
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 5 : Thế kỷ Arian
“Sự chắc chắn về mặt đạo đức luôn là dấu hiệu của sự thấp kém về văn hóa. Con người càng thiếu văn minh thì càng chắc chắn rằng mình biết chính xác điều gì đúng và điều gì sai…Người thực sự văn minh luôn hoài nghi và bao dung, trong lĩnh vực này cũng như trong tất cả các lĩnh vực khác.”
HL Mencken
Giáo thuyết Arian có thể đã lùi một hoặc hai bước tại Công đồng Nicaea nhưng nó đã phục hồi rất nhanh ở phương Đông, nơi nó hồi sinh mạnh mẽ. Trên thực tế, ‘trong vòng mười năm kể từ Công đồng Nicaea, tất cả những người ủng hộ hàng đầu Kinh Tín Kính Nicaea đã bị phế truất, bị trục xuất khỏi tòa giám mục của họ, hoặc nói cách khác là bị thất sủng.’ Bản thân Hoàng đế Constantine I đã được rửa tội bởi một giám mục phái Arian, Eusebius của Nicomedia. Một lần nữa, điều trớ trêu lại không kết thúc đối với cộng đồng Cơ đốc giáo: một vị hoàng đế đã trục xuất Arius và cấm những người theo ông ta lại được một giám mục Arian làm lễ rửa tội. Vào năm 359, do tín đồ Cơ đốc giáo Arian chiếm đa số nên Thánh JeLa Mã đã viết: ‘Toàn bộ thế giới rên rỉ và ngạc nhiên khi thấy mình là Arian.’
Thực là kinh ngạc. Làm thế nào điều này lại xảy ra khi tất cả trừ hai giám mục đều đã ký vào bản tuyên xưng đức tin xác nhận một cách cụ thể thần tính của Chúa Kitô? Và Giám mục La Mã đã đóng vai trò gì trong câu chuyện đang diễn ra?
Hóa ra ngày càng nhiều giám mục đã tham dự Công đồng Nicaea nhận thấy mình đã quá vội vàng khẳng định Tín điều Nicaea, và gần như ngay lập tức phát động một chiến dịch phục hồi Arius. Mối quan tâm cụ thể của họ là với từ ‘đồng bản chất.’ Các giám mục này bác bỏ Tín điều Niaea và một lần nữa trở nên đồng cảm với quan điểm của Arian. Họ nhanh chóng thuyết phục Constantine rằng xét cho cùng, quan điểm của Arius nằm trong phạm vi chính thống có thể chấp nhận được, và thuyết phục ông triệu hồi Arius khỏi nơi lưu đày và ân xá cho các nhà lãnh đạo pháii Arian.
Hoàng đế Constantine I sau đó ra lệnh cho Giám mục của Alexandria phục hồi Arius, nhưng ông từ chối và chết mà không làm theo. Người kế vị ông, Athanasius, vốn đã trở thành người hậu thuẫn trung thành nhất của Cơ đốc giáo Nicaea cho đến khi qua đời vào năm 373, cũng từ chối thi hành mệnh lệnh, và do đó bị đày đến Gaul. Đây là một diễn biến rất đáng lo ngại đối với Giáo hội: một vị hoàng đế chưa được rửa tội với hiểu biết hạn chế về thần học Cơ đốc giáo giờ đây đang ra lệnh cho các giám mục làm theo ý mình và trục xuất họ khi họ không tuân thủ mong muốn của ông. Nó đặt tiền lệ cho mối quan hệ trong tương lai giữa các hoàng đế và Giáo hội rộng lớn hơn sẽ gây ra những hậu quả lớn lao.
Không dễ dàng bỏ cuộc, Constantine triệu Arius đến Constantinople vào năm 335 và ra lệnh cho giám mục của thành phố nhận lại ông vào hội thánh, nhưng Arius đã qua đời một ngày trước khi việc này diễn ra. Những người Cơ đốc phái Nicaea đương nhiên tin rằng cái chết của Arius là một trường hợp bị Chúa phán xét hơn là do xui xẻo. Cùng năm đó, một hội đồng do Giám mục Arian của Antioch triệu tập đã xác nhận tính chính thống của Arius và bỏ phiếu phế truất và rút phép thông công Athanasius, người mà hội đồng cáo buộc có hành vi bạo lực và vô đạo đức. Constantine. ra lệnh cho Athanasius khởi hành đến Trier (thuộc Tây Đức ngày nay) trong khi đợi ông điều tra thêm, nhưng Constantine chết vào năm 337 trước khi ông có thể đưa ra quyết định, và Athanasius trở về Alexandria từ nơi lưu đày theo lệnh ân xá khắp nước sau cái chết của hoàng đế.
Ba người con trai của Hoàng đế Constantine I – với những cái tên giàu trí tưởng tượng Constantine II (337-40), Constans (337-50) và Constantius II (337-61) – những người kế thừa đế chế của ông, không chia sẻ cùng niềm tin tôn giáo. Constantine II, người đã tiếp quản Tây Ban Nha, Gaul và Anh, tương đối khoan dung với mọi tôn giáo, nhưng qua đời vào năm 340 khi hành quân chống lại em trai Constans. Điều này khiến Constans – một Cơ đốc nhân phái Nicaea – cai trị Ý, Châu Phi và vùng đất của người trai đã chết; và Constantius II – một người Arian thuần thành – cai trị Hy Lạp, Constantinople và toàn bộ đế quốc phương Đông. Chính đức tin của các vị hoàng đế trị vì đã khẳng định niềm tin Arian hay Niceaea niềm tin nào nổi trội hơn vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào trong thời kỳ này và một vị hoàng đế có thể khiến cuộc sống của bất kỳ ai không đồng ý với quan điểm của mình trở nên rất khó chịu. Do đó, những người đạo Cơ đốc Nicaea trông cậy vào hoàng đế phương Tây, Constans, để thúc đẩy chính nghĩa và bảo vệ lợi ích của họ, trong khi những người đạo Cơ đốc Arian nhìn về hoàng đế phía Đông Constantius II.
Khi tòa giám mục Constantinople bị bỏ trống vào năm 337, Constantius II đảm bảo việc bổ nhiệm một giám mục phái Arian. Phái Arian hiện nắm giữ hai thành phố lớn là Đông Antioch và Constantinople nhưng Alexandria, ở Ai Cập, vẫn lảng tránh họ. Để giành được thành phố Alexandria cho phái Arian, họ đã lên án Athanasius, người đã quay trở lại đó sau khi được ân xá, buộc ông ta phải tìm nơi ẩn náu ở phía Tây của đế chế. Có nơi nào khác để tìm kiếm sự ủng hộ ngoài tòa giám mục quan trọng nhất và uy tín nhất ở phương – La Mã?
Điều này đã mang lại cho Giám mục La Mã, cho đến nay chỉ là một vai vế ngang hàng, cơ hội để thể hiện cơ bắp của mình. Sau khi quyết định ủng hộ phe chống Arian, Giáo hoàng Julius I (337-52) đã chủ trì một hội nghị nhằm minh oan cho Athanasius về những cáo buộc chống lại ông ta. Sau đó, ông đã viết rất dài cho người Arian, bác bỏ hành động của họ và khiển trách họ vì đã không tuân thủ các quy định của Công đồng Nicaea.
Phản ứng của người Arian là một cú sốc. Người phương Đông coi mình là cái nôi của Cơ đốc giáo và sẽ không chấp nhận việc bị lên lớp bởi một người mới nổi ở Tây Âu. Năm sau, họ tái khẳng định việc lên án của mình đối với Athanasius và áp dụng không chỉ một mà còn thêm bốn tín điều của riêng họ. Điều đó không chỉ dạy cho những người La Mã phiền toái một bài học mà còn nhắc nhở Giám mục La Mã biết vị trí thấp kém của mình.
La Mã là Tòa phúc thẩm
Tất nhiên, sự bất hòa như vậy giữa những người Cơ đốc là không tốt cho sự thống nhất của đế quốc, và do đó, các hoàng đế Constans và Constantius II đã tự mình đứng ra triệu tập một hội đồng chung nơi cả hai phe phải gặp nhau để giải quyết vấn đề. Sự kiện này diễn ra ở Sardica (Sofia, Bulgaria ngày nay) vào năm 343. Bị sốc khi phát hiện ra Athanasius và các giám mục bị phế truất khác cũng tham dự, phe Arian đã dời địa điểm cách đó khoảng 100 dặm để tổ chức hội đồng riêng của họ. Tại đây, họ đã nhanh chóng rút phép thông công Julius I và các giám mục phương Tây khác, những người công nhận các vị đồng cấp phương Đông đã bị họ phế truất. Hiệu quả của hành động này phần nào bị giảm bớt do thực tế là đa số giám mục phương Tây vẫn tham gia hội đồng và xác nhận các quyết định của công đồng La Mã trước đó. Hơn nữa, đa số này sau đó ra quyết định rằng từ nay về sau, bất kỳ giám mục nào bị phế truất đều có quyền kháng cáo vụ việc của mình trước Giám mục La Mã. La Mã sẽ đóng vai trò là tòa phúc thẩm cho Giáo hội rộng lớn hơn và thậm chí có thể yêu cầu xét xử lại nếu thấy cần thiết. Trên thực tế, Giáo hội phương Tây đã thừa nhận quyền tài phán hơn hẳn của mình đối với các giáo hội khác, một điều mà các giáo hoàng tương lai sẽ không chậm trễ chỉ ra khi bị thách thức.
Trong khi Constans còn sống, những người Cơ đốc Niceaea được hưởng một số hỗ trợ. Trên thực tế, Constans, giờ là người kiểm soát lãnh thổ rộng lớn hơn trong hai vị hoàng đế, đã gây áp lực buộc Constantius II phải cho phép Athanasius và các giám mục lưu vong khác quay trở lại nơi họ ở trước đây ở phương Đông. Nhưng một lần nữa các sự kiện lại xảy đến với họ: Constans bị một trong những tướng lĩnh của ông ta giết chết vào năm 350, đẩy đế quốc vào một cuộc nội chiến khác. Khi nó kết thúc, kẻ tiếm quyền đã chết và Constantius II, một người Arian, trở thành người cai trị duy nhất của Đế chế La Mã.
Giáo hoàng Liberius
Quyết tâm tạo dựng sự đoàn kết tôn giáo theo phái Arian, Constantius II ngay lập tức yêu cầu tất cả các giám mục từ bỏ sự ủng hộ của họ đối với Athanasius, một người phản đối mạnh mẽ giáo thuyết Arian. Khi người kế vị của Giám mục La Mã Julius I, Liberius (352-66), từ chối, Constantius vô cùng tức giận đến mức đày ông ta đến Thrace (thuộc Hy Lạp hiện đại). Sau đó, ông bổ nhiệm một tổng phó tế dễ uốn nắn hơn tên là Felix II (355-65) làm Giám mục La Mã, lần đầu tiên một giám mục La Mã được bổ nhiệm theo sắc lệnh của hoàng gia.
Sau hai năm sống lưu vong, Liberius dịu xuống, chịu lên án Athanasius và đồng ý ký tên vào một tín điều tuyên bố rằng Chúa Con ‘giống’ Chúa Cha, không phải ‘cùng bản chất’. Sau khi phục tùng hoàng đế, ông được phép quay trở lại La Mã, nơi ông được lệnh làm giám mục chung với Felix, nhưng người La Mã bác bỏ ý tưởng có hai giám mục với khẩu hiệu ‘Một Chúa Trời, một Chúa Kitô, một Giám mục!’ Felix II chưa bao giờ được yêu thích rộng rãi và khi phải đối mặt với sự ưu ái rõ ràng như vậy, ông không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút lui về vùng ngoại ô, mặc dù ông chưa bao giờ từ bỏ quyền làm giám mục. Điều này có nghĩa là cho đến khi ông qua đời vào năm 365, La Mã vẫn có hai người đòi hỏi ngôi vị giáo hoàng, một việc sẽ lặp lại với tần suất đáng lo ngại trong 1.000 năm tới. Felix II hiện giờ được nhìn nhận là giáo hoàng đối lập (hay ngụy giáo hoàng.)
Đến năm 360, do hoàng đế có thiện cảm với phái Arian, mọi cơ quan quan trọng trong Đế chế La Mã đều được lãnh đạo bởi một giám mục thân thiện với Arian hoặc phái Arian. Ngay cả Giám mục La Mã cũng đã nhượng bộ và ký vào bản tuyên xưng đức tin của người Arian. Có vẻ như tín điều được ban hành tại Nicaea vào năm 325 cuối cùng đã bị hủy bỏ.
Khi Constantius II qua đời, có một khoảng thời gian ngắn dưới thời Hoàng đế Julian, anh em họ của ông, người trị vì một thời gian ngắn với tư cách là hoàng đế duy nhất từ năm 361 đến năm 363 và khiến cuộc sống của tất cả những tín đồ Cơ đốc trở nên rất khó chịu, dù theo giáo thuyết Arian hay Nicaea. Được đào tạo ở Hy Lạp, ông đã từ bỏ đức tin của mình và là hoàng đế La Mã cuối cùng cố gắng khôi phục ngoại giáo (do đó ông có biệt danh là ‘Kẻ bội giáo’). Chiến thuật của ông không phải là trục xuất bất kỳ bên tranh cãi nào mà tập hợp tất cả lại với nhau và để họ tranh luận với hy vọng rằng họ sẽ tiêu diệt lẫn nhau. May mắn thay cho họ, ông ta chết chỉ sau 18 tháng, rõ ràng là một dấu hiệu cho thấy ông ta phải chịu đau khổ vì Chúa bất mãn với với quan điểm ngoại đạo của ông – nên ông không có nhiều thời gian để thực hiện kế hoạch của mình. Những lời hấp hối của ông được cho là ‘Vicisti, Galilaee’ (Ngươi đã chinh phục, người Galilê). Người kế vị ông, Jovian (363-64) đã tìm cách tái lập sự khoan dung, nhưng chỉ để cho người kế vị ông, Valens (364-78) – đồng cai trị với người em Valentinian I (364-75) lại trục xuất các giám mục Nicaea mà Julian đã kêu gọi. Cơ đốc nhân có thể được tha thứ khi luôn ở trong tình trạng lộn xộn không dứt.
Bạo lực bầu cử
Liberius và Felix II, đồng giáo hoàng của La Mã, đã chết cách nhau trong vòng một năm vào khoảng 365/6 nhưng điều này không chấm dứt sự chia rẽ. Thay vì đồng ý về một ứng cử viên duy nhất, những người ủng hộ tương ứng của họ đề xuất những người kế vị dùng đến bạo lực để đảm bảo mình giành được ngôi vị giáo hoàng. Rõ ràng đến giai đoạn này nó là một ngôi vị đáng để chiến đấu.
Phe ủng hộ Liberius công nhận phó tế Ursinus của ông là người kế vị, trong khi phe ủng hộ Felix tuyên bố một phó tế khác, Damasus. Nhóm ủng hộ Damasus đã náo loạn khắp thành phố suốt ba ngày khiến hơn 130 người thiệt mạng. Phe ủng hộ Ursinus rõ ràng là bị đe dọa, khi Damasus cuối cùng đã giành được ghế và giữ chức giáo hoàng trong 18 năm với tư cách là Damasus I ( (366-84). Tuy nhiên, như một tác giả gợi ý, bất chấp chiến thắng của ông, ‘có quá nhiều máu trên tay và mùi hôi dai dẳng của tai tiếng.’
Chính Damasus I, sau một thời gian dài im lặng về chủ đề này, đã đặt ra câu hỏi về tính ưu việt của La Mã đối với tất cả các tòa giám mục phương Tây. Sau khi giành được vị trí của mình trong một cuộc tranh giành quyền lực bạo lực, ông ta cần một cách để củng cố quyền lực đạo đức của mình. Rõ ràng một cách để làm điều này là khiến mọi người thừa nhận quyền ưu tiên của La Mã đối với các nhà thờ khác. Giống như những người tiền nhiệm, Damasus I đã trực tiếp viện đến văn bản của Peter trong Matthew 16:18-19. Nhưng ông còn tiến thêm một bước nữa và bắt đầu gọi các giám mục đồng nghiệp của mình là ‘con trai’ hơn là anh em. Như một tác giả đã nói, ‘từ nay trở đi, giọng điệu trong thư từ của giáo hoàng là giọng điệu ra lệnh, quyền lực tối cao, không bị che mờ bởi sự do dự hoặc bóng tối của sự thiếu tự tin.’
Ở một khía cạnh nào đó, Damasus I không còn lựa chọn nào khác ngoài việc khẳng định quyền lực của La Mã. Việc Diocletian chuyển thủ đô của đế chế phương Tây sang Milano vào năm 286 và việc Constantine chuyển giao chính quyền cho Constantinople vào năm 330 đã khiến người La Mã cách biệt triều đình, nơi mà quyền lực của Đế chế La Mã ban đầu đã nổi lên. Trong một thời gian, có vẻ như La Mã sẽ đóng vai trò phụ thuộc đối với cả Milan và Constantinople, và đó là điều mà tòa giám mục La Mã thấy chưa sẵn sàng để xem xét. Chính sự tự phụ của những thành phố này đã ‘thúc đẩy La Mã, bằng sức mạnh bất ngờ, đi theo con đường dẫn tới vị trí thống trị.’
Damasus I do đó đã thỉnh cầu hoàng đế phương Tây Gratian (367-83) con trai của Valentinian và là người ủng hộ chính thống Nicaea – ban hành sắc lệnh trao cho Giám mục La Mã quyền tài phán cuối cùng đối với các công việc của Giáo hội ở Ý. Câu trả lời của Gratian chắc hẳn đã khiến Damasus hài lòng: ông được trao quyền xét xử các vấn đề của Giáo hội không chỉ ở Ý mà còn trên toàn bộ đế quốc phương Tây, qua đó xác nhận một cách hiệu quả quan điểm cao quý của ông về giáo hoàng.
Sắc lệnh Thessalonica (380)
Khi con lắc dao động ngược lại theo hướng có lợi cho quyền lực của La Mã, nó cũng quay lại ủng hộ những tín đồ Cơ đốc Nicaea. Hai sự kiện diễn ra tiếp theo tiếp tay cho họ: thất bại thảm hại của quân đội La Mã vào năm 378 trước đám man rợ tại Adrianopolis (nay là Edirne ở Thổ Nhĩ Kỳ) và sự hồi phục sau bệnh tật của một vị hoàng đế nhờ sự can thiệp của một giám mục Nicaea.
Khi có tin hoàng đế, Valens – một Cơ đốc nhân Arian và là chú của Gratian – đã tử trận tại Adrianopolis, những người Cơ đốc Nicaea đã nhanh chóng chỉ ra rằng thất bại là dấu hiệu của Chúa không hài lòng với niềm tin dị giáo của ông, cũng như chiến thắng của Constantine tại Cầu Milvian là một dấu hiệu cho thấy sự ưu ái của Chúa. Mức độ nghiêm trọng của thảm họa khiến ngày càng nhiều người bắt đầu đặt câu hỏi về giáo thuyết Arian.
Cơ đốc giáo Nicaea sau đó đã có được một người hậu thuẫn mạnh mẽ khi Hoàng đế Theodosius, người được Gratian bổ nhiệm làm hoàng đế phương Đông ngay sau cái chết của Valens, đã khỏi bệnh một cách thần kỳ sau khi được một giám mục Nicaea làm lễ rửa tội. Theodosius có tầm ảnh hưởng và nhiệt tình ủng hộ đến mức ông đã thuyết phục được các hoàng đế chung của Đế quốc La Mã ban hành chỉ dụ vào ngày 27 tháng 2 năm 380, rằng mọi công dân của đế quốc phải tuân theo ‘tôn giáo đã được Sứ đồ thánh Peter truyền cho người La Mã vì nó đã được truyền thống trung thành bảo tồn và hiện được Giáo hoàng Damasus tuyên xưng.’ Kể từ bây giờ, Cơ đốc giáo Nicaea sẽ trở thành quốc giáo, và tất cả những tín đồ Cơ đốc khác sẽ bị coi là dị giáo, phạm tội phản quốc và bị trừng phạt bằng các hình phạt dân sự.
Một lần nữa, phiên bản Cơ đốc giáo này được cưỡng chế, không phải bằng lập luận hợp lý giữa những tín đồ Cơ đốc, mà theo sắc lệnh của hoàng gia. Thật đáng để sao chép toàn bộ văn bản này, vì nó rất cơ bản đối với lịch sử này:
Chúng tôi mong muốn rằng tất cả các quốc gia khác nhau chịu sự điều độ và khoan dung của chúng tôi, sẽ tiếp tục trong việc tuyên xưng tôn giáo đã được Sứ đồ thánh Peter truyền cho người La Mã, vì nó đã được bảo tồn bởi truyền thống trung thành; và hiện nay được tuyên xưng bởi Giáo Hoàng Damasus và Peter, Giám Mục Địa phận Alexandria, một con người thánh thiện tông đồ. Theo lời dạy của các Tông đồ và giáo lý của Phúc âm, chúng ta hãy tin vào một vị thần duy nhất là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, uy nghi ngang nhau và trong Ba Ngôi Thánh. Chúng tôi ủy quyền cho những người tuân theo luật này được xưng là Kitô hữu Thiên Chúa giáo; nhưng đối với những người khác, vì theo đánh giá của chúng tôi, họ là những kẻ điên rồ [hoặc ‘mất trí và điên khùng’ theo một bản dịch khác] nên chúng tôi đồng ý họ sẽ bị gán cho cái tên ô nhục là những kẻ dị giáo, và sẽ không được tự tiện đặt cho các nơi hội họp của mình cái tên nhà thờ. Trước hết, họ sẽ phải chịu sự trừng phạt của sự lên án thần thánh, và thứ hai là sự trừng phạt mà chính quyền của chúng ta, theo ý muốn của Thiên đường, sẽ quyết định giáng xuống.
‘Những kẻ điên rồ’ mà sắc lệnh đề cập đến là những Cơ đốc nhân dị giáo như người Arian, chứ không phải thành viên của các tôn giáo phi Cơ đốc giáo khác vẫn tiếp tục được dung thứ trong đế quốc trong một thập kỷ nữa hoặc lâu hơn. Mãi đến đầu những năm 390, Theodosius mới ban hành một số sắc lệnh cấm mọi hình thức thờ cúng và hiến tế ngoại giáo, đồng thời ra lệnh phá hủy các đền thờ ngoại giáo trên khắp đế quốc.
Đây là lần đầu tiên các Kitô hữu Nicaea được gọi là Kitô hữu ‘Thiên Chúa giáo’ và là văn bản đầu tiên mà chúng ta biết gọi Giám mục La Mã là ‘giáo hoàng’. Gratian, tự nhận mình là một Cơ đốc nhân, đã bỏ dùng danh hiệu Pontifex Maximus khỏi danh sách dài các tước hiệu của hoàng đế vì tôn trọng Giáo hội, và phong tước hiệu đó cho Damasus I. Khi nhìn lại, chúng ta có thể nghĩ thật kỳ lạ khi danh hiệu trưởng ngoại giáo lại được ban cho Giám mục La Mã, nhưng đối với Gratian đó là một bước đi hợp lý: Giám mục La Mã đã trở thành người đứng đầu quốc giáo.
Công đồng Constantinople (381)
Giống như những người tiền nhiệm, Theodosius nhận ra rằng cách tuyệt vời nhất để củng cố nhà nước là thông qua sự thống nhất tôn giáo. Vào tháng 5 năm 381, ông triệu tập một hội đồng Giáo hội ở Constantinople để xác nhận các sắc lệnh của mình và chính thức giải quyết cuộc tranh cãi về Arian ở phương Đông. Đây là công đồng đại kết thứ hai được triệu tập bởi một hoàng đế La Mã, đối nghịch với công đồng Giáo hội chính thức, và cũng như công đồng đầu tiên và sáu công đồng sau đó, nó diễn ra ở phương Đông. Giám mục La Mã không được mời.
Công đồng này nổi tiếng vì đã sửa đổi Kinh Tin Kính Nicaea để bao gồm thần tính của Chúa Thánh Thần, điều chưa được thảo luận tại Nicaea, nhưng đã là nguyên nhân gây tranh cãi trong hai thập kỷ trước. Chính tín điều đã được thống nhất tại công đồng này chứ không phải là tín điều đã được thống nhất ở Nicaea vào năm 325 – mới là tín điều được đọc trong các nhà thờ trên khắp thế giới ngày nay.
Trong một đòn giáng mạnh hơn vào phe Arian, Theodosius ra lệnh thay thế các giám mục Arian trên khắp phương Đông bằng các giám mục Nicaea. Ông giao tất cả các nhà thờ Arian ở Constantinople cho các giám mục Nicaea, và trục xuất phe Arian khỏi thành phố. Tuy nhiên, mặc dù hồi chuông báo tử rõ ràng đã vang lên đối với giáo thuyết Arian, nhưng nó vẫn tồn tại nhờ các bộ lạc man rợ ở biên giới đế chế. Hầu hết những người này đã được các nhà truyền giáo Arian cải đạo sang Cơ đốc giáo và trên danh nghĩa vẫn là người theo Arian. Do đó, phải mất thêm vài thế kỷ nữa giáo thuyết Arian mới bị dập tắt ở Gaul, Tây Ban Nha và Bắc Phi.
Công đồng đã gây xôn xao ở La Mã bởi vì, trong nỗ lực thừa nhận chính thức rằng Constantinople là tòa giám mục hàng đầu của đế quốc phương Đông, họ nhất quyết đặt Constantinople ở vị trí thứ hai chỉ sau La Mã. Xét cho cùng, Constantinople là La Mã mới, vì vậy việc thừa nhận tầm quan trọng của nó trong Giáo hội rộng lớn hơn được coi là công bằng. Tuy nhiên, Giáo hoàng Damasus I đã bác bỏ ý tưởng liên kết tầm vóc của giáo hội với địa vị thế tục. Ông nói rằng tuyên bố của La Mã về tính ưu việt của mình do nơi đây cả Peter và Paul đã tử đạo và không liên quan gì đến tư cách Rome là thủ đô cựu đế chế. Đề nghị khác đi là phá hoại toàn bộ danh nghĩa ưu việt của La Mã đối với các giáo hội khác. Trên đời làm gì có chuyện một thành phố sinh sau đẻ muộn như Constantinople chỉ được thành lập khoảng 300 năm sau Christ bị đóng đinh lại sánh ngang bằng với La Mã, khi nó rõ ràng đã không được bất kỳ tông đồ nào viếng thăm? Nếu muốn kể, chỉ có thành phố Antioch hoặc Alexandria, cả hai đều được thành lập bởi các tông đồ, mới đáng nhận lấy vinh dự mà hiện giờ Constantinople được hưởng. Thành phố này đã cho là mình quá quan trọng như nó thực sự là.
Damasus tức giận nhắc lại rằng quyền lực tối cao của Giám mục La Mã dựa trên những lời của Jesus nói với Peter, mặc dù ngay cả Damasus cũng phải thừa nhận một cách riêng tư rằng vị trí của La Mã như một thủ đô của đế chế đã đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao quyền lực của tòa thánh La Mã. Ông nói, chính Giám mục La Mã là người chỉ thị cho các hội đồng Giáo hội, chứ không phải ngược lại, một lập luận mà những người kế nhiệm ông sẽ không chậm trễ củng cố.
Khi thế kỷ thứ tư khép lại, Giáo hội nhận thấy mình ở một vị thế mà mình không bao giờ có thể ngờ tới.
Trong nhiều thế kỷ, các tín đồ Cơ đốc đã bị săn lùng và bức hại vì dám thách thức nhà nước. Bây giờ tình thế đã đảo ngược. Không chỉ ngoại giáo đã chính thức bị bãi bỏ, mà Cơ đốc giáo còn được sử dụng cưỡng chế để loại trừ tất cả những tôn giáo khác. Tất cả những hành vi rời bỏ đức tin thống trị của Nhà nước-Giáo hội ‘không chỉ bị ghê tởm và bị rút phép thông công vì những sai lầm tôn giáo, mà còn bị coi là tội ác chống lại nhà nước Cơ đốc giáo, và do đó bị trừng phạt bằng các hình phạt dân sự; đầu tiên là với sự phế truất, trục xuất, tịch thu, và sau thời Theodosius, thậm chí với cái chết. Những người đã từng cầu xin được khoan dung giờ trở nên bất dung. Những người bị bắt bớ giờ trở thành kẻ bắt bớ.
*
Thế kỷ mới chứng kiến vị Giám mục mới của La Mã, Innocent I (401-17), người đã xây dựng dựa trên việc làm của những người tiền nhiệm trong việc công bố thẩm quyền của La Mã đối với các vấn đề của Giáo hội. Vị trí này đã được nắm giữ trong 15 năm cuối của thế kỷ thứ tư bởi Siricius (384-99) và sau đó rất ngắn gọn bởi Anastasius (399-401), về ông này chúng ta biết rất ít ngoại trừ sự kiện ông là cha của Innocent I.
Siricius đã từng là giáo hoàng trong một thời điểm quan trọng đối với Cơ đốc giáo: chính trong triều đại giáo hoàng của ông, Theodosius đã đặt ra ngoài vòng pháp luật mọi hình thức thờ cúng ngoại giáo và biến Cơ đốc giáo thành quốc giáo chính thức. Ảnh hưởng đối với giới giáo sĩ và chính Giáo hội là rất lớn. Các giám mục trở thành quan chức nhà nước có tầm quan trọng nhất định và được hưởng ngày càng nhiều đặc quyền, chưa kể quyền lực ngày càng tăng. Nhưng quyền lực chắc chắn sẽ thu hút những con người đầy tham vọng, và tòa giám mục của La Mã giờ đây đã không thiếu loại người này.
Với số lượng ngày càng tăng những tên xu nịnh, tâng bốc và những kẻ theo đóm ăn tàn, không có gì đáng ngạc nhiên khi các giáo hoàng không thể giữ vững được lập trường. Là cơ quan tông đồ duy nhất ở phương Tây, điều tự nhiên là các giáo đoàn khác ở khu vực đó của đế quốc sẽ kêu gọi giám mục La Mã hướng dẫn khi họ không thể đồng thuận hoặc cần cố vấn về giáo lý hoặc giáo luật. Hơn nữa, các giáo sĩ phương Đông bất mãn cũng không ngừng kêu gọi La Mã trong những trường hợp mà họ cảm thấy họ bị kết án là không công bằng, hoặc đơn giản chỉ để giải quyết những bất đồng.
Mỗi lời kêu gọi đến ông ta đã nâng cao thêm vị thế của giáo hoàng với tư cách là trọng tài tối hậu cho các cuộc tranh cãi của tín đồ Cơ đốc. Những nhà thờ khác có thể chỉ đơn giản là đang tìm kiếm ý kiến độc lập từ một nhà thờ chị em, nhưng La Mã đã xem xét từng trường hợp như một minh chứng về thẩm quyền của mình. Liên quan đến những kháng cáo như vậy, Siricius đã ban hành các phán quyết giáo triều gọi là ‘giáo lệnh tập’. Được mô phỏng theo các chỉ dụ của đế quốc La Mã, về cơ bản chúng là câu trả lời của giáo hoàng và các cố vấn của ông đối với các câu hỏi được gửi đến họ. Chẳng bao lâu sau, các giáo lệnh đã được công nhận là nguồn thứ cấp của giáo luật Giáo hội cùng với các quyết định được đưa ra bởi các hội đồng và công đồng, và các giáo hoàng mong đợi chúng có cùng hiệu lực pháp lý như các sắc lệnh của đế quốc khi chúng được ban hành.
Innocent I cũng mắc bệnh hoang tưởng tự đại như Siricius, nếu không muốn nói là nặng hơn Tiện thể phót lờ thực tế là không có công đồng nào của Giáo hội thuở đầu yêu cầu phải có sự xác nhận của Giám mục La Mã đối với các sắc lệnh của họ, ông nói với các giám mục Châu Phi rằng ‘bất kỳ hành động nào được tòa giám mục địa phương đưa ra ở bất kỳ tỉnh nào, dù xa xôi hay hẻo lánh đến đâu, cũng không được kết luận trước khi tòa thánh La Mã này xem xét, để mọi quyết định có thể được xác nhận bởi thẩm quyền của chúng tôi. Điều này đã được ban hành bởi một thẩm quyền thần thánh, chứ không phải một thẩm quyền của con người,”
Ông có cơ hội đưa ra phán quyết đầu tiên khi một số giám mục này giới thiệu trường hợp của một tu sĩ gốc Anh tên là Pelagius cho ông. Pelagius đã dạy rằng con người có thể được xưng mình là công chính nhờ công tu tập của chính họ, điều này khiến cho sự cứu rỗi của Christ trở nên không cần thiết. Sau khi nghe cả hai bên, Innocent ra quyết định rằng những lời dạy của Pelagius là dị giáo và cần phải lên án. Người kế vị Innocent I, Zosimus (417-418) ban đầu bảo vệ Pelagius sau khi nhận được lời tuyên xưng đức tin, chỉ để lên án lại Pelagius ngay sau đó khi ông tin rằng Pelagius đã dạy học thuyết dị giáo. Zosimus và Innocent I thường được coi là ví dụ về việc các giáo hoàng mâu thuẫn với nhau, nhưng có vẻ như Zosimus chỉ tạm thời bị mê hoặc bởi lời tuyên xưng đức tin mà ông tin là chân thành, và đã đảo ngược quyết định của mình ngay khi điều này trở nên rõ ràng.
Các Giáo hoàng Boniface I (418-22) và Celestine I (422-32) không phải là những bông hoa tường vi khi thể hiện quyền lực của giáo hoàng. Boniface I đã tuyên bố rằng Giáo hội La Mã đại diện cho các giáo hội trên thế giới ‘với tư cách là người đứng đầu các thành viên của mình’. Ông thậm chí còn đi xa hơn khi tuyên bố các bản án và quyết định của mình có tính ràng buộc vĩnh viễn, do đó ngăn chặn bất kỳ kháng cáo nào nữa đối với các phán quyết của Giáo hoàng. Ban đầu chỉ tuyên bố quyền lực đối với các nhà thờ ở đế chế phương Tây, các giám mục ở La Mã giờ đây đã tuyên bố có toàn quyền đối với tất cả những tín đồ Cơ đốc. Chẳng bao lâu sau, họ sẽ tuyên bố rằng mọi sinh vật là con người cần phải phục tùng giáo hoàng để được cứu rỗi. Đó là một ví dụ hoàn hảo về quyền lực leo thang.