
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 11 : Tranh Chấp
“Những người xây dựng tôn giáo đã bóp méo và xuyên tạc giáo lý của Jesus, bóp nghẹt chúng bằng những chủ nghĩa thần bí, ảo tưởng và dối trá, đã biếm họa chúng thành những hình thức không thể tưởng tượng được đến mức gây sốc cho những người có tư tưởng hợp lý… Vui mừng trước viễn cảnh khôi phục lại Cơ đốc giáo nguyên thủy, tôi phải để cho những người trẻ tuổi bắt gặp và chặt bỏ những cành lá giả hiệu đã được các nhà thần thoại thời trung cổ và hiện đại ghép vào đó.”
Thomas Jefferson, tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ
Vị trí giáo hoàng vào đầu thế kỷ 11 đã mắc nợ triều đình Đức rất nhiều, nhưng sẽ sớm trở thành đối thủ lớn nhất của nó. Khi Henry III qua đời vào năm 1056, đứa con trai sáu tuổi của ông kế vị ông là Henry IV, trong khi người vợ góa của ông trở thành nhiếp chính. Triều đại kéo dài của Henry IV nhỏ tuổi đã mang lại cho La Mã cơ hội giành lại một số độc lập khỏi đế quốc.
Người kế vị Alexander II – thầy tu Hildebrand, lấy tên Gregory VII (1073-85) – chứng tỏ là vị giáo hoàng có quyết tâm trong lịch sử các triều đại giáo hoàng, và thái độ không khoan nhượng của ông đã không làm gì để xoa dịu triều đình vẫn còn phẫn nộ với những cải cách do Nicholas II thực hiện.
Khi còn là một tu sĩ, Hildebrand đã đại diện ở nước ngoài cho một số giáo hoàng với tư cách là giáo sĩ cao cấp và từng là cố vấn chủ chốt của họ, có ảnh hưởng đáng kể đối với một số người tiền nhiệm có tinh thần cải cách. Cuộc bầu cử của ông không gây tranh cãi và được công chúng hoan nghênh, danh tiếng của ông rất lớn, mặc dù những người gièm pha ông sau đó cho rằng nó đã vi phạm sắc lệnh bầu cử năm 1059, vốn nhằm mục đích mang lại trật tự cho cuộc bầu cử giáo hoàng.
Mặc dù được khởi xướng bởi chủ nhân cũ của ông, Leo IX, nhưng những cải cách ‘Gregorian’ mang tên ông vào thế kỷ 11 và 12 của Giáo hội Thiên chúa đều do lòng nhiệt thành cải cách của ông. Ông quyết tâm khôi phục lại danh dự và vị thế của Giáo hội bằng cách dập tắt nạn gian lận và tham nhũng. Tuy nhiên, mong muốn kiên định không kém của ông trong việc thực thi luật độc thân đã khiến nhiều giám mục trên khắp các nước theo đạo Thiên chúa phương Tây xa lánh. Việc lên án của Leo IX về sự ô nhiễm của giáo sĩ không là gì so với các biện pháp của Gregory: các linh mục đã kết hôn bị cấm cử hành các nghi lễ, và các Kitô hữu được chỉ thị không nhận các bí tích từ họ. Tuy nhiên, ông cũng phải đối mặt với những lập luận tương tự từ những người phản đối Leo IX: không chỉ có nhiều giáo hoàng đầu tiên, mà kể cả chính Thánh Peter, đã kết hôn, và một số lượng đáng kể các giáo hoàng đã và sẽ tiếp tục có tình nhân. Tân Ước có rất ít điều để nói về chủ đề này ngoài một dòng được cho là của Paul, cho thấy rằng đời sống hôn nhân thấp kém hơn đời sống độc thân nhưng đáng hoan nghênh hơn việc bị dục vọng thiêu đốt. Nếu có điều gì, thì thánh thư chỉ gợi ý rằng các giám mục và linh mục không được thực hành chế độ đa thê. Do đó, quyết tâm áp đặt luật độc thân của Gregory VII đã khiến nhiều người không hiểu nổi.
Niềm tin của Gregory VII rằng giáo hoàng là đại diện sống của Chúa trên trái đất có nghĩa là tất cả những Cơ đốc nhân, kể cả các vị vua và hoàng đế, đều phải tuân theo ông ấy một cách tuyệt đối và không nghi ngờ gì, cũng như đối với chính Chúa. Một tác giả chỉ ra: “Việc tuân theo các mệnh lệnh của Tòa Thánh ngày càng trở thành thử thách đối với ông về sự công chính và ngay cả niềm tin Thiên chúa giáo. Sự tin tưởng của ông đã thúc đẩy ông yêu cầu các nhà cai trị châu Âu tuyên thệ lòng trung thành với Giáo hội Thánh Peter, nhưng rất ít người bận tâm tuân theo. Nhà vua Pháp từ chối tuyên thệ bị đe dọa rút phép thông công, và William I, vừa mới chinh phục nước Anh vào năm 1066, đã lạnh lùng trả lời ‘Lòng trung thành tôi không theo và cũng sẽ không theo, bởi vì tôi đã không hứa điều đó và tôi cũng xét thấy những người tiền nhiệm của mình cũng chưa từng làm điều đó.’ Một câu trả lời nhức nhối, nếu biết rằng William đã xâm chiếm nước Anh dưới ngọn cờ được giáo hoàng ban phước, và Gregory tin rằng sự ưu ái của La Mã đã góp phần vào thành công của William.
Tranh cãi vè việc phong chức
Không thể tránh khỏi sự thiếu linh hoạt của Gregory VII sẽ gây ra xung đột với những người cai trị luôn bảo vệ quyền lực của mình một cách ghen tị, mặc dù ít người có thể lường trước được quy mô của cuộc khủng hoảng cuối cùng. Tất cả những gì đám cháy cần là một tia lửa và điều này sẽ không còn lâu nữa. Động lực là một cuộc tranh cãi giữa giáo hoàng và vua Đức, Henry IV – lúc này đã không còn là trẻ nhỏ – trong việc tấn phong Giám mục Milan. Alexander II đã thiết lập một tòa tổng giám mục ở Milan trái với mong muốn của nhà vua, và nhà vua đã đuổi ông ra khỏi thành phố và thay thế bằng một lựa chọn của mình. Sự tranh chấp như vậy giữa Giáo hội và những người cai trị thế tục về việc bổ nhiệm các chức vụ trong giáo hội là điều bình thường, vì nó rất quan trọng để duy trì quyền lực: việc bổ nhiệm có thể được sử dụng để khen thưởng lòng trung thành hoặc để vận động chính trị. Alexander II đã rút phép thông công người được triều đình Đức bổ nhiệm, nhưng sau đó ông đột ngột qua đời, để lại cho Gregory VII giải quyết vấn đề và khẳng định quyền lực của mình.
Henry IV ban đầu làm dịu đi tình huống. Một số khu vực trong vương quốc của ông đang nổi dậy và việc hứa hẹn một giải pháp nhanh chóng cho vấn đề Milan có lợi cho giáo hoàng sẽ cho phép ông tập trung vào các mối lo ngại an ninh của mình. Tuy nhiên, vào cuối năm 1075, khi những lo ngai đã được giải quyết, Henry IV đã gạt bỏ lời hứa, bổ nhiệm vị tuyên úy triều đình, tên là Tedald, làm tổng giám mục của Milan, và bổ nhiệm một số giám mục khác ở miền trung nước Ý. Suy cho cùng, giáo hoàng là ai mà nói với Henry IV, hoàng đế và vua nước Đức, người nào ông có thể hoặc không thể bổ nhiệm? Bộ Kinh Thánh không dạy rằng mọi người dân phải phục tùng nhà cầm quyền đang trị vì hay sao?
Nhưng Henry IV đã đánh giá thấp đối thủ của mình một cách nghiêm trọng. Gregory VII tiếp tục gửi đi một loạt thư: gửi cho Tedald ra lệnh ông không được đảm nhận chức tổng giám mục vì đã có tổng giám mục ở Milan; đối với các giáo sĩ ở Milan cấm họ vận động Tedald lên làm tổng giám mục; và với hoàng đế chỉ trích ông vì đã không vâng lời giáo hoàng và kết bạn với những người đã bị vạ tuyệt thông. Ông khẳng định quyền tối cao của Tòa Thánh trong mọi vấn đề của giáo hội, khẳng định rằng giáo hoàng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của đàn chiên của mình, bao gồm cả các vị vua và hoàng hậu trong Ngày Phán xét. Không vâng lời giáo hoàng cũng tương đương với việc không vâng lời chính Chúa.
Như mọi khi, cuộc đối đầu cuối cùng vẫn là về việc xem ai nắm giữ quyền lực lớn hơn. Những cuộc cải cách của Gregory VII sẽ bị ảnh hưởng nếu các quan chức chủ chốt của Giáo hội là những người được bổ nhiệm về mặt chính trị hơn là về mặt tinh thần, trung thành với chủ quyền bổ nhiệm của họ hơn là với giáo hoàng. Năm 1075, một tài liệu tên là ‘Dictatus papae’ đã nêu rõ quan điểm của ông. 27 tuyên bố ngắn gọn của nó bao gồm những điều sau đây: rằng chỉ có giáo hoàng mới có quyền được gọi là ‘Hoàn vũ (số 2); rằng giáo hoàng có thể phế truất và tái bổ nhiệm các giám mục (số 3); rằng tất cả các hoàng tử nên hôn chân giáo hoàng (số 9); rằng giáo hoàng có thể phế truất các hoàng đế (số 12); rằng không ai có thể phán xét giáo hoàng ngoài Chúa (số 19); và rằng Giáo hội chưa bao giờ và không bao giờ có thể sai lầm (số 22). Rõ ràng ông ta đã đề cao vị trí của mình một cách đáng lo ngại. Chưa có giáo hoàng nào từng tuyên bố có quyền phế truất các hoàng đế; rõ ràng việc yêu cầu các hoàng tử phải hôn chân giáo hoàng (điều này đứng thứ chín trong danh sách cũng gợi ý một cách đáng lo ngại rằng điều này quan trọng như thế nào đối với giáo hoàng); và tuyên bố rằng Giáo hội không bao giờ và không thể sai lầm là một sự phủ nhận thẳng thừng lịch sử các Giáo hoàng – hãy nhìn vào thế kỷ thứ mười thì biết.
Sự truyền đạt của ông rõ ràng đã gây chấn động ở Đức, bởi vì vào tháng 1 năm 1076, các giám mục người Đức, được Henry IV triệu tập đến hội đồng, đã tung ra một quả bom: họ quyết định từ bỏ sự vâng phục của mình đối với giáo hoàng:
Ai là người mà không kinh ngạc và phẫn nộ trước những tuyên bố của ngài về thẩm quyền duy nhất, bằng cách đó ngài sẽ tước bỏ các quyền hạn và quyền lực phối hợp của các giám mục đồng nghiệp của ngài? Vì ngài khẳng định rằng ngài có quyền xét xử bất kỳ giáo dân nào của chúng tôi về bất kỳ tội lỗi nào có thể lọt đến tai ngài ngay cả khi ngẫu nhiên báo cáo, và rằng không ai trong chúng tôi có quyền nới lỏng hoặc trói buộc một người tội lỗi như thế, ngoại trừ việc đó thuộc về riêng ngài hoặc thuộc về các giáo sĩ cao cấp của ngài Ai biết kinh thánh mà không nhận thấy tính điên rồ của những tuyên bố này?… Ngài đã tuyên bố công khai rằng Ngài không coi chúng tôi là giám mục; chúng tôi trả lời rằng không ai trong chúng tôi sẽ coi ngài là giáo hoàng.
Các giám mục miền bắc nước Ý ngay lập tức tuyên bố đoàn kết với anh em người Đức, đồng thời rút lại sự tuân phục của họ, và cuối tháng đó, Henry IV kêu gọi Gregory VII thoái vị.
Trong một lá thư, Henry IV nói rằng mặc dù ông được Chúa xức dầu, nhưng Gregory VII đã không được hoàng đế xức dầu như những người tiền nhiệm, do đó cuộc bầu cử là bất hợp pháp. Nếu có bất kỳ hành động nào được thực hiện, thì đó là Gregory VII phải từ bỏ ngôi vị của Thánh Peter. Ông kết luận một cách dứt khoát: ‘Tôi, Henry, vị vua nhờ ân điển của Chúa, xin nói với ngài, cùng với tất cả các giám mục của chúng tôi: Hãy đi xuống, đi xuống, và bị nguyền rủa đời đời.’
Có logic đằng sau sự bùng nổ này. Henry cần sự hỗ trợ của các giám mục của mình để vừa quản lý vương quốc vừa hoạt động như một đối trọng với những quý tộc đã thèm muốn quyền lực kể từ khi ông còn nhỏ tuổi.Từ bỏ quyền bổ nhiệm các giám mục và tu viện trưởng và áp đặt cải cách sẽ làm suy yếu sự hỗ trợ quan trọng này ngay khi ông cần nó nhất. Dù thế nào đi nữa, ông khó có thể lo sợ hậu quả của việc phế truất một giáo hoàng, vì cha ông đã phế truất cả ba vị giáo hoàng.
Mặt khác, Gregory VII nhất quyết không chịu chung số phận với những người tiền nhiệm này. Tại thời điểm này, ông đã rút phép thông công Henry IV, cùng với tất cả các giám mục đã tố cáo ông. Để có biện pháp tốt, giáo hoàng đã cấm tất cả những người theo đạo Cơ đốc phục vụ nhà vua và miễn cho họ lời thề trung thành phục tùng nhà vua. Đây là một diễn biến đáng báo động: trong khi các vị vua và hoàng đế trước đây đã phế truất các giáo hoàng, thì một giáo hoàng trước đây chưa bao giờ cố gắng phế truất một vị vua. Bây giờ ‘người thừa kế vương miện của Charlemagne đã bị người kế nhiệm của ngư dân Galilê (ý nói Thánh Peter) tuyên bố là kẻ ngoài vòng pháp luật và châu Âu chấp nhận quyết định.
Một số hoàng thân Đức tuyên bố trung thành với Giáo hoàng, coi nó như một cơ hội lấy lại một số quyền độc lập mà họ đã đạt được trong thời gian nhà vua còn nhỏ. Trong lúc này một hội đồng đươc sắp xếp để quyết định xem Henry IV có thích hợp trở thành vua hay không, sẽ tổ chức ở Augsburg vào tháng 2 năm 1077, và cả vua và giáo hoàng được kỳ vọng sẽ tham gia. Trong khi đó, nếu việc rút phép thông công nhà vua không được dỡ bỏ trong vòng một năm kể từ ngày áp dụng, họ tuyên bố rằng lời thề trung thành của mình trước đây với ông ta sẽ không còn ràng buộc nữa và ông ta sẽ bị tước đoạt vương miện. Henry IV phải đối mặt với một sự lựa chọn khó khăn: tỏ ra yếu đuối là không thể tưởng tượng được, nhưng không có sự trung thành của những hoàng thân ông không thể cai trị nước Đức. Cuối cùng ông ấy nhận ra rằng việc tìm kiếm sự tha thứ của giáo hoàng ngay khi có thể là cách duy nhất để cứu vương miện của mình.
Mùa đông năm đó – một trong những điều tồi tệ nhất trong ký ức sẽ theo mình đến cuối đời – Henry IV đã lên đường cùng vợ và đứa con trai hai tuổi trong cuộc hành trình gian khổ xuyên dãy Alps. Vào tháng 1 năm 1077, ông đến lâu đài của Nữ bá tước Canossa, cách Milan khoảng 80 dặm về phía nam, nơi giáo hoàng đang dừng cuộc hành trình về phía bắc tới Augsburg. Người ta nói rằng Henry IV đã phải đợi ba ngày, quỳ gối cầu xin sự tha thứ trước khi Giáo hoàng đồng ý gặp ông. Dù điều này có đúng hay không, ‘hình ảnh một nhà vua, người đàn ông quyền lực nhất trong thế giới Cơ đốc, như một kẻ ăn xin bị sỉ nhục đau đớn sẽ sống mãi trong trí tưởng tượng thời trung cổ với sức mạnh ấn tượng tương tự như hình ảnh Leo Vĩ đại từng đối đầu với Attila đối với người dân thời hậu cổ đại.’
Gregory VII cuối cùng đã hài lòng, tha thứ cho Henry IV và đón ông trở lại hiệp thông. Nhưng đến giai đoạn đó, nhà vua Đức đã phải nuốt sự sỉ nhục hoàn toàn. Quan trọng hơn, bằng cách tìm kiếm sự tha thứ của Gregory VII, Henry IV đã ngầm chấp nhận Giáo hoàng có quyền phế truất và phục hồi các vị vua. Nhưng chiến thắng của Gregory VII chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Những hoàng thân đã nổi dậy chống lại Henry IV, vẫn quyết định bầu một vị vua mới – anh rể của Henry, Rudolph, Công tước Swabia, vào tháng 3 năm 1077- dẫn đến ba năm nội chiến. Henry IV giành chiến thắng vào năm 1080, nhưng lúc đó Gregory VII đã rút phép thông công ông một lần nữa, và công nhận Rudolph là Vua nước Đức.- người sẽ chết trong trận chiến vào cuối năm đó.
Vào tháng 6 năm 1080 Henry IV triệu tập một hội đồng bầu Tổng giám mục Ravenna làm Clement III (giáo hoàng đối lập) để thay thế Gregory VII. Vào mùa xuân năm sau, Henry IV đã vượt qua Alps và tiến xuống La Mã để loại bỏ Giáo hoàng bằng vũ lực, nhưng La Mã đã được phòng thủ quyết liệt đến mức phải tổn hao nhiều nỗ lực mới chiếm được thành phố. Trong khi đó, Gregory VII một lần nữa cho biết rằng chính Henry chứ không phải ông là người có lỗi.
Ai mà không biết rằng các vị vua và công tước là hậu duệ của những kẻ coi thường Chúa, kiêu ngạo, phản bội, cướp bóc, giết người, cuối cùng là nhúng tay vào hầu hết mọi tội ác, do ông hoàng của thế giới này là ma quỷ xúi giục, cố gắng thống trị những người ngang hàng với họ, đó chính là đồng bào của họ, với lòng tham mù quáng và sự tự phụ không thể chấp nhận được.
Một điểm hòa. Tuy nhiên, Henry IV cuối cùng đã tiến vào La Mã vào năm 1084 khi cư dân của nó, mệt mỏi với tính quá ương ngạnh của giáo hoàng, đã mở cửa thành phố cho vua Đức, buộc Gregory VII phải chạy trốn đến pháo đài Castel Sant’Angelo, cách St. Peter’s một quãng ngắn. Ngay khi vào La Mã, Henry IV đã đưa Clement III vào vị trí của Gregory VII và sắp xếp để được ông ta xức dầu làm hoàng đế.
Nhưng Gregory VII thì không hoàn toàn thảm bại. Từ pháo đài Sant’Angelo an toàn, ông kêu gọi người Norman giữ lời hứa viện trợ quân sự mà họ đã hứa với Leo IX. Nghe tin họ đến gần, Henry IV đã từ bỏ La Mã để tự vệ và không bao giờ quay trở lại, trong khi người Norman tràn vào thành phố, phá hủy các tòa nhà và giết chết nhiều công dân của thành phố La Mã. Tính toán sai lầm thảm khốc này khiến Gregory VII phải đối mặt với cơn thịnh nộ của những người còn lại, và ông buộc phải chạy trốn cùng người Norman khi cuối cùng họ rời khỏi thành phố. Ông chết ở Salerno do người Norman chiếm giữ, không xa Naples vào năm 1085, ‘bị nguyền rủa bởi những người La Mã từng yêu mến lòng dũng cảm sắt đá của ông, giờ đây đổ lỗi cho sự cố chấp không khoan nhượng này của ông khi khiêu khích không chỉ lực lượng của hoàng đế mà cả bọn Norman tàn bạo.’ Khi nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại La Mã nữa , ông than thở mình sẽ chết trong cảnh lưu đày vì đã ‘yêu điều phải và ghét điều gian ác’.
Gregory VII khiến châu Âu rơi vào tình trạng bối rối với hai giáo hoàng, mỗi người đều tuyên bố quyền lực. Clement III tiếp tục nhận được sự ủng hộ của hoàng gia, trong khi những người cải cách, vốn luôn từ chối người được đề cử áp đặt cho mình, bầu một ứng cử viên khác, Victor III (1086-87). Clement đã đạt được những thành tựu ban đầu, buộc người kế vị của Victor III, Urban II (1088–99), phải chạy trốn khỏi La Mã và tìm nơi ẩn náu với người Norman ở miền nam nước Ý, sau đó ở Pháp, nơi ông tổ chức một số hội đồng. Do đó, nhiệm kỳ của ông được gọi là ‘triều đại giáo hoàng lang thang’. Chỉ nhờ những khoản quyên góp hào phóng, Urban II mới dần chiếm được ưu thế trước Clement III, trở thành người kế vị hợp pháp của Gregory VII, mặc dù cuộc ly giáo mãi đến năm 1122 mới được giải quyết chính thức.(xem bên dưới).
Tuy nhiên, bất chấp sự rút lui nhục nhã của Gregory VII khỏi La Mã và cái chết trong cuộc sống lưu vong, ‘vị trí của giáo hoàng với tư cách là người cai trị tối cao của Kitô giáo trong các vấn đề giáo hội đã được tái khẳng định và thừa nhận một cách mạnh mẽ trên toàn cầu. Quyền lực của đế quốc dần suy yếu và quyền lực của giáo hoàng lại gia tăng cho đến khi những người kế vị Gregory VII có thể giành quyền thống trị trên thế giới.
Các cuộc thập tự chinh
Dù những thành công hay thất bại khác của Urban II, giáo triều 11 năm của ông đều bị lu mờ trước các cuộc Thập tự chinh. Các giáo hoàng trước đây đã thảo luận về việc giải phóng Thánh địa Jerusalem khỏi tai họa Hồi giáo nhưng chưa bao giờ biến lời nói thành hành động. Vào tháng 11 năm 1095, tại một hội đồng Giáo hội ở Clermont, Pháp, Urban đã đáp lại lời cầu cứu của hoàng đế Byzantine, bằng cách kêu gọi những người Cơ đốc thực hiện một cuộc hành hương vũ trang để giải phóng Nhà thờ Mộ Thánh ở Jerusalem. Urban đã kích động hội đồng với cơn thịnh nộ chính đáng: ‘Một chủng tộc đáng nguyền rủa hoàn toàn xa lánh Chúa… đã xâm chiếm vùng đất của những người theo đạo Cơ đốc và làm suy giảm dân số của họ bằng gươm giáo, cướp bóc và lửa’, ông nói. ‘Kẻ thù đã phá hủy hoàn toàn các nhà thờ của Chúa hoặc chiếm đoạt chúng để sử dụng cho các nghi lễ của tôn giáo mình.’ Ông tiếp tục: ‘Hãy nghĩ đến những công trạng của tổ tiên để bạn phải xúc động và kích thích tâm trí bạn hướng tới những thành tựu anh hùng… Hãy bước lên con đường đến Mộ Thánh; hãy giành lại xứ sở đó khỏi tay kẻ ác và phải bắt chúng phục tùng. Bổn phận của những Kitô hữu tốt đạo là giải phóng Jerusalem khỏi đám bọn Hồi giáo. Đổi lại họ sẽ lập tức được xá tội. Đó là một món khuyến mãi tuyệt vời. Tiếng hét ‘Deus vult! Deus Vult!’ (Chúa muốn điều đó!) kết thúc bài phát biểu hùng hồn của ông. Quan điểm tương tự – cho rằng ý muốn của Chúa là tiêu diệt những kẻ ngoại đạo – vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho những người cuồng tín tôn giáo đến tận ngày nay.
Hàng ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em, nhiều người khâu hình thánh giá lên quần áo như một dấu hiệu cam kết của họ – đã đáp lại lời kêu gọi và lên đường đến Thánh địa trong cái được gọi là Cuộc Thập tự chinh của Nhân dân. Du hành qua Pháp và Đức, được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tôn giáo và được khuyến khích bởi các linh mục dốt nát, họ đã sát hại hàng ngàn người Do Thái. Suy cho cùng, đối với nhiều thập tự quân thì thật là trái khoáy khi phải hành quân 3.000 dặm để chiến đấu với bọn Hồi giáo mà họ không hề biết gì, trong khi những người Do Thái mà họ tin đã thực sự giết Chúa Kitô vẫn còn sống khỏe mạnh ngay trước cửa nhà họ. Tuy nhiên, cuối cùng, thật đáng buồn là họ đã không chuẩn bị cho trận chiến , và hầu hết những ‘người hành hương’ này đã bị giết ở khu vực ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ trong khi vẫn còn cách Thánh địa một khoảng cách đáng kể. Năm sau, một nhóm do các quý tộc và binh lính giàu kinh nghiệm dẫn đầu lên đường và vào năm 1099 đã thành công trong việc chiếm lại Jerusalem. Sau 462 năm dưới sự cai trị của người Hồi giáo, Jerusalem một lần nữa lại nằm trong tay Kitô giáo.
Hơn ngàn năm trước, Jesus đã bước vào thành phố trong hòa bình, nhưng thập tự quân đã gây ra một cơn điên cuồng bạo lực. Cuộc tàn sát tàn khốc như vậy khác xa với thông điệp hòa bình và tình yêu của Christ đến mức ngày nay người ta khó có thể hiểu được làm thế nào một giáo hoàng có thể tán thành nó. Chưa hết, trong những năm sau đó, việc phát động các cuộc thập tự chinh đã trở thành một điều gì đó thuộc truyền thống của giáo hoàng. Chẳng bao lâu sau, cuộc thập tự chinh không còn mang tính thánh chiến nữa mà thiên về chinh phục và chiếm đóng lãnh thổ. Tổng cộng quân thập tự chinh đã thành lập bốn vương quốc Cơ đốc giáo trong vùng hiện nay là Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel và Lebanon. Ở châu Âu, họ được biết đến với cái tên ‘Outremer’, từ tiếng Pháp có nghĩa là ‘nước ngoài’. Vương quốc cuối cùng, Vương quốc Jerusalem, chỉ sụp đổ vào năm 1291.
Người kế vị của Urban II, Paschal II (1099-1118), chia sẻ ác cảm của Gregory VII đối với việc phong chức giáo dân, khiến ông xung đột với Henry IV, người sống lâu hơn Gregory VII khoảng 20 năm. Giáo hoàng được Henry chọn là Clement III – qua đời năm 1100 nhưng vào thời điểm đó Henry đã bị đuổi khỏi La Mã và những nỗ lực sau đó của ông nhằm chỉ định những người kế vị Clement đều không có kết quả. Paschal II đã thực hiện lựa chọn tai hại là ủng hộ cuộc nổi dậy của con trai Henry IV, Henry V, chống lại cha mình. Sau khi giải trừ cho anh ta khỏi lời thề trung thành với phụ hoàng, Giáo hoàng nhận ra quá muộn rằng Henry V vẫn duy trì quyền phong chức giáo sĩ bướng bỉnh như bố, người qua đời năm 1106.
Những xung đột không thể tránh khỏi sau đó đã khiến Henry V phải hành quân đến La Mã và chỉ khi Henry V rời xa thành phố thì Paschal II mới đề xuất thỏa hiệp sau: để đổi lấy việc Henry từ bỏ mọi quyền phong chức, Giáo hội Đức sẽ trao trả lại tất cả đất đai và các quyền mà họ đã nhận được từ vương miện, từ bỏ quyền lực chính trị và chỉ sống nhờ tiền thuế thập phân (tiền nộp hàng năm của giáo dân cho Giáo hội). Mặc dù từ góc độ Kitô giáo, điều này rất có lý – xét cho cùng thì Chúa Kitô đã rao giảng về sự nghèo nàn – nhưng sẽ không bao giờ được các giám mục người Đức chấp nhận, nhiều người trong số họ không chỉ trả tiền để được phong chức (và muốn có được lợi tức từ khoản đầu tư này) mà còn trở nên giàu có và quyền lực trong quá trình này. Chắc chắn rồi, khi thỏa thuận được công bố vào ngày đăng quang của Henry V ở La Mã vào tháng 2 năm 1111, các giám mục Đức nổi dậy, khiến Henry phải hoãn lễ đăng quang và rời khỏi La Mã, mang theo Paschal và 16 vị hồng y của ông ta làm con tin. Hai tháng sau, Paschal II nhượng bộ thừa nhận quyền phong chức của hoàng gia, hứa không bao giờ rút phép thông công Henry V và phong ông làm hoàng đế.
Vì vậy, chắc hẳn Henry V đã hơi sốc vào năm sau khi ông thực sự bị vạ tuyệt thông và thỏa thuận bị hủy bỏ dưới áp lực của một số nhà cải cách, những người cảm thấy rằng những nhượng bộ của Paschal II là phản bội lại những cải cách của Gregory VII. Chính Paschal II bị buộc phải làm lễ tuyên xưng đức tin Thiên chúa giáo để không ai có thể nghi ngờ đức tin của ông và thú nhận rằng khi đồng ý thỏa hiệp, ông đã phạm một ‘hành động xấu xa.’ Đây là một ngày ô nhục đối với Giáo hội: đức tin của giáo hoàng đang bị các đồng nghiệp của mình nghi ngờ.
Henry V phải đối mặt với sự lên án rộng rãi vì hành động của mình; cướp giáo hoàng hóa ra là một động thái hết sức tồi tệ. Khi Paschal II qua đời, Henry V lại đến La Mã một lần nữa trong một nỗ lực nhằm gây áp lực lên người kế vị ngắn ngủi của Paschal, Gelasius II (1118-9), nhưng Gelasius đã khôn ngoan bỏ chạy khi nghe tin Henry đến gần. Khi Henry đáp trả sự xúc phạm này bằng cách bổ nhiệm một giáo hoàng khác thay thế ông – Gregory VIII (giáo hoàng đối lập) – Gelasius đã rút phép thông công cả hai người. Gelasius tìm cách quay trở lại sau khi Henry rời La Mã, nhưng không giành được quyền kiểm soát thành phố và trốn sang Pháp và qua đời ở đó.
Mãi cho đến triều đại giáo hoàng Callistus II (1119-24), cuộc ly giáo cuối cùng mới kết thúc. Để ngăn cản việc bổ nhiệm thêm các giáo hoàng phản diện, Gregory VIII lớn tuổi đã bị bắt, ngồi quay đầu trên lạc đà và vừa bị dẫn diễu hành một cách nhục nhã khắp La Mã vừa bị ném đá, trước khi bị giam trong một tu viện. Sau gần 50 năm xung đột, cả giáo hoàng và đế quốc đều mong muốn chấm dứt tình trạng bế tắc. Năm 1122, sau nhiều tháng đàm phán, một thỏa hiệp đã đạt được trong Giáo ước Worms: nhà vua từ bỏ quyền đầu tư các giám mục được bầu để đổi lấy quyền tham dự bất kỳ cuộc bầu cử giáo hội nào ở Đức và bỏ lá phiếu quyết định nếu cuộc bầu cử không có kết quả. Tuy nhiên, đổi lại ông phải đồng ý trả lại toàn bộ đất đai mà ông đã tịch thu từ các giám mục Đức.
Tuy nhiên, thời gian yên tĩnh quá ngắn ngủi. Mật nghị bầu người kế vị Callistus II vào năm 1124 đã sa lầy vào tình trạng tham nhũng và đe dọa. Với lòng trung thành bị chia rẽ của các hồng y, hai bên tìm kiếm sự hỗ trợ từ một trong hai phe chính trị chính của La Mã: gia tộc Pierleoni, vốn liên minh với người Norman ở Sicily, và gia tộc Frangipani, có lòng trung thành với hoàng đế. Ứng cử viên phe Pierleoni ban đầu được được bầu chọn, lấy tên là Celestine II, nhưng sự cai trị của ông đã bị gián đoạn bởi phe Frangipanis được trang bị vũ khí đến tận răng, đã bầu chọn ứng cử viên riêng của họ là Honorius II. Pierleoni đã được hối lộ một cách hào phóng để rút lui, và cuộc bầu cử Honorius đã được phê chuẩn thật đáng ngạc nhiên,
Tuy nhiên, Pierleoni đã trỗi dậy vào năm 1130, khi một người của họ kế vị Honorius II là Anacletus II (giáo hoàng đối lập). phe Frangipani đã sắp xếp để một nhóm hồng y tách ra bầu chọn ứng cử viên của họ, Innocent II (1130–43). Nhưng phần lớn các hồng y ủng hộ Anacletus II, bầu ông một cách hợp pháp và buộc Innocent II phải chạy trốn khỏi La Mã. Một cuộc ly giáo khác xảy ra sau đó, cả hai giáo hoàng đều tuyên bố tính hợp pháp. Anacletus tìm kiếm sự hỗ trợ từ Roger, công tước Norman của lãnh thổ Sicily, nơi vẫn đang bị cả các hoàng đế Byzantine và phương Tây tranh chấp và phong ông làm Vua Roger II của Sicily để tỏ lòng biết ơn. Bị lưu đày khỏi La Mã, Innocent II nhận được sự ủng hộ của người Pháp, sau đó là người Anh, và cuối cùng, sau nhiều do dự, là sự ủng hộ của vị vua mới ở Đức, Lothar II. Với sự giúp đỡ của Lothar, Innocent II được đưa về La Mã nhậm chức vào năm 1133, và Lothar được đăng quang hợp lệ. Tuy nhiên, việc Innocent II thiếu sự ủng hộ ở La Mã đã được thể hiện rõ ràng khi Lothar rời Ý: Innocent bị buộc phải chạy trốn đến Pisa, nơi ông triệu tập một hội nghị ra vạ tuyệt thông cả Anacletus II và Roger II.
Cuộc ly giáo này kết thúc khi Anacletus II qua đời và người kế vị ông, Victor IV, từ chức chỉ sau ba tháng tại vị. Innocent II, lúc này đã quay trở lại La Mã, và triệu tập một hội đồng – Hội đồng Lateran thứ hai vào mùa xuân năm 1139, với hy vọng điều chỉnh công việc sau cuộc ly giáo. Hòa bình có thể đã được phục hồi nếu mức độ hành động của Innocent II đền đây là chấm dứt, nhưng ông ta quyết định truy đuổi những người ủng hộ Anacletus II, tất nhiên, hiện bao gồm cả Vua Roger II của Sicily. Không hài lòng với việc đã rút phép thông công Roger, Innocent II lên đường vào tháng 3 năm 1139 cùng với một đội quân lớn của Giáo hoàng để dạy cho ông ta một bài học, mặc dù không hoàn toàn rõ ông định dạy cho quân đội Norman bài học nào. Có thể dự đoán được, lực lượng của Giáo hoàng đã bị đánh bại và Innocent II bị bắt (giống như Leo IX trước đó), và ông chỉ được thả với điều kiện phải công nhận Roger là Vua của Sicily.
Về phần Henry V không có con, ông ngay lập tức được kế vị bởi Lothar II và sau đó, vào năm 1138, bởi cháu trai của ông, người trở thành Conrad III. Gia đình Conrad, Hohenstaufen, trị vì gần như liên tục cho đến năm 1254. Mặc dù ba vị vua Hohenstaufen cuối cùng đã đồng ý tham gia cuộc thập tự chinh, nhưng cuộc đấu tranh chống lại giáo hoàng để giành sự thăng tiến chính trị vẫn tiếp tục.
Cộng hòa La Mã
Các triều đại giáo hoàng kế vị Innocent II là Celestine II (1143-44) và Lucius II (1144-45) lớn tuổi đã bị cản trở bởi một cuộc nổi dậy theo chủ nghĩa thế tục của người La Mã phát triển từ việc từ khước giáo hoàng Innocent II. Phong trào đã làm sống lại khái niệm về viện nguyên lão và tuyên bố La Mã là một nước cộng hòa. Trong số những điều khác, họ nhằm mục đích loại bỏ quyền lực thế tục khỏi giáo hoàng và để ông sống bằng tiền thập phân và quyên góp của giáo dân. Lucius II phẫn nộ đã cầm kiếm, đích thân chỉ huy một cuộc tấn công vào cứ điểm cộng hòa trên Capitol. Tuy nhiên, trong cuộc giao tranh, ông bị một tảng đá rơi trúng và qua đời, là vị giáo hoàng duy nhất trong lịch sử chết vì vết thương trong trận chiến.
Những người cộng hòa đã ngăn cản việc tôn phong giáo hoàng Eugene III (1145-53), người kế vị của Lucius II cho đến khi ông ấy nhận ra tình hình mới của La Mã. Những người cộng hòa lần này đâm ra bạo gan nhờ những lời rao giảng của Arnold de Brescia, một thành viên được phong chức của giới giáo sĩ và công khai chỉ trích sự giàu có và tham nhũng của giới tăng lữ đã từng bị lên án bởi Innocent II ở Công đồng Lateran. Ông đề nghị rằng các giáo sĩ nên từ bỏ của cải vật chất và quyền lực thế tục. Thẳng thừng một cách tàn nhẫn, ông gọi giáo hoàng là ‘kẻ vấy máu, duy trì quyền lực của mình bằng lửa và gươm, một kẻ hành hạ các nhà thờ và áp bức những người vô tội, kẻ không làm gì trên đời ngoài việc thỏa mãn dục vọng của chính mình và lấy sạch kho bạc của những người khác để lấp đầy kho bạc của mình.’ Ông cũng tố cáo sự kiêu ngạo, hám lợi và đạo đức giả của Hồng y đoàn mới được thành lập. gọi là ‘hang ổ trộm cướp’, một thuật ngữ khó có thể khiến họ quý mến ông ta.
Giống như rất nhiều người tiền nhiệm, Eugene III đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài, trong trường hợp này là cầu viện vua Hohenstaufen của Đức, Conrad III, đến và giải quyết vấn đề nóng bỏng bất tiện này để đổi lấy sự đăng quang của hoàng gia. Tuy nhiên, Conrad III không chỉ phải giải quyết những vấn đề nội bộ của riêng mình mà còn quyết tâm bắt tay vào cuộc thập tự chinh thứ hai ngay khi có thể. Eugene III phải đợi cho đến khi nhà vua trở về trước khi có thể nêu lại vấn đề . Tuy nhiên, vào thời điểm đó, chính phủ La Mã mới tuyên bố rằng vương miện chỉ có thể được trao hợp pháp bởi người dân La Mã chứ không phải giáo hoàng và tuyên bố rằng chỉ bằng cách chấp nhận vương miện từ người La Mã, Conrad III mới có thể đảm bảo được sự vượt trội đối với giáo hoàng.
Conrad III không thích khuyến khích người La Mã thử nghiệm nền cộng hòa, nhưng ông đã chết trước khi có thể hành động. Tuy nhiên, cháu trai của ông là Frederick I ‘Barbarossa’ (1152-90) rất vui khi được giúp đỡ giáo hoàng như một dấu hiệu thiện chí của ông trước khi đăng quang. Ông ta đã bắt giữ Arnold de Brescia một cách hợp pháp và giao ông ta cho chính quyền. Năm 1155, Arnold bị treo cổ, thi thể bị đốt cháy và tro được ném xuống sông Tiber. Với cái chết của ông, nền cộng hòa sụp đổ và chính quyền của Giáo hoàng được khôi phục. Tuy nhiên những nỗ lực dập tắt ký ức của ông rõ ràng đã thất bại: khi lật đổ các Lãnh thổ Giáo hoàng vào năm 1861, Garibaldi được đón chào với những tiếng hô vang ‘Arnold de Brescia!’ và nước Ý hiện đại tràn ngập những bức tượng của ông.
Frederick I vào La Mã và được Giáo hoàng Adrian IV tấn phong hoàng đế tại Giáo đường Thánh Peter. Adrian là người Anh duy nhất trở thành giáo hoàng. Frederick nhận được phản ứng lạnh lùng từ người La Mã đang náo động về số phận của Arnold và tức giận vì hoàng đế đã được xức dầu mà không có sự đồng ý của họ. Ông ta không dám ở lại lâu, gần như ngay lập tức quay trở lại Đức để lập lại trật tự cho tình hình tế nhị trong nước.
Các hồng y của Adrian IV chia rẽ giữa những người ủng hộ lòng trung thành với Frederick I và những người muốn duy trì sự độc lập khỏi quyền lực đế quốc thông qua liên minh với William xứ Sicily (1120-66), con trai của Vua Roger II. Mong muốn tái lập Đế chế La Mã của Frederick I là rõ ràng, và những người cai trị mạnh mẽ luôn khiến giáo hoàng lo sợ về nền độc lập của mình.
Adrian IV có phần tai tiếng vì đã ban tặng Ireland cho vua Anh, Henry II – không dựa trên sự biện minh nào hơn ngoài Việc Hiến tặng của Constantine với điều kiện Henry phải mang đất đai và người dân ở đó quy phục La Mã và trả cho La Mã một xu mỗi năm cho mỗi hộ gia đình Ireland. Những hậu quả vẫn còn được cảm nhận trong thế kỷ 20: khi một người Anh, Hồng y Bourne, Tổng Giám mục Westminster, được coi là ứng cử viên giáo hoàng sau cái chết của Giáo hoàng Pius X vào năm 1922, Hồng y Logue người Ireland đã tuyên bố, ‘Chính một Giáo hoàng nói tiếng Anh. đã trao Ireland cho Anh; do đó chúng tôi không ủng hộ bất kỳ ai ngoài một người Ý vào ngôi vi của Thánh Peter.
Sự ly giáo của Giáo hoàng (1159-1177)
Tuy nhiên, một cuộc bầu cử gây tranh cãi khác – có rất ít cuộc bầu cử không gây tranh cãi – diễn ra sau cái chết của Adrian IV, lần này là giữa Alexander III (1159-81), một cựu giáo sư và trưởng phòng hành chính của Giáo hoàng, người đã được đa số bầu chọn và một Hồng y lấy tên là Victor. IV (ngụy giáo hoàng), vị giáo hoàng đối lập thứ hai ở thế kỷ 12 đã chọn cái tên đó, người vốn bị coi là con rối của đế quốc. Frederick I đã triệu tập một hội đồng để giải quyết tình thế bế tắc, nhưng Alexander III từ chối tham dự, phu nhân quyền triệu tập mình của Frederick I, vì vậy hội đồng đã rút phép thông công ông, thay vào đó tán thành Victor IV.
Alexander III đáp trả bằng cách rút phép thông công cả Victor IV và Frederick I, đồng thời giải trừ tất cả thần dân của đế quốc khỏi lời thề trung thành với hoàng đế trước khi nhanh chóng rời khỏi La Mã. Ông sống bốn năm tiếp theo ở Pháp và dần dần được công nhận trên khắp châu Âu là giáo hoàng hợp pháp, ngoại trừ Đức. Bất chấp sự ủng hộ thưa thớt của người châu Âu dành cho Victor IV và ba người kế vị ông,, vì sợ mất mặt, Frederick I đã tuyên thệ không bao giờ thừa nhận việc bầu chọn Alexander III, và buộc thần dân của ông ta phải làm điều tương tự. Chắc hẳn ông đã cảm thấy là mình đã đúng trong chuyến thăm tiếp theo tới La Mã vào năm 1167, khi ông được người kế vị của Victor IV tấn phong hoàng đế. Tuy nhiên, quyền lực của ông bị suy giảm khi các thành phố phía bắc nước Ý thành lập một liên minh để tự vệ trước sự xâm lược của đế quốc, buộc Frederick I phải ký một hiệp định đình chiến với cả các thành phố và William của Sicily.
Cuối cùng, Frederick I buộc phải công nhận Alexander III là Giám mục của La Mã; một chiến thắng vĩ đại cho vị giáo hoàng, người đã lèo lái Giáo hội được 22 năm, bất chấp cuộc ly giáo kéo dài 18 năm. Một công đồng đại kết đã được tổ chức để lập lại trật tự, và vào tháng 9 năm 1178, hơn 300 giám mục đã tập hợp tại La Mã để tham dự Công đồng Lateran thứ ba, do Alexander III chủ trì. Để ngăn chặn các cuộc ly giáo tiếp theo và buộc các hồng y phải đạt được sự đồng thuận, hội đồng đã đồng ý rằng các giáo hoàng tương lai chỉ có thể được bầu bởi đa số 2/3 số hồng y. Kể từ đó, ngoại trừ một lần, chỉ có hồng y mới có quyên bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử giáo hoàng.