
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 9 : Giả mạo và sát nhân
“Không cần thêm thắt gì cả. Câu chuyện có thật đó đã đủ gây sốc rồi.”
Gerald Posner, Chủ Ngân hàng của Chúa
Lễ đăng quang của Charlemagne vào năm 800 đã mang lại một thời gian ngắn ổn định và bảo vệ cho Giáo hội, nhưng ngay sau khi ông qua đời vào năm 814, một âm mưu mới nhằm sát hại Giám mục La Mã đã bị phanh phui. Lần này Leo không có ý định bước đi nhẹ nhàng: thay vì bỏ chạy, ông đã tóm bọn người chủ mưu và hành quyết họ. Hành vi khó có thể chấp nhận được của một giáo hoàng, nhưng có lẽ có thể hiểu được sau vụ tấn công tàn bạo cách đây 15 năm. Đến giai đoạn này, chức giáo hoàng rõ ràng là giải thưởng đủ lớn để biện hộ cho việc sát hại người đương nhiệm.
Người kế vị Leo, Stephen IV (816-17) tồn tại trong thời gian ngắn – đã cố gắng hết sức để duy trì mối quan hệ nồng ấm giữa La Mã và triều đình Frank, thậm chí còn thực hiện chuyến hành trình dài đến Rheims, cách Paris khoảng 140km về phía đông bắc, để xức dầu cho Louis, con trai của Charlemagne. người ngoan đạo. Hành trình về phía bắc đã mang lại một số phần thưởng: Louis tiếp tục giữ cam kết của cha mình trong việc bảo vệ tòa thánh, khẳng định quyền lực của giáo hoàng đối với lãnh địa giáo hoàng và đảm bảo tính độc lập của các cuộc bầu cử giáo hoàng. Người kế vị của Stephen IV, Paschal I (817-24), đã xác nhận truyền thống bằng cách xức dầu cho con trai của Louis, Lothair I, làm hoàng đế và vua nước Ý vào năm 823. Lễ đăng quang của cả một hoàng đế và một vị vua do giáo hoàng chủ trì đều có những hàm ý, như chúng ta sẽ thấy.
Không phải tất cả người La Mã đều hoan nghênh ảnh hưởng của người Frank trong thành phố của họ, và các phe phái ủng hộ và chống Frank đã thúc đẩy việc cạnh tranh của các ứng viên cho ngôi vị của Thánh Peter. Đó là cuộc tranh cãi về người kế vị của Paschal I mà chính Lothair đã can thiệp vào cuộc bầu cử, đề cử ứng viên ưa thích của mình trở thành giáo hoàng Eugene II (824-27). Để tỏ lòng biết ơn, Eugene II đã tuyên thệ trung thành với Lothair và thừa nhận chủ quyền của hoàng đế đối với Lãnh thổ của Giáo hoàng.
Ba người kế vị của Paschal I đã phải đối mặt với xung đột nội bộ giữa những người Carolingian. Đến năm 817, Louis the Pious đã tuyên bố rằng Đế quốc Carolingian sẽ được chia đều cho ba người con trai sau khi ông qua đời. Tuy nhiên, sự ra đời của một người con trai khác, Charles, vào năm 823, đã kích động ba người anh trai đầu tiên nổi dậy chống lại cha họ, sau đó đánh nhau, kết quả là vương quốc Frank vĩ đại mà Charlemagne đã nỗ lực hết sức để tạo dựng dần dần tan rã. . Năm 843, hai anh em đi đến thỏa thuận và Đế chế Francia được chia thành ba phần – đông, trung và tây. Sự phân chia này đã đặt nền móng cho các quốc gia hiện đại như Đức (Đông Francia), Pháp (Tây Francia) và Ý (Trung Francia).
Ngoài ra, còn có mối đe dọa từ quân Hồi giáo xâm lấn từ phía nam. Một cuộc đột kích đã đưa những tên cướp biển Hồi giáo tiến lên Tiber từ căn cứ mới của họ ở Sicily. Việc họ cướp phá nhà thờ Thánh Peter vào năm 846 khiến Giáo hoàng Leo IV (847-55) phải xây dựng thêm một dãy tường thành khác cao hơn 40 bộ xung quanh khu vực Đồi Vatican. Yêu cầu người Frank tiếp cứu không được trả lời vì họ cũng đang bận đối phó với những kẻ cướp bóc Viking.
Truyền thuyết về Giáo hoàng Joan
Có một truyền thuyết kể rằng có một nữ giáo hoàng, Giáo hoàng Joan, vào giữa thế kỷ thứ chín. Người ta cho rằng bà đã giả làm đàn ông nhưng sau đó sinh con khi đang cưỡi ngựa từ nhà thờ Thánh Peter đến Cung điện Lateran vào một ngày nọ. Cùng với truyền thuyết này còn lan truyền tin đồn rằng chiếc ghế mà các giáo hoàng được tấn phong về sau có một lỗ trên đó để các quan chức có thể kiểm tra giới tính của giáo hoàng. Những người theo thuyết âm mưu và những người gièm pha Giáo hoàng thích ý tưởng về một nữ giáo hoàng và cho rằng Giáo hội chỉ đơn giản xóa bỏ mọi bằng chứng về sự tồn tại của bà, nhưng truyền thuyết không có cơ sở trên thực tế và đã bị nói xấu bởi những người gièm pha Giáo hoàng trong thế kỷ 13.
Sự hiến tặng của Constantine
Bất chấp những mối đe dọa liên tục này, hoặc có lẽ vì chúng, các giám mục La Mã vẫn tiếp tục phát huy quyền lực tinh thần và thế tục của mình. Nicholas I (858-867) rút con át chủ bài của mình dưới hình thức một bộ sưu tập tài liệu của một người đàn ông tên là Isidore Mercator.
Tên Isidore Mercator này đã thu thập được một số lượng lớn các giáo lệnh của giáo hoàng, các chỉ dụ của hội đồng Giáo hội và luật lệ của đế quốc Frank ngay từ đầu thế kỷ 7. Khi đọc cùng nhau, hiện ra một bức tranh cho thấy giáo hoàng luôn thực thi quyền thống trị đối với cả Giáo hội và các hội đồng Giáo hội. Trong bộ sưu tập có một tài liệu tên là ‘Sự hiến tặng của Constantine’. Tài liệu này nói rằng Chúa đã trừng phạt Constantine mắc bệnh phong vì đã đàn áp những người theo đạo Cơ đốc, nhưng hoàng đế đã được Giáo hoàng Sylvester I chữa khỏi bệnh sau khi cả Peter và Paul đều hiện ra với ông trong giấc mơ. Để tỏ lòng biết ơn, Constantine không chỉ ra lệnh rằng giáo hoàng phải có quyền tối cao đối với tất cả các nhà thờ trên thế giới, mà còn tặng nhiều tòa nhà và đất đai cho Giáo hội. Trong số vật hiến tặng có Cung điện hoàng gia Lateran, thành phố La Mã và tất cả các tỉnh, huyện và thành phố ở khu vực phía Tây, bao gồm các vùng đất ‘Judea, Hy Lạp, Châu Á, Thrace, Châu Phi, Ý và các hòn đảo khác nhau.’ Cuối cùng, tài liệu kể lại việc Constantine đã di dời đến Constantinople như thế nào, ‘vì nơi đâu quyền lực tối cao của các giáo sĩ và người đứng đầu đạo Cơ đốc đã được thiết lập bởi một người cai trị ở trên trời thì đúng là không nên có người cai trị thế tục nào có quyền tài phán ở đó’ tức là La Mã không còn đủ lớn cho hai người họ nữa.
Nhưng có một vấn đề lớn. Isidore Mercator chưa bao giờ tồn tại, nhiều sắc lệnh đã được bịa ra và Hiến tặng của Constantine chỉ là hư cấu, được giả mạo bởi các chính trị gia muốn đưa ra lời biện minh lịch sử cho sự độc lập của La Mã khỏi Byzantium. Toàn bộ sự việc là một trò lừa đảo, hay như Philip Schaff gọi nó là “vụ lừa đảo khổng lồ và hiệu quả nhất trong lịch sử giáo hội”. Trớ trêu thay, mục đích của việc thu thập tài liệu ban đầu không nhằm củng cố quyền lực của giáo hoàng, mà là để giảm bớt quyền lực của các tổng giám mục đô thị và những người thế tục quản trị các giáo phận nhỏ hơn bằng cách tuyên bố rằng quyền lực tối cao không nằm ở họ mà thuộc về giáo hoàng.
Người ta thường nhất trí rằng văn kiện Hiến tặng Constantine được viết vào khoảng giữa thế kỷ thứ tám trong văn phòng của giáo hoàng, và trong các bức thư của giáo hoàng ở Pháp vào giữa thế kỷ thứ chín. Nicholas I lại không biết rằng phần lớn các giáo lệnh là giả và việc hiến tặng chỉ là hư cấu của óc tưởng tượng sống động của ai đó, nhưng cho dù ông ta có nghi ngờ tính xác thực của chúng, tại sao lại chối bỏ một tài liệu đã ‘ tuyên bố quyền lực giáo hoàng từ giữa thế kỷ 5 được tạo thành vầng sáng của tính cổ xưa vĩ đại và ánh hào quang của ý chí thần thánh.’ Tiến về phía trước, những người thách thức cơ sở thần học và chính trị đối với quyền cai trị của giáo hoàng một cách lịch sự, và đôi khi không quá lịch sự, đều chỉ về hướng của việc Hiến tặng. Mặc dù sự thật là Giám mục La Mã rõ ràng là chưa bao giờ sử dụng quyền lực thế tục, Giáo hội cuối cùng đã có cơ sở pháp lý về tính ưu việt.
Điều khiến cho việc sưu tập tài liệu có vẻ là xác thực là tác giả, hoặc các tác giả, đã khéo léo xen những giáo lệnh thật của các hội đồng Giáo hội vào những giáo lệnh giả. Rốt cuộc, không có nỗ lực nghiêm túc nào được thực hiện để kiểm tra tính xác thực của bộ sưu tập – suy cho cùng Giáo hội mẹ làm sao nói dối – cho đến thế kỷ 15 khi nó bị một người tên là Lorenzo Valla vạch trần là một trò lừa đảo. Các tài liệu giả mạo này được gọi là Các Giáo lệnh Giả mạo Giả danh Isidorian
Cả Nicholas I và người kế vị của ông Adrian II (867-72) đều qua đời thanh thản trên giường bệnh, nhưng rất ít giáo hoàng kế vị trong khoảng 100 năm tiếp theo lại gặp may mắn như vậy. Châu Âu rơi vào tình trạng hỗn loạn, với các cuộc xâm lược của người Viking từ phía bắc, người Magyar từ phía đông và cướp biển Hồi giáo từ phía nam. Tình trạng bất ổn do điều này tạo ra là một lợi ích cho những nhân vật và gia đình đầy tham vọng chính trị của La Mã, họ sẽ lợi dụng tình trạng hỗn loạn để loại bỏ những giáo hoàng cản đường họ.
Người đầu tiên trong số nhiều giáo hoàng bị sát hại là John VIII (872-82), mặc dù, giống như bất kỳ vụ giết người bí ẩn thời trung cổ nào, kẻ ám sát ông vẫn chưa được biết đến. Các mưu tính chính trị tiếp tục thống trị triều đại của những người kế vị liền sau đó của John là Marinus I (882-84), Adrian III (884-85) – ngoại trừ triều đại của Stephen V (885-91) và Formosus (891- 96) đã bị nỗi rùng rợn chạm đến.
Năm 889, Công tước Guido xứ Spoleto tự xưng là vua nước Ý. Sau khi thuyết phục được Stephen V xức dầu cho mình làm hoàng đế, sau đó ông thuyết phục được người kế vị của Stephen V, Formosus, xức dầu cho con trai của Guido, Lambert, làm đồng hoàng đế. Nhưng khi Guido chết, Lambert trở nên độc đoán đến mức Formosus lo sợ cho mạng sống của mình. Một lần nữa, giáo hoàng buộc phải tìm kiếm sự bảo vệ bên kia dãy Alps. Lần này, Arnulf, Công tước xứ Bavaria và Vua của người Frank miền Đông, đã đến trợ giúp ông, xâm lược Ý vào cả hai năm 894 và 895, đồng thời giải phóng La Mã vào năm 896. Phần thưởng của ông cho việc bảo vệ người đại diện của Chúa Kitô trên trái đất là được Formosus phong làm hoàng đế, trong khi Lambert bị tuyên bố phế truất. Tuy nhiên, thật không may cho Formosus, Arnulf bị một cơn đột quỵ nào đó, sau đó ông nhanh chóng quay trở lại Đức, để Lambert giành lại quyền kiểm soát La Mã. Nếu Lambert dự định làm Formosus đau khổ vì sự hỗn xược của mình, niềm vui đó đã bị tước đoạt bởi cái chết của Formosus chỉ một tháng sau khi ông tấn phong cho Arnulf.
Hội nghị Tử thi
Kế hoạch của Lambert có thể đã bị cản trở bởi cái chết của Formosus, nhưng khao khát trả thù của y vẫn chưa tắt ngấm. Khi hành quân tới La Mã để được xác nhận lại danh hiệu hoàng đế của mình vào năm 897, ông đã thuyết phục người kế vị của Formosus là Stephen VI (896-97) đào hài cốt của Formosus và đưa thi thể của ông ta ra xét xử trong một hội nghị tôn giáo của Giáo hội được biết đến với cái tên ‘Synoda Horrenda’, hay ‘Hội nghị Tử thi.’ Mặc áo choàng giáo hoàng trước đây cho Formosus, thi thể bị kết án là không xứng đáng làm giáo hoàng, và ba ngón tay trên bàn tay phải mà ông dùng để ban phước lành cho giáo dân bị chặt đứt. Các sắc luật giáo hoàng của ông nhanh chóng bị bãi bỏ và thi thể của ông bị kéo lê trên các đường phố La Mã trước khi bị ném xuống sông Tiber. Tuy nhiên, sự phẫn nộ chưa kết thúc ở đó. Thi thể của Formosus được vớt ra từ Tiber và được chôn cất, chỉ để bị khai quật, chặt đầu và ném lại xuống sông. Ít nhất phải nói một cái kết khá là trung cổ.
Thật không may cho Stephen VI, cách đối xử khủng khiếp và không phù hợp như vậy đã khiến nhiều người ủng hộ Formosus phẫn nộ. Hơn nữa, bằng cách hủy bỏ tất cả các sắc luật của Formosus, Stephen đã phạm phải một tội lỗi nguy hiểm hơn nhiều làm những thành viên giáo sĩ đã được Formosus thăng chức đâm ra căm thù, vì giờ đây họ có nguy cơ mất cả quyền lực và thu nhập. Tám tháng sau Hội nghị Tử thi Stephen VI bị bắt, tống vào tù và bị siết cổ đến chết.
Thời trị vì của gái điếm
Không khó hiểu khi La Mã đã bị rung chuyển bởi những sự kiện này và bị chia rẽ giữa các phe phái ủng hộ và chống Formosus. Trong sáu năm tiếp theo, chứng kiến bốn giáo hoàng tồn tại ngắn ngủi và tầm thường nhậm chức, Formosus dần dần được phục hồi và các sắc luật của Hội nghị Tử thi được bãi bỏ. Tuy nhiên, không lâu sau, các cuộc tranh giành quyền lực một lần nữa lại bắt đầu hoành hành nhà Chúa, và giáo triều giờ đây bước vào thời kỳ đen tối sâu sắc. Nó chỉ bắt đầu ra khỏi nửa thế kỷ sau thông qua sự can thiệp mạnh mẽ của một hoàng đế Đức. Sử gia về giáo hội Philip Schaff viết đầy màu sắc hơn như sau:
Bản thân chế độ giáo hoàng đã mất hết tính độc lập và phẩm giá, và trở thành con mồi của sự hám lợi, bạo lực và mưu mô, một giáo đường thực sự của Quỷ Satan. Nó đã bị kéo lê lết qua vũng lầy của những tội ác đen tối nhất, và có lẽ đã chết rụi trong ô nhục tột cùng nếu Chúa không cứu nó đúng lúc. Giáo hoàng nhanh chóng tiếp nối giáo hoàng và hầu hết trong số họ đã kết thúc sự nghiệp của mình trong tình trạng bị hạ bệ, bị bỏ tù và bị giết chết.
*
Leo V (903-4) là vị giáo hoàng đầu tiên trong số nhiều giáo hoàng ở thế kỷ thứ mười bị sát hại. Ông bị giam giữ bởi một trong những giáo sĩ của mình, Christopher (ngụy giáo hoàng), người tự xưng là giáo hoàng, để rồi chính Christopher bị lật đổ 4 tháng sau đó và bị tống vào tù bởi một kẻ giả danh mới lên ngôi giáo hoàng, Sergius III (904-11).
Sergius III đã được bảo trợ bởi một phe cánh La Mã hùng mạnh do một cặp vợ chồng lãnh đạo: Theophylact, Bá tước xứ Tusculum, và vợ ông ta, Theodora. Sergius III bị nghi ngờ đã siết cổ cả Leo V và Christopher trong tù vì sợ có thể bị trả thù. Y nhanh chóng tái khẳng định việc lên án Formosus và tuyên bố mọi sắc luật của ông đều vô hiệu. Điều này gây ra sự náo động và Sergius III chỉ được cứu khỏi sự trả thù nhờ sự can thiệp kịp thời của Theophylact. Để tỏ lòng biết ơn, Sergius III đã bổ nhiệm Theophylact làm người giữ ngân khố và chỉ huy quân đội của Giáo hoàng. Sergius III cũng có mối quan hệ thân thiện quá mức với Marozia, con gái của Theophylact, với cô y mang tiếng là đã có một cậu con trai khi cô còn là một thiếu nữ mới lớn. Một liên minh như vậy chắc chắn sẽ giúp Theophylact tăng cường quyền kiểm soát của mình đối với La Mã. Sự tháp tùng liên tục của các phụ nữ có đạo đức đáng ngờ này đối với Ngai tòa Thánh Peter đã khiến một số nhà thần học người Đức theo đạo Tin lành thế kỷ 19 gọi nửa thế kỷ sau là ‘thời trị vì của gái điếm’. Một cái tên phóng khoáng hơn, mặc dù cũng không kém phần thích hợp, là ‘Saeculum Obscurum’ , ‘Thời kỳ Đen tối’.
Khi Sergius qua đời vào năm 911,Theophylact và Theodora xoay sở cài đặt ba vị giáo hoàng liên tiếp Anastasius III (911-13), Landus (913-4) và John X (914-28).
John X được cho là một trong các tình nhân của Theodora hóa ra là một giáo hoàng có năng lực. Bản thân ông ta đã lãnh đạo thành công chiến dịch đẩy lùi quân Ả Rập Saracen ra khỏi Ý – nhưng cuối cùng ông cũng gặp số phận tương tự như Icarus [thần thoại Hy Lạp, người lắp đôi cánh khung gổ, gắn lông vũ vào khung bằng sáp, nhưng bay lên quá cao gần mặt trời, hơi nóng làm chảy sáp khiến lông vũ rơi rụng, chàng rơi xuống biển và bỏ mình: ND] ông cũng đã bay quá gần mặt trời. Sau khi cả Theophylact và Theodora đều chết vào đầu những năm 920, John X gây thù chuốc oán với Marozia, một con người tỏ ra còn tàn nhẫn hơn cả bố mẹ mình. Sau cái chết của họ, John X đã ngang nhiên kết liên minh với Hugo của xứ Provence, vua của Ý lúc bấy giờ, thế là bà ta phế truất, bỏ tù và cuối cùng làm chết ngạt ông ta trong một kết cục ô nhục khác dành cho một Giám mục của La Mã.
Marozia kết hôn ba lần. Khi người chồng đầu tiên của bà, Alberic I, Công tước xứ Spoleto, qua đời, bà bước vào một cuộc hôn nhân thuận lợi với Guido III, Hầu tước xứ Tuscany. Kế hoạch tổng thể của Marozia là đưa con trai riêng của bà lên ngôi vị giáo hoàng, và sau đó y sẽ tấn phong bà làm nữ hoàng, sau đó quyền lực bà sẽ được trọn vẹn. Tuy nhiên, việc bổ nhiệm một thiếu niên làm giáo hoàng rõ ràng vượt quá quyền hạn đáng kể của bà ta. Để chờ thời cơ, bà đã sắp xếp cho hai người trở thành giáo hoàng ngay cả trước khi John X qua đời – đóng vai tạm thời đợi thay thế. Bất tiện làm sao khi bà trở thành góa bụa vào năm 929, vài năm trước khi con trai bà đủ tuổi được tấn phong làm giáo hoàng, bà đề xuất liên minh với Hugo, vua nước Ý, rồi mồi chài được ông ta kết hôn với mình vào năm 932. Rõ ràng bà có kỹ năng khiến bọn đàn ông có quyền lực mê đắm..
Vào tháng 3 năm trước, Marozia cuối cùng đã thành công trong việc đưa con trai riêng của mình, John XI (931-5), người được cho là con của Giáo hoàng Sergius III, lên làm Giám mục La Mã (tức Giáo hoàng). Việc đăng quang làm nữ hoàng của bà dường như là điều không thể tránh khỏi. Nhưng bất ngờ lần này, kế hoạch của bà không diễn ra suôn sẻ. Thì ra đứa con trai khác của bà với Alberic I là Alberic II, không mấy tình cảm với bà. Sau khi bị Hugo coi thường, Alberic II đã tố cáo cuộc hôn nhân của họ và thuyết phục đám đông La Mã – vốn luôn không hài lòng với ý tưởng bị một kẻ cai trị nước ngoài cai trị – đứng lên chống lại họ. Bất chấp sức mạnh của mình, Hugo không thể ngăn chặn họ và bỏ chạy.khỏi thành phố. Theo lệnh của Alberic II, Marozia bị bỏ tù và Giáo hoàng John XI, anh trai cùng cha khác mẹ của Alberic, bị quản thúc tại gia và qua đời ba năm sau đó. Alberic II cai trị La Mã trong 22 năm tiếp theo, trong thời gian đó ông bổ nhiệm bốn người kế vị làm Giám mục La Mã. Tuy nhiên, trong khi cho phép họ hoàn thành các nghĩa vụ tâm linh của mình, ông đã khôn ngoan không giao cho họ bất kỳ quyền lực thế tục nào.
Tuy nhiên, trước khi qua đời vào năm 954, ông đã bắt các quý tộc thề sẽ ủng hộ quyền kế vị của con trai ông, Octavian, không chỉ với tư cách là Ông Hoàng La Mã mà còn với tư cách là giám mục của thành phố sau cái chết của đương kim giáo hoàng.
Thật bi thảm, sau một thời gian gián đoạn quá ngắn ngủi, sức mạnh tinh thần và thế tục lại một lần nữa được kết hợp. Người cuối cùng được Alberic bổ nhiệm làm giáo hoàng, Agapetus II (946-55), chắc hẳn đã qua đời sớm hơn dự kiến rất nhiều vì Octavian được bổ nhiệm làm giáo hoàng ở tuổi mười tám, đổi tên thành John XII (955-64), vị giáo hoàng thứ hai thay đổi tên của mình. Sau đó, y tiếp tục làm điều mà hầu hết thanh thiếu niên có quyền lực vô hạn sẽ làm ở vị trí đó: y hoàn toàn đi chệch hướng và rơi vào tình trạng sa đọa. Các băng đảng vũ trang của y lang thang khắp đường phố và thói ham muốn tình dục vô độ của y đã dẫn đến cáo buộc rằng y đã biến Lateran thành một nhà chứa. Sử gia Gibbon kể rằng có rất nhiều câu chuyện về việc y hãm hiếp các trinh nữ và góa phụ đến nỗi những phụ nữ hành hương rất ngại đến thăm lăng mộ Thánh Peter. Lối sống phóng túng của y đã khiến người dân La Mã xa lánh đến mức khi lãnh thổ của Giáo hoàng bị đe dọa bởi vua Ý lúc bấy giờ là Berengar II, John XII nhận ra rằng y không thể trông cậy vào sự ủng hộ của La Mã.
Như chúng ta đã thấy, lãnh thổ Carolingian đã được chia thành Tây, Trung và Đông Francia vào năm 843. John XII đã quay sang Đông Francia khi Berengar II đe dọa Lãnh địa giáo hoàng. Đông Francia được thống trị bởi một số ít công quốc, bao gồm cả Công quốc Saxony ở phía bắc, nơi đã nhận được vương quyền Đông Francia được bầu chọn vào đầu thế kỷ thứ mười. Chẳng bao lâu sau, người Saxon là cường quốc mạnh nhất ở châu Âu. Otto I của Công quốc Saxon đã kế vị cha mình, Henry, trở thành vị vua thứ hai của Đức, và bây giờ John XII đã gửi cho ông một lời đề nghị hấp dẫn; để đổi lấy sự trợ giúp, John XII sẽ trao vương miện Hoàng đế La Mã cho ông.
Năm 961 Otto I nghe theo lời kêu gọi của giáo hoàng, xâm lược Ý, bắt Berengar và đày ông sang Đức, nơi ông qua đời vài năm sau đó. John XII đã giữ lời hứa, tấn phòng Otto I làm Hoàng đế La Mã vào năm 962. Từ đó trở đi, Đế chế La Mã mãi mãi gắn liền với vương miện của Đức và các hoàng đế Đức cũng nghiễm nhiên kế thừa ngai vàng của Ý. Otto đã đáp lại bằng một sắc lệnh nổi tiếng Đặc quyền Ottonianum, trong đó ông đảm bảo nền độc lập của các Nhà nước Giáo hoàng, xác nhận và mở rộng quyền lực thế tục của giáo hoàng và cam kết bảo vệ các quyền và tài sản của Giáo hội.
Nói chung là đôi bên cùng có lợi như người ta có thể tưởng tượng. Nhưng Otto I đã không tính đến sự phản bội của John XII, vốn sợ hãi trước quyền lực ngày càng tăng của Otto I, giờ đây đã gửi sứ giả một cách trắng trợn đến Adalbert, con trai của Berengar II bị phế truất, để trao cho ông ta ngai vàng. Trong một tình huống xui xẻo đặc biệt, sứ giả của John XII đã bị quân trung thành với Otto I chặn lại và sự phản bội bị vạch trần. Vào năm 963 Otto I đã triệu tập một hội nghị tôn giáo, sau một cuộc thảo luận ngắn, đã kết luận Giáo hoàng John XII phạm tội giết người, ngoại tình, loạn luân, khai man, báng bổ và cầu khẩn các vị thần ngoại giáo. Một danh sách ấn tượng các tội ác của giáo hoàng.
Với tính kiêu ngạo đặc trưng, John XII từ chối xuất hiện trước hội nghị và đe dọa rút phép thông công tất cả những người có mặt nếu họ dám phế truất mình và bầu một giáo hoàng khác. Tuy nhiên, John XII thực sự đã bị phế truất, và người được Otto I đề cử, Leo VIII (964-65), được bầu thay thế ông.
Nhưng câu chuyện chưa dừng tại đó; suy cho cũng John XII là một hậu duệ của Marozia. Ngay sau khi hoàng đế rời thành phố để đối phó với Adalbert, John XII quay trở lại, phế truất người được Otto I đề cử và thực hiện một cuộc trả thù khủng khiếp đối với tất cả những ai đã bỏ phiếu chống lại y. John XII chỉ thoát khỏi sự trừng phạt của Otto I nhờ cái chết của chính y vào năm 964, được cho là đã bị sát hại bởi người chồng bị cắm sừng bắt quả tang tội ngoại tình.
Sau cái chết của John XII, Otto I đã nhận được lời hứa từ giới quý tộc là không bầu hoặc tấn phong cho giáo hoàng nếu không có sự đồng ý của hoàng đế, vì Giáo hội đã liên tục thể hiện sự phán xét đáng tiếc trong việc lựa chọn người lãnh đạo của mình và rằng La Mã đã nhiều lần hành động đi ngược lại lợi ích tốt nhất của chính mình. Điều này một lần nữa được chứng minh khi người La Mã cố gắng thay thế Leo VIII bằng cách bầu một phó tế cai trị một tháng vào năm 964 với tên gọi Benedict V. Tức giận, Otto I lại bao vây thành phố, chỉ kết thúc cuộc bao vây khi người La Mã giao nộp kẻ giả danh. đến chỗ ông ấy.
Leo VIII qua đời ngay sau đó, và một người khác được Otto đề cử – John XIII (965-72) – thay thế ông, nhưng bị phế truất và lưu đày trong vòng vài tháng sau khi nhậm chức. Người La Mã, giống như bất kỳ người Ý có lòng tự trọng nào, không thích bị người khác sai khiến, nhất là một người Đức. Khoảng trống quyền lực sau đó cho phép một gia đình La Mã khác nắm quyền: một nhánh trẻ của Theophylacts hùng mạnh, đứng đầu là cháu trai của Marozia, Crescentius. Hoàng đế một lần nữa được kêu gọi lập lại trật tự ở La Mã, và John XIII được phục vị vào năm sau. Để tỏ lòng biết ơn, ông đã phong vương miện cho con trai của Otto, Otto II, làm đồng hoàng đế vào ngày Giáng sinh, năm 967.
Một lần nữa, trật tự dường như đã được lập lại. Nhưng Crescentius và gia đình ông vẫn khao khát quyền lực và cơ hội để nắm bắt nó không còn lâu nữa. Người kế vị John XIII, Benedict VI (973-974), một ứng viên hoàng gia khác, chỉ cai trị được một năm rưỡi thì người bảo trợ của ông, Otto I, qua đời. Otto II nhanh chóng bị phân tâm bởi cuộc tranh giành quyền lực ở Đức, và Crescentii đã chọn thời điểm này để hành động. Họ phế truất và bỏ tù Benedict VI, thay thế ông bằng một người phe họ lấy tên là Boniface VII.
Mặc dù chỉ được Giáo hội chính thức công nhận là một giáo hoàng đối lập, Boniface VII chắc chắn được xếp hạng là một trong những kẻ tệ nhất. Danh sách tội ác của ông ta bao gồm ra lệnh giết chết bằng cách bóp cổ Benedict VI – vị giáo hoàng hợp pháp – vào năm 974. Khi tin tức được công khai, Boniface VII buộc phải chạy trốn khỏi La Mã. Tuy nhiên, ông không có ý định chấp nhận một cuộc sống ô nhục và ông sẽ cố gắng giành lại ngôi vị của mình hai lần: thất bại vào năm 980 và thành công lớn hơn vào năm 984 (xem bên dưới).
Người kế vị Benedict VI, Benedict VII (974-83), là một ứng cử viên thỏa hiệp và xoay sở nắm quyền trong chín năm chỉ vì ông có được sự ủng hộ của hoàng đế, cũng như người kế vị ông là John XIV (983-84), người mà Otto II đã trực tiếp bổ nhiệm. Nhưng khi Otto II qua đời vào năm 983, con trai của ông, Otto III, mới ba tuổi và John XIV rất dễ bị tổn thương. Boniface VII trở lại La Mã vào năm 984, bắt John XIV bỏ tù và chết đói (vị giáo hoàng thứ hai ông sát hại), và cai trị với tư cách là Giám mục La Mã (nỗ lực thứ ba của ông) với sự hậu thuẫn của Crescentius. Có thể thấy mức độ chán ghét mà ông gây ra cho người La Mã về cách họ phản ứng trước cái chết của Boniface VII vào năm 985: thi thể của ông bị kéo lê trên các con đường của thành phố.
Giáo hoàng tiếp theo, John XV (985-96), một ứng cử viên khác của Crescentii, cũng có dịp kêu gọi hoàng đế bảo vệ nhưng đã qua đời trước khi có sự trợ giúp. Otto III hoặc có lẽ là cố vấn của ông vì ông mới 16 tuổi – đã nhân cơ hội này để tái lập quyền kiểm soát của đế quốc trong thành phố bằng cách chọn người anh họ 24 tuổi của mình kế vị John XV làm Gregory V (996-99). Một lần nữa, người La Mã yêu nước quyết liệt không có ý định để người Đức cai trị và đuổi ông khỏi thành phố ngay sau khi Otto rời đi.
Crescentii, người đã cố gắng bám lấy quyền lực, đã nhanh chóng phong cha đỡ đầu của Otto III làm John XVI (giáo hoàng đối lập), nghĩ rằng việc bổ nhiệm này sẽ được hoàng đế chấp nhận vì người đàn ông này thậm chí đã hành động thay mặt hoàng đế trong những dịp trước đó. Trong hoàn cảnh bình thường, điều này có thể có hiệu quả, nhưng người La Mã đã đuổi em họ của hoàng đế ra khỏi La Mã, và vì điều đó họ cần phải bị trừng phạt. Năm sau tiến vào Ý, Otto III bắt được Crescentius II và chặt đầu ông ta rồi treo lên cho mọi người cùng xem. John XVI, một con tốt đơn thuần của Crescentii đã bị cắt xẻo một cách khủng khiếp, đặt ngược lên lưng một con lừa và diễu hành quanh thành phố trước khi bị ném vào ngục tối, và chết ở đó. Người La Mã đã không quên thông điệp: ai gây rối với hoàng đế sẽ phải đối mặt với hậu quả.
Vì vậy, cuộc đấu tranh giành quyền thống trị La Mã và các Nhà nước Giáo hoàng vào thế kỷ thứ 10 đã đưa các gia đình La Mã hùng mạnh chống lại quyền lực của các vị vua Đức, và quyền bổ nhiệm và bãi nhiệm các giáo hoàng ngày càng trở nên quan trọng. bên trong quá trình này, các giáo hoàng vừa trở thành nạn nhân vừa là thủ phạm của vụ giết người.
Ngày nay thật khó hiểu làm thế nào mà những người có bàn tay vấy máu lại có thể đòi quyền cai trị Giáo hội và thậm chí cả thế giới. Việc điểm danh các giáo hoàng giống như một loạt phim hình sự truyền hình The Sopranos hơn [phim truyền hình Mỹ nhiều tập về băng đảng tội phạm do gia đình Soprano cai tri: ND]. Ít nhất bảy giáo hoàng vào thế kỷ thứ 10 đã bị sát hại. Stephen VI bị bóp cổ, Leo V bị người kế vị sát hại, John X bị làm ngạt thở, Stephen VIII bị cắt xẻo và chết vì vết thương, John XIV chết đói, Benedict VI bị bóp cổ và John XVI (ngụy giáo hoàng) bị cắt xẻo và tống vào tù rồi chết. Làm giáo hoàng đúng là một công việc nguy hiểm.