Truy sát Bin Laden: Cuộc săn lùng 10 năm từ ngày 11/9 đến Abbottabad (Bài 6)

Peter l. Bergen

Trần Quang Nghĩa dịch

5 .  LÝ THUYẾT CHẤP NHẬN ĐƯỢC CỦA TÌNH THẾ

TRỤ SỞ CIA LANGLEY, VIRGINIA, tọa lạc trong một tòa nhà hiện đại có không khí của một công viên văn phòng cao cấp trải dài trên nhiều mẫu đất rừng yên tĩnh, cách trung tâm thành phố Washington, D.C. 20 phút lái xe. Các chuyến thăm ngẫu nhiên không được khuyến khích. Để đến được tòa nhà chính, trước tiên bạn phải thương lượng với trung tâm lễ tân-nơi những cỗ máy liên tục đánh hơi không khí để tìm chất độc hóa học và sinh học và lính canh xông xáo trang bị vũ khí tự động điều khiển giao thông-sau đó đi bộ mười lăm phút xuống một con đường hẹp được ngăn cách với khu rừng xung quanh bởi hàng rào cao có giăng dây thép gai, sau đó đi qua tháp nước chuyên dụng và nhà máy điện của CIA. Ở cuối con đường là một tòa nhà bảy tầng bằng kính và bê tông hiện đại, trụ sở chính được xây dựng vào những năm 1950, tiền sảnh được lát bằng những phiến đá cẩm thạch trắng. Được trang trí trên sàn đá cẩm thạch là con dấu ấn lớn của Cơ quan Tình báo Trung ương, và được khắc trên tường là những lời trong Phúc âm John: “Và các ngươi sẽ biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng các ngươi.”

Trên một bức tường của tiền sảnh có hàng chục ngôi sao vàng tượng trưng cho các sĩ quan CIA đã hy sinh khi làm nhiệm vụ kể từ khi Cơ quan được thành lập vào năm 1947. Bên dưới những ngôi sao vàng, tên của những người đã hy sinh được khắc bằng mực đen trong một quyển sách cất trong hộp kính. Trong một số trường hợp, trên trang sách chỉ có một ngôi sao mà không có tên, vì viên sĩ quan vẫn còn, dù đã chết, được giữ bí mật. Trong thập niên sau ngày 11/9, tên của hai chục sĩ quan CIA và những nhà thầu chết trong khi thi hành công vụ đã được thêm vào danh sách danh dự, một lời nhắc nhở rằng Cơ quan không chỉ đơn thuần là một tổ hợp văn phòng bình thường ở ngoại ô Virginia.

Ở tầng trệt của tòa nhà chính là Trung tâm chống Khủng bố, nơi từ lâu đã giám sát cuộc truy lùng bin Laden. Trong vài năm sau khi ông ta biến mất trong Trận Tora Bora, cuộc săn lùng bin Laden đã thất bại, gặp hết hố khô này đến hố khô khác. Bất kỳ tin tức nào được gửi tới Trung tâm Chống Khủng bố về thủ lĩnh của al-Qaeda đều chỉ dưới dạng “những lần nhìn thấy Elvis”, các quan chức theo dõi  nhớ lại. Nhưng tất cả những lần nhìn thấy Elvis vẫn phải được ghi lại, người sáng lập đơn vị bin Laden, Michael Scheuer, nói, “bởi vì sau ngày 11/9, các sĩ quan cấp cao của Cơ quan và mọi nơi trong cộng đồng tình báo đều cố hết sức để khỏi bị ném đá . Nếu bạn nhận được một báo cáo rằng Osama đang ở Brazil, đang tắm nắng ở Rio, bạn ít nhất phải đáp ứng bức điện. Và vì vậy chúng tôi đã theo đuổi một số lượng lớn các vụ tìm kiếm. Và bởi vì mọi người đều lo sợ điều gì đó khác sắp xảy đến, chúng tôi đã phải lần theo những việc mà một người trưởng thành bình thường sẽ không bao giờ làm..”

Vào tháng 4 năm 2002, Barbara Sude, một nhà phân tích cấp cao của Cơ quan, người đã lấy bằng tiến sĩ tại Princeton về tư tưởng Ả Rập thời trung cổ và đã làm việc toàn thời gian về al-Qaeda trong nhiều năm, đã gia nhập một đội đặc nhiệm gồm các nhà phân tích từ nhiều cơ quan tình báo khác nhau; họ gặp nhau thường xuyên. trong vài tuần để nghĩ ra ý tưởng mới đột phá để truy tìm bin Laden. Sude có địa vị gần như mang tính biểu tượng trong nhóm các nhà phân tích kỳ cựu về al-Qaeda trong cộng đồng tình báo, vì cô là tác giả chính của Báo cáo Tối mật Hằng  ngày của Tổng thống đã được trình lên Tổng thống Bush vào ngày 6 tháng 8 năm 2001, có tựa đề “Bin Ladin quyết tâm tấn công vào Hoa Kỳ”, trong đó nêu rõ một số chi tiết rằng al-Qaeda đang lên kế hoạch tấn công nước Mỹ. Phải hai năm nữa Ủy ban 11/9 mới công bố tài liệu đó và nhiều năm nữa cho đến khi Sude lần đầu tiên được xác định là tác giả của nó. Sude nổi tiếng là một “nhà phân tích của các nhà phân tích”, với sự quan tâm vô tư đến các sự kiện và có trí nhớ gần như máy chụp ảnh về hàng trăm sự kiện được báo cáo do cộng đồng tình báo đưa ra về al-Qaeda.

Sude nhớ rằng, vào đầu năm 2002, cô và các đồng nghiệp thấy rõ rằng dấu vết của bin Laden đã trở nên mờ mịt, vì vậy hy vọng tốt nhất để tìm thấy y là cố gắng vạch ra mối quan hệ của những người hiểu rõ y nhất: Quan hệ gia đình là ai? Mối liên hệ của y với các nhóm thánh chiến Afghanistan đã chiến đấu với Liên Xô là gì? Y còn tin tưởng ai nữa? Các nhà phân tích đã đưa ra đánh giá cơ bản về gia đình và các cộng sự của bin Laden cũng như một dòng thời gian về mọi hoạt động của y. Họ đã chuyền tay nhau những bức ảnh của bin Laden sẽ trông như thế nào nếu cạo râu và mặc bộ vest sọc nhỏ kiểu phương Tây. “Trông y thật kỳ lạ,” Sude nhớ lại. Họ cũng thảo luận về phần thưởng dành cho bin Laden, vào thời điểm đó là 25 triệu USD. Một số nhà phân tích cảm thấy rằng nhiều người ở Afghanistan không thể hình dung được số tiền đó ở một đất nước thuộc số những quốc gia nghèo nhất hành tinh. Việc giảm phần thưởng có thực sự hợp lý hơn không? Phần thưởng vẫn được giữ nguyên như cũ.

Các nhà phân tích cũng đưa ra các tài liệu xem xét liệu tiêu diệt bin Laden hoặc bắt sống y, lựa chọn nào tốt hơn. Bin Laden có thể sẽ tử vì đạo khi chết đi,  điều này có thể kích hoạt các cuộc tấn công trả đũa, nhưng xét cho cùng thì y cũng đã chết. Một bin Laden bị bắt sẽ ra sức biến phiên tòa của mình thành một bục tuyên truyền cho những quan điểm độc hại của y. Cũng có khả năng những bộ hạ của bin Laden sẽ ráo riết bắt cóc người Mỹ trên khắp thế giới như một con bài mặc cả để đưa thủ lĩnh của họ ra khỏi nơi giam cầm. Và điều gì sẽ xảy ra nếu y chết vì căn bệnh nào đó khi ở trong nhà tù Mỹ? Hoặc bằng cách nào đó đã bị giết bởi một người bạn tù? Robert Dannenberg, người đứng đầu, các hoạt động chống khủng bố của CIA, nói rằng việc bắt giữ bin Laden chưa bao giờ thực sự được bàn đến vì những lo ngại đó: “Chúng tôi muốn đảm bảo rằng chúng tôi không để mình rơi vào tình thế buộc phải bắt chứ không phải giết bin Laden… Chúng tôi thà đưa cho y quả bom nặng 500 cân trong khu phức hợp của y và lấy mẫu  DNA của y ở đâu đó hơn là đưa y ra xét xử.”

Từ khi thành lập đơn vị bin Laden vào tháng 12 năm 1995 – lần đầu tiên CIA thành lập một “trạm” nhắm vào một cá nhân cụ thể – những nhà phân tích nữ như Barbara Sude đóng vai trò then chốt trong cuộc săn lùng al-Qaeda. Người sáng lập đơn vị, Michael Scheuer, giải thích, “Họ dường như có năng khiếu đặc biệt về chi tiết, nhìn thấy các kiểu dạng  và hiểu ra các mối quan hệ, và họ cũng, khá thẳng thắn, dành ít thời gian để kể những câu chuyện chiến tranh, tán gẫu và đi ra ngoài hút thuốc hơn là các chàng trai. Nếu tôi có thể treo một tấm biển có nội dung ‘Không cần người nam nộp đơn’ thì tôi đã làm rồi.”

Jennifer Matthews, một trong những cấp phó hàng đầu của Scheuer, tập trung vào khu vực biên giới Afghanistan-Pakistan hết sức quan trọng. Công việc của cô ấy có tính quyết định đến việc bắt giữ Abu Zubaydah vào mùa xuân năm 2002, một nhà hậu cần chủ chốt của al-Qaeda, người đã cung cấp thông tin đầu tiên rằng chính KSM đã chủ mưu vụ tấn công 11/9. Điều này hoàn toàn gây ngạc nhiên cho CIA, nơi KSM phần lớn được coi là nhân vật ngoại vi của al-Qaeda. Matthews hiểu rất rõ về lịch sử Hồi giáo, và việc al-Qaeda tin rằng mình phù hợp với lịch sử đó như thế nào, điều này khiến cô trở thành kẻ thẩm vấn đáng gờm đối với những tên al-Qaeda bị giam giữ, một số tên trong bọn chúng nhận ra sự thật rằng cô là một phụ nữ có hiểu biết sâu rộng, đặc biệt gây bối rối. Sau ngày 11/9, ngoài công việc bận rộn ở CIA, cô còn phải nuôi ba đứa con nhỏ.

Frederica (một tên giả) là một sĩ quan CIA thông minh và cứng rắn khác, người không biết mệt mỏi trong việc truy đuổi al-Qaeda. Scheuer nói về cô ấy, “Nếu cô ấy cắn vào mắt cá chân bạn, nếu cô ấy cho hàm răng vào chân bạn, thì bạn coi như hoàn toàn bại trận. Tốt hơn bạn đầu hàng . Có thể mất hai năm, nhưng rồi cô ấy sẽ túm được bạn.”

Và còn có Gina Bennett, người vào tháng 8 năm 1993, khi đang làm việc tại Cục Tình báo và Nghiên cứu, thuộc Bộ Ngoại giao, đã viết một bài báo mang tính chiến lược đầu tiên, cảnh báo về một người đàn ông tên là “Usama Bin Laden.” Khi bin Laden bị trục xuất đến Afghanistan vào tháng 5 năm 1996 từ thủ đô Khartoum của Sudan, Bennett cũng đã viết một bài phân tích có tính dự đoán, cảnh báo, “Việc y ở lại Afghanistan trong thời gian dài – nơi hàng trăm chiến binh thánh chiến Ả Rập được huấn luyện khủng bố và các thủ lĩnh cực đoan chủ chốt thường tụ tập – về lâu dài có thể tỏ ra nguy hiểm hơn đối với lợi ích của Mỹ so với mối liên hệ kéo dài 3 năm của ông với Khartoum.”

Trong những năm sau cuộc tấn công vào New York và Washington, Bennett đã giúp soạn thảo tài liệu Đánh giá Tình báo Quốc gia quan trọng về tình trạng của al-Qaeda đồng thời không xao nhãng việc nuôi dưỡng 5 đứa con của mình. Bà báo cáo với David Low, người nhớ lại bà có khả năng tiếp thu thông tin phức tạp nhanh như thế nào: “Tôi có thể bước vào văn phòng của bà ấy vào buổi trưa và nói, ‘Tôi cần 15 trang về X’, và đặt lên bàn của tôi sau ba giờ. Bà  ấy thực sự rất nhanh nhẹn”.

Vai trò nổi bật của phụ nữ trong cuộc săn lùng bin Laden phản ánh sự thay đổi văn hóa lớn nhất tại CIA trong hai thập niên qua. Nhân viên CIA kỳ cựu Glenn Carle nhớ lại: “Khi tôi vào làm, theo hiểu biết của tôi, có bốn sĩ quan điều hành cấp cao là nữ và họ phải là những SOB (Chi nhánh Hoạt động Khoa học trong CIA) cứng rắn nhất trong thế giới để tồn tại. Và những người phụ nữ còn lại bị coi như đồ chơi tình dục.” Khi Scheuer thành lập đơn vị bin Laden, Carle nhớ lại phản ứng của các sĩ quan tác chiến đồng nghiệp của mình: “Nhân viên của anh ta là gì? Tất cả đều là nữ. Vào thời điểm đó người ta đua nhau dè bỉu rằng đó là một bọn gà mái. Vì vậy, thái độ thẳng thừng kẻ cả và gạt qua một bên. Và Scheuer [và nhân viên của anh ấy] về cơ bản như muốn nói, ‘Các bạn cần lắng nghe chúng tôi; đây thực sự là nghiêm trọng. Đây là một vấn đề lớn và liên quan đến sinh mạng nhiều người.’ Và tất nhiên là họ đã đúng.”

Nhóm của Scheuer đã có những nỗ lực tích cực trong những năm trước vụ 11/9 nhằm tiêu diệt bin Laden, nhưng họ thường bị bao vây bởi một số lúng túng nhất định. Các quan chức an ninh quốc gia cấp cao dưới thời Tổng thống Bill Clinton tin rằng ông ta đã cho phép ám sát bin Laden, trong khi các quan chức Cơ quan thực hiện chương trình này tin rằng đó là một chương trình bắt giữ bin Laden mà trong đó y có thể bị giết một cách vô tình. Khi mà thủ lĩnh dân quân Afghanistan Ahmad Shah Massoud được cho biết vào năm 1999 – cùng thời điểm ông ta đang tiến hành một trận chiến sống chết với Taliban – rằng CIA đang hy vọng hợp tác với mình để bắt nhưng không    được giết bin Laden, ông ta trả lời: “Các ông điên rồi. Các ông chẳng thay đổi chút nào cả.”

Các đặc vụ CIA ở Afghanistan đã nhiều lần cho bin Laden vào tầm ngắm trước vụ 11/9. Con số lần chính xác vẫn còn đang bị tranh chấp. Điều phối viên chống khủng bố của Clinton, Richard Clarke nói là ba lần, trong khi Scheuer nói có tới mười cơ hội.

Nhưng hầu hết đều đồng thuận rằng cơ hội tốt nhất để bắt sống hoặc tiêu diệt bin Laden đến vào đầu tháng 2 năm 1999 khi ông ta bị nhân viên CIA tại thực địa ở Afghanistan phát hiện khi tham gia một nhóm đi săn bên ngoài Kandahar. Nhóm đang săn chim ôtit sa mạc bằng chim ưng ở một khu vực hẻo lánh, vì vậy có rất ít nguy cơ gây thương vong cho dân thường trong một cuộc tấn công – một cân nhắc từng cản trở các hoạt động trước đó nhằm vào bin Laden.

Vào ngày 9 tháng 2 năm 1999, hình ảnh vệ tinh đã xác nhận sự có mặt của trại săn bắn. Nhân viên an ninh quốc gia của Clinton bắt đầu lên kế hoạch phóng tên lửa hành trình vào trại từ các tàu ngầm túc trực ở Biển Ả Rập, hoặc giao nhiệm vụ cho các đồng minh Afghanistan của CIA bắt giữ thủ lĩnh của al-Qaeda. Điều này trở nên phức tạp hơn nhiều khi hình ảnh cũng tiết lộ sự có mặt của các quan chức UAE (các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất) tại trại. Một cuộc tấn công vào trại có thể khiến bin Laden mất tích và thay vào đó giết chết nhóm hoàng thân Các Tiểu Vương quốc đang săn bắn chim otit, những người hoá ra lại là đồng minh của Hoa Kỳ. Đến ngày 11 tháng 2, quân đội đã sẵn sàng tiến hành cuộc tấn công, nhưng chiến dịch này đã bị cả Clarke và giám đốc CIA George Tenet đình chỉ vì lo ngại về nhóm người Dubai. Một ngày sau, thông tin tình báo mới cho thấy thủ lĩnh al-Qaeda không còn ở trong trại.

Bin Laden cũng là một mục tiêu khó khăn. Nỗi ám ảnh của ông về an ninh của mình bắt đầu một cách nghiêm túc vào năm 1994 khi sống ở Sudan, nơi ông là mục tiêu của một vụ ám sát nghiêm trọng, trong đó các tay súng đã dùng súng máy tàn phá dinh thự Khartoum của ông. Sau cuộc tấn công đó, bin Laden quan tâm nhiều hơn đến an ninh của mình, thay đổi địa điểm thường xuyên và không hề báo trước, luôn được vây quanh bởi đội ngũ vệ sĩ cực kỳ trung thành. Việc tiêu diệt bin Laden bằng tên lửa hành trình trong những năm trước ngày 11/9 còn phức tạp hơn vì thông tin tình báo về vị trí của bin Laden chỉ mang tính dự đoán. Sau khi một quyết định tiến hành tấn công được đưa ra ở Washington, phải mất thời gian để tên lửa hành trình vọt ra từ ống phóng tàu ngầm ở Biển Ả Rập và sau đó bay vài giờ tới các mục tiêu ở Afghanistan, vì vậy các quan chức không chỉ phải biết bin Laden ở đâu khi họ đưa ra quyết định mà còn xác định được ông ta sẽ ở đâu mười hai giờ sau. Tất nhiên, loại thông tin tình báo hoàn hảo đó hiếm khi có được trong những năm trước vụ tấn công 11/9.

Năm 1997, khi còn là nhà sản xuất chuong trinh cho CNN, tôi là một trong ba người đến gặp bin Laden ở miền đông Afghanistan để ghi hình cuộc phỏng vấn truyền hình đầu tiên của ông. Chúng tôi đã chứng kiến ​​những nỗ lực phi thường của các thành viên al-Qaeda để bảo vệ thủ lĩnh của mình. Tôi và các đồng nghiệp được đưa đến nơi ẩn náu của bin Laden khi màn đêm buông xuống; chúng tôi bị buộc phải đổi phương tiện trong khi bị bịt mắt; và chúng tôi phải vượt qua liên tiếp 3 nhóm lính canh được trang bị tiểu liên với súng phóng lựu. Chúng tôi bị khám xét kỹ lưỡng và lính canh sau đó chạy một loại máy quét điện tử nào đó lên người chúng tôi để xem liệu chúng tôi có cất giấu vũ khí hoặc thiết bị theo dõi hay không. (Trên thực tế, máy quét không hoạt động, nhưng các cố vấn của bin Laden nghĩ rằng điều quan trọng là phải đánh lừa nhóm CNN – điều mà sau này họ đã cười sảng khoái.)

MẶC DÙ KHÔNG CÓ manh mối tốt nào trong những năm sau cuộc tấn công vào New York và Washington, những người săn lùng bin Laden ở CIA vẫn tiếp tục nghĩ rằng việc tìm ra y là một “câu đố có thể giải được” bởi vì họ đã dần dần xây dựng một “lý thuyết chấp nhận được của tình thế”: y có thể đang sống trong hoàn cảnh nào, ai có thể bảo vệ y và nói chung là y có thể ở đâu. Một số điều này đã được thực hiện thông qua một quá trình loại bỏ dần. Ngay từ đầu, các nhà phân tích đã kết luận rằng khó có khả năng bin Laden đã rời bỏ địa bàn cũ của mình ở Afghanistan và Pakistan để đến một quốc gia như Yemen, quê hương của gia đình bin Laden. Bin Laden quá dễ nhận ra đến nỗi chuyến đi sẽ rất nguy hiểm, và mạng lưới hỗ trợ đáng tin cậy nhất của y là ở vùng Nam Á.

 Trong những năm qua, CIA cũng bắt đầu loại bỏ một số bạn bè cũ của bin Laden trong cuộc chiến tranh Afghanistan chống lại Liên Xô với tư cách là những người có thể bảo vệ ông ta. Haqqani là lực lượng dân quân Taliban kiểm soát một phần miền đông Afghanistan và Bắc Waziristan, trong các khu vực bộ tộc  của Pakistan. Bin Laden đã biết tộc trưởng của gia đình, Jalaluddin Haqqani, từ giữa những năm 1980. Nhưng các quan chức chống khủng bố  bắt đầu nghĩ rằng ngày càng ít có khả năng bin Laden đang sống gần căn cứ của Haqqani ở Waziristan. Thông tin liên lạc từ bin Laden dường như đến được với các thành viên al-Qaeda sống ở Waziristan, nhưng không phát ra từ đó. Tương tự, Hekmatyar Gulbuddin, thủ lĩnh của một nhóm chiến binh Afghanistan khác nằm dọc cả hai bên biên giới Afghanistan-Pakistan, là đồng minh của al-Qaeda từ cuối những năm 1980. Nhưng y đã thường xuyên đổi phe trong hàng loạt cuộc chiến tranh tàn phá Afghanistan trong nhiều thập niên qua đến nỗi các quan chức chống khủng bố theo dõi bin Laden đánh giá Hekmatyar là người “không đáng tin cậy” và không phải là người mà bin Laden sâu sắc muốn đặt cược mạng sống của mình.

Khi trốn khỏi Sudan vào năm l1996, bin Laden đã được chào đón trở lại Afghanistan bởi một số mối liên hệ cũ từ thời chiến tranh Liên Xô, lực lượng dân quân gia đình Khalis ở miền đông Afghanistan, nhưng dường như không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy ông ta vẫn duy trì những mối liên hệ đó trong những năm sau ngày 11/9. CIA cũng bác bỏ ý kiến ​​cho rằng ông ta có thể đi cùng thủ lĩnh Taliban Mullah Omar, người đang chạy trốn và được cho là đang sống trong hoặc lân cận thành phố Quetta của Pakistan.

Nhóm săn lùng Bin Laden kiểm tra tỉ mỉ băng âm thanh và video của Laden thỉnh thoảng được phát hành để tìm manh mối về sức khỏe, tình trạng tâm trí, và có thể vị trí của ông ta. Vào ngày 29 tháng 10, 2004, bin Laden xuất hiện trong buổi nói chuyện được quay video lần đầu tiên sau ba năm. Trên băng, ông trông như đã hồi phục hoàn toàn từ trải nghiệm cận kề cái chết tại Trận chiến Tora Bora, gửi “Thông điệp tới Nhân dân Mỹ” trong khi mặc đồ màu be và áo choàng vàng. Ông ta thậm chí còn tỏ ra như đang đọc từ một loại máy nhắc chữ nào đó. Phát biểu trước các cử tri Mỹ năm ngày trước khi họ đi bỏ phiếu trong cuộc đua sít sao giữa Tổng thống Bush và đối thủ đảng Dân chủ John Kerry, bin Laden nói rằng việc người Mỹ bỏ phiếu cho ai không quan trọng – rằng họ phải thay đổi chính sách đối ngoại của mình trong thời gian tới trong thế giới Hồi giáo nếu họ muốn tránh các cuộc tấn công tiếp theo của al-Qaeda.

Bộ tịch chính khách lão thành của thánh chiến này khiến Tổng thống Bush và đội ngũ an ninh quốc gia của ông rất tức tối, cố vấn chống khủng bố hàng đầu của Bush, Fran Townsend, một cựu quan chức liên bang nóng nảy, nhớ lại. “Tôi vẫn còn có thể nhìn thấy hình ảnh bin Laden trên màn hình trông như một chính khách. Ông ta đang đứng trên bục phát biểu. Thật nổi điên khi thấy ông ta xuất hiện như thể ông ta là một nguyên thủ quốc gia nào đó và người đại diện hợp pháp cho một hệ tư tưởng”.

Điều đáng thất vọng là những cuộn băng như vậy không bao giờ tiết lộ nhiều thông tin về vị trí của bin Laden. Trong hơn ba mươi cuốn băng của bin Laden được phát hành sau ngày 11/9, không ai từng nghe thấy tiếng thì thầm dưới nền tiếng nói những điều hữu ích như “Ở Waziristan này thời tiết rất nóng.” Nói về những người theo dõi bin Laden, Scheuer nhớ lại, “Khi có video, ưu tiên cao nhất là soi kỹ  bối cảnh. Họ không quan tâm đến những gì y đang nói. Nếu y đi loanh quanh, họ sẽ mời các nhà địa chất vào và xem xét liệu các tảng đá đó có đặc biệt ở một nơi nào  ở Afghanistan hay không.” Khi có thể nghe thấy tiếng chim hót líu lo trong một cuốn băng, nhà điểu học người Đức đã được mời đến để phân tích tiếng hót líu lo. Nếu thảm thực vật có thể nhìn thấy được, chúng cũng được phân tích để xem liệu chúng có phải là duy nhất ở một địa điểm cụ thể nào hay không. Không có công việc điều tra nào trong đoạn băng này mang lại manh mối hữu ích.

Tại Lầu Năm Góc, các quan chức cũng thất vọng tương tự. Vào dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày 11/9, al-Qaeda đã đưa ra một tuyên bố kỷ niệm các cuộc tấn công, cùng với cảnh quay một bin Laden gầy gò đang chống gậy đi bộ xuyên qua vùng núi dốc. Các nhà phân tích cho rằng khu vực này trông giống với tỉnh Kunar ở phía đông bắc Afghanistan, nhưng việc phân tích thảm thực vật nhìn thấy trên băng lại không đưa đến kết luận tương tự.

Giống như ở CIA, các quan chức tình báo Lầu Năm Góc cũng phải truy lùng mọi đầu mối của bin Laden cho dù khó tin đến đâu. Một người nhớ lại: “Mỗi khi có một bản tin nói rằng  y đang ở Thái Lan hoặc đang ở địa điểm này, chúng tôi thực sự phải thiết lập một dự án nhỏ đặc biệt mà chúng tôi gọi là ‘Waldo ở đâu?’ và quả chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu toàn diện trên toàn cầu về tất cả những đề cập sôi nổi, điên rồ về việc chúng tôi nhìn thấy ở đâu một anh chàng cao lớn trông giống người Ả Rập có râu.”

Những tuyên bố trong các đoạn băng khác nhau do bin Laden thực hiện khi y đang chạy trốn đã mang lại một số manh mối về điều kiện sống khả dĩ của y.  Năm 2004, y đề cập đến một phân cảnh trong bộ phim Fahrenheit 11/9, một bộ phim của nhà làm phim tài liệu người Mỹ Michael Moore, và ba năm sau, y giới thiệu các tác phẩm của Noam Chomsky, một tác giả cánh tả. Việc bin Laden xem DVD và đọc sách có xu hướng loại trừ quan điểm cho rằng y đang mắc kẹt trong một hang động hẻo lánh. Ngoài ra, khi xuất hiện trên băng video, quần áo của y được ủi rất kỹ và hình ảnh trong phim được chiếu sáng tốt. Sude, người thường được giao nhiệm vụ viết phân tích về những cuốn băng này, nhớ lại những cuộc tranh luận mà chúng làm nổ ra trong Cơ quan: “Chúng tôi không nhất thiết nghĩ sẽ có ai đó ở trong hang động. Nhưng chúng tôi xem tới xem lui: ‘Họ có kéo rèm che không? Họ có che đậy bức tường hang động không?’

Các quan chức đã chuyển sang nghiên cứu một số cuộc truy lùng thành công để xem liệu có bài học nào có thể rút ra hay không. Họ xem xét cách người Israel sau nhiều năm đã tìm ra Adolf Eichmann, kẻ đã chỉ đạo tàn sát hàng triệu người Do Thái trong các trại tập trung trong Thế chiến thứ hai. Sau chiến tranh, Eichmann trốn khỏi Đức đến Argentina, nơi y cùng gia đình mình sinh sống thoải mái ở Buenos Aires, dưới một bí danh, trong một thập niên rưỡi. Chính con trai của Eichmann đã tiết lộ bí mật khi khoe khoang với bố của bạn gái về quá khứ Đức Quốc xã của cha mình. Cha của cô gái, một người mang nửa dòng máu Do Thái, đã liên hệ với một thẩm phán ở Đức, người có nhiệm vụ truy tố các cựu thành viên Đức Quốc xã. Mossad, cơ quan tình báo của Israel, bằng cách nào đó đã biết được điều này và cử các đặc vụ đến Buenos Aires, nơi họ bắt cóc Eichmann và đưa y lên máy bay về Israel, nơi y sẽ hầu tòa và lãnh án treo cổ. Bài học dành cho những đặc vụ săn lùng tại CIA là các thành viên trong gia đình có thể cung cấp những manh mối quan trọng và vô tình về vị trí của mục tiêu.

Một cuộc săn lùng khác mà CIA điều nghiên là hoạt động truy nã Pablo Escobar, trùm ma túy Colombia tàn bạo, kẻ thống trị guồng máy buôn bán cocaine béo bở ở Hoa Kỳ trong những năm 1980, sát hại và bắt cóc nhiều chính trị gia và nhà báo hàng đầu của Colombia.

Không giống như bin Laden, Escobar được biết là sống ở một nơi cụ thể: quê hương Medellin của hắn, nơi có khu ổ chuột rộng lớn của ông trùm ma túy béo tốt với xu hướng quan hệ tình dục với các cô gái tuổi teen và tra tấn kẻ thù của mình đến chết là một loại hành động gì đó của một anh hùng dân gian. Tuy nhiên, mặc dù các đơn vị cảnh sát ưu tú của Colombia làm việc với các quan chức CIA và Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ biết rằng Escobar đang ẩn náu ở đâu đó giữa lòng Medellin, nhưng vẫn phải mất hai năm để truy tìm ra hắn và phải nhờ cậy rất nhiều vào sự giúp đỡ từ đối thủ của Escobar, băng đảng Cali. Escobar di chuyển quanh thị trấn bằng những chiếc taxi bình thường, và khi nói chuyện với các cộng sự của mình qua điện thoại vô tuyến, y liên tục thay đổi tần số, khiến vị trí của Escobar rất khó lần mò ra.

Cuối cùng điều khiến y lộ diện  là tình yêu của y dành cho con trai mình. Escobar đã cẩn thận chỉ nói ngắn gọn trên điện thoại, biết rõ năng lực tình báo tín hiệu của người Mỹ, nhưng một ngày nọ, y nói chuyện vài phút với cậu con trai mười sáu tuổi của mình, Juan Pablo, và thời gian đó đủ lâu để công nghệ định vị do CIA cung cấp cho các đơn vị cảnh sát Colombia đã phát hiện ra con phố nơi y đang  ở. Cảnh sát ập vào nơi ẩn náu của Escobar và bắn chết y sau một màn đấu súng ác liệt.

Hai bài học về vụ hạ gục Escobar là tình yêu gia đình có thể khiến bạn bị phát hiện và bạn không bao giờ nên nói chuyện điện thoại. Nhưng như Tướng Mike Hayden, người đứng đầu CIA trong hầu hết nhiệm kỳ thứ hai của George W. Bush, đã nhận xét: “Bạn có thể vứt tất cả điện thoại của mình đi, nhưng bạn phải trả giá bằng tốc độ, bạn phải trả giá bằng sự nhanh nhẹn. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy, họ không vứt điện thoại của mình đi. Họ cố gắng thận trọng nhưng không vứt chúng đi.” Vấn đề là bin Laden đã không nói chuyện điện thoại kể từ trước vụ 11/9. Theo cố vấn truyền thông người Ả Rập Saudi ở London, Khaled al-Fawwaz. , bin Laden bắt đầu tránh bất kỳ liên lạc điện tử vào đầu năm 1997, hiểu rằng chúng có thể bị chặn. Ngoài ra, các thủ lĩnh của al-Qaeda đã theo sát vụ ám sát Dzhokhar Dudayev, thủ tướng Chechnya, người bị giết bởi một tên lửa của Nga nhắm vào tín hiệu phát ra từ điện thoại di động của ông ta vào tháng 4 năm 1996. Vào thời điểm đó, Chechnya là trọng tâm chính trong nỗ lực của al-Qaeda nhằm kích động thánh chiến toàn cầu.

Gần nhà hơn, các quan chức chống khủng bố đang xem xét trường hợp của Eric Rudolph, kẻ đã đánh bom một công viên ở trung tâm thành phố Atlanta dày đặc khách du lịch đến thị trấn dự Thế vận hội 1996. Quả bom đinh đã giết chết một phụ nữ, và Rudolph sau đó tiếp tục ném bom vào các phòng khám phá thai và hộp đêm dành cho người đồng tính nam. Hắn ta nhanh chóng trở thành đối tượng của một trong những cuộc truy lùng gắt gao nhất trong lịch sử FBI, nhưng trong nhiều năm, hắn đã phớt lờ những kẻ truy đuổi mình, trốn trong vùng rừng núi hẻo lánh ở Bắc Carolina, gần nơi hắn lớn lên. Năm năm trôi qua, dấu vết của Rudolph đã rất mờ mịt. Kẻ chạy trốn bắt đầu tận dụng nhiều cơ hội hơn, đi xuống từ nơi ẩn náu của mình ở Appalachians để mua thức ăn nhanh tại các cửa hàng như Taco Bell. Một ngày nọ, một cảnh sát mới vào nghề nhìn thấy một gã lang thang lục lọi thùng rác phía sau cửa hàng tạp hóa Piggly Wiggly và bắt giữ hắn. Một cấp phó cho rằng nghi phạm trông giống Rudolph nên họ đã kiểm tra dấu vân tay của nghi phạm và nhận ra rằng mình đã bắt được người mình đang truy nã. Bài học ở đây là khi bọn chạy trốn cảm thấy thoải mái hơn theo thời gian, một số bắt đầu chấp nhận nhiều rủi ro hơn, và sau đó bộ phận truy đuổi có thể gặp may mắn. Nhưng dựa vào sự may mắn không phải là một chiến lược trong trường hợp của bin Laden.

Cuộc truy lùng có những đặc điểm giống nhất với cuộc săn lùng “UBL”, tên gọi bin Laden được biết đến rộng rãi trong chính phủ Hoa Kỳ, lại là cuộc truy lùng có kết quả gần nhà nhất của CIA. Mọi chuyện bắt đầu bằng vụ sát hại hai nhân viên CIA lái xe vào cổng chính trụ sở CIA ở Virginia vào sáng ngày 25/1/1993. Mir Aimai Kansi, một người Pakistan xuất thân từ một gia đình danh giá ở Quetta, một thành phố gần biên giới Afghanistan, đã bình tĩnh nổ súng vào Lansing Bennett, sáu mươi sáu tuổi và Frank Darling, hai mươi tám tuổi, bằng khẩu AK-47 khi băng qua dòng xe cộ đang tắc nghẽn trong giờ cao điểm để chờ vào cổng chính của CIA. Không ai đuổi theo, và ngày hôm sau kẻ xả súng đã lên chuyến bay trở về Pakistan.

Phải mất hơn bốn năm mới tìm  ra Kansi, kẻ sau vụ giết nhân viên CIA đã được tôn vinh ở khu vực biên giới Afghanistan và Pakistan nơi hắn ẩn náu trước khi bị bắt. Người truy nã hắn là đặc vụ FBI Brad Garrett, một cựu lính thủy quân lục chiến thường mặc đồ đen từ đầu đến chân, đeo phụ kiện màu đen. Người đặc vụ có giọng nói nhẹ nhàng, rất nghiện công việc thường về nhà ở Washington lúc 11 giờ tối. và trở lại phòng tập thể dục lúc 6 giờ sáng, có một chuỗi thành tích truy nã bọn đào tẫu và có bằng tiến sĩ tội phạm học. Ông chính xác là loại người mà bạn không hề muốn theo đuôi mình.

Garrett đã mất 4 năm truy đuổi Kansi luồn lách quanh khu vực biên giới Afghanistan-Pakistan trước khi Kansi mắc sai lầm nghiêm trọng, đó là rời bỏ vùng đất tương đối an toàn ở Afghanistan do Taliban kiểm soát và đi đến miền trung Pakistan. Từ một đất nước không có sự hiện diện của người Mỹ vào thời điểm đó, hắn đến một đất nước mà Garrett đã phát triển một mạng lưới nguồn tin tốt trong nhiều năm, nhiều người trong số họ cung cấp thông tin cho Lực lượng Chống Ma túy Hoa Kỳ, cơ quan hoạt động ở Pakistan vì nước này đóng vai trò lớn trong việc buôn bán heroin. Cuối cùng Garrett  tìm thấy một số nguồn tin bộ tộc  có gặp được Kansi. Được thúc đẩy ít nhất một phần bởi phần thưởng khá lớn (2 triệu đô la) cho bất kỳ ai sẵn sàng tố giác  Kansi, các nguồn tin đã cung cấp cho Garrett một chiếc ly mà Kansi đã dùng để uống, và các kỹ thuật viên của FBI đã có thể lấy dấu vân tay trên chiếc ly và khớp với dấu tay của Kansi đã lưu trữ. Hoan hô! Garrett cuối cùng đã lần ra Kansi tới thành phố Dera Ghazi Khan, miền trung Pakistan, nơi hắn ở trong một khách sạn giá hai đô la một đêm, và bắt hắn ở đó trong một đêm oi bức vào giữa tháng 6 năm 1997.

Trong hai năm sau ngày 11/9, không ai thèm nói chuyện với Garrett về vai trò của ông ta trong vụ hạ gục Kansi. Cuối cùng, vào năm 2003, ông nhận được cuộc gọi từ CIA yêu cầu ông đến Langley để thông báo tóm tắt cho các quan chức về cuộc săn lùng Kansi. Lời khuyên trọng tâm của Garrett rất thẳng thừng: Bạn không thể tin tưởng người Pakistan. “Mỗi lần chúng tôi nói chuyện với người Pakistan thì thông tin lại bị rò rỉ ngay lập tức,” ông nói với họ. “Tôi nhớ chúng tôi đã nói chuyện với họ hôm nọ và ngày hôm sau trên tờ báo Dawn nó nói về các đặc vụ đã nói chuyện với anh chàng đặc biệt này và chuyến bay nào họ sẽ bay tới Lahore vào ngày hôm sau để phỏng vấn người khác.” Garrett nói rằng sẽ ổn khi làm việc với người Pakistan nếu họ chỉ đơn giản cung cấp cơ bắp cho việc bắt giữ,  nếu không thì việc truy lùng các thủ lĩnh của al-Qaeda phải là một hoạt động đơn phương. Và ông nhấn mạnh rằng phần thưởng tiền mặt khá lớn đã thực sự giúp ích trong vụ Kansi.

Điểm mấu chốt dành cho những người truy lùng bin Laden, sau khi họ đã “cọ rửa” tất cả thông tin tình báo họ có về y và đã xem xét bài học của những cuộc săn lùng khác: chẳng còn gì nhiều để tiếp tục. Làm việc với các quan chức Pakistan trong việc tiêu diệt bin Laden có thể làm hỏng toàn bộ chiến dịch, như thế là loại bỏ một nguồn trợ giúp tiềm năng lớn. Không có tín hiệu tình báo, hay SIGINT, từ điện thoại của bin Laden, do đó đã loại bỏ nguồn lực khổng lồ về khả năng do thám kỹ thuật của Mỹ. Và không có thông tin tình báo của con người, hay HUMINT, từ các nguồn trong và xung quanh al-Qaeda. Cuối cùng, đã có những phần thưởng tiền mặt lớn được thông báo cho thông tin dẫn đến bin Laden trong nhiều năm trước ngày 11/9, nhưng chưa hề có bất kỳ người nào tham gia, bởi vì các thành viên của al-Qaeda tin rằng bin Laden là vị cứu tinh của đạo Hồi chân chính và sẽ không có ai tố giác ông, cho dù tiền thưởng lớn thế nào.

Đến năm 2005, CIA nhận ra rõ ràng rằng sẽ không có mảnh thông tin tình báo mầu nhiệm nào đưa họ thẳng tới chỗ bin Laden. Cũng sẽ không có một “kẻ bị giam giữ mầu nhiệm” – một tù nhân al-Qaeda có thể cung cấp một đường dây đột phá. Trong khi đó, al-Qaeda đang hoạt động mà không bị trừng phạt ở các khu vực bộ tộc  của Pakistan và đang huấn luyện một số lượng đáng kể người  Tây phương cho các cuộc tấn công gây thương vong hàng loạt ở phương Tây. Nó cũng đang phát triển các “nút” ở Iraq, Yemen, Somalia, Bắc Phi và Lebanon có khả năng hoạt động tự chủ. Và Cơ quan kết luận rằng mặc dù họ có thể bắt giữ hoặc tiêu diệt bất kỳ số lượng “các tên quản lý cấp trung” nào trong al-Qaeda, trụ cột của chiến dịch vẫn là bin Laden và, ở một mức độ nào đó, cấp phó của ông ta, Ayman al-Zawahiri.

Với việc bin Laden đã biến mất và al-Qaeda trỗi dậy, tinh thần tại Trung tâm Chống Khủng bố của CIA xuống rất thấp. Ngoài ra, một Trung tâm Chống Khủng bố Quốc gia được Quốc hội ủy nhiệm đang được “dựng lên” để cung cấp các phân tích chiến lược về mối đe dọa từ khủng bố, và nó đang làm cạn kiệt nhiều nhà phân tích tài năng của CIA. Năm 2005, đơn vị chuyên trách về bin Laden tại CIA đã bị đóng cửa, các nhà phân tích và đặc vụ của đơn vị này được tái cơ cấu. Điều này không có nghĩa là CIA đột nhiên quyết định rằng bin Laden không còn quan trọng nữa, nhưng nó có nghĩa là việc tập trung duy nhất vào một người không phản ánh al-Qaeda đã thay đổi như thế nào kể từ khi đơn vị bin Laden được thành lập vào tháng 12 năm 1995.

Philip Mudd, khi đó là quan chức chống khủng bố cấp cao của CIA, nhớ lại: “Nó phản ánh những gì đang xảy ra trong chiến tranh, đó là sự toàn cầu hóa của ‘chủ nghĩa al-Qaeda’. Tôi nhớ có cảm giác rằng chúng ta đang phải đối mặt không chỉ với bin Laden và lực lượng nòng cốt al-Qaeda, mà còn phải đối mặt với một vấn đề thánh chiến toàn cầu lớn hơn.” Vào khoảng thời gian này, Mudd là tác giả của một bản ghi nhớ có ảnh hưởng nêu rõ cách tổ chức tập trung al-Qaeda đang biến thành phong trào al-Qaeda, đang lan rộng sang các nước như Iraq và thâm nhập vào Bắc Phi. Mudd, chuyên ngành văn học Anh với vóc dáng săn chắc của một người đam mê chạy bộ, từng là nhân vật số hai tại Trung tâm Chống Khủng bố của CIA từ năm 2003 đến năm 2005. Anh nhớ lại rằng bin Laden và Zawahiri không phải là chủ đề chính trong các cuộc trò chuyện của nhóm: “Nếu bạn ngồi quanh bàn, cả ở Trung tâm lẫn trong các cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với Giám đốc Tenet, bạn sẽ không thường xuyên nghe thấy tên bin Laden hay Zawahiri. Bạn thường nghe nói về những kẻ điều hành. Và có một lý do chiến lược cho điều đó. Về al-Qaeda họ không nói về những âm mưu và Bin Laden. Họ nói về KSM hoặc họ nói về Abu Faraj al-Libi.” Mudd và nhóm của ông đang cố gắng ngăn chặn cuộc tấn công tiếp theo vào Hoa Kỳ, và để làm được điều đó họ đặc biệt tập trung vào bất cứ ai là “số ba của al-Qaeda” vào thời điểm đó , bởi vì y sẽ  là người đang ra sức tổ chức cuộc tấn công tiếp theo vào đất nước chứ không phải bin Laden, dù được cho là nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn hơn.

Năm 2005, một nhà phân tích tên là Rebecca (tên giả), người đã làm việc trong vụ án bin Laden trong nhiều năm, đã viết một bài báo quan trọng có tựa đề “Xâm nhập” sẽ giúp hướng dẫn cuộc truy lùng trong những năm sập tới. Do không có manh mối thực sự nào về bin Laden, làm thế nào bạn có thể tìm ra y một cách hợp lý? cô ấy hỏi. Rebecca sau đó nghĩ ra bốn “trụ cột” để xây dựng cuộc tìm kiếm. Trụ cột đầu tiên là xác định vị trí thủ lĩnh của al-Qaeda thông qua mạng lưới chuyển phát nhanh của y. Trụ cột thứ hai là xác định vị trí của y thông qua các thành viên gia đình, những người có thể ở bên y hoặc bất kỳ ai trong gia đình y có thể ra sức liên lạc với y. Thứ ba là thông tin liên lạc mà y có thể có với cái mà Cơ quan gọi là AQSL (Lãnh đạo cấp cao của Al-Qaeda). Trụ cột cuối cùng là theo dõi bin Laden khi y  thỉnh thoảng tiếp cận giới truyền thông. Bốn trụ cột này đã trở thành một “mạng lưới” qua đó các nhà phân tích của CIA từ nay sẽ sàng lọc tất cả các thông tin tình báo thu thập được về al-Qaeda có thể liên quan đến cuộc truy lùng bin Laden, đồng thời cũng giúp cung cấp thông tin cho việc thu thập  tình báo mới.

Cách rõ ràng nhất để tìm ra bin Laden là thông qua việc ông gửi  các tuyên bố của mình đến giới truyền thông, thường đầu tiên là đến Al Jazeera. Theo một quan chức tình báo cấp cao của Mỹ, vấn đề với cách tiếp cận này là al-Qaeda “không sử dụng con của Zawahiri” để giao những cuộn băng này, mà đúng hơn là sử dụng một loạt “cắt rời”, nghĩa là, một số người đưa tin trong một chuỗi, mỗi người chỉ biết về người đưa tin cho mình và người mà anh ta giao cho. Và một số cuộn băng cho Al Jazeera được gửi đơn giản bằng bưu điện tới trụ sở chính của đài, Doha, ở Qatar.

Qua nhiều năm hoạt động chống khủng bố phát triển, các quan chức hiểu rõ hơn về cuộc sống của bin Laden, đạt được một số “kết luận chắc chắn” vào năm 2006 về những sắp xếp nội bộ của ông ta. Lúc đó họ đã từ bỏ quan niệm phổ biến rằng ông đang sống trong một hang động. Họ cũng kết luận rằng ông không di chuyển nhiều, thậm chí không hề di chuyển, và ông ta không gặp mặt trực tiếp bất kỳ ai trong những năm sau vụ 11/9, bởi vì dường như không ai trong số những tên   al-Qaeda bị giam giữ khai từng gặp mặt bin Laden, cũng không cho biết ai đã gặp mặt ông – mặc dù, và điều này quan trọng, một số người bị giam giữ đã khai từng nhận được thông tin liên lạc từ thủ lĩnh của họ thông qua người đưa tin. Vì vậy, khi thỉnh thoảng nghe báo cáo kiểu quáng gà rằng có nhìn thấy bin Laden – chẳng hạn, ông ấy đã có bài phát biểu trước hàng trăm người cổ vũ tại biên giới Afghanistan-Pakistan – những cảnh tượng đó CIA ngày càng  bác bỏ không đắn đo.

Các quan chức cũng kết luận rằng bin Laden “không kết bạn mới” khi đang lẩn trốn và bất kỳ ai bảo vệ ông ta đều có thể đã ở trong vòng thân cận của ông ta kể từ trước vụ 11/9. Nhiều vệ sĩ trung thành nhất của ông ta – một nhóm gồm 30 vệ sĩ được các nhà thẩm vấn người Mỹ gọi là “30 tên bẩn thỉu” – đã bị bắt ở Pakistan ngay sau Trận Tora Bora, vì vậy vòng tròn thân tín của bin Laden đã trở nên nhỏ hơn kể từ thời điểm đó.

Các nhà phân tích cũng kết luận rằng khi đang lẩn trốn, bin Laden sẽ không có nhiều lính canh để đảm bảo mình không để lại “dấu chân quá lớn”.

Để phát triển một bức tranh đầy đủ hơn về người đàn ông này và những thói quen của ông ta, các nhà phân tích của CIA đã khai thác những cuốn sách về thủ lĩnh al-Qaeda, chẳng hạn như cuốn lịch sử năm 2006 The Osama bin Laden I Know: An Oral History (Osama bin Laden mà Tôi Biết: Lịch Sử Qua Lời Kể)  của tác giả quyển sách này; cuốn tiểu sử có thẩm quyền năm 2008 về gia đình ông, The Bin Ladens, của Steve Coll; và cuốn hồi ký Growing Up bin Laden (Bin Laden Trưởng Thành)năm 2009 của người vợ đầu tiên của ông, Najwa, và con trai bà là Omar. Các nhà phân tích nhận thấy ông trùm khủng bố tận tâm như thế nào với vợ con và kết luận rằng họ có thể sẽ sống với ông ta, và trong trường hợp đó ông ta có thể định cư trong một khu nhà khá lớn với khu sinh hoạt riêng cho mỗi người vợ và các con của từng người, mô phỏng cách sắp xếp gia đình của ông ta ở Sudan và Afghanistan.

Trong thời gian chống khủng bố, các quan chức ngày càng cho rằng việc bin Laden lẩn trốn ở các vùng bộ tộc ở Pakistan ngày càng ít có vẻ hợp lý, nơi CIA đã bố trí nhiều sĩ quan phụ trách vụ án hơn từ mùa hè năm 2006 trở đi. Họ đã lần lượt tuyển dụng một số lượng đáng kể người địa phương. Những đặc vụ đó chưa bao giờ có được bất kỳ thông tin tình báo nào cho thấy bin Laden đang sống ở các khu vực bộ tộc .

Trong Growing Up bin Laden, Omar bin Laden kể lại rằng sau khi al-Qaeda đánh bom các đại sứ quán Mỹ ở Kenya và Tanzania vào năm 1998, cha anh đã tới Kabul để trốn tránh sự trả thù của Mỹ, và anh lưu ý rằng bin Laden có những ngôi nhà an toàn ở tất cả các thành phố lớn ở Afghanistan.

Điều này giúp xác nhận quan điểm ngày càng phát triển của CIA rằng bin Laden có thể đang ẩn náu trong một thành phố. Ngoài ra, còn có một thực tế là từ năm 2002 đến năm 2005, tất cả các thủ lĩnh và cộng sự chủ chốt của al-Qaeda  bị tóm được đều được tìm thấy ở các thành phố của Pakistan.

Đến năm 2009, những người săn lùng bin Laden càng chắc chắn hơn rằng y đang sống ở một khu đô thị nào đó. Trên chuyến bay từ Islamabad tới Washington vào tháng 5 năm 2010, trưởng trạm CIA ở Pakistan đã trò chuyện với một nhóm quan chức an ninh quốc gia của Obama. Một người trong số họ hỏi: “Osama bin Laden ở đâu? Mọi người đều nghĩ hắn đang lẩn trốn đâu đó ở Karachi, giữa khu ổ chuột.” Trưởng trạm  trả lời: “Không, có lẽ ông ta ở lân cận Islamabad, một trong những vùng ngoại ô đó. Cách chưa đến sáu mươi dặm.” Đây là một linh cảm đầy ngẫu hứng, vì phải mất ba tháng nữa CIA mới lần ra dấu vết người đưa tin của bin Laden tới Abbottabad, cách Islamabad 35 dặm về phía bắc.

Tất nhiên, ở CIA luôn có một hy vọng mờ nhạt rằng họ có thể gặp may mắn. Một quan chức chống khủng bố nhớ lại: “Chúng tôi luôn hy vọng nghe một người cho hay: ‘Tôi đi ngang qua khu nhà đó hàng ngày trong bảy năm và hôm nay một cánh cửa mở ra và tôi nhìn thấy Osama bin Laden’, một quan chức chống khủng bố nhớ lại. Cơ hội may mắn đó không bao giờ đến. CIA cũng không bao giờ có thể gài được một điệp viên ở al-Qaeda, người có thể cho họ biết bin Laden ở đâu. Ở cấp cao nhất của nhóm khủng bố, thông tin được phân chia rất chặt chẽ và các thủ lĩnh thực hiện các hoạt động an ninh rất tốt, vì vậy việc bổ nhiệm một điệp viên vào hàng ngũ lãnh đạo là không khả thi. Robert Dannenberg, một cựu chiến binh CIA thời Chiến tranh Lạnh, người điều hành các hoạt động chống khủng bố tại Cơ quan sau ngày 11/9, giải thích rằng sự cuồng tín tôn giáo của các thành viên al-Qaeda khiến việc  tuyển dụng họ làm gián điệp rất khó khăn: “Việc thuyết phục một cán bộ Liên Xô rằng cách sống của bạn tốt hơn dễ dàng hơn nhiều. Bạn có thể dẫn tới Kmart ở Hoa Kỳ, hay tới Wal-Mart, bởi vì họ bị thúc đẩy bởi nhiều ham muốn giống như chúng ta: sự thành đạt và khả năng chăm sóc đầy đủ cho gia đình. Khi bạn làm việc với một kẻ có quan điểm tôn giáo cực đoan, điều đó hoàn toàn khác.”

Thay vào đó, chính sự tập hợp thông tin tích lũy và tỉ mỉ qua nhiều cuộc phỏng vấn tù nhân, từ hàng ngàn tài liệu của al-Qaeda thu được trên chiến trường hoặc sau một vụ bắt giữ, và việc săm soi các báo cáo nguồn mở về bin Laden đã giúp xây dựng một bức tranh về các cộng sự của ông ta và hoàn cảnh sống của ông ta có thể như thế nào và với ai.

Cuối cùng Cơ quan trở về bốn “trụ cột” của cuộc săn lùng bin Laden:  mạng lưới đưa tin, gia đình y, giao tiếp của y với các nhà lãnh đạo khác trong  tổ chức và các phát biểu trên truyền thông của y. Ba trong số cột trụ không mang lại kết quả gì. Gia đình của y không giao tiếp với y; các liên lạc y tiến hành với các thủ lĩnh khác được “đóng chặn” một cách hoàn hảo; khiến không thể truy ngược đến bin Laden; và các tuyên bố của y  trên phương tiện truyền thông theo thời gian đã không mang lại bất kỳ manh mối hữu ích nào. Vậy là chỉ còn lại mạng lưới đưa tin.

Các nhà phân tích tình báo đã tạo ra một tổ hợp các tố chất của người đưa tin lý tưởng: hắn phải có thể đến Pakistan mà không gây chú ý, hắn phải nói được tiếng Ả Rập để giao tiếp hiệu quả với giới lãnh đạo Ả Rập của al-Qaeda, và hắn phải được Bin Laden tin tưởng từ  trước vụ tấn công 11/9. Abu Ahmed al-Kuwaiti,  mệnh danh là “người Kuwait”, chắc chắn đáp ứng được tất cả các yêu cầu đó: gia đình hắn gốc gác ở miền bắc Pakistan, hắn đã lớn lên ở Kuwait, và CIA tin rằng hắn đã gia nhập al-Qaeda vào khoảng năm 1999. Nhưng mặc dù người Kuwait được coi là một tay chơi trong al-Qaeda, một quan chức chống khủng bố đã dành nhiều năm theo dõi bin Laden nhớ lại rằng, trong một thời gian dài, “không hề có cảm nhận: ‘Đây chính là anh chàng của chúng ta.’”

Bình luận về bài viết này