
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 10 : Tiếm quyền
“Những người tốt trên khắp Châu Âu nóng lòng mong muốn và hy vọng rằng Chúa Trời sẽ can thiệp và giải cứu ngai tòa của Peter khỏi tay bọn trộm cướp và biến nó một lần nữa thành một phước lành.”
Nhà sử học Giáo hội, Philip Schaff
Khi Gregory V qua đời vào năm 999, Otto III đã bổ nhiệm một người Pháp thay thế ông – gia sư cũ của ông, Gerbert xứ Aurillac, vừa là một học giả vừa là một bác học và là nhà toán học duy nhất trở thành giáo hoàng lấy tên là Sylvester II. Otto và Sylvester mơ ước khôi phục lại sự vĩ đại của Đế chế La Mã và kéo chế độ giáo hoàng ra khỏi sự suy thoái đạo đức mà nó đang chìm đắm, nhưng lòng tự hào của người La Mã đã nổi dậy chống lại sự cai trị của cả một hoàng đế nước ngoài và một giáo hoàng nước ngoài. Năm 1001, người La Mã nổi dậy, buộc họ phải chạy trốn khỏi thành phố, và Otto III chết trước khi kịp trả thù. Sylvester II được phép trở lại thành phố nhưng qua đời chỉ 16 tháng sau đó, vào năm 1003. Việc ông trở về trong tình thế yếu đuối không giúp ích vì cho giáo triều: một số giáo hoàng tiếp theo được bổ nhiệm bởi các gia đình quý tộc ở La Mã, đầu tiên là Crescentii và sau đó là dòng họ Theophylact đang trỗi dậy.
Crescentii đặt tên cho ba người kế vị Sylvester, nhưng vào năm 1012, phe Theophylact giành lại quyền kiểm soát La Mã và lập hai người anh em họ của họ, Benedict VIII (1012-24) và John XIX (1024-32) lên làm giáo hoàng – mặc dù cả hai đều chưa được thụ phong vào thời điểm họ được tôn phong giám mục
Không có gì đáng ngạc nhiên khi những con người được chọn vào vai trò này chỉ quan tâm nhiều hơn đến việc vơ vét của cải và củng cố quyền lực hơn là quản lý Giáo hội. May mắn thay, Nhà thờ đã đóng vai trò như một phương tiện tuyệt vời cho mục đích này và họ đã giúp đỡ bản thân và đại gia đình của mình đến nhiều vùng đất ở phía bắc và phía nam của Công quốc La Mã, tất nhiên tất cả đều nhân danh giáo hoàng. Khi cái chết đang đến gần, John XIX đã đề nghị phong giáo hoàng cho người em thứ ba nhưng ông ta từ chối, và khi John qua đời, ngôi vị giáo hoàng đã được chuyển cho đứa cháu trai 20 tuổi của ông (hoặc 12 tuổi tùy theo nguồn tư liệu mà ta sử dụng) Theophylact, một giáo dân lấy tên là Bênêđíctô IX và sẽ trị vì với tư cách là giáo hoàng ba lần (1032-44, 1045, 1047-48 mất 1056), với mỗi nhiệm kỳ giáo hoàng được công nhận riêng trong danh sách giáo hoàng của Giáo hội. Chế độ giáo hoàng đã bắt đầu giống với một vương quyền cha truyền con nối.
Trong khi Benedict VIII và John XIX, mặc dù có những thành tích không rõ ràng, đã đầu tư vai trò của mình với một chút đúng đắn, thì cháu trai của họ không hề tỏ ra kiềm chế, lại hướng đến ông chú cố của mình, Giáo hoàng John XII, như một hình mẫu. Viết vào cuối thế kỷ này, Giáo hoàng Victor III đã cho rằng cuộc đời của Benedict ‘quá hèn hạ, quá hôi hám, quá đáng ghê tởm, đến nỗi ông rùng mình ngay cả khi nghĩ đến.nó.’
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi Benedict IX phải đối mặt với nhiều thách thức đối với quyền lực của mình. Một thách thức như vậy xảy ra vào năm 1045 khi Crescentii xúi giục một cuộc nổi dậy và bổ nhiệm người của họ, Sylvester III (tháng 1 đến tháng 3 năm 1045) làm giáo hoàng. Nhưng người của Benedict IX đã chống trả, và Sylvester III bị vạ tuyệt thông và trục xuất khỏi La Mã. Cả hai người đều được Giáo hội công nhận là giáo hoàng.
Hơi ngạc nhiên là Benedict IX đã đồng ý thoái vị ngay sau đó để nhường ngôi cho cha đỡ đầu của mình, Giovanni Graziano (John xứ Gratian), lấy tên là Gregory VI (1045-46). Rõ ràng là Benedict IX chỉ đơn giản là bán chức vụ cho cha đỡ đầu của mình. Trong khi các giáo hoàng đương nhiệm thường thu được lợi ích tài chính từ chức vụ, và các chức vụ giám mục thường xuyên được mua bán, thì đây là lần đầu tiên (và duy nhất) chức vị giáo hoàng bị một giáo hoàng đương nhiệm mua bán. Tuy nhiên, Benedict IX sau đó đã hủy bỏ quyết định của mình, khi ông trở lại vào năm sau để giành lại ngôi vị, Sylvester III cũng vậy.
Giáo hội lúc này có ba giáo hoàng Sylvester III, Benedict IX và Gregory VI.
Điều này không chỉ gây tai tiếng mà còn khiến vị vua mới của Đức, Henry III (1039-56), phải đau đầu dữ dội. Ông mong muốn được phong làm hoàng đế, nhưng bây giờ ông không biết mình nên quay sang vị giáo hoàng nào để xức dầu cho mình. Được trao vương miện bởi một kẻ mạo danh, hoặc bởi một người phạm tội buôn bán chức vụ Giáo hội là điều không thể tưởng tượng được. Cuối cùng, chỉ có một hướng hành động được mở ra cho ông ta. Năm 1046, ông triệu tập các giáo hoàng đến trình diện trước hội đồng ở Sutri, một thị trấn nằm cách La Mã khoảng 50 km về phía tây bắc, và phế truất cả ba vị giáo hoàng này.. Người thay thế họ, Clement II (1046-47), cựu giám mục của thành phố Bamberg ở miền trung nước Đức, đã lên ngôi hoàng đế hợp lệ cho Henry.
Thật không may, Clement II chỉ sống sót được tám tháng, cái chết của ông được cho là do phe ủng hộ Benedict IX đầu độc. Tại thời điểm này, Benedict IX đã thành công trong việc mua chuộc người dân và giáo sĩ để bầu lại ông làm giáo hoàng. Sau khi bán ngôi giáo hoàng cho chú mình, ông không thiếu tiền mặt để đảm bảo sẽ được hưởng ứng nhiệt tình khi ông trở lại. Ông đã cố gắng giữ chức giáo hoàng thêm 8 tháng nữa trước khi Henry III bổ nhiệm một người Đức khác – dường như người Đức là những người duy nhất mà ông có thể tin cậy – lấy tên là Damasus II (tháng 7-8 năm 1048) để thay thế Benedict IX. Một lần nữa, một vị vua Đức đã cứu được giáo triều khỏi nội tình. Hơn nữa, quyền lực của bọn Theophylacts đối với giáo hoàng cuối cùng đã bị phá vỡ.
Phong trào cải cách
Damasus II qua đời trong vòng một tháng và Henry III hiện đã bổ nhiệm vị giáo hoàng người Đức thứ ba, một trong những anh em họ của ông, lấy tên là Leo IX (1049-54). Gần như ngay lập tức Leo bắt đầu cải tổ Giáo hội. Mục tiêu cụ thể của ông là bọn tăng lữ bất lương và mua bán chức vụ.
Leo IX tin rằng đam mê xác thịt, hay thậm chí khao khát một cuộc sống gia đình có tôn ti trật tự, là xao nhãng đối với nghĩa vụ giáo sĩ – điều không có gì mới đối với Giáo hội. Sứ đồ Paul đã xem hôn nhân như một cặp nạng cho các Kitô hữu quá yếu đuối để có thể duy trì cuộc sống độc thân. Ẩn sĩ và nhà khổ hạnh – những con người tìm cách kiêng cử những thú vui trần tục để đạt được các mục tiêu tâm linh – đã đạt được một số lượng đáng kể trong những thế kỷ đầu tiên sau Christ và đã được nhiều người bắt chước. Chính các Giáo phụ đáng kính, Thánh Jerome và Thánh Augustine, những người đương thời sống trải dài từ cuối thế kỷ thứ tư sang đầu thế kỷ thứ năm, mới là những người có ảnh hưởng nhiều nhất đến giáo lý về quan hệ tình dục. Thật không may, cả hai người họ đều bị ám ảnh bởi tình dục, hoặc ít nhất bởi nỗ lực ngăn ngừa tình dục. Thánh Jerome tin rằng mọi quan hệ tình dục đều sai trái, ngay cả trong hôn nhân. Augustine, người thừa nhận rằng khi còn trẻ, ông từng là nô lệ cho những xung động tình dục trước khi trở thành một Cơ đốc nhân, tin rằng dục vọng là xấu xa và tình dục khiến xao lãng trong việc tìm kiếm Chúa. Ông coi ham muốn tình dục là cách mà người đàn ông tìm kiếm quyền tự chủ của mình trước Chúa, người đã chiến thắng ý chí xác thịt, và tin rằng điều này nên được hạn chế bằng mọi giá. Thái độ tiêu cực đối với tình dục trong xã hội phương Tây về cơ bản được định hình bởi nỗi ám ảnh của Augustine về sự thuần khiết. Tình cờ, ông cũng trình bày rõ khái niệm về chiến tranh công chính, hoặc việc sử dụng vũ lực bởi chính quyền hợp pháp, mà sau đó được Giáo hội sử dụng để biện minh cho các cuộc chiến tranh cải đạo, Tòa án dị giáo và các cuộc chiến chống lại các đồng đạo Cơ đốc. Cả Jerome và Augustine đều có nhiều điều phải trả lời.
Leo IX khuyến nghị các linh mục bỏ vợ còn hơn là bị dẫn dắt vào tội lỗi, nhưng các giáo sĩ phản đối: theo truyền thống, các linh mục đã kết hôn; hầu hết các giáo hoàng trong thời kỳ đầu của Cơ đốc giáo đều đã kết hôn và theo Tân Ước, ngay cả chính Thánh Peter cũng đã có vợ. Tuy nhiên, chính từ thời điểm này trở đi, đời sống độc thân của linh mục đã trở thành chuẩn mực chứ không phải là một ngoại lệ đối với quy luật.
Tệ buôn bán chức vụ đã hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát mặc dù đã bị Giáo hội liên tục lên án và Leo IX đã quyết tâm dập tắt nó. Kể từ khi Hoàng đế Constantine lần đầu tiên cho phép giáo dân hiến tặng đất cho Giáo hội vào thế kỷ thứ tư, họ đã làm vậy với hy vọng bảo đảm được cứu rỗi. Những giáo dân giàu có, kể cả các vị vua, đã xây dựng các nhà thờ và cơ sở tôn giáo như tu viện, trong khi những kẻ thừa kế những tài sản ấy duy trì quyền bổ nhiệm hoặc chính thức ‘đầu tư’ cho những chức vụ lãnh đạo các tổ chức này với các biểu tượng của chức vụ của họ, trong đó có cây quyền trượng (một cây trượng có hình thánh giá hoặc một dấu móc trên đầu) và chiếc nhẫn. Quá trình này được gọi là ‘Đầu tư giáo dân’. Một số các nhà thờ và tu viện trở nên giàu có một cách đáng kinh ngạc nhờ được hiến tặng và thuế thập phân và cuối cùng việc các giám mục, tu viện trưởng và linh mục đền bù cho người đã bổ nhiệm mình bằng cách trả tiền trực tiếp hoặc bằng cách chia sẻ tài sản của nhà thờ với họ đã trở thành thứ doanh rhu phổ biến.
Những nỗ lực của Leo IX nhằm dập tắt tệ mua bán chức vụ đã đe dọa vị trí và sự sung túc của các giáo sĩ cao cấp đã được hưởng lợi từ Đầu tư Giáo dân, và họ đã kiên quyết chống lại những cải cách này, cũng như những người đã bổ nhiệm họ: vào thời điểm mà ít người được giáo dục, những kẻ cai trị phụ thuộc vào các giám mục của mình để quản lý đất đai của họ. Do đó, việc bổ nhiệm các giám mục là một vấn đề được địa phương và quốc gia quan tâm.
Người Norman bước vào
Leo IX cũng có những vấn đề khác, tạm thời hơn mà ông cần phải giải quyết với tư cách là người đứng đầu Cộng hòa Thánh Peter. Một trong những nhiệm vụ của ông là duy trì sự độc lập của các Nhà nước Giáo hoàng khỏi sự xâm lấn của các thế lực. Trong nhiều thế kỷ, người Frank, người Byzantine và thậm chí cả các công quốc lân cận đều tìm cách kiểm soát La Mã vào lúc này hay lúc khác. Ngay cả người Hồi giáo cũng đã thành công đi lên sông Tiber và cướp phá La Mã. La Mã bây giờ phải đối mặt với một mối đe dọa mới: người Norman.
Bọn đánh thuê Norman đã đến bờ biển phía nam nước Ý vào đầu thế kỷ này. Mặc dù ban đầu bán dịch vụ của mình cho người trả giá cao nhất và không thiếu người trả giá trong thời kỳ hỗn loạn ở Ý thế kỷ 11, họ đã sớm bắt đầu yêu cầu thanh toán bằng đất đai. Chẳng bao lâu, phần lớn miền nam nước Ý nằm dưới sự cai trị của người Norman. Một cơ sở quyền lực mạnh mẽ như vậy đã trở thành mối đe dọa cho cả đế quốc và giáo hoàng. Otto II đã cố gắng trục xuất họ nhưng không thành công, và trong đầu mùa hè năm 1053, Leo IX quyết định tự mình dẫn quân chống lại họ, có lẽ tin rằng Chúa sẽ không để bất kỳ tổn hại nào xảy ra cho người kế vị Thánh Peter. Tuy nhiên, niềm tin của ông đã đặt nhầm chỗ: quân đội của ông không thể sánh được với quân Norman thiện chiến và Leo bị bắt trong Trận Civitate. Đây thực sự là một tin tức quan trọng: người đại diện của Chúa Kitô hiện đang là tù nhân của người Norman. Tuy nhiên, người Norman vào thời điểm này đã chuyển sang Cơ đốc giáo và giết chết Giáo hoàng, ngay cả khi ông ta cầm vũ khí chống lại mình, sẽ rất khó coi. Họ thả ông ta sau chín tháng.
Cuộc chiến của Leo IX chống lại người Norman làm trầm trọng hơn sự căng thẳng với người Byzantine. Câu hỏi không xoay quanh việc tại sao giáo hoàng, một người yêu chuộng hòa bình của Chúa, lại mang vũ khí – mặc dù đây là một câu hỏi xuất sắc – mà xoay quanh những gì giáo hoàng đã làm ngay từ đầu trên lãnh thổ Byzantine, vì phần lớn miền nam nước Ý nằm ngoài quyền tài phán của ông. Người Byzantine tuyên bố hoàn toàn có thể chăm sóc lãnh thổ của mình, ngay cả khi sự thật diễn ra hoàn toàn ngược lại.
Nếu phát động một chiến dịch lớn chống tham nhũng và bị người Norman bắt giữ chưa đủ để ghi tên Leo IX vào sử sách, thì giáo triều của ông cũng chứng kiến sự suy thoái lớn trong quan hệ Giáo hội Đông-Tây.
Vào năm 1014, Giáo hội phương Tây đã quyết định đơn phương sửa đổi Kinh Tin Kính Nicaea Constantinople năm 381 bằng cách thêm rằng Chúa Thánh Thần cũng bắt nguồn từ Chúa Con thay vì chỉ từ Chúa Cha.
Cuộc tranh cãi đến giai đoạn này đã có lịch sử lâu dài, nhưng mấu chốt của vấn đề là Giáo hội Đông phương tuyên bố rằng một tín điều áp dụng cho toàn thể Giáo hội chỉ có thể được sửa đổi khi có sự đồng ý phổ quát trong một công đồng Giáo hội đại kết. Tại sao La Mã nghĩ rằng họ có thể đưa ra những quyết định đơn phương có tầm quan trọng như vậy? Các tranh cãi đã nổ ra trong nhiều thập kỷ nhưng Giáo hội phương Tây đã vượt quá giới hạn của mình quá nhiều lần và Thượng phụ Constantinople cuối cùng đã quyết định đóng cửa các nhà thờ Latinh của thành phố vào năm 1052.
Nhiều thế kỷ bất đồng giữa Đông và Tây đã dẫn đến cao điểm này, bắt đầu từ việc Victor I vào thế kỷ thứ hai khăng khăng buộc các nghi lễ Phục sinh ở phương Đông phải trùng khớp với các nghi lễ ở phương Tây. Các giáo hoàng phương Tây đã thỉnh thoảng ra sức khẳng định rằng toàn bộ Kitô giáo phải thuộc thẩm quyền của giáo hoàng. Tình hình an ninh ngày càng xấu đi trong đế chế và sự ‘trôi dạt’ về ngôn ngữ đã dẫn đến căng thẳng chính trị và ngộ nhận về văn hóa, điều này càng gia tăng cùng với sự trỗi dậy của Hồi giáo. Việc thiếu sự bảo vệ của đế quốc khi người Lombard xâm chiếm, các chính sách bài trừ biểu tượng của Hoàng đế Leo III, và việc bắt cóc hiệu quả nhiều giám mục của La Mã theo lệnh của hoàng đế chỉ đổ thêm dầu vào lửa. Việc thêm thắt Kinh Tín Kính chỉ xác nhận với Giáo hội phương Đông rằng La Mã đang dẫn dắt phương Tây vào con đường tà giáo. Nói tóm lại, sự đối kháng dần dần được thay thế bằng sự thù hận và có rất ít việc có thể làm để đưa hai bên quay lại với nhau.
Năm 1054, Leo IX cử một trong những cố vấn thân cận nhất của mình, Humbert xứ Silva Candida, đến Constantinople để cố gắng giải quyết thế bế tắc, nhưng ông ta là một lựa chọn tồi cho một nhà đàm phán, vì ông ta chỉ đơn giản yêu cầu người phương Đông phục tùng Giáo hội Latinh. Vào tháng 7 năm đó, ông đã tống đạt một sắc lệnh của giáo hoàng rút phép thông công đối với thượng phụ và giới tăng lữ bất phục tùng của ông ta tại bàn thờ của Hagia Sophia, nhà thờ chính ở Constantinople trước khi chạy thục mạng trở lại La Mã. Trong vòng một tuần, thượng phụ đáp lại bằng cách rút phép thông công đối với giáo hoàng. Leo IX chưa kịp nghe nói đến việc mình bị rút phép thông công thì đã qua đời vào tháng 4 năm đó, khoảng một tháng sau khi phái đi những giáo sĩ cao cấp của mình. Trong khi những vụ tuyệt thông lẫn nhau này chỉ được bãi bỏ vào năm 1965 – tức 900 năm sau – vấn đề sửa đổi đơn phương Kinh Tín Kính vẫn còn là trở ngại lớn cho sự hợp thông giữa các Giáo hội Đông phương và Tây phương.
Những người kế vị ngắn ngủi của Leo IX, Victor II (1055-57) là giáo hoàng cuối cùng được hoàng đế Đức đề cử, và là giáo hoàng cuối cùng của Đức cho đến Benedict XVI ở thế kỷ 21 và Stephen IX (1057-58) tiếp tục nỗ lực cải tổ Giáo hội . Tuy nhiên, tầng lớp quý tộc vẫn tiếp tục chống lại mọi nỗ lực nhằm kiềm chế quyền lực của họ. Khi Stephen IX qua đời chỉ sau tám tháng, giới quý tộc La Mã muốn đảm bảo một người kế vị dễ uốn nắn hơn nhưng người mà họ chọn, lấy tên là Benedict X (giáo hoàng đối lập ) – một cái tên nhơ nhuốc để chọn do những trò hề mà vị giáo hoàng trước đây với tên đó – không được chấp nhận bởi những nhà cải cách tương lai trong Giáo hội, họ bèn rời thành phố để bầu một giáo hoàng khác theo ý họ là Nicholas II (1058-61).
Hồng Y Đoàn
Nhận thấy rằng quá trình bầu cử cần được cải cách một cách khẩn cấp, Nicholas II đã tổ chức một hội nghị tôn giáo năm 1059 để thảo luận về các cách mang quyền lực giáo hội trở lại vào tay Tòa Thánh. Hội nghị đã ra phán quyết hợp lệ rằng việc lựa chọn giáo hoàng sẽ được giới hạn trong tay các hồng y-giám mục, những giáo sĩ cao cấp nhất ở La Mã, đối lập với hoàng đế hoặc các gia đình quyền lực ở La Mã. Giới tăng lữ và giáo dân rộng rãi hơn vẫn sẽ phải phê chuẩn sự lựa chọn các hồng y, nhưng họ sẽ không tham gia tích cực vào bất kỳ cuộc bầu cử nào. Ứng cử viên giáo hoàng cũng cần phải là thành viên của hàng giáo sĩ La Mã, mặc dù các giáo phận khác có thể cung cấp ứng cử viên nếu không có người La Mã nào sẵn sàng. Cuối cùng, trừ khi có một lý do nào đó để làm khác, cuộc bầu cử sẽ được tổ chức ở La Mã.
Việc hối lộ giáo sĩ vẫn xảy ra thường xuyên, bất chấp nỗ lực của các giáo hoàng tiền nhiệm nhằm dập tắt tham nhũng, và khi các giáo hoàng và giáo hoàng đối lập tranh giành quyền lực trong những thế kỷ tiếp theo, các hồng y đã được mua chuộc với những lời hứa về quyền lực ngày càng lớn hơn, và do đó ngày càng trở nên quyền lực hơn. . Tuy nhiên, vào thời điểm đó, đây dường như là một bước quan trọng hướng tới việc khôi phục quyền kiểm soát đối với Giáo hội.
Hội nghị tôn giáo cũng đưa ra một quyết định khác mà hậu quả của nó vẫn còn đang cảm nhận tận ngày nay: các linh mục bị cấm kết hôn và những người đã kết hôn bị yêu cầu ly dị. Chiến dịch chống lại hôn nhân trong giới linh mục trước đây của Leo IX đã không đạt được lệnh cấm hoàn toàn vì sợ gây náo động. Giờ đây hàng ngàn giáo sĩ đã phản đối. Một lời thỉnh cầu của giới giáo sĩ Đức, được chứng minh là có tính tiên tri cao, tuyên bố rằng, ‘giáo hoàng đã dùng vũ lực buộc đàn ông phải sống như thiên thần; ông muốn ngăn cấm quá trình tự nhiên. Điều này sẽ chỉ dẫn tới sự ô uế.’
Nicholas II cũng khuyến khích đàn chiên của mình tẩy chay các buổi lễ nhà thờ nếu họ được lãnh đạo bởi các linh mục đã mua chức vụ của họ. Vấn đề là việc buôn bán chức vụ nhà thờ vào giai đoạn này đã phát triển đến mức điều này sẽ khiến còn rất ít linh mục trong các giáo xứ nếu người giáo dân chú ý đến lời kêu gọi của ông. Quan trọng hơn, những gì ông dạy đi ngược lại với những gì Giáo hội đã dạy trong nhiều thế kỷ rằng các bí tích vẫn có giá trị cho dù người ban phép bí tích có tội lỗi đến đâu. Những người theo giáo phái Donatism vào thế kỷ thứ tư đã bị gọi dị giáo dù ít sai phạm hơn.
Tuy nhiên, Nicholas II thực dụng hơn trong cách đối xử với người Norman, mặc dù còn là một mối đe dọa, nhưng có thể hữu ích cho ông ta. Đặc biệt, Nicholas muốn đối trọng với sự can thiệp của đế quốc Đức – vì hoàng đế đã bắt đầu coi giáo hoàng như một phần mở rộng của giới giáo sĩ Đức và để đảm bảo rằng ông được bảo vệ khỏi những lời gièm pha của giáo hoàng ngay trong chính La Mã. Năm 1059, để đảm bảo sự an toàn cho các lãnh thổ của Giáo hoàng, Nicholas II đã trao cho người Norman các công quốc phía nam Apulia và Calabria như những thái ấp dưới chủ quyền của Thánh Peter. Sicily cũng sẽ là của họ nếu họ có thể giành được nó từ tay người Hồi giáo. Đổi lại, tất cả những gì họ phải làm là thề trung thành với giáo hoàng với tư cách là lãnh chúa phong kiến của họ, cống nạp hàng năm và cung cấp viện trợ quân sự khi được yêu cầu.
Ở một khía cạnh nào đó, Nicholas II cũng thừa nhận một thực tế chính trị mới: rằng cả người Đức lẫn người Byzantine đều không thể đánh đuổi người Norman ra khỏi những vùng đất này. Giáo hoàng rất vui khi có được quyền thống trị trên vùng đất trước đây thuộc về Byzantine – một cú đá đẹp vào mặt Constantinople. Nhưng đó cũng là một cú đá vào mặt các hoàng đế Đức. Giáo hoàng bây giờ đền ơn cho người Đức, những người đã cứu giáo hoàng nhiều hơn một lần, không chỉ bằng cách phớt lờ quyền truyền thống của đế quốc trong việc bổ nhiệm giáo hoàng mà còn bằng cách liên minh với một trong những kẻ thù của họ. Nó cho thấy lòng trung thành trên bán đảo không có nhiều trọng lượng, ngay cả khi được thực hiện bởi chính Giám mục La Mã. Có lẽ các hoàng đế Đức đã tạo ra một con rối mà họ không thể điều khiển được nữa?
Những cải cách của Nicholas II đã khiến các giám mục Đức tức giận, và việc ông cấp đất cho người Norman chỉ đơn giản là giọt nước làm tràn ly. Năm 1061, các giám mục Đức tổ chức một hội nghị trong đó các sắc lệnh của ông, bao gồm cả những sắc lệnh về cải cách bầu cử, đã bị bãi bỏ. Khi Nicholas II qua đời vào năm đó, ông là một người không được hoan nghênh tại triều đình Đức. Người kế nhiệm ông, Alexander II (1061-73) được các nhà cải cách bầu chọn mà không có sự đồng ý của hoàng gia – cũng không khiến người Đức quý mến ông. Trên thực tế, triều đình Đức thậm chí còn không công nhận cuộc bầu cử của ông và ban đầu phản ứng bằng cách đề cử một giáo hoàng khác, Honorius II (giáo hoàng đối lập), thay thế ông, nhưng cuộc bầu cử này đã bị bác bỏ rộng rãi.
Alexander II tiếp tục truyền thống lâu đời của giáo hoàng là chọn phe trong các cuộc xung đột, gửi cờ hiệu giáo hoàng của mình cho William Nhà Chinh phục để ủng hộ cuộc xâm lược nước Anh của ông. Chủ nghĩa hòa bình của Giáo hội sơ khai giờ đây chỉ là một ký ức xa vời. Không rõ phần việc nào của ‘Ông Hoàng Hòa bình’ (tức Jesus) mà các giáo hoàng chưa hiểu thì không hoàn toàn rõ ràng