
Peter l. Bergen
Trần Quang Nghĩa dịch
14: VÀ SAU ĐÓ
Các quan chức an ninh Pakistan bắt đầu chạy đến khu nhà Abbottabad trong vòng vài phút sau khi lực lượng SEAL rời đi. Các quan chức có thể nghe thấy tiếng trực thăng xa dần. Họ bắt gặp một cảnh tượng hỗn loạn. Trước tiên, họ nhìn thấy một chiếc trực thăng bốc cháy và họ liền báo cho quân đội. Có lẽ, họ nghĩ, đây là một buổi huấn luyện của quân đội Pakistan đã gặp phải rủi ro trầm trọng. Sau đó, khi đi qua cổng khu phức hợp, các quan chức bắt gặp một phụ nữ bị thương. Cô ấy là vợ của người đưa tin, Mariam. Nói bằng tiếng Pashto, một ngôn ngữ địa phương, cô nói: “Tôi đến từ Swat. Chồng tôi đã bị giết. Nếu các anh vào trong, có rất nhiều người Ả Rập đã bị giết”.
Bên trong tòa nhà chính, các quan chức tìm thấy một số phụ nữ la hét và 14 trẻ em, tất cả đều bị còng tay. Họ cũng tìm thấy 4 xác chết, 2 ở gian nhà phụ và 2 ở tầng trệt của tòa nhà chính. Ở tầng trên cùng, cô vợ trẻ nhất của bin Laden, Amal, nằm bất tỉnh trên giường, mặc abaya (áo choàng đen rộng) như thể cô ấy định đi ra ngoài. Mảnh kính vỡ khắp nơi. Một phụ nữ lớn tuổi nói với các quan chức bằng tiếng Anh: “Họ đã giết và bắt đi Abu Hamza [cha của Hamza].” Một quan chức hỏi, “Ồ, Abu Hamza là ai?” Cô ấy trả lời: “Osama bin Laden. Họ đã giết cha của con trai tôi.”
Con gái 12 tuổi của Bin Laden, Safia, cũng phát biểu: “Tôi là người Ả Rập Xê Út. Osama bin Laden là cha tôi.” Các nhân viên Pakistan đã quản thúc tại gia ba người vợ và các con của bin Laden trong khi đợi các nhà điều tra tình báo quân đội Pakistan đến thẩm vấn.
Một trong những nhà báo đầu tiên đến khu nhà là Ihsan Khan, phóng viên địa phương của ban Pashto ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA). Khan, một phóng viên năng nổ ở một nơi trên thế giới mà công việc đó có thể khiến bạn gặp rắc rối, đang thiu thiu ở nhà thì bị đánh thức bởi một âm thanh khá bất thường: một chiếc trực thăng bay qua thành phố vào khoảng 12:45 sáng. Chiếc Chinook bay tới thay thế chiếc Black Hawk bị rơi. Âm thanh đặc biệt của một chiếc trực thăng bay trên đầu vào ban đêm là điều mà Khan chưa từng nghe thấy trong suốt bảy năm anh sống ở thành phố, ngay cả trong những nỗ lực cứu trợ trong vùng sau trận động đất kinh hoàng năm 2005 khiến khoảng 75.000 người thiệt mạng.
Khan đã gọi cho một số bạn bè để xem chuyện gì đang xảy ra. Họ không biết. Sau đó, khoảng 20 phút sau, lúc 1h05 sáng, Khan lại nghe thấy một tiếng nổ lớn. Đây là âm thanh của chiếc trực thăng hư hỏng bị cho nổ tung. Khan nhảy ra khỏi giường và đã gọi điện cho cảnh sát địa phương. Đường dây đang bận. Anh ta gọi thêm và được thông báo rằng một chiếc trực thăng vừa bị rơi. Anh lao ra ngoài nhà và nhìn thấy một quả cầu lửa lớn cách đó khoảng một dặm.
Bất cứ điều gì đang xảy ra rõ ràng là tin tức. Chẳng có chuyện gì xảy ra ở Abbottabad cả! Đó là một trong những thành phố yên bình nhất ở Pakistan. Khan viết ngay một email cho biên tập viên đài VOA ở Washington: “Một chiếc trực thăng rơi xuống khu vực nhạy cảm Kakul của Abbottabad. Trước khi xảy ra vụ việc, người dân địa phương đã nghe thấy nhiều tiếng súng và tiếng nổ lớn. Các quan chức có xác nhận vụ tai nạn trực thăng nhưng thương vong và nguyên nhân chưa được tiết lộ. Tôi đang thu thập thêm thông tin chi tiết và sẽ sẵn sàng cho báo cáo trực tiếp. Vui lòng gọi cho tôi trước bản tin buổi sáng, nếu được.”
Sau đó anh ta lao đến vị trí của quả cầu lửa, ở khu phố Bilal Town. Khi đến khu nhà, anh thấy cảnh sát đã phong tỏa nó. Người dân địa phương nói với anh rằng điện ở khu vực lân cận đã bị cắt và đây không phải là hoạt động cúp điện theo lịch trình thường xuyên. Hàng xóm cũng kể với Khan rằng ngay trước khi một trong những chiếc trực thăng hạ cánh xuống khu nhà – rất có thể là chiếc Chinook dự phòng – ai đó trên mặt đất đã cầm đèn laze màu, chiếu sáng gần khu nhà để hướng dẫn chiếc trực thăng hạ cánh.
Trở lại Nhà Trắng, nhóm của Obama nhận ra rằng, do vụ rơi chiếc trực thăng, chiến dịch bin Laden sẽ không còn giữ bí mật được lâu. Các quan chức theo dõi nguồn cấp video từ máy bay không người lái tàng hình có thể thấy mọi người trên nóc các tòa nhà ở Abbottabad đang nói chuyện trên điện thoại di động. Và Cơ quan An ninh Quốc gia – trong vòng một giờ kể từ cuộc đột kích – đã thu được cuộc trò chuyện của các quan chức địa phương ở Abbottabad về sự kiện vừa xảy ra với “ngôi nhà Ả Rập” bí ẩn. Ben Rhodes đã bắt đầu nhận được báo cáo rằng phương tiện truyền thông Pakistan đã có mặt tại hiện trường quay phim hậu quả của cuộc đột kích và phỏng vấn các người láng giềng. Một số nhà báo Pakistan đã suy đoán rằng chiếc trực thăng bị rơi là từ một “thế lực nước ngoài” và chẳng bao lâu là lượt tin tức buổi sáng ở Pakistan sẽ bắt đầu và giới truyền thông ồn ào và có khuynh hướng thuyết âm mưu của Pakistan sẽ có một ngày bận rộn đi thực địa. Rhodes nói, “Một số người trong chúng tôi háo hức muốn tổng thống xuất hiện ngay đêm đó và nói chuyện với thế giới, bởi vì chúng tôi lo ngại câu chuyện sẽ bắt đầu đi chệch hướng.”
Cuộc tranh luận kéo dài nhiều tháng về cách tốt nhất để giải quyết vấn đề Pakistan lại bùng lên trong Phòng Tình huống. Ai nên gọi cho lãnh đạo Pakistan? Và người đó nên nói gì? Pakistan trên danh nghĩa được kiểm soát bởi chính phủ dân sự, nhưng trên thực tế quân đội kiểm soát tất cả các khía cạnh của chính sách an ninh quốc gia. Nó sẽ gửi tín hiệu sai cho Obama để gọi điện cho người đàn ông quyền lực nhất Pakistan, Tổng tham mưu trưởng quân đội Ashfaq Parvez Kayani. Hillary Clinton nên gọi cho ông ấy hay giao cho Đô đốc Mullen, người đã dành nhiều thời gian gặp gỡ Kayani hơn bất kỳ ai trong Nhà Trắng? Mullen đang thúc đẩy một quyết định nhanh chóng và nói: “Chúng ta phải gọi!”
Kayani và Mullen đã phát triển một tình bạn thực sự qua hơn hai chục chuyến thăm Pakistan mà Mullen đã thực hiện trong suốt bốn năm qua để cố gắng củng cố liên minh Mỹ-Pakistan vốn luôn mong manh. Kayani, một người có đầu óc phân tích, không dễ nổi nóng, đã học tại Trường Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu Lục quân Hoa Kỳ ở Ft. Leavenworth, Kansas, và mặc dù chắc chắn là một người theo chủ nghĩa dân tộc Pakistan kiêu hãnh, nhưng theo phản xạ, ông không hề chống Mỹ. Quả thực, ông đã dẫn đầu nỗ lực của phía quân đội Pakistan nhằm củng cố “mối quan hệ đối tác chiến lược” với Hoa Kỳ trong vài năm trước đó.
Mullen biết rõ điều quan trọng là phải cố gắng tiếp cận Kayani trước khi các tướng lĩnh của ông nói chuyện với ông, bởi vì điều đó sẽ mang lại cho Kayani cơ hội sở hữu được những gì đã xảy ra, thay vì để ông ta nói rằng mình không biết chuyện gì đang xảy ra. Nhân vật Pakistan cũng có thể nghĩ rằng các sự kiện ở Abbottabad là một phần trong cuộc tấn công của kẻ thù truyền thống của họ là Ấn Độ, và chính quyền Obama phải đảm bảo rằng họ hiểu được sự thật của vấn đề càng sớm càng tốt để tránh bất kỳ xung đột nào giữa hai nước có vũ khí hạt nhân
Trung tướng Ahmad Shuja Pasha, người đứng đầu cơ quan tình báo quân sự hùng mạnh của Pakistan, đang làm việc trong phòng vào đêm khuya thì có người gọi đến nói, “Rất tiếc khi biết về vụ tai nạn trực thăng.” Pasha biết rằng trực thăng quân sự Pakistan không có khả năng nhìn đêm, nên sẽ rất lạ nếu đó là trực thăng Pakistan. “Có phải một trong những chiếc trực thăng của chúng tôi bị rơi không?” ông ta đã hỏi cấp dưới của mình trong một loạt cuộc điện thoại. “Nó không phải của chúng ta,” ông được cho biết.
Tướng Kayani nhận được cuộc gọi từ giám đốc tác chiến quân sự của ông vào khoảng 1 giờ sáng. Tin tức thật đáng báo động: một chiếc trực thăng vừa bị rơi gần một khu dân cư ở Abbottabad, một khu vực có nhiều cơ sở quân sự và cơ sở vũ khí hạt nhân của đất nước.
Nghĩ rằng Ấn Độ có thể đang cố gắng thực hiện một cuộc tấn công phủ đầu nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Pakistan, Tướng Kayani đã gọi điện cho người đứng đầu lực lượng không quân và ra lệnh cho ông ta điều động các máy bay phản lực để ngăn chặn bất kỳ ai có thể bay vào đêm đó. Hai chiếc F-16 do Mỹ sản xuất đã được điều động từ căn cứ của họ 500 dặm về phía tây nam Abbottabad. Pakistan khá rộng lớn – gấp đôi diện tích của California – và các máy bay phản lực không thể tìm thấy những kẻ xâm nhập.
Khi hai chiếc trực thăng chở lực lượng SEAL và thi thể bin Laden đã rời khỏi không phận Pakistan một cách an toàn, người đầu tiên Obama gọi điện là tổng thống tiền nhiệm của mình. George W. Bush đang ăn tối tại một nhà hàng ở Dallas với vợ ông, Laura, thì Sở Mật vụ thông báo với ông rằng ông sẽ có một cuộc gọi đến từ Nhà Trắng sau 20 phút nữa. Bush nhanh chóng về nhà để nhận cuộc gọi. Khi Obama báo tin này cho ông, Bush đã chúc mừng Obama và lực lượng SEAL. Bush nói, “Tôi không cảm thấy hạnh phúc hay hân hoan nhiều lắm. Tôi cảm thấy một vết thương khép lại và tôi cảm thấy biết ơn vì công lý đã được thực thi.” Obama cũng gọi Bill Clinton là tổng thống Mỹ đầu tiên đã cố gắng giết bin Laden bằng vụ tấn công tên lửa hành trình vào Afghanistan năm 1998 sau vụ tấn công vào đại sứ quán Mỹ ở châu Phi. Và ông đã gọi điện cho đồng minh thân cận David Cameron, thủ tướng Anh, đất nước của ông cũng đã phải chịu đựng dưới bàn tay của al-Qaeda, để Cameron không ngạc nhiên trước tin tức vào sáng hôm sau.
Cameron Munter, đại sứ Hoa Kỳ tại Pakistan, đã biết trước về cuộc đột kích sắp xảy ra nhưng chưa thảo luận về nó với bất kỳ ai tại đại sứ quán của mình. Bây giờ, vào lúc nửa đêm về sáng, sau khi đã theo sát tiến trình của cuộc đột kích, ông bước ra ngoài văn phòng đại sứ quán ở Islamabad và nhận được một cú gọi bất ngờ vào di động của mình. Đó là một một quan chức cao cấp Pakistan, ông nói, “Chúng tôi biết xảy ra một vụ tai nạn trực thăng ở Abbottabad. Anh có biết gì về chuyện này không?” Munter bảo với người đàn ông rằng mình sẽ quay lại với ông ta. Nhưng ông không làm như vậy, tin rằng một loạt cuộc gọi đầu tiên đến ban lãnh đạo của Pakistan được Tổng thống Obama và Đô đốc Mullen xử lý là tốt nhất. Dựa vào những phản ứng hoang mang của các quan chức Pakistan về sự việc xảy ra vào đêm hôm đó, đối với Munter và các quan chức theo dõi tình hình ở Nhà Trắng rõ ràng người Pakistan không hề biết gì về sự hiện diện của bin Laden ở Abbottabad.
Obama đã gọi điện cho tổng thống Pakistan Asif Ali Zardari và thông báo tin này cho ông. Zardari trở nên xúc động. Vợ ông, Benazir Bhutto, cựu thủ tướng Pakistan, đã bị Taliban ám sát bốn năm trước đó. Zardari nói với Obama: “Tôi rất vui vì đây cũng chính là bọn người đã giết chết vợ tôi và người của cô ấy là gia đình tôi, vì vậy tôi chia sẻ điều này.” Đô đốc Mullen sau đó đã gọi tới Tướng Kayani qua một đường dây liên lạc an ninh
“Xin chúc mừng,” Kayani ngay lập tức nói khi nghe tin về bin Laden. Cuộc trò chuyện kéo dài hai mươi phút căng thẳng. Mullen kể với Kayani những nét phác thảo về những gì có thể đã xảy ra ở Abbottabad và nói rằng tổng thống đang cân nhắc việc tuyên bố về cuộc đột kích. Kayani nói rằng mình lo âu về vấn đề vi phạm chủ quyền và kêu gọi Obama công.khai càng sớm càng tốt và giải thích những gì đã xảy ra. Chảng bao lâu trời sẽ sáng ở Pakistan, và có một chiếc trực thăng bí ẩn bị rơi ở giữa Abbottabad và rõ ràng nó không thuộc về Pakistan; báo chí địa phương sẽ mặc sức mà đưa tin về câu chuyện. Kayani nói, “Người dân của chúng tôi cần hiểu chuyện gì đã xảy ra ở đây. Chúng tôi sẽ không thể quản lý giới truyền thông Pakistan nếu không có bạn xác nhận điều này. Bạn có thể giải thích cho họ. Họ cần hiểu rằng đây là bin Laden chứ không chỉ là một chiến dịch thông thường nào đó của người Mỹ.
Kayani, thật vậy, yêu cầu Obama công khai giải thích những gì đã xảy ra ngay khi có thể làm được. Mullen quay trở lại Phòng Tình huống và nói, “Kayani đã yêu cầu chúng ta công khai”, điều này thúc giục Obama tiến tới. Vào khoảng 8 giờ 15 tối. Nhà Trắng thông báo với giới báo chí Washington rằng tổng thống sẽ đưa ra một thông báo quan trọng sau hai giờ nữa. Trước đó trong ngày, văn phòng báo chí Nhà Trắng đã ra lệnh là “đậy nắp”, nghĩa là tổng thống sẽ không làm hoặc nói bất cứ điều gì có thể tạo nên tin tức suốt thời gian còn lại trong ngày và đoàn báo chí Nhà Trắng có thể về nhà, nhưng bây giờ cũng các phóng viên đó được các quan chức chính quyền yêu cầu, “Cứ vào đi!” Biden và Clinton bắt đầu sử dụng điện thoại từ các buồng nhỏ trong Phòng Tình huống, gọi điện cho các thành viên chủ chốt của Quốc hội và các đồng minh quan trọng để thông báo trước cho họ trước khi tổng thống đưa ra thông báo công khai về cái chết của bin Laden. Gates, người đã không ủng hộ cuộc đột kích cho đến khi Obama ra lệnh “đi”, là người đầu tiên rời Nhà Trắng, vào khoảng 8:30 tối.
Những thành viên còn lại trong đội ngũ an ninh quốc gia của Obama đã chuẩn bị sẵn sàng cho một đêm dài.
Các nhà báo mạng và các chuyên gia đã lên sóng suy đoán không biết sự kiện gì mà tổng thống một lại lên tiếng phát biểu vào một tối chủ nhật muộn màng. Ban đầu, họ tự hỏi liệu nhà độc tài Libya Moammar Gadhafi có thể đã thiệt mạng trong chiến dịch của NATO mà Obama đã phát động hai tháng trước đó. Một ngày.trước đó, các thành viên của gia đình Gadhafi đã bị giết trong một cuộc không kích Libya của NATO. Dần dần sự suy đoán trở nên có nhiều thông tin hơn khi một số phóng viên đã biết được thông báo sẽ có điều gì đó liên quan đến bin Laden.
Rhodes đã ngồi xuống trước cuộc đột kích để viết bài phát biểu “Chúng ta đã bắt được bin Laden” cho tổng thống, nhưng chỉ mới đọc được vài dòng, ông đã nghĩ: “Tôi không thể làm điều này. Nó sẽ là điềm xui xẻo. Tôi cảm thấy không ổn.” Thay vào đó, ông ấy đã chuẩn bị sẵn các khối xây dựng cho một bài phát biểu tiềm năng. Khía cạnh nhạy cảm nhất của bài phát biểu là cách thức mô tả sự tham gia của Pakistan. Rhodes giải thích, “Chúng tôi quyết định không ướp đường mật nó và nói rằng họ đã đóng một vai trò nào đó, thực tế là một số hoạt động thu thập thông tin tình báo đã dẫn chúng tôi đến khu nhà và có liên quan đến khu nhà đều dựa trên sự hợp tác của Pakistan. Đó là việc vô tình; họ không biết rằng họ đang giúp tìm ra bin Laden, nhưng họ đã chia sẻ với chúng tôi những điều giúp hoàn thiện bức tranh tình báo của mình, vì vậy chúng tôi cảm thấy tự tin khi nói rằng sự hợp tác của Pakistan đã giúp dẫn đến điều này.”
Obama nói với Rhodes rằng, trong bài phát biểu, ông muốn quay lại sự kiện 11/9, để nhấn mạnh rằng Pakistan đã giúp đỡ trong cuộc chiến chống lại al-Qaeda, để nhắc nhở mọi người về sự hy sinh to lớn mà người dân Mỹ ở Iraq và Afghanistan phải trả giá trong một thập niên chiến tranh, và kết thúc bằng ý tưởng rằng nước Mỹ còn có thể làm được những việc phi thường. Obama và Rhodes chỉnh sửa bản thảo bài phát biểu một cách điên cuồng cho đến tận thời điểm tổng thống bước ra Phòng phía Đông của Nhà Trắng để đọc nó.
Khi đội an ninh quốc gia của Obama rời Phòng Tình huống và tổng thống đang thực hiện một vài chỉnh sửa cuối cùng cho phát biểu của mình, màn hình TV trong Nhà Trắng được chuyển sang chương trình đang được lên sóng theo lịch sẽ sớm bị gián đoạn bởi thông cáo về bin Laden.
Ngay trước khi tổng thống phát biểu, Mike Vickers, người đã làm việc nhiều giờ trong quá trình lên kế hoạch cho chiến dịch tiêu diệt bin Laden, đã gọi điện cho vợ ông. “Bật TV lên đi em. Đây là lý do tại sao anh đã đi vắng cả cuối tuần và đó là điều anh bận tâm trong nhiều tháng qua.”
Giám đốc Tình báo Quốc gia James Clapper là một trong những quan chức đi bộ từ Phòng Tình huống sang Phòng phía Đông cùng Obama vài phút trước khi ông phát biểu trước quốc dân. Trên đường đi, Clapper nghe thấy âm thanh của đám đông cổ vũ bắt đầu tụ tập ở Công viên Lafayette, phía trước Nhà Trắng, khi nghe ngóng tin bin Laden có thể đã bị giết. “Tôi biết điều này có ý nghĩa rất lớn đối với đất nước nhưng tôi không biết phản ứng sẽ mạnh mẽ đến mức nào. Tôi nhớ mình đã bước ra ngoài và nghe thấy ‘Hoa Kỳ! Hoa Kỳ! Hoa Kỳ!’ từ Công viên Lafayette. Và chính lúc đó nỗi cảm xúc đã ập đến với tôi. Điều này thật lớn lao,” Clapper nói.
Lúc 11 giờ 35 tối, Obama bước xuống hành lang trang trọng có trần cao để tiến lên bục nói. Trong bộ vest tối màu và cà vạt đỏ, tổng thống đưa ra nhận xét ngắn gọn và tỉnh táo: “Chào buổi tối. Tối nay, tôi có thể báo cáo với người dân Mỹ và thế giới rằng Hoa Kỳ đã tiến hành một chiến dịch tiêu diệt Osama bin Laden, thủ lĩnh của al-Qaeda, và là kẻ khủng bố chịu trách nhiệm sát hại hàng ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội.” Obama đã cẩn thận đưa ra một số lời ca tụng đối với người Pakistan: “Điều quan trọng cần lưu ý là sự hợp tác chống khủng bố của chúng ta với Pakistan đã giúp dẫn chúng tôi đến chỗ bin Laden và khu nhà nơi hắn ẩn náu. Quả thực, bin Laden cũng đã tuyên chiến với Pakistan, và ra lệnh tấn công người dân Pakistan.” Bất chấp giờ giấc muộn màng vào một đêm chủ nhật, bài phát biểu đã thu hút nhiều người xem hơn bất kỳ bài phát biểu nào khác trong nhiệm kỳ tổng thống của Obama; khoảng 55 triệu người Mỹ đã theo dõi khi nghe tin bin Laden đã bị giết.
Sau bài phát biểu của tổng thống, khi Panetta rời Nhà Trắng trên chiếc xe bọc thép hạng nặng có cửa sổ màu tối, một số người trong đám đông tụ tập ở Công viên Lafayette đang hô vang, “CIA! CIA! CIA!” Mullen ấn tượng trước “những người trẻ ở ngoài đó. Những người 21 tuổi mới 10 hoặc 11 tuổi khi vụ 11/9 xảy ra, và họ đã ở ngoài đó cổ vũ.” Bước ra khỏi Nhà Trắng, Flournoy nhớ lại mình bỗng nghe một bài hát quen thuộc và nghĩ: “Đó là gì vậy? Và tôi nhận ra rằng đó là một đám đông công dân Mỹ đã tự phát tụ tập ở Công viên Lafayette, hát quốc ca, và lúc đó tôi vỡ òa và thực sự bật khóc khi bước ra xe. Tôi đã không mong đợi điều đó, và đó là một khoảnh khắc choáng ngợp.”
Cách đó nửa vòng trái đất, xác của bin Laden đang được chuẩn bị sẵn sàng cho việc mai táng. Đã có nhiều suy tính được đưa ra về việc xử lý thi thể của thủ lĩnh al-Qaeda. Các quan chức Obama muốn đảm bảo rằng sẽ không có ngôi mộ nào có thể sẽ trở thành một đền thờ. (Tương tự, Liên Xô đã nỗ lực tối đa trong việc đảm bảo rằng sau khi Hitler cuối cùng tự sát sau Thế chiến II, vị trí hài cốt của ông được giữ chặt chẽ trong vòng bí mật.) Nhóm an ninh quốc gia của Obama đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia Hồi giáo, họ giải thích rằng điều quan trọng nhất trong nghĩa vụ chôn cất người Hồi giáo đúng nghĩa là quấn thi thể đã được rửa sạch trong một tấm vải trắng, được một người đàn ông Hồi giáo đọc những lời cầu nguyện cụ thể trên đó và thực hiện việc chôn cất trong vòng 24 giờ. Việc chôn cất trên biển có thể được cho phép trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như nếu một người chết trên biển và không có cách nào để vào đất liền ngay lập tức.
Các cố vấn chống khủng bố của Obama đã có buổi diễn tập cho lễ chôn cất bin Laden hai năm trước đó với Saleh Ali Saleh Nabhan, một thủ lĩnh của al-Qaeda ở Châu Phi, người đã bị lực lượng SEAL của Hải quân Hoa Kỳ tiêu diệt trong một vụ đột kích bằng trực thăng vào ngày 14 tháng 9 năm 2009, khi hắn đang lái xe về phía nam thủ đô Mogadishu của Somali. Lực lượng SEAL đáp xuống để thu hồi thi thể Nabhan và sau khi đã xác nhận danh tính của hắn thông qua các mẫu DNA, hắn đã được chôn cất trên biển.
John Brennan, cựu giám đốc cơ quan CIA ở Ả Rập Saudi, gọi điện cho Hoàng thân Mohammed bin Nayef, Thứ trưởng Bộ Nội vụ đầy quyền lực của Ả Rập Xê Út, nói với ông rằng CIA đã xác nhận khá chắc chắn lực lượng Mỹ đã tiêu diệt bin Laden ở Pakistan. Brennan hỏi liệu người Saudi có muốn thi thể bin Laden được đưa về quê hương. Nếu không, ông nói, kế hoạch là an táng ông trên biển. Nayef gửi lời chúc mừng – al-Qaeda đã ra sức ám sát ông nhiều lần – và nói rằng ông sẽ thông báo cho Vua Abdullah. Brennan giải thích rằng nếu nhà vua có ý tưởng nào khác thì họ cần được biết sau vài phút nữa. Nayef bảo Brennan cứ tiếp tục kế hoạch của mình.
Một chiếc máy bay cánh quạt nghiêng V-22 Osprey đã vận chuyển thi thể của bin Laden từ Căn cứ Không quân Bagram ở miền trung Afghanistan tới tàu USS Carl Vinson đang di chuyển ngoài khơi bờ biển Pakistan.
Sau khi thi thể được đưa lên tàu, các thủ tục chôn cất Hồi giáo được tiến hành. Trong buổi lễ kéo dài chưa đầy một giờ, thi thể của bin Laden được rửa sạch và quấn trong một tấm vải trắng. Thi thể sau đó được đặt trong một chiếc túi có vài quả tạ và một sĩ quan đọc một lời nhận xét tôn giáo được dịch sang tiếng Ả Rập. Thi thể của Bin Laden sau đó được đặt trên một tấm ván phẳng, lật nghiêng để thi thể trượt xuống biển. Vào ngày 2 tháng 5, lúc 11 giờ sáng – lúc 2 giờ sáng ở Washington- bin Laden đã được đưa đến một ngôi mộ nước không đánh dấu trong lòng biển Ả Rập bao la, lễ an táng chỉ có khoảng chục sĩ quan cấp cao của con tàu chiến lớn của Mỹ chứng kiến. Thủ lĩnh của Al-Qaeda đã 54 tuổi.
Các học giả Hồi giáo hàng đầu nhanh chóng phản đối, trong số đó có Sheikh Ahmed el-Taeb, đại giáo sĩ của nhà thờ Hồi giáo dòng Sunni al-Azhar ở Cairo, ông nói: “Việc chôn cất Bin Laden trên biển là trái với các nguyên tắc của luật Hồi giáo, giá trị tôn giáo và tập quán nhân đạo”. Học giả tôn giáo người Iraq Abdul-Sattar al-Janabi cũng phát biểu: “Việc ném xác một người đàn ông Hồi giáo xuống biển là một tội ác. Lẽ ra thi thể của bin Laden phải được giao lại cho gia đình để tìm quốc gia hoặc vùng đất chôn cất ông ta.”
Omar bin Laden, một trong những con trai lớn của bin Laden, đã thay mặt các anh chị em của mình đưa ra một tuyên bố bằng văn bản chỉ trích “việc chôn cất đột ngột của cha chúng tôi ở biển và không có người chứng kiến đã tước đi của gia đình quyền thực hành tôn giáo đối với người Hồi giáo.”
Một trong hai mẫu DNA lấy từ bin Laden đã được phân tích tại Căn cứ Không quân Bagram và thông tin thu được từ mẫu đó đã được gửi đi bằng thư điện tử tới Washington, trong khi một mẫu khác được chuyển tận tay tới Washington để phân tích bổ sung. Sử dụng tài liệu DNA thu được từ người thân của bin Laden, các quan chức tình báo hiện đã xác định hoàn toàn chắc chắn rằng thi thể bị chìm xuống biển sâu thực sự là của thủ lĩnh al-Qaeda.
John Brennan, cố vấn chống khủng bố chính của Obama, đã tổ chức một cuộc họp báo cùng ngày thi thể của bin Laden được thủy táng trên biển, trong đó ông đưa ra một số khẳng định về những gì đã xảy ra tại khu nhà Abbottabad: rằng bin Laden đã sử dụng một phụ nữ làm lá chắn sống, rằng y đã lấy vũ khí của mình và rằng ông đã chết trong cuộc đọ súng với lực lượng SEAL. Nhà Trắng đã nhanh chóng rút lại tất cả những tuyên bố đó, cho rằng chúng là do sự nhầm lẫn và tình trạng tối mù của một trận chiến diễn ra vào ban đêm ở bên kia thế giới chưa đầy 24 giờ trước đó.
Chính quyền vụng về cũng đưa ra thông báo ban đầu về việc công bố những bức ảnh về cái chết của bin Laden. Một ngày sau khi thủ lĩnh al-Qaeda bị tiêu diệt, Panetta nói với NBC News rằng những hình ảnh chứng minh cái chết của bin Laden “sẽ sớm được công bố trước công chúng.” Nhưng Nhà Trắng nhanh chóng làm rõ rằng không phải vậy. Obama, Gates và Clinton đều đồng ý rằng những bức ảnh ghê tởm về bin Laden sẽ được al-Qaeda sử dụng để kích động sự trả thù chống lại người Mỹ, trong khi những người theo thuyết âm mưu – những người có thể tin rằng bằng cách nào đó, ở đâu đó, bin Laden vẫn còn sống, và rằng câu chuyện chính thức tất cả chỉ là trò lừa bịp – dù sao thì bằng chứng chụp ảnh cũng sẽ không có tính thuyết phục. “Điều quan trọng đối với chúng tôi là đảm bảo rằng những bức ảnh rất sinh động của ai đó bị bắn vào đầu không phải được khai thác như một công cụ kích động bạo lực hay tuyên truyền,” Obama giải thích. Đối với những người nghi ngờ cái chết của thủ lĩnh al-Qaeda, Obama có một thông điệp đơn giản: “Sự thật của vấn đề là bạn sẽ không còn thấy bin Laden bước đi trên trái đất này nữa.”
Trong cuộc họp về tình báo hàng ngày của tổng thống vài ngày sau cuộc đột kích, đã có cuộc thảo luận về thực tế là lực lượng SEAL dường như đã có lên kế hoạch về mọi thứ, ngoại trừ việc mang theo thước dây để đo xác chết của bin Laden. Tony Blinken gợi ý: “Ngài nên tặng cho McRaven một chiếc thước dây mạ vàng”. Obama nói: “Đó là một ý tưởng tuyệt vời”. Bốn ngày sau cuộc đột kích, khi McRaven bước vào Phòng Bầu dục để gặp tổng thống, Obama nói: “Này, tôi có thứ này cho anh” và đưa cho ông ta một chiếc thước dây gắn trên đế tròn.
Khối lượng tài liệu được lực lượng SEAL thu thập tại khu nhà của bin Laden nhanh chóng được vận chuyển trở lại Washington, nơi một lực lượng đặc nhiệm gồm 125 người làm việc 24/7 một cách nhanh chóng phân loại bất cứ thứ gì liên quan việc lập kế hoạch tấn công của al-Qaeda. Mọi người nói tiếng Ả Rập có sẵn trong cộng đồng tình báo đều được lôi kéo về làm việc cho điều được gọi là “kho báu tình báo,” để hình thành các báo cáo cho cơ quan cưỡng chế pháp luật và cộng đồng tình báo về bất kì nguồn tin đe dọa nào cần phải triệt phá. Duyệt xét kho tài liệu tịch thu được, những gì đập vào mắt James Clapper, giám đốc tình báo quốc gia, là những hiệu quả của nhiều năm tự cô lập mình đã tác động lên bin Laden. Clapper nhận ra rằng những mưu tính của bin Laden về các cuộc tấn công gây thương vong hàng loạt cho hệ thống giao thông của Mỹ hoặc tàu chở dầu ở Ấn Độ Dương là sự kết hợp giữa tính nghiêm túc và tính điên rồ. “Một số trong đó là khả thi, phần lớn mang tính khao khát và một số ít tôi nghĩ khá ảo tưởng. Một phần trong số đó khiến tôi nhớ đến Hitler trong giai đoạn cuối của Thế chiến II; khi ông ấy ra lệnh điều động qua lại các đạo quân không hề tồn tại.”
Vào ngày 3 tháng 5, Panetta nói với tạp chí Time điều mà các quan chức Nhà Trắng đã thảo luận trong các cuộc họp riêng tư là “Chúng tôi quyết định rằng bất kỳ nỗ lực nào hợp tác với người Pakistan đều có thể gây nguy hiểm cho sứ mệnh. Họ có thể cảnh báo với các mục tiêu.” Tuyên bố này đã đổ thêm muối vào vết thương hở ở Pakistan. Phản ứng đầu tiên của quân đội Pakistan đối với chiến dịch của bin Laden là bị sốc. Al-Qaeda và các đồng bọn của họ ở Pakistan đã nhiều lần nhắm mục tiêu vào quân đội Pakistan, vì vậy cú sốc đó còn gây ra sự hài lòng nhất định ở các cấp cao trong quân đội.Sau ngày bin Laden bị tiêu diệt, Tướng Kayani và Pasha đã gặp Marc Grossman, đặc phái viên của Obama tại Afghanistan và Pakistan, cũng như với Đại sứ Hoa Kỳ tại Pakistan Cameron Munter. Cả hai tướng Pakistan đều gửi lời chúc mừng tới các nhà ngoại giao Mỹ về cái chết của bin Laden.
Nhưng những cảm xúc tốt đẹp không kéo dài. Cú sốc về cái chết của bin Laden nhanh chóng nhường chỗ cho sự tức tối khi người Pakistan nhận ra rằng mối quan hệ đối tác chiến lược đã hứa hẹn với Hoa Kỳ đã mang lại, thứ nhất, số lượng các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái tăng lên đáng kể ở khu vực bộ tộc của Pakistan, vốn cực kỳ không được ưa chuộng, và thứ hai, Vụ Raymond Davis, trong đó quân đội đã tiêu tốn vốn liếng chính trị đáng kể để giúp Davis ra tù sau khi anh ta đã sát hại hai người Pakistan ở Lahore. Cuộc đột kích đơn phương của Mỹ nhằm tiêu diệt bin Laden ở trung tâm Pakistan hiện đã vượt xa những diễn biến này. Khi ý nghĩa đầy đủ của chiến dịch bin Laden đã rõ ràng, Tướng Kayani tự hỏi: “Làm sao người bạn tốt của tôi, Đô đốc Mullen, lại không báo trước cho tôi biết về cuộc đột kích này?” Kayani và Mullen hiếm khi bắt chuyện với nhau kể từ đó.
Cuộc đột kích gây ra sự bối rối khủng khiếp cho quân đội Pakistan, vốn thích coi mình – với một số lý do chính đáng – là tổ chức có năng lực nhất ở Pakistan. Nếu lực lượng Hải quân SEAL có thể tiến vào trung tâm Pakistan mà quân đội Pakistan không hay biết để làm bất cứ việc gì, thì điều này nói lên đôi điều về khả năng của quân đội trong việc bảo vệ chủ quyền, vũ khí hạt nhân của mình khỏi bị lực lượng Ấn Độ hoặc thậm chí là quân đội Mỹ chiếm giữ?
Sự phẫn nộ của người dân đối với quân đội lên cao ở Pakistan, đặc biệt là đối với Tướng Kayani, người đang cố gắng xây dựng cầu nối với người Mỹ. Sự chỉ trích quân đội từ khắp nơi, nói chung là không thể tưởng tượng được ở Pakistan, đã lan tràn trong vài ngày sau cuộc đột kích. Công việc của Kayani và Pasha dường như đang ở thế cân bằng, vì họ đang mất đi sự ủng hộ từ cả bên trong quân đội lẫn người Pakistan nói chung. Kayani lo lắng hình ảnh của quân đội có thể tan vỡ, và ông nói với những đồng nghiệp thân cận nhất rằng đây là tuần lễ tồi tệ nhất trong cuộc đời mình.
Trước đây, Tướng Pasha, giám đốc tình báo Pakistan, đã yêu cầu người đồng cấp Mỹ, Panetta, rằng nếu CIA không tin tưởng chính phủ hoặc quân đội Pakistan về một số vấn đề quan trọng thì ít nhất hãy nói với ông ta, Kayani hoặc Tổng thống. Zardari, vậy thì người Pakistan sẽ có thể giữ thể diện bằng cách thành thật nói rằng họ đã được thông báo. Là một người đàn ông cao 5 bộ 7, giọng nói nhỏ nhẹ, có quầng đen sâu quanh mắt, phản ánh nhiều đêm mất ngủ, Pasha đã đóng vai trò then chốt trong việc đưa nhà thầu CIA Raymond Davis ra tù, đàm phán trực tiếp với các nạn nhân. gia đình để họ chấp nhận “đồng tiền máu” nhằm trả tự do cho Davis. Sau cuộc đột kích bin Laden, Pasha cảm thấy mối quan hệ với Hoa Kỳ đã rạn nứt đến mức không thể hàn gắn được.
Quan điểm này đã được chia sẻ tại Quốc hội Hoa Kỳ, nơi có sự phẫn nộ lan rộng rằng bin Laden đã ẩn náu ở Pakistan, một quốc gia đã nhận được hàng tỷ đô la viện trợ của Hoa Kỳ kể từ vụ 11/9 (đừng bận tâm rằng phần lớn “viện trợ” này nằm ở thực tế là Pakistan đã bồi thường cho quân đội vì các hoạt động quân sự mà Hoa Kỳ đã yêu cầu nước này thực hiện chống lại Taliban dọc biên giới Afghanistan-Pakistan). Đại diện Mike Rogers, đảng viên Cộng hòa Michigan, chủ tịch Ủy ban Tình báo Hạ viện, đã công khai nói: “Tôi tin rằng có những thành phần của cả quân đội [Pakistan] và cơ quan tình báo theo một cách nào đó, cả trước đây và thậm chí có thể đã cung cấp một số mức độ hỗ trợ hiện tại cho Osama bin Laden.” Rogers không đưa ra bằng chứng nào cho khẳng định này, và đánh giá của cộng đồng tình báo Hoa Kỳ trong vòng vài tuần sau chiến dịch Abbottabad cho răng trên thực tế, không có sự đồng lõa chính thức nào của chính quyền Pakistan trong việc lưu trú của bin Laden ở Abbottabad và không có gì trong kho báu tư liệu được thu hồi từ khu nhà cung cấp bất kỳ bằng chứng cho thấy bin Laden nhận được sự hỗ trợ từ các quan chức Pakistan. Tuy nhiên, quan điểm của Rogers cho rằng người Pakistan đã giúp che chở thủ lĩnh al-Qaeda là điều phổ biến cả trong hội trường Quốc hội và trên các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ.
Đúng như dự kiến, vào ngày 6 tháng 5, chỉ vài ngày sau chiến dịch bin Laden, al-Qaeda đã chính thức xác nhận cái chết của thủ lĩnh mình trong một tin nhắn đăng trên các diễn đàn Internet thánh chiến, nơi trước đây cánh truyền thông của nhóm này thường xuyên đăng tải các tuyên truyền quá khích. Thông điệp thề trả thù cho hành động “tử vì đạo”của bin Laden. Al-Qaeda khẳng định rằng máu của bin Laden “quý giá đối với chúng tôi và mọi người Hồi giáo không thể bị lãng phí một cách vô ích…. Chúng tôi kêu gọi những người Hồi giáo của chúng tôi ở Pakistan, nơi mà Sheikh Osama đã bị giết, hãy đứng dậy và nổi dậy để… thanh tẩy đất nước của mình.” khỏi sự bẩn thỉu của người Mỹ đã gieo rắc nạn tham nhũng trên đó.” Rất ít người, kể cả người Pakistan, chú ý đến lời kêu gọi này. Quả thực, các cuộc biểu tình ở Pakistan sau cái chết của bin Laden rất nhỏ, chỉ lên tới vài trăm người.
Người Pakistan sử dụng các nữ thẩm vấn viên để thẩm vấn các bà vợ cực đoan của bin Laden, nhưng họ nói rất ít về cuộc sống của mình trong thời gian lẩn trốn hoặc nương náu ở khu nhà Abbottabad. Bà vợ lớn tuổi nhất, Khairiah sáu mươi hai tuổi, được các nhà điều tra mô tả là “rất khó, rất bướng bỉnh.” Dù ngôi nhà họ được cung cấp chỗ ở khá thoải mái, nhưng các bà vợ nói với người quản lý Pakistan rằng họ chỉ muốn về nhà.
Và khi các quan chức CIA cuối cùng được cho.phép phỏng vấn họ, cả ba bà vợ của bin Laden tỏ thái độ khá thù địch với người Mỹ. Gần một năm sau khi bin Laden bị tiêu diệt, chính phủ Pakistan thông báo rằng ba người vợ góa của ông ta đã bị buộc tội “nhập cảnh bất hợp pháp” vào Pakistan. Sau đó họ nhanh chóng bị trục xuất về Ả Rập Saudi.
Tổng thống Obama đã đến thăm trụ sở CIA ở phía bắc Virginia vào ngày 20 tháng 5 để cảm ơn cộng đồng tình báo vì công việc của họ trong sứ mệnh tiêu diệt bin Laden. Obama đã gặp riêng khoảng 60 quan chức và nhà phân tích CIA, những người đóng vai trò quan trọng trong cuộc săn lùng thủ lĩnh al-Qaeda, và sau đó nói chuyện với khoảng 1.000 nhân viên chật kín sảnh phòng của trụ sở Cơ quan. Ông nói: “Công việc bạn đã làm và chất lượng thông tin bạn cung cấp đã tạo ra sự khác biệt quan trọng”. Tổng thống cũng nhận xét một cách hóm hỉnh: “Và chúng tôi cũng đã làm được một điều thực sự đáng chú ý ở Washington – chúng tôi đã giữ bí mật chuyện đó ”. Sảnh phòng vỡ òa tiếng cười, tiếng vỗ tay và tiếng reo hò của khán giả.
LỜI BẠT
THỜI THOÁI TRÀO CỦA¹ AL-QAEDA
GIỐNG NHƯ CHÚNG TA KHÔNG THỂ hiểu tại sao quân đội Pháp mạo hiểm hành quân đến Moscow trong mùa đông lạnh giá ở Nga năm 1812 nếu không hiểu được tham vọng của Napoléon, chúng ta cũng không thể hiểu được al-Qaeda hay vụ 11/9 nếu không hiểu được Osama bin Laden. Bin Laden là người nghĩ ra al-Qaeda trong những ngày suy tàn của Liên Xô chiếm đóng Afghanistan, và ông là nhà lãnh đạo không thể nghi ngờ kể từ khi thành lập al-Qaeda ở Peshawar vào tháng 8 năm 1988 cho đến ngày ông bị giết, hơn hai thập niên sau đó. Và chính bin Laden là người đã nghĩ ra chiến lược tấn công Hoa Kỳ nhằm chấm dứt ảnh hưởng của nước này trong thế giới Hồi giáo – một chiến lược cuối cùng phải trả giá giống như cuộc hành quân vào Moscow đã làm với Napoléon. Thay vì buộc Mỹ phải rút khỏi Trung Đông như bin Laden đã dự đoán sau vụ tấn công 11/9, Mỹ cùng với các đồng minh của mình đã phá hủy phần lớn al Qaeda ở Afghanistan và sau đó xâm lược Iraq, đồng thời xây dựng các căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ ở các quốc gia Hồi giáo như Kuwait, Qatar và Bahrain.
Nếu chiến lược tấn công Hoa Kỳ của bin Laden phần lớn là thất bại, thì ý tưởng của ông ta có thể có giá trị lâu dài hơn, ít nhất là ở một thiểu số nhỏ trong thế giới Hồi giáo. Giống như nhiều nhà lãnh đạo quyền lực nhất trong lịch sử, bin Laden đã kể một câu chuyện đơn giản về thế giới mà những người theo ông – từ Jakarta đến London – thấy dễ dàng nắm bắt. Trong lời kể của ông ta có một âm mưu của phương Tây và các đồng minh bù nhìn của nó trong thế giới Hồi giáo nhằm hủy hoại Hồi giáo đích thực, một âm mưu do Hoa Kỳ cầm đầu. Bin Laden truyền đạt rất hiệu quả tới khán giả toàn cầu câu chuyện bậc thầy này về cuộc chiến chống Hồi giáo do Mỹ dẫn đầu mà họ phải báo thù. Một cuộc thăm dò của Gallup tiến hành trong mười nước Hồi giáo vào năm 2005 và 2006 đã phát hiện ra rằng có 7 phần trăm người Hồi giáo cho biết vụ tấn công 11/9 là “hoàn toàn hợp lý.” Nói cách khác, trong số 1,2 tỷ người Hồi giáo trên thế giới, ước tính có khoảng 100 triệu người Hồi giáo hết lòng ủng hộ lý do của bin Laden về vụ tấn công 11/9 và sự cần thiết Hồi giáo phải trả thù phương Tây. Một trong những di sản độc hại nhất của bin Laden là ngay cả các nhóm chiến binh Hồi giáo không tự gọi mình là al-Qaeda cũng đã áp dụng hệ tư tưởng này. Theo các công tố viên Tây Ban Nha, Taliban ở Pakistan đã cử một đội đánh bom liều chết tới Barcelona để tấn công hệ thống tàu điện ngầm ở đó vào tháng 1 năm 2008. Một năm sau, Taliban ở Pakistan huấn luyện một tân binh người Mỹ, Faisal Shahzad, cho một cuộc tấn công ở New York. . Shahzad tới Pakistan, nơi hắn được huấn luyện chế tạo bom trong 5 ngày ở vùng bộ tộc Waziristan. Được khóa huấn luyện đào tạo, Shahzad đã đặt một quả bom vào một chiếc SUV và cố gắng kích nổ nó ở Quảng trường Thời đại vào khoảng 6 giờ chiều ngày 1 tháng 5 năm 2010. May mắn thay, quả bom bị trục trặc và Shahzad bị bắt hai ngày sau đó.
Vụ tấn công Mumbai năm 2008 cho thấy ý tưởng của bin Laden về việc tấn công các mục tiêu phương Tây và Do Thái cũng đã lan sang các nhóm chiến binh Pakistan như Lashkar-e-Taiba (LeT), vốn trước đây chỉ tập trung vào các mục tiêu Ấn Độ. Như chúng ta đã thấy, trong khoảng thời gian ba ngày vào cuối tháng 11 năm 2008, LeT đã thực hiện nhiều cuộc tấn công ở Mumbai, nhắm mục tiêu vào các khách sạn năm sao có người phương Tây và trung tâm cộng đồng người Mỹ gốc Do Thái.
Và các chi nhánh khu vực của al-Qaeda cũng sẽ cố gắng tiếp tục công việc đẫm máu của bin Laden. Al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập (AQAP) chịu trách nhiệm về việc cố gắng bắn hạ Chuyến bay 253 của hàng không Northwest ngang qua Detroit vào ngày Giáng sinh năm 2009 bằng một quả bom giấu trong quần lót của Umar Farouk Abdulmutallab, một tân binh người Nigeria. [Quả hom phát nổ chỉ làm bị thương tên khủng bố và 2 người khác, nhưng máy bay đáp xuống an toàn: ND]. Một năm sau, AQAP giấu bom trong các ống mực màu trên các máy bay tới Chicago. Những quả bom chỉ được phát hiện vào giây phút cuối cùng tại Sân bay East Midlands ở Vương quốc Anh và ở Dubai.
Vào tháng 9 năm 2009, nhóm nổi dậy Hồi giáo Somali Al-Shabaab (“thanh niên” trong tiếng Ả Rập) đã chính thức cam kết trung thành với bin Laden sau khoảng thời gian hai năm tuyển mộ những người Mỹ gốc Somali và những người Mỹ theo đạo Hồi khác để chiến đấu trong cuộc chiến ở Somali. Sau khi tuyên bố trung thành với bin Laden, Shabaab đã có thể chiêu mộ số lượng lớn chiến binh nước ngoài; theo ước tính có tới 1.200 người đã làm việc với nhóm vào năm 2010. Một năm sau đó, Shabaab kiểm soát phần lớn miền nam Somalia.
Tại Nigeria, một quốc gia có dân số Hồi giáo đông đảo, một nhóm thánh chiến có tên Boko Haram đã tấn công tòa nhà Liên Hiệp Quốc ở thủ đô Abuja của Nigeria, giết chết khoảng 20 người vào mùa hè năm 2011. Kể từ đó nhóm này đã tiến hành một chiến dịch có hệ thống chống lại các mục tiêu Kitô giáo.
Năm 2008, có cảm giác rằng Al-Qaeda ở Iraq (AQI) đang trên bờ vực thất bại. Đại sứ Mỹ tại Iraq, Ryan Crocker, nói: “Bạn sẽ không nghe tôi nói rằng al-Qaeda đang bị đánh bại, nhưng họ chưa bao giờ gần với thất bại hơn bây giờ.” Chắc chắn AQI đã mất khả năng kiểm soát những vùng rộng lớn của đất nước và một phần lớn dân số dòng Sunni như năm 2006, nhưng nhóm này vẫn tỏ ra kiên cường một cách đáng kinh ngạc. Và vào năm 2012, AQI đã cử chiến binh đến Syria để chiến đấu chống lại chế độ của Bashar al-Assad, người thuộc giáo phái Shia vốn bị những người dòng Sunni theo chủ nghĩa siêu cực đoan sáng lập al-Qaeda coi thường là dị giáo.
Các nhóm này, cũng như những “con sói đơn độc” lấy cảm hứng từ bin Laden, sẽ tiếp tục cố gắng tàn phá, nhưng những nỗ lực của chúng sẽ không gây ra một “cuộc xung đột giữa các nền văn minh” như bin Laden đã hy vọng thực hiện vào ngày 11/9. Quả thực, chính phủ ở các quốc gia Hồi giáo từ Jordan đến Indonesia đã có những hành động mạnh mẽ chống lại al-Qaeda và các chi nhánh của nó, và al-Qaeda hiện đang rao bán một hệ tư tưởng đã mất đi phần lớn sự quan tâm trong thế giới Hồi giáo. Tại hai quốc gia Hồi giáo đông dân nhất – Indonesia và Pakistan – quan điểm hậu thuẫn bin Laden và sự ủng hộ đối với các vụ đánh bom liều chết đã giảm ít nhất một nửa từ năm 2003 đến năm 2010.
Lý do chính của việc suy giảm này là thương vong của những thường dân Hồi giáo dưới bàn tay của bọn khủng bố thánh chiến. Al-Qaeda và các đồng bọn của nó đã liên tục nhắm mục tiêu vào đa số rộng lớn đồng bào Hồi giáo, người không chia sẻ cách nhìn của họ. Dấu vết của thường dân bị giết từ Baghdad đến Jakarta và từ Amman đến Islamabad trong thập niên sau ngày 11/9 phần lớn là hoạt động của al-Qaeda và đồng bọn. Việc Al-Qaeda và đồng bọn tự xác định mình là những người bảo vệ đạo Hồi chân chính nhưng vẫn để lại quá nhiều nạn nhân Hồi giáo sau lưng họ không gây ấn tượng với nhiều người trong thế giới Hồi giáo.
Bất chấp sự thất bại thảm hại trong chiến lược 11/9 của al-Qaeda, một số nhà văn, học giả, chính trị gia nổi tiếng ở phương Tây cho rằng các cuộc tấn công vào Washington và New York là sự khởi đầu của một cuộc chiến với hệ tư tưởng toàn trị tương tự như các hệ tư tưởng chết người mà Hoa Kỳ đã từng đối đầu trong thế kỷ 20. Chắc chắn “Chủ nghĩa Binladen” có một số điểm tương đồng với chủ nghĩa xã hội quốc gia và chủ nghĩa Stalin: chủ nghĩa bài Do Thái và chủ nghĩa phản tự do, sự ủng hộ các nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn, việc khai thác khéo léo các phương pháp tuyên truyền hiện đại và lời hứa hão huyền về những điều không tưởng trên trái đất nếu các chương trình của nó được thực hiện. Chủ nghĩa Binladen chưa bao giờ đặt ra bất cứ điều gì giống như mối đe dọa hiện hữu mà chủ nghĩa cộng sản hoặc chủ nghĩa Quốc xã đã gây ra. Tuy nhiên, niềm tin rằng “chủ nghĩa Hồi giáo phát xít” gây ra mối đe dọa lớn đối với phương Tây như Đức Quốc xã hay Liên Xô từng là tín điều đối với một số người. Richard Perle, một nhà tân bảo thủ có ảnh hưởng, đã cảnh báo rằng phương Tây sẽ phải đối mặt với “chiến thắng hoặc trận đại tàn sát” trong cuộc đấu tranh với những kẻ theo chủ nghĩa phát xít Hồi giáo. Và cựu giám đốc CIA James Woolsey trở thành người thường xuyên hiện diện trên các chương trình tin tức truyền hình sau ngày 11/9, gợi lên bóng ma của Thế chiến thứ IV.
Nhưng tất cả điều này chỉ là thêu dệt. Đức Quốc xã đã chiếm đóng và chinh phục hầu hết châu Âu và xúi giục một cuộc xung đột toàn cầu khiến hàng chục triệu người thiệt mạng. Và Hoa Kỳ đã chi khoảng 40% GDP để chống lại Đức Quốc xã, điều động hàng triệu binh sĩ. Các chế độ cộng sản đã giết chết 100 triệu người trong các cuộc chiến tranh, trại cải tạo, nạn đói và tàn sát.
Mối đe dọa do al-Qaeda gây ra có quy mô nhỏ hơn. Bất chấp lối hùng biện quá khích của bin Laden, không có nguy cơ những người theo ông sẽ chấm dứt lối sống của người Mỹ. Trong hầu hết mọi năm, số người Mỹ bị tai nạn chết đuối trong bồn tắm nhiều hơn số người chết do bị bọn khủng bố giết chết. Tuy nhiên, rất ít người trong chúng ta nuôi dưỡng nỗi sợ hãi phi lý về việc chết đuối trong bồn tắm. Các cuộc nghiên cứu nghiệp dư của al-Qaeda về vũ khí hủy diệt hàng loạt không thể so sánh với khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân rất thực tế mà thế giới phải đối mặt trong Chiến tranh Lạnh, và ngày nay có tương đối ít người ủng hộ chủ nghĩa Binladen ở phương Tây, trong khi có hàng chục triệu người theo chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít.
Dù mối đe dọa do al-Qaeda và các đồng bọn đặt ra là không đáng kể, cuộc chiến chống khủng bố là một vận đỏ cho tổ hợp công nghệ an ninh quốc gia Mỹ. Trước ngày 11/9 ngân sách hàng năm cho toàn bộ cơ quan tình báo Mỹ là khoảng 25 tỷ USD. Một thập niên sau đó là 80 tỷ USD.
SÁU TUẦN SAU cái chết của bin Laden, al-Qaeda đã công bố người kế nhiệm ông ta, bác sĩ phẫu thuật người Ai Cập Ayman al-Zawahiri. Người phó lâu năm của bin Laden đã tiếp nhận công việc của ông ta; người tiền nhiệm đã để lại cho y một di sản ngổn ngang. Vào thời điểm bin Laden bị giết, al-Qaeda đã là một “thương hiệu” ý thức hệ đã quá hạn sử dụng và là một tổ chức gặp rắc rối.
Trong “kho báu thông tin” với khoảng sáu nghìn tài liệu được lực lượng SEAL thu thập được từ khu nhà của bin Laden, có rất nhiều xác nhận sâu sắc về tình hình nguy ngập của al-Qaeda. Trong các bản ghi nhớ mà ông ta không bao giờ nghĩ sẽ rơi vào tay CIA, bin Laden đã khuyên các nhóm chiến binh thánh chiến khác không nên lấy biệt danh al-Qaeda. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2010, ông ta viết thư cho thủ lĩnh lực lượng dân quân Al-Shabaab tàn bạo ở Somalia, nói với hắn rằng Al-Shabaab không nên công khai tuyên bố mình là một phần của al-Qaeda vì làm như vậy sẽ chỉ thu hút kẻ thù, như chi nhánh của al-Qaeda ở Iraq đã làm, và sẽ khiến việc huy động tiền từ các nhà tài trợ Ả Rập giàu có trở nên khó khăn hơn.
Rõ ràng, ngay cả bin Laden cũng hiểu rằng thương hiệu al-Qaeda cũng đã mất đi lớp bòng sáng loáng. Đồng thời, ông cảm thấy bối rối trước việc chính quyền Obama đã giải quyết vấn đề thương hiệu của riêng mình vì đã “ngưng phần lớn việc sử dụng cụm từ ‘cuộc chiến chống khủng bố’ trong ngữ cảnh không muốn khiêu khích người Hồi giáo vì họ cảm thấy rằng cụm từ ‘cuộc chiến chống khủng bố’ có vẻ như đối với nhiều người là cuộc chiến chống Hồi giáo.”
Một loạt sai lầm ngoạn mục do chi nhánh của al-Qaeda ở Iraq gây ra đã tác động nặng nề đến tâm trí bin Laden và các cố vấn hàng đầu của y. Trong nội bộ họ, họ càu nhàu rằng chiến dịch tấn công của al-Qaeda nhằm vào những người theo đạo Thiên chúa ở Iraq đã không được bin Laden chấp thuận. Và bin Laden kêu gọi những người theo y ở Yemen không giết các thành viên của các bộ tộc địa phương, một chiến thuật mà al-Qaeda thường xuyên sử dụng ở miền tây Iraq, đã kích động một cuộc nổi dậy của các bộ tộc chống lại al-Qaeda bắt đầu vào năm 2006 và giáng một đòn mạnh vào vận số của nhóm ở Iraq.
Vào tháng 10 năm 2010, bin Laden đã viết một bản ghi nhớ 48 trang cho một trong những cấp phó của mình đang khảo sát tình hình cuộc thánh chiến al Qaeda. Ông ấy bắt đầu bằng một nhận xét lạc quan, cho răng đối với người Mỹ thì đó là “năm tồi tệ nhất của họ ở Afghanistan kể từ khi họ xâm chiếm,” một xu hướng được ông dự đoán sẽ được khuếch đại bởi sự khủng hoảng càng sâu sắc thêm của ngân sách Mỹ. Nhưng bin Laden cũng lo lắng rằng nơi trú ẩn lâu dài của Qaeda ở Waziristan, khu vực bộ tộc Pakistan, giờ đây cũng nguy hiểm vì chiến dịch đánh phá của máy bay không người lái của Mỹ ở đó. “Tôi đang nghiêng về việc đưa hầu hết anh em của chúng ta ra khỏi khu vực.”
Trong khi đó, bin Laden khuyên những người theo ông không nên di chuyển quanh các khu vực bộ tộc trừ những ngày u ám, khi các vệ tinh và máy bay không người lái của Mỹ không thể quan sát khu vực tốt, và ông phàn nàn rằng “người Mỹ đã tích lũy được rất nhiều kiến thức chuyên môn về không ảnh của vùng do họ đã làm việc này nhiều năm rồi, thậm chí họ còn có thể phân biệt được những ngôi nhà nào có lượng khách nam thường xuyên lui tới với tỷ lệ cao hơn bình thường.”
Bin Laden kêu gọi những người theo mình rời khỏi các vùng bộ tộc để đến các tỉnh xa xôi của Afghanistan là Ghazni, Zabul, và đặc biệt là Kunar, nơi ông đã ẩn náu thành công sau Trận Tora Bora, chỉ ra rằng những ngọn núi cao và rừng rậm của Kunar cung cấp sự bảo vệ đặc biệt tốt khỏi con mắt tò mò của người Mỹ. Bin Laden lo lắng về cậu con trai 20 tuổi của mình, Hamza, người đã chuyển đến các vùng bộ tộc ở Pakistan sau khi ra khỏi tình trạng quản thúc ở Iran, viết: “Hãy nhớ nói với Hamza rằng tôi nhắn cậu ta nên rời khỏi Waziristan… Cậu ta chỉ nên di chuyển khi mây mù dày đặc.” Hamza nên tới vương quốc Qatar nhỏ bé, thịnh vượng ở Vịnh Ba Tư, bin Laden khuyên.
Trong những ngày cuối đời, bin Laden trở nên thận trọng gấp đôi, đôi khi còn hoang tưởng trong suy nghĩ. Ông ta chỉ thị cho Hamza nên vứt bỏ bất cứ thứ gì cậu ta mang theo từ Iran vì nó có thể chứa chip theo dõi và cậu ta nên tránh bầu bạn với một người tên là Abu Salman al-Baluchi vì y có các cộng sự làm việc cho cơ quan tình báo Pakistan. Bin Laden cũng đưa ra những chỉ dẫn phức tạp về cách Hamza có thể trốn tránh sự theo dõi của máy bay không người lái Mỹ bằng cách gặp các thành viên của al-Qaeda bên trong một đường hầm cụ thể gần Peshawar.
Bin Laden cũng nhắc nhở các cấp phó của mình “rằng mọi liên lạc với người khác nên được thực hiện qua thư” thay vì qua điện thoại hoặc Internet. Kết quả là ông phải đợi tới hai hoặc ba tháng để nhận được câu trả lời cho các truy vấn của mình – đây không phải là cách hiệu quả để điều hành một tổ chức. Bin Laden cũng khuyên các cấp phó của mình rằng khi bắt cóc ai đó, họ nên đề phòng nhiều trong quá trình đàm phán và vứt bỏ mọi túi tiền chuộc vì chúng có thể chứa các thiết bị theo dõi
Trong những năm cuối đời bị cô lập, bin Laden thậm chí còn trở thành một nhà quản lý vi mô thâm căn cố đế, khuyên nhủ nhóm của ông ở Yemen rằng các thành viên của nhóm phải luôn nạp nhiên liệu và ăn uống đầy đủ trước khi bắt đầu các chuyến đi để không phải dừng lại ở các trạm xăng và nhà hàng có thể bị gián điệp của chính phủ theo dõi. Và ông còn khuyên chi nhánh Bắc Phi của al-Qaeda trồng cây để sau này có thể sử dụng chúng để che giấu các hoạt động của mình.
Trên hết, bin Laden lập chiến lược để cải thiện hình ảnh của mình trước công chúng, nhận xét rằng “phần lớn cuộc chiến xảy ra trên các phương tiện truyền thông.” Ông căn dặn đội truyền thông của mình “Kỷ niệm 10 năm vụ tấn công 11/9 sắp đến và do tầm quan trọng của ngày này nên bắt đầu chuẩn bị từ bây giờ. Vui lòng gửi cho tôi đề xuất của các anh về việc này.” Ông ta đề nghị liên hệ với các phóng viên của cả Al Jazeera Ang ngữ và Al Jazeera Ả Rập ngữ và tự hỏi liệu mình có thể điều trần trên mạng truyền hình Mỹ hay không: “Chúng ta cũng nên tìm một kênh Mỹ gần như không thiên vị như CBS.” Có lẽ để đáp lại lời kêu gọi hành động này, một trong những cố vấn truyền thông của ông ta – được cho là Adam Gadahn, kẻ tuyển mộ al-Qaeda người Mỹ – đã gợi ý rằng bin Laden nên lợi dụng dịp kỷ niệm ngày 11/9 năm 2011 để ghi lại một đoạn băng video có độ phân giải cao có thể được trao cho tất cả các mạng tin tức lớn của Mỹ ngoại trừ Fox News, mà Gadahn cho biết “thiếu tính trung lập.” Có vẻ như bin Laden chưa bao giờ thực hiện một đoạn băng như vậy.
Cho đến phút cuối cùng, bin Laden vẫn tập trung vào việc tiến hành một cuộc tấn công quy mô lớn khác vào Hoa Kỳ, thúc giục một cấp phó, “Sẽ rất tuyệt nếu anh có thể đề cử một trong những anh em đủ tiêu chuẩn chịu trách nhiệm cho một chiến dịch lớn chống lại Hoa Kỳ. Thật tuyệt nếu anh chọn một số anh em không quá mười và gửi họ riêng lẻ đến đất nước của họ mà không người nào biết đến người khác để học về hàng không.” Kỳ lạ thay, ông ta phàn nàn rằng Faisal Shahzad, công dân Mỹ gốc người Pakistan, kẻ đã chủ mưu làm nổ tung ôtô SUV ở Quảng trường Thời đại, đã phá vỡ lời thề trung thành mà hắn đã tuyên thệ với Hoa Kỳ khi vô quốc tịch, và ông xuýt xoa nói rằng “trong Hồi giáo không được phép phản bội niềm tin và phá vỡ một giao ước.” Sự có vẻ ác cảm đối với việc tuyển dụng công dân Hoa Kỳ để thực hiện các cuộc tấn công như vậy làm thu hẹp phạm vi các tùy chọn sẵn có. Trong bất kỳ trường hợp nào, Zawahiri phản bác, bảo với bin Laden rằng sẽ thực tế hơn nên tấn công binh lính Mỹ ở Afghanistan hơn là dân thường ở Mỹ.
Thực tế là bin Laden và đồng bọn của y đã không tiến hành một cuộc tấn công khủng bố thành công nào ở phương Tây kể từ vụ đánh bom phương tiện giao thông ngày 7 tháng 7 năm 2005 ở London. Các âm mưu của mạng lưới khủng bố nhằm đánh bom ở Manhattan năm 2009 và tiến hành các cuộc tấn công kiểu Mumbai ở Đức một năm sau đó đều thất bại. Và al-Qaeda chưa bao giờ tiến hành một cuộc tấn công thành công ở Hoa Kỳ sau ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Kỷ lục thất bại đáng kể này có trước các sự kiện quan trọng của Mùa xuân Ả Rập – những sự kiện trong đó các thủ lĩnh, chiến binh và tư tưởng của al-Qaeda không đóng vai trò gì. Trong khi đó, các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ đã tiêu diệt hàng loạt chỉ huy của al-Qaeda kể từ mùa hè năm 2008, khi Tổng thống George W. Bush ra lệnh tăng cường chương trình tấn công vào các khu vực bộ tộc của Pakistan. Sau khi Zawahiri lên nắm giữ chức vụ cao nhất trong al-Qaeda, một máy bay không người lái của CIA đã giết chết Atiyah Abdul Rahman, người mà như chúng ta đã biết, từng là tham mưu trưởng của bin Laden trong nhiều năm. Nhóm không thể dễ dàng thay thế ai đó bằng có kinh nghiệm lâu năm như Rahman, hoặc nhiều lãnh đạo khác của nhóm đã bị máy bay không người lái tấn công trong năm cuối cùng tại chức của Bush và trong nhiệm kỳ tổng thống của Obama.
Zawahiri khó có thể xoay chuyển tình thế cho al-Qaeda. Còn lâu mới là nhà hùng biện tạo cảm hứng như bin Laden từng là, Zawahiri giống một ông chú mô phạm, dông dài, khăng khăng vui thú bên gia đình vào bữa tối Lễ tạ ơn với những câu chuyện tranh chấp bí mật với những kẻ thù mờ mịt của mình. Trong năm 2011, khoảng nửa tá bài chính luận công khai của Zawahiri về sự kiện Mùa xuân Ả Rập được chào đón bởi một cái ngáp tập thể ở Trung Đông. Zawahiri không chỉ là một lỗ hổng về sức lôi cuốn, mà còn là một nhà lãnh đạo kém hiệu quả, thậm chí không được các nhóm thánh chiến khác nhau từ quê hương Ai Cập của y đánh giá cao hoặc yêu mến.
Chú thich: Quyển sách này xuất bản trước khi Ayman al-Zawahiri, bị giết chết vào ngày 31/7/2022 bởi một máy bay không người lái của Mỹ , bắn vào ban công của nhà y ở Kabul.
Cuộc tấn công diễn ra gần một năm sau khi Chiến tranh ở Afghanistan kết thúc. Các quan chức Hoa Kỳ gọi sự hiện diện của al-Zawahiri ở Afghanistan là vi phạm thỏa thuận rút lực lượng Mỹ khỏi đất nước, theo đó Taliban sẽ không cho phép các thành viên al-Qaeda có bất kỳ nơi trú ẩn nào. Sau cuộc tấn công, các thành viên của mạng lưới Haqqani đã cố gắng che đậy cái chết của al-Zawahiri, mặc dù Hoa Kỳ có thể xác nhận điều đó. Biden đã đưa ra một tuyên bố thông báo về cái chết của al-Zawahiri, gọi đó là “sự thực thi công lý”.
Cái chết của bin Laden đã trừ khử người sáng lập al-Qaeda, tổ chức vốn chỉ biết đến một thủ lĩnh kể từ khi thành lập vào năm 1988, và nó cũng loại bỏ một người đã đưa ra những mục tiêu chiến lược rộng lớn, hầu như được nhất trí cao cho phong trào thánh chiến rộng lớn hơn. Một nước cờ được kỳ vọng là một trong số khoảng chục người con trai của bin Laden – được ban cái họ “bin Laden” ₫ầy tính biểu tượng – cuối cùng có thể vươn lên để tiếp quản nhóm khủng bố.
CHỦ NGHĨA KHỦNG BỐ THÁNH CHIẾN, tất nhiên, sẽ không biến mất vì cái chết của bin Laden, nhưng thật khó để tưởng tượng có hai kết thúc nào cho “Cuộc chiến chống khủng bố” có tính cáo chung hơn các cuộc nổi dậy của quần chúng chống lại các chế độ độc tài ở Trung Đông và cái chết của Bin Laden.
Tất nhiên, chúng ta không biết kết quả cuối cùng của các cuộc cách mạng Ả Rập, nhưng có rất ít khả năng al-Qaeda hoặc các nhóm cực đoan khác có thể giành được quyền lực khi một chế độ độc tài ở Trung Đông sụp đổ. Nhưng trong khi al-Qaeda và các đồng bọn của nó không thể nắm quyền lực ở bất cứ đâu trong thế giới Hồi giáo, các nhóm này vẫn phát triển nhờ sự hỗn loạn và nội chiến. Và điểm chung của các cuộc cách mạng là chúng vốn không thể đoán trước được ngay cả đối với những người lãnh đạo chúng, vì vậy bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra trong những năm tới ở Libya, Yemen và Syria, và có nhiều điều không thể đoán trước được ở Ai Cập.
Tại Ai Cập, các nhóm Hồi giáo đã thể hiện rất tốt trong cuộc bầu cử quốc hội sau khi nhà độc tài Hosni Mubarak bị lật đổ. Tổ chức Anh em Hồi giáo và phong trào Salafism nhận được khoảng 3/4 số phiếu bầu. Những nhóm này không ủng hộ bạo lực, và al-Qaeda từ lâu đã chỉ trích Tổ chức Anh em Hồi giáo vì sẵn sàng tham gia vào các cuộc bầu cử mà các thành viên của al-Qaeda coi là “phi Hồi giáo”. Nhưng chắc chắn phong trào Salafism ở Ai Cập mong muốn một xã hội trông giống Taliban ở Afghanistan thời trước 11/9 hơn là một xã hội mà các nhà cách mạng Facebook lần đầu tiên phát động cuộc nổi dậy chống lại Mubarak.
Bất chấp những thiếu sót của Zawahiri và những vấn đề thể chế nghiêm trọng mà y thừa hưởng, có một số cơ hội để y giúp hồi sinh al-Qaeda. Khi lời hứa vĩ đại ban đầu về Mùa xuân Ả Rập lùi xa, có khả năng Zawahiri sẽ cố gắng khai thác sự hỗn loạn trong khu vực để đạt được mục tiêu trọng tâm của mình: thiết lập một thiên đường mới cho al-Qaeda. Nơi duy nhất mà y có thể thực hiện được điều này là Yemen. Giống như bin Laden, nhiều thành viên của al-Qaeda có nguồn gốc ở Yemen, và các quan chức chống khủng bố của Mỹ đã xác định chi nhánh al-Qaeda ở đó là chi nhánh nguy hiểm nhất trong khu vực của nhóm. Và cuộc nội chiến đó nhấn chìm Yemen vào năm 2011 đã tạo cơ hội cho các chiến binh thánh chiến chiếm giữ một số thị trấn ở phía nam đất nước mà họ đã nắm giữ trong khoảng một năm. Chắc chắn al-Qaeda sẽ muốn xây dựng chiến công này ở một quốc gia gần giống với Afghanistan trước ngày 11/9: một quốc gia có phần lớn dân tộc thiểu số, được vũ trang mạnh mẽ, nghèo khó và bị tàn phá bởi nhiều năm chiến tranh.
OSAMA BIN LADEN từ lâu đã tự coi mình là một nhà thơ. Các sáng tác của ông có xu hướng bệnh hoạn, và một bài thơ viết hai năm sau ngày 11/9 mà ông đã suy ngẫm về hoàn cảnh tử vong của mình cũng không ngoại lệ. Bin Laden viết: “Hãy để ngôi mộ của tôi trong bụng đại bàng, nơi an nghỉ của nó trong bầu trời giữa những con đại bàng đang đậu.” Nhưng không có cảnh tử đạo ngoạn mục trong vùng núi giữa những con đại bàng. Thay vào đó bin Laden đã chết bao quanh bởi các bà vợ của ông ta trong một khu.nhà ở ngoại ô tồi tàn chìm ngập trong kính vỡ và vương vãi các đồ chơi trẻ em và các lọ thuốc – minh chứng cho cuộc tấn công hung hãn của lực lượng SEAL vào nơi ẩn náu cuối cùng của mình. Và vào ngày 25 tháng 2, 2012, chính quyền Pakistan gửi lực lượng cơ giới đến khu phức hợp, xóa bỏ sáu năm lưu trú của bin Laden ở Abbottabad chỉ trong một ngày cuối tuần.
Nếu có chất thơ trong cái chết của bin Laden, thì đó là chất thơ của công lý, và nó gợi nhớ đến những lời của Tổng thống George W. Bush trước Quốc hội chỉ 9 ngày sau vụ 11/9, khi ông dự đoán rằng cuối cùng bin Laden và al-Qaeda sẽ bị gửi đến “nấm mồ không dấu vết của lịch sử chứa đầy những lời nói dối rác rưởi”, giống như chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã đã từng bị trước đó. Tổng thống Barack Obama đã mô tả al-Qaeda và các chi nhánh của nó là “những kẻ nhỏ nhen ở phía sai trái của lịch sử”.
Đối với al-Qaeda, lịch sử đó tăng tốc đầy kịch tính trong thi thể của bin Laden chìm xuống vực sâu.
Dịch xong ngày 30 tháng 4 năm 2024
Good translation,I enjoyed it.Thank you !
ThíchThích