là người bổn xứ;
- thời kỳ hưng thạnh: Lưu Tống, Nam Tề, Lương (363~557), với 88%, 98%, 100% vị tăng là người bổn xứ.
Thực ra, trước khi có các vị tăng sang Tàu dịch kinh thì Phật giáo đã truyền từ xứ của người Đại Nguyệt Chi ở tây bắc Ấn Độ (nay là Afghanistan và Pakistan) sang Tàu, rồi pha trộn với Đạo giáo và bí thuật (esoteric arts) của Tàu, tạo ra những hình tượng (iconography) mà mọi người nhắm mắt tôn kính.[12]
Phật giáo truyền bá sang Tàu, chuyện đó luôn xảy ra theo đường bộ, chớ chẳng phải đường biển.12
2.4.2. Truyền bá Phật giáo ở đồng bằng sông Hồng
Cao tăng truyện cho biết thời Nam Tề có Thích Đàm Hoằng 釋曇弘 từng đi tới nơi xa nhứt về phía nam của nước Tàu lúc đó là Quảng Đông để tu ở chùa Đài, rồi sang Giao Chỉ tu chùa Tiên Sơn, và qua đời ở đây sau khi tự thiêu hai lần.
‘Giao Chỉ’ trong chuyện này dường như chẳng phải đồng bằng sông Hồng, nghĩa là: dường như Phật giáo chưa có ở đồng bằng sông Hồng hồi thời Nam Tề, mà sớm nhứt phải đợi tới thời trào Lương.
Năm 2012, gần di tích Luy Lâu ở Bắc Ninh, dân làng tình cờ tìm thấy hai cổ vật là bia đá và liễn đá có nắp, trên bia có ghi chuyện Tùy Văn Đế (541–604) cho dựng tháp đựng xá-lị ở chùa Thiền Chúng năm 601.[13]
Dữ liệu đó dẫn tới giả thiết như sau.
Luy Lâu là nơi đầu tiên ở đồng bằng sông Hồng tiếp nhận Phật giáo bên Tàu truyền sang hồi thời trào Lương, nửa sau thế kỷ 6.
Ngoài ra, như đã nêu ở một bài khác,[14] hồi thời Tấn, Phật-giáo-pha-Đạo-giáo (nêư ở 2.4.1) đã lặng lẽ lan sang đồng bằng sông Hồng theo chưn lớp dân Tàu chạy loạn trong cuộc chiến giữa hai trào Tây Tấn (265–316) và Đông Tấn (317–420).
Tóm lại, dường như Phật giáo đã truyền sang đồng bằng sông Hồng tới hai lần:
- nửa đầu thế kỷ 4: Phật giáo pha Đạo giáo, với chứng cớ là những ‘từ’ Bụt, bùa, quẻ, đọc theo thổ ngữ Sinitic ở miền nam nước Tàu thời trào Tấn;
- nửa sau thế kỷ 6: Phật giáo đúng nghĩa, truyền sang Bắc Ninh.
2.5. Cao tăng ở Việt Nam
Dân gian xứ ta có kể chuyện một vị cao tăng, mà ít ai được biết.
Hòa thượng tự thiêu (Un bonze se brule vivant).[15]
Ở tỉnh Nghệ An có núi Hồng Lãnh giáp ranh ba huyện Thạch Hà, Nghi Xuân, Thiên Lộc. Núi có chín mươi chín ngọn, trên đó là chín mươi chín xóm với chín mươi chín chùa, mà cao hơn hết là chùa Thiên Tượng. Có vị Đại lão Hòa thượng [tên tục là] Nguyễn Đăng Quang, đã tu ở đó hơn năm chục năm. Dưới trào Minh Mạng, hòa thượng được chín mươi chín tuổi. Mấy năm gần đây, khi sắp thành Phật, ngài dùng trái cây với trà thôi. Ngài bảo đạo hữu lo sẵn củi, nhang, dầu, để dựng dàn thiêu. Khi ngài đúng chín mươi chín tuổi, họ dựng dàn cao mười thước, trên dàn có một cái bàn. Ngài ngồi đó, gõ mõ tụng kinh, bên dưới chư tăng cũng tụng, nguyện cho ngài nhập niết bàn. Trước khi thiêu, họ làm lễ cúng chư Phật mười phương suốt bảy ngày bảy đêm. Ngày thứ bảy bắt đầu thiêu, tiếng tụng kinh trong đống lửa nghe nhỏ dần. Xác ngài mang trở vô chùa, cháy hết, còn lại bàn tay cầm cái dùi mà thôi. Vậy là người ta biết ngài đã nhập niết bàn.
Nhận xét
- Cao tăng tự thiêu vì đạo, có thể sánh với những vị thánh bị hành hình vì đạo trong hagiography. Nhà sư Nguyễn Đăng Quang thực là bậc cao tăng, có thể sánh với những Thích Pháp Nguyện 釋法願, Thích Huệ Ích 釋慧益, Thích Pháp Quang 釋法光, Thích Tăng Khánh 釋僧慶, Thích Đàm Hoằng 釋曇弘, những vị đã tự thiêu trong Cao tăng truyện.
- Chuyện kể xác nhà sư cháy hết, còn lại bàn tay cầm cái dùi mà thôi: đây chính là motif ‘thân chẳng hư sau khi chết/thiêu’ gán cho các vị ‘cao tăng’ (nêu ở 2.2).
3. Kết luận
Bài này đã góp thêm vài ý quanh việc dùng Cao tăng truyện để tìm hiểu lịch sử truyền bá Phật giáo ở Việt Nam, và thuật lại chuyện một nhà sư xứng danh ‘cao tăng’ ở xứ ta.
Dầu sao, tới nay đại chúng vẫn cho rằng người Ấn đã truyền bá Phật giáo tới đồng bằng sông Hồng theo đường biển. Ở bài tới, ta sẽ tìm hiểu ý đó.
[1] Thích Minh Nhẫn. Về bốn bộ cao tăng truyện quan trọng trong văn học Phật giáo Trung Quốc. https://www.niemphat.vn/
[2] Shi Hui Jiao (thế kỷ 6 CE). 高僧傳 (the biographies of eminent monks) trans Tianshu Yang (2022).
[3] https://www.daitangkinh.org/index.php/18-pdf/639-fbosutruyen
[4] Jessica Dukes. What is a biography? https://celadonbooks.com/
[5] Thomas Head (1999) Hagiography.
[6] https://www.lancaster.ac.uk/staff/haywardp/hist424/seminars/07.htm
[7] István Perczel. Hagiography as a historiographic genre: from Eusebius to Cyril of Scythopolis, and Eustratius of Constantinople, in: Hagit Amirav, Cornelis Hoogerwerf and István Perczel (eds), Christian historiography between empires (4th-8th Centuries) (2021).
[8] Stith Thompson (1955) Motif-index of folk literature: A classification of narrative elements in folktales,
ballads, myths, fables, mediaeval romances, exempla, fabliaux, jest-books, and local legends.
[9] B.N.Puri (1987) Buddhism in Central Asia.
[10] Mariko Namba Walter. Sogdians and Buddhism. Sino-Platonic papers no 174 (2006).
[11] Wei Li (2023) From the imagination to the reality: historical aspects of rewriting six dynasties Buddhist Avadāna Stories. Religions 14: 545.
[12] Rong Xinjiang, trans Xiuqin Zhou. Land route or sea route? Commentary on the study of the paths of transmission and areas in which Buddhism was disseminated during the Han period. Sino-Platonic Papers no 144, 2004.
[13] Nguyễn Văn Đoàn, Lê Văn Chiến (2023) Vài nét về trung tâm Phật giáo Luy Lâu (Bắc Ninh).
[14] https://nghiencuulichsu.com/2023/12/21/truyen-ba-tri-thuc-o-giao-chau-thoi-han-tan/
[15] Contes et legendes Annamites, ed Anthony Landes (1886).
Pingback: Truyền bá Phật giáo ở nước ta (phần 1) | Nghiên Cứu Lịch Sử