
Peter l. Bergen
Trần Quang Nghĩa dịch
9 NHỮNG NĂM CUỐI CÙNG CỦA OSAMA BIN LADEN
TẤT NHIÊN, CUỘC SỐNG CỦA BIN LADEN trong khu nhà không chỉ diễn ra bằng việc chăm sóc vợ con, cầu nguyện hàng ngày, đam mê đọc các tác phẩm văn học chống Mỹ và chống Do Thái, và xem những đoạn video cũ của chính mình. Ông cũng tiêu tốn thời gian cho công việc nghiêm túc là điều hành tất cả al-Qaeda, một nhiệm vụ khó khăn đối với một kẻ đang lẩn trốn mà các cấp dưới chủ chốt của y cũng đang chạy trốn.
Chỉ thông qua Abu Ahmed al-Kuwaiti, bin Laden mới có thể duy trì được vẻ ngoài cho quyền kiểm soát tổ chức của mình. Người Kuwait và em trai Abrar, cả hai đều ở độ tuổi ngoài 30, là những người bảo vệ duy nhất của bin Laden và là mối liên hệ duy nhất của ông ta với thế giới bên ngoài. Tại cửa hàng bách hoá địa phương, họ mua gạo, đậu lăng và các mặt hàng tạp hóa khác. Sử dụng bí danh địa phương của họ, Arshad Khan và Tariq Khan, hai anh em sẽ hộ tống những đứa con của bin Laden đến một bác sĩ địa phương để điều trị các chứng rối loạn tiêu hóa, cảm lạnh và ho thông thường. Gia đình Khan đến và đi trong khu vực lân cận mà không phô trương, lái chiếc Suzuki Jeep màu trắng và xe tải màu đỏ khi họ đi làm việc vặt. Hai anh em thỉnh thoảng tham dự các buổi cầu nguyện hàng ngày tại một nhà thờ Hồi giáo địa phương nhưng không nói chuyện phiếm. Đối với những người tò mò, họ cho biết họ làm việc trong lĩnh vực kinh doanh vận tải. Điều này không thỏa mãn sự tò mò của một số người dân địa phương, họ cho rằng hai anh em có thể là những kẻ buôn bán ma túy và phàn nàn rằng ngay cả với một ngôi nhà lớn như vậy, họ cũng không giúp đỡ được người nghèo.
Trên thực tế, hai anh em đã được al-Qaeda đào tạo lâu năm và cha họ đã nhập cư năm thập niên trước đến Kuwait từ một ngôi làng nhỏ Pashtun ở phía bắc Pakistan, cách Abbottabad khoảng ba giờ lái xe. Bối cảnh này khiến hai anh em rất cần thiết với bin Laden vì họ có thể dễ dàng hòa nhập vào các khu vực nói tiếng Pashto ở phía bắc và phía tây Pakistan, nơi các thủ lĩnh của al-Qaeda hiện đang ẩn náu, đồng thời họ cũng nói được tiếng Ả Rập và do đó có thể giao tiếp dễ dàng với các lãnh đạo Ả Rập của al-Qaeda. Anh em đã tuyên thệ bayat với bin Laden, một lời thề trung thành ràng buộc về mặt tôn giáo với người đàn ông mà họ tôn kính là tiểu vương của thánh chiến. Họ sẽ làm mọi việc bin Laden giao phó mà không cần thắc mắc.
Chủ yếu người Kuwait vận chuyển các thư từ và usb máy tính chứa đựng những chỉ dẫn của bin Laden tới các thủ lĩnh al-Qaeda khác. Người Kuwait đã thực hành hoạt động an ninh một cách cẩn thận khi vận chuyển những món hàng này đến Peshawar để sau đó phân phối đến các khu vực bộ tộc gần đó ở biên giới với Afghanistan, nơi có nhiều thủ lĩnh của al-Qaeda đóng quân. Ý thức được khả năng giám sát điện thoại di động của người Mỹ và Pakistan, người Kuwait chỉ bật điện thoại di động của mình khi đến gần thị trấn nhỏ Hasan Abdal, cách Abbottabad một giờ lái xe về phía tây nam.
Thông qua những thông điệp do người Kuwait trung thành chuyển giao, bin Laden vẫn giữ liên lạc với tổ chức mà ông ta đã thành lập và cố gắng hết sức để quản lý các chi nhánh khu vực rộng lớn của al-Qaeda ở các quốc gia như Iraq, Somalia và Yemen. Ông ta cũng tiếp tục âm mưu những vụ tàn sát có quy mô lớn – những vấn đề nghiêm trọng mà không hề thảo luận với vợ mình.
Đường dẫn chính của Bin Laden đến tổ chức của mình là Atiyah Abdul Rahman, một chiến binh người Libya khoảng bốn mươi tuổi. Được các quan chức phương Tây coi là một kẻ khủng bố tầm trung, Rahman thực ra là tham mưu trưởng của bin Laden. Riêng bin Laden lo lắng rằng Rahman có thể nặng tay và thiếu ngoại giao trong cách đối xử với người khác, nhưng bất chấp những lo ngại đó, bin Laden vẫn thường xuyên liên lạc với người Libya này, nhiều hơn so với cấp phó nổi tiếng cứng rắn hơn của ông, Bác sĩ phẫu thuật Ai Cập Ayman al-Zawahiri. Trong những năm sau ngày 11/9, các quan chức phương Tây chống khủng bố tin rằng Zawahiri là người trực tiếp chỉ đạo al-Qaeda, nhưng trên thực tế, bin Laden mới là người can thiệp sâu vào các quyết định nhân sự và âm mưu của nhóm.
Thông qua Rahman, bin Laden đưa ra chỉ thị cho các chi nhánh trong khu vực của hắn: tổ chức khủng bố Bắc Phi al-Qaeda ở Hồi giáo Maghreb, nhóm chiến binh Somali Al-Shabaab, al-Qaeda ở Iraq và al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập. Trong những năm sau vụ 11/9, Rahman cũng tới Iran để làm cầu nối giữa bin Laden và một số thủ lĩnh lâu năm của al-Qaeda chẳng hạn như Saif al-Adel, người đang sống ở đó dưới hình thức quản thúc tại gia, giống như một số người con của bin Laden.
Iraq là mối quan tâm đặc biệt đối với bin Laden, người ban đầu rất vui mừng trước những cơ hội mà cuộc xâm lược năm 2003 của Mỹ mang lại để thành lập một chi nhánh của al-Qaeda ở trung tâm Ả Rập. Tuy nhiên, vào thời điểm chuyển đến khu nhà ở Abbottabad hai năm sau đó, ông ngày càng lo lắng về các chiến thuật tàn bạo của al-Qaeda ở Iraq, bao gồm việc cho nổ tung các nhà thờ Hồi giáo quan trọng của người dòng Shia và giết hại các đồng bào dòng Sunni không tuân theo nghiêm nhặt các mệnh lệnh của nhóm. Bin Laden nhắc nhở các nhà lãnh đạo của chi nhánh Iraq của mình về những sai lầm mà phiến quân Hồi giáo đã mắc phải ở Algeria vào những năm 1990, khi chúng phát động một cuộc nội chiến tàn khốc đến mức loại bỏ mọi dấu vết về sự ủng hộ của người dân mà chúng từng được hưởng.
Vào tháng 11 năm 2005, khi bin Laden đang ổn định cuộc sống mới tại khu nhà Abbottabad, Rahman đã viết một lá thư dài 7 trang cho thủ lĩnh al-Qaeda ở Iraq, tên Abu Musab al-Zarqawi độc ác đến kinh ngạc, kẻ có thói quen tự tay chặt đầu con tin và quay video kết quả để phát tán toàn cầu trên Internet. Bức thư của Rahman, phản ánh rõ ràng quan điểm của bin Laden, là một lời phê bình lịch sự nhưng gay gắt đối với Zarqawi, kẻ gần đây đã chỉ đạo các vụ đánh bom liều chết tại các khách sạn Mỹ ở Amman, Jordan, khiến 60 người thiệt mạng, hầu hết là thường dân Jordan tham dự một đám cưới. . Các vụ đánh bom đã làm hoen ố nghiêm trọng hình ảnh của al-Qaeda trong thế giới Ả Rập và dẫn đến việc Zarqawi tàn sát bừa bãi bất kỳ người Hồi giáo nào không chia sẻ chính xác quan điểm của hắn. Giống như một ông chủ đang bất mãn đưa ra bản đánh giá hiệu suất, Rahman nói với Zarqawi rằng từ nay trở đi hắn ta nên làm theo chỉ thị của bin Laden và ngừng các hoạt động phản tác dụng như vụ đánh bom khách sạn ở Jordan.
Khi Zarqawi bị tiêu diệt trong một cuộc không kích của Mỹ sáu tháng sau đó, những tuyên bố ngưỡng mộ công khai sau đó của bin Laden dành cho hắn chỉ vì Zarqawi đã chiến đấu chống lại người Mỹ ở Iraq theo cách mà chính bin Laden chỉ có thể mơ ước. Riêng tư, bin Laden đã lo lắng rằng Zarqawi đã làm tổn hại nặng nề đến thương hiệu al-Qaeda, và vào tháng 10 năm 2007, thủ lĩnh của al-Qaeda thậm chí còn đưa ra lời xin lỗi công khai chưa từng có về hành vi của những người theo ông ta ở Iraq, mắng họ là “cuồng tín”.
Khi thời gian bin Laden ở Abbottabad kéo dài nhiều năm, trọng tâm của ông luôn là tấn công Hoa Kỳ. Đến đầu năm 2011, ông nhận thức sâu sắc rằng gần một thập niên đã trôi qua kể từ cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ. Khi lễ kỷ niệm 10 năm chiến thắng vĩ đại của ông chống lại người Mỹ đang đến gần, bin Laden đã viết tin nhắn cho các chi nhánh của al-Qaeda ở Algeria, Iraq và Yemen để nhắc nhở họ rằng Mỹ vẫn là kẻ thù chính của họ và khuyên nhủ họ không nên phân tâm bởi các cuộc giao tranh cục bộ. Ông ta đã lên kế hoạch ám sát Tổng thống Obama và Tướng David Petraeus, những người đã gây ra tổn thất nặng nề cho chi nhánh của al-Qaeda ở Iraq, mặc dù ông ta nhận thấy rằng việc giết Phó Tổng thống Joe Biden có thể sẽ lãng phí thời gian vì ông ta không phải là mục tiêu đủ quan trọng. Với nhóm của mình, bin Laden nhấn mạnh liên tục tầm quan trọng của việc nhắm mục tiêu vào các thành phố lớn của Mỹ như Chicago, Washington, New York và Los Angeles. Rahman thường xuyên phải nhắc nhở bin Laden rằng al-Qaeda đơn giản là không có đủ nguồn lực để thực hiện các kế hoạch đầy tham vọng của ông. Một số phụ tá khác của bin Laden đã chỉ ra cho ông ta rằng sẽ thực tế hơn nhiều nếu tập trung vào việc chiến đấu với lính Mỹ ở Afghanistan hơn là cố gắng tấn công chính nước Mỹ, lời khuyên mà bin Laden đơn giản phớt lờ.
Viết trong nhật ký của mình, bin Laden, một người ghi chép tỉ mỉ, đã thống kê phải cần bao nhiêu nghìn người Mỹ chết để Hoa Kỳ cuối cùng sẽ phải rút lui khỏi thế giới Ả Rập. Ông ta suy nghĩ về việc tấn công các đoàn tàu bằng cách đặt cây hoặc khối xi măng trên đường ray xe lửa ở Hoa Kỳ, và ông ta gợi ý rằng al-Qaeda nên chiêu mộ những công dân Mỹ không theo đạo Hồi phản đối chính phủ của họ, coi những người Mỹ gốc Phi và người Latinh bất mãn là những tân binh tiềm năng. Al-Qaeda chỉ đạt được thành công khiêm tốn với chiến thuật này khi chiêu mộ Bryant Neal Vinas, một người Mỹ gốc Tây Ban Nha ở Long Island, người đã tham gia cuộc tấn công vào căn cứ của Mỹ ở Afghanistan vào năm 2008 trước khi hắn bị người Pakistan bắt giữ và giao cho Mỹ quản thúc.
Bin Laden khuyến khích những người theo ông ta lên kế hoạch tấn công vào Hoa Kỳ trùng với dịp kỷ niệm 10 năm ngày 11/9 hoặc những ngày lễ như Giáng sinh, và ông ta ủng hộ các cuộc tấn công vào tàu chở dầu như một phần của chiến lược rộng lớn hơn nhằm làm chảy máu Hoa Kỳ về mặt kinh tế. Rahman cũng tập trung tuyển mộ chiến binh thánh chiến cho các cuộc tấn công ở châu Âu. Cuộc tấn công thành công cuối cùng của Al-Qaeda ở châu Âu là bốn vụ đánh bom liều chết vào hệ thống giao thông vận tải ở London vào ngày 7 tháng 7 năm 2005, khiến 52 hành khách đi làm thiệt mạng. Rahman đã liên lạc với một nhóm chiến binh Maroc sống ở Düsseldorf, và vào mùa thu năm 2010, các thủ lĩnh của al-Qaeda đã nóng lòng thực hiện một cuộc tấn công với nhiều tay súng đâu đó ở Đức, nhưng kế hoạch này đã thất bại.
Trong một khoảnh khắc bay bổng, bin Laden đã cân nhắc việc đổi tên al-Qaeda, mà ông tin đã phát triển một vấn đề nào đó về thương hiệu. Ông lo ngại rằng tên đầy đủ của nhóm này là al-Qaeda al-Jihad, có nghĩa là “Căn cứ Thành Chiến” sẽ bị lạc lõng ở phương Tây, nơi mà nhóm này được biết đến, tất nhiên, đơn giản là al-Qaeda. Bin Laden tin rằng việc bỏ đi từ “thánh chiến” đã cho phép phương Tây “tuyên bố một cách dối trá rằng họ không có chiến tranh với Hồi giáo”. Bin Laden nghiền ngẫm về một số cái tên không mấy hấp dẫn như Nhóm Độc thần và Thánh Chiến, Nhóm Phục hưng Khalip Triều.
Bin Laden dành nhiều sự quan tâm cho chi nhánh tương đối mới nhưng khá hứa hẹn của ông ở Yemen, al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập. Chính chi nhánh này đã xoay sở lén giấu được một quả bom lên một máy bay chở khách của Mỹ dưới bộ đồ lót của Umar Farouk Abdulmutallab, một tân binh người Nigeria. Hắn đã cố gắng kích nổ thiết bị này nhưng không thành công khi máy bay bay qua Detroit vào ngày Giáng sinh năm 2009. Bin Laden đã đưa ra lời khuyên chiến thuật cho nhóm, được đăng trong Inspire, một tạp chí trực tuyến bằng tiếng Anh nhằm tuyển mộ các chiến binh ở phương Tây. Trong một kỳ của Inspire, một người viết đã đề xuất rằng các chiến binh thánh chiến nên biến máy kéo thành vũ khí bằng cách trang bị cho nó những lưỡi dao khổng lồ rồi lái nó vào đám đông. Bin Laden bình luận rằng việc tàn sát bừa bãi như vậy sẽ không phản ánh đúng “danh tiếng” của al-Qaeda. Và bin Laden đã đưa ra những quyết định nhân sự quan trọng cho nhóm. Khi thủ lĩnh của al-Qaeda ở Bán đảo Ả Rập đề nghị bổ nhiệm giáo sĩ gốc Mỹ Anwar al-Awlaki làm người đứng đầu tổ chức này vì tên tuổi của ông ta được biết đến ở phương Tây sẽ giúp gây quỹ, bin Laden đã bác bỏ ý tưởng đó và nói rằng mình không biết Awlaki và khá an tâm với ban lãnh đạo hiện có. Bin Laden cũng đưa ra lời khuyên chiến lược cho những người theo ông ta ở Yemen, cảnh báo rằng vẫn chưa đủ “chất thép” trong sự hỗ trợ của al-Qaeda tại khu vực nhằm cố gắng áp đặt một chế độ kiểu Taliban ở đó.
Các phó tướng chủ chốt của ông đã viết thư cho bin Laden về những vấn đề họ đang gặp phải; đứng đầu trong số đó là chiến dịch tấn công bằng máy bay không người lái của Mỹ vào các vùng bộ tộc ở Pakistan. Chiến dịch máy bay không người lái của Mỹ đã bắt đầu ở đó vào năm 2004, dưới thời Tổng thống Bush, nhưng, như chúng ta đã biết, Tổng thống Obama đã tăng cường chương trình một cách ồ ạt. Dưới thời Bush, cứ bốn mươi ngày mới có một cuộc đột kích; dưới thời Obama, nhịp độ tăng lên cứ bốn ngày một lần. Các cuộc oanh kích đã làm cho vị trí “Số ba” của al-Qaeda trở thành chức vụ nguy hiểm nhất thế giới.
Vào tháng 5 năm 2010, phóng xuống một con đường đất chạy từ Miran Shah, thị trấn chính trong bộ tộc vùng Bắc Waziristan, một tên lửa từ máy bay không người lái giết chết Mustafa Abu al-Yazid, cùng với vợ và một số con cái của họ. Yazid là một thành viên sáng lập của al-Qaeda từng là người đứng số ba của nhóm và giám sát các âm mưu của nhóm, tuyển dụng, gây quỹ, và lo an ninh nội bộ. Trong hai năm qua, bin Laden cũng đã mất trước các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái chuyên gia vũ khí hóa học của mình, trưởng phòng hoạt động ở Pakistan, trưởng phòng tuyên truyền, và một nửa tá các phó tường chủ chốt khác.
Rahman đã viết thư cho bin Laden báo rằng al-Qaeda bị dập bởi máy bay không người lái và hỏi liệu có địa điểm nào thay thế để tổ chức có thể tái lập căn cứ. Bin Laden thay vào đó đã phê duyệt việc thành lập một đơn vị phản gián nhằm nhổ tận gốc các điệp viên nằm vùng trong các khu vực bộ tộc đã cung cấp chính xác cho người Mỹ các thông tin vị trí các phó tướng của mình.
Tuy nhiên, vào năm 2010, ông ta nhận được thư phàn nàn rằng phòng phản gián chỉ có thể hoạt động cầm chừng với ngân sách eo hẹp chỉ vài ngàn đô. Cả hai bin Laden và Rahman đều lo lắng vì nguồn tiền đổ vào sở chỉ huy al-Qaeda giờ đang nhỏ giọt. Họ viết thư cho nhau tìm cách làm đầy két sắt đang trống rỗng, tập trung vào việc bắt cóc các nhà ngoại giao ở Pakistan.
Ý thức được các sức ép al-Qaeda giờ đây đang gánh chịu – tình hình tài chính tồi tệ, hàng ngũ lãnh đạo bị tiêu diệt, và tứ lâu không còn khả năng thực hiện các cuộc tấn công vào phường Tây – bin Laden bắt đầu nghỉ cách vực dậy tinh thần nhóm của mình. Vào mùa xuân năm 2011, ông dự tính một nỗ lực mới nhằm đàm phán về một liên minh lớn gồm các nhóm chiến binh khác nhau đang chiến đấu ở Afghanistan và Pakistan. Trao đổi với các trợ lý của mình, ông cũng cân nhắc việc môi giới một số thỏa thuận với chính phủ Pakistan: al-Qaeda sẽ ngừng các cuộc tấn công ở Pakistan và đổi lại sẽ nhận được sự bảo vệ chính thức của Pakistan. Không có bằng chứng nào cho thấy thỏa thuận này đã từng xảy ra và trong mọi trường hợp, đó là một ý tưởng khá ngây thơ. Không chính phủ Pakistan nào chịu ký một thỏa thuận hòa bình với al-Qaeda; bin Laden và các phó tướng chóp bù của ông trong nhiều năm đã công khai và liên tục kêu gọi tấn công các quan chức Pakistan và, như đã lưu ý trước đây, họ đã hai lần vào năm 2003 cố gắng ám sát tổng thống Pakistan, Tướng Pervez Musharraf.
Tất nhiên, với thế giới, bin Laden đã cố gắng thể hiện một hình ảnh rất khác với hình ảnh của một thủ lĩnh già nua mà ông đang trở thành của một nhóm khủng bố đang gặp khó khăn. Bin Laden từng nói với thủ lĩnh Taliban Mullah Omar rằng có tới 90% trận chiến của y diễn ra trên các phương tiện truyền thông. Quả thực, ông ấy thực hiện chiến dịch truyền thông của mình một cách nghiêm túc và trong những đoạn băng video ông quay trong một studio tạm bợ ở khu nhà Abbottabad, ông nhuộm đen tuyền bộ râu bạc và mặc chiếc áo choàng màu be đẹp nhất được thêu chỉ vàng. Trong những video này, đôi khi ông ngồi sau bàn làm việc và không còn vắt khẩu súng bên hông, một đặc điểm nổi bật trong nhiều lần xuất hiện trong băng video trước đó..
Năm 2007, bin Laden tung ra một cuốn băng video dài nửa giờ, nhận được sự chú ý đáng kể ở phương Tây vì đây là lần đầu tiên ông xuất hiện trên video sau ba năm. Trong cuốn băng, ông đã nói chuyện trực tiếp với người dân Mỹ từ phía sau bàn làm việc nhại lại theo phong cách thánh chiến bài phát biểu của tổng thống từ Phòng Bầu dục. Ông không đưa ra lời đe dọa bạo lực rõ ràng mà thay vào đó kêu gọi người Mỹ cải sang đạo Hồi và, trong một bản cáo trạng quanh co đối với Hoa Kỳ, đã viện dẫn các vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki; sự tiêu diệt người Mỹ bản địa; tác động đầy đe dọa của các tập đoàn Hoa Kỳ; và thành tích kém cỏi của Mỹ về vấn đề biến đổi khí hậu, thể hiện qua việc nước này không ký thỏa thuận Kyoto về hiện tượng nóng lên toàn cầu. Những điều này dường như là những suy ngẫm của một độc giả lớn tuổi của tạp chí The Nation hơn là của thủ lĩnh thánh chiến toàn cầu.
Bin Laden cũng ghi lại trung bình năm cuốn băng ghi âm mỗi năm từ hang ổ Abbottabad của ông, chúng được chuyển qua người đưa tin đến As Sahab, cơ quan tuyên truyền của al-Qaeda. Vì Sahab sẽ chỉnh sửa các tệp âm thanh bằng hình ảnh của bin Laden, đồ họa, đôi khi có phụ đề, sau đó tải kết quả lên các trang web thánh chiến hoặc gửi chúng cho Al Jazeera. Trên các băng ghi âm, bin Laden, người luôn nghiện tin tức, sẽ bình luận về các sự kiện lớn và nhỏ trong thế giới Hồi giáo. Vào tháng 3 năm 2008, ông đã tố cáo việc một tờ báo Đan Mạch đăng tải tranh biếm họa về Nhà Tiên tri Mohammed ba năm trước, cho đó là một “thảm họa”. Ba tháng sau, một kẻ tấn công liều chết của al-Qaeda đã đánh bom đại sứ quán Đan Mạch khiến 6 người thiệt mạng. Sau chín tháng im lặng ở Islamabad, bin Laden đã phát hành một đoạn băng ghi âm vào tháng 3 năm 2009 lên án cuộc xâm lược Gaza gần đây của Israel. Vào cuối năm 2010, ông đã cân nhắc về quyết định của Pháp cấm phụ nữ Hồi giáo mặc burqa trùm kín toàn thân ở nơi công cộng, và dọa trả thù. Cùng lúc đó, ông phát hành một đoạn băng chỉ trích phản ứng chậm chạp của chính phủ Pakistan trước trận lũ lụt lớn khiến 20 triệu người Pakistan phải di dời trong mùa hè năm 2010.
Tài hùng biện của Bin Laden về mọi vấn đề mà thế giới Hồi giáo quan tâm đã khiến sự im lặng công khai của ông ta về các sự kiện Mùa xuân Ả Rập năm 2011 càng trở nên khó hiểu hơn. [Mùa xuân Ả Rập là làn sóng cách mạng với các cuộc nổi dậy, diễu hành và biểu tình phản đối chưa có tiền lệ tại các quốc gia ở thế giới Ả Rập: Tunisia, Algérie, Ai Cập, Yemen và Jordan, Mauritanie, Ả Rập Xê Út, Oman, Sudan, Syria, Iraq, Libya và Maroc.Các cuộc biểu tình phản đối có chung cách sử dụng rộng rãi kỹ thuật chống đối dân sự trong các chiến dịch bao gồm đình công, biểu tình và các cách thức khác. Các cuộc biểu tình tại Tunisia và Ai Cập có thể là các cuộc cách mạng: Wikipedia]. Suy cho cùng thì đây chính là điều mà ông đã mơ ước từ lâu: lật đổ các chế độ độc tài ở Trung Đông. Sự im lặng của ông về vấn đề này có thể được giải thích bởi thực tế là những người lính bộ binh và các ý tưởng đặc biệt của ông vắng mặt trong các cuộc cách mạng làm rung chuyển Trung Đông. Không có người biểu tình nào giơ cao hình ảnh của bin Laden hay phun ra những luận điệu chống Mỹ độc địa của ông ta, và rất ít người đòi hỏi các chế độ thần quyền kiểu Taliban, nhà nước chính trị cuối cùng ưa thích của bin Laden. Các cuộc biểu tình cũng làm suy yếu hai tuyên bố quan trọng của bin Laden: rằng chỉ có bạo lực mới có thể mang lại sự thay đổi cho Trung Đông, và rằng chỉ bằng cách tấn công nước Mỹ thì các chế độ Ả Rập mới có thể bị lật đổ. Những người biểu tình ở Tunisia và Ai Cập lật đổ những kẻ độc tài phần lớn là những người ôn hòa và không lấy cảm hứng từ các cuộc tấn công của al-Qaeda vào phương Tây; đúng hơn, họ là những người Tunisia và người Ai Cập bình thường đã chán ngấy sự kém cỏi và tàn ác của những kẻ cai trị họ.
Làm thế nào để phản ứng với tất cả những điều này chắc hẳn đã khiến bin Laden bối rối, vì ông ta là người rất yêu thích ánh đèn sân khấu mà lại là người hoàn toàn không liên quan đến sự phát triển quan trọng nhất ở Trung Đông kể từ khi Đế chế Ottoman sụp đổ. Thật là một sự thật điều hiển nhiên một cách đau đớn. Vào cuối tháng 4 năm 2011, ông ta đã ghi âm một tin nhắn không được phát hành trước khi bị giết, trong đó ông chào mừng các cuộc cách mạng Tunisia và Ai Cập, nói rằng: “Chúng tôi theo dõi sự kiện lịch sử vĩ đại này và chúng tôi chia sẻ với các bạn niềm vui, hạnh phúc.” Trong đoạn băng, bin Laden nói rằng luật Sharia sẽ quản lý Ai Cập và Tunisia mới, nhưng kỳ lạ thay lại không đề cập đến các cuộc nổi dậy khi đó cũng đang lan rộng ở Bahrain, Libya, Syria và Yemen.
Bin Laden vẫn được gia đình và những người thân sống trong khu nhà Abbottabad tôn kính, nhưng đến mùa xuân năm 2011, khi bắt đầu sống năm thứ sáu ở đó, ông ta ngày càng trở nên xa lạ với thế giới Hồi giáo.
Hình ảnh Robin Hood (nhân vật anh hùng dân gian Anh huyền thoại, vì dân diệt bạo, cứu khổn phò nguy) mà ông hình dung trong những năm ngay sau ngày 11/9 phần lớn đã bốc hơi, và hầu hết người Hồi giáo đã từ chối al-Qaeda vì tổ chức này có hồ sơ dày cộm về việc giết hại thường dân Hồi giáo. Có lẽ điều nguy hiểm nhất đối với tham vọng của mình là bin Laden chưa bao giờ đưa ra được bất kỳ giải pháp thực sự nào cho các vấn đề kinh tế và chính trị đang tiếp tục gây đau khổ cho thế giới Ả Rập.