Mùa xuân nhớ phiếm luận của cụ Đông Hồ về các nhân vật trong Truyện Kiều

Đông Hồ (1906-1969)

Trần Quang Nghĩa sưu tầm và chép lại

Xuân sắp về như con én đưa thoi,  tạm gác chuyện lịch sử cổ kim khô khăn, tìm chút thư giãn trong văn chương. Đối với người đã thất thập cổ lại hy, nhớ chuyện văn chương là nhớ đến Truyện Kiều. Nhớ đến tuyệt phẩm của Tố Như, bảo vật của thi ca nước nhà, tôi chực nhớ đến cụ Đông Hồ (1906-1969), một thi nhân đất Hà Tiên, cũng  là giáo sư văn chương, nhà khảo cứu văn học, từng đồng góp các nghiên cứu văn hoc sử cho tạp chí Nam Phòng của Phạm Quỳnh. Tuy rất am tường chữ Hán, khi đi dạy lúc nào cũng khăn đóng áo dài tề chỉnh đúng cốt cách một nhà nho, nhưng thơ văn ông cũng lãng mạn và hiện đại trong câu từ và ý tưởng, tuy ông thường viết theo lối thơ đường luật. Chẳng hạn bài thơ Mua Áo sau đây, nhân dịp bà xã ông, nữ thi sĩ Mộng Tuyết, nhờ ông mua bà chiếc áo mới

Mua áo

Chiếc áo năm xưa đã cũ rồi,

Em đâu còn áo mặc đi chơi.

Bán thơ nhân dịp anh ra chợ,

Đành gởi anh mua chiếc mới thôi!

Hàng bông mai biếc màu em thích,

Màu với hàng, em đã dặn rồi.

Còn thước tấc, quên! Em chửa bảo:

Kích tùng bao rộng, vạt bao dài?

Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!

Thước tấc anh còn lựa hỏi ai

Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,

Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

Đông Hồ (1906-1969)

Nhưng lần này, tôi nhớ đến một bài phiếm luận của cụ  viết cho tạp chí Bách Khoa, một tạp chí học thuật nổi tiếng, cách đây khoảng nửa thế kỷ đầy biến động trong kiếp nhân sinh bèo bọt của bản thân và vận mệnh bao trùm của cả dân tộc. Dù đã quên bẳng tựa đề của bài phiếm luận, nhưng tôi vẫn còn nhớ ít nhiều nội dung của bài viết duyên dáng đó. Đại để ông tự đặt câu hỏi cho chính mình: “Sau Thúy Kiều, nhân vật nào khiến tôi có ấn tượng nhất?

Tôi đã cố công dùng công cụ Google Search vạn năng, mong tìm kiếm lại nguyên văn bài viết ấy để chia sẻ với các độc giả như một món quà đầu xuân, nhưng hoài công. Thôi thì đành bóp trán, nhớ được bao nhiêu thì viết lại bấy nhiêu hầu các bạn, chỉ mong góp chút niềm vui và xin các bạn bỏ qua nếu trí nhớ bất toàn của một ông già đã biến một bài phiếm luận súc tích và duyên dáng của cố thi sĩ thành một bài viết khô khan, tẻ nhạt,  thiếu thuyết phục. Và trên hết, kính mong hương hồn cụ Đông Hồ lượng thứ cho kẻ hậu sinh chỉ biết yêu quý cụ mà quá đỗi vụng về, đúng như Kiều đã có lần trách chàng Kim:

Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.

Từ khóa của bài này là “nhân vật ấn tượng nhất.” Một nhân vật ấn tượng nhất, ngoài đời cũng như trong tiểu thuyết hư cấu, ắt hẳn là một nhân vật nổi bật, phức tạp, khó đoán và có tính cách mạnh mẽ nhưng rồi đột ngột biến đổi từ lúc nào trước những tác động của hoàn cảnh mà đối phương không hề hay biết

Trong bộ kiếm hiệp bất hủ của Kim Dung, ta bắt gặp nhiều nhân vật ấn tượng thuộc kiểu này. Điển hình là sư phụ Nhạc Bất Quần của Lệnh Hồ Xung, được giang hồ đặt cho biệt danh Quân Tử Kiếm, nhưng dần dần lộ nguyên hình là một tên đại ác, chỉ vì muốn làm bá chủ võ lâm, đã âm thầm gây ra bao nhiêu tội ác cho cả người thân. Hay trong Cô Gái Đồ Long, Chu Chỉ Nhược, một cô gái nhu mì, tốt bụng, chỉ vì ghen tuông, đã biến thành một con người nham hiểm, mưu mô không ai ngờ đến. Trong nhiều môn đệ nổi tiếng của Đức Phật, không phải Mục Kiền Liên hay Xá Lợi Phất hay Ananda mới  là nhân vật ấn tượng nhất, mà chính là Angulimala (Vô Não). Xuất thân là một vị Bà-la-môn cao quý nhưng vì nghe lời sư phụ gian ác,  đã biến ông thành một tên đại ác nhân. Y bảo cậu học trò ngoan ngoãn phải giết đủ 1000 người và mang về ngón tay cái từng người thì y sẽ truyền đạt hết đạo thuật cao siêu. Và vì thế mà chàng bắt đầu lao vào cuộc chém giết bừa bãi, và mỗi ngón tay cái của nạn nhân được xâu thành một vòng đeo quanh cổ. Khi vòng đeo cổ của Angulimala đã có 999 ngón tay rồi, chỉ còn thiếu một ngón là đủ 1.000. Bấy giờ ai cũng biết tin và khiếp sợ, chàng đi đến đâu mọi người đều trốn chạy và quan quân thì truy đuổi.

Đức Phật biết được nếu Ngài không can thiệp thì rất có thể Angulimala sẽ giết người cuối cùng là mẹ mình. Thế là Đức Phật đến khu rừng và xuất hiện phía trước Angulimala trên con đường vắng mà chàng đang nôn nóng đi tìm giết người nạn nhân thứ 1000 của mình. Nhác thấy một thầy tu đang chậm rãi kinh hành phía trước, Angulimala mừng rỡ, vung dao nhanh chân rượt đuổi. Nhưng dù phi nhanh cỡ nào, trong khi Đức Phật vẫn chậm rãi từ tốn đếm bước, Angulimala không tài nào bắt kịp được Ngài. Y đâu biết Đức Thế Tôn đang thi triển thần thông. Cuối cùng, quá tức tối, y quát lên : “Này, khất sĩ kia, hãy dừng lại! Dừng lại mau cho ta!”, và đấng Giác Ngộ, không hề quay lại, điềm nhiên trả lời: “Ta đã dừng lại từ lâu rồi, còn nhà ngươi sao chưa chịu dừng lại!” Nghe được lời này, Angulimala thốt nhiên tỉnh ngộ, bỏ dao, quỳ xuống trong làn nước mắt ràn rụa. Sau đó ông xin Đức Phật nhận mình làm môn đệ. Trong thời gian tụ tập, trong những lần đi khất thực, ông chẳng những nhận được vật phẩm cúng dường, mà còn bị dân chúng và thân nhân các người bị ông hại ném đá, đánh đập đến sưng vù, chảy máu, nhưng vẫn nhẫn nhục nhận lãnh quả báu để sám hối. Chẳng bao lâu ông đạt tới quả vị A-la-hán.

Với tiêu chí như trên về tính ấn tượng trong nhân vật được xây dựng, ta thử điểm qua các nhân vật nổi bật của Nguyễn Du, ngoài vai chính Thúy Kiều. Kể theo thứ tự xuất hiện, ta có Thúy Vân, Kim Trọng, Thúc Sinh, Hoạn Thư và Từ Hải. Theo bạn, Ai là nhân vật cụ Đông Hồ cho là tâm đắc nhất?

Trước tiên là Thúy Vân,  em gái của Kiều. Về dung nhan Nguyễn Du cho ta biết nàng chỉ kém có bà chị mình:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Kiều càng sắc sảo mặn mà . . .

Nhưng về cá tính thì Vân thật là một trời một vực so với bà chị. Nếu cá tính của Kiều là một làn thu thủy phản chiếu và cảm thụ mọi cảnh đời xảy ra xung quanh thì Vân “tỉnh queo” như củ khoai, cục đất. Trong tiết thanh minh, khi vô tình trông thấy một nấm mộ vô chủ bên đường, “hương khói vắng tanh” và được em trai Vương Quan cho biết đó là mộ phần của một ca nhí “nổi danh tài sắt một thời” đã “nửa  chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.” “Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa,” lòng liền cảm khái và lấy trâm “vạch da cây  vịnh bốn câu ba vần.” Rồi tiếp tục sụp người bên nấm mộ khóc than, nước mắt dầm dề,  khiến Vân phải bực mình nói, “Chị cũng nực cười/Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.”

Tiếp đến, Kim Trọng, vốn là bạn đồng môn với Vương Quan, ở đâu trờ tới. Trước chàng văn nhân, trâm anh thế phiệt, “tài mạo tót vời”, “hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.” Nhưng chỉ có cô chị là “tình trong như đã, mặt ngoài còn e.” Không thấy Vân biểu lộ cảm xúc gì.

Chưa hết, tối đến, vẫn còn bồi hồi về hai cuộc gặp gỡ buổi sáng, trong khi Vân đã vô tư đi ngủ sớm, Kiều:

Một mình lặng ngắm bóng nga,

Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:

Người mà đến thế thì thôi,

Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

Người đâu gặp gỡ làm chi,

Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Chưa hết, ngay buổi tối trước ngày phải lên đường đi theo tên ma cô Mã Giám Sinh trong đám cưới giả, nghĩ đến mối tình vừa đính ước với người yêu nay bỗng dở dang, Kiều:

Một mình nàng ngọn đèn khuya,

Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.

Và thở than:

Nợ tình biết trả cho ai,

Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.

Nỗi riêng riêng những bàng hoàng,

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.

Lúc ấy, nghe tiếng khóc đoạn trường, Thúy Vân mới:

“. . . chợt tỉnh giấc xuân,

Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han

Sáng sớm ngày mai chị mình đã lên đường ra đi không biết đến phương trời nào và không biết đến ngày nào gặp lại, lành dữ ra sao mà cô em gái vô tâm này vẫn còn ngủ được ngon lành. Nhưng cũng không thể trách Vân được vì nàng nào đâu hay mối giao tình thề ước quá sâu đậm của chị mình, và mưu mô lừa đảo của bọn buôn người sẽ xô đẩy đời Kiều vào phong trần bão táp kéo dài 15 năm.

Sau khi được chị trút hết bầu tâm sự và trao các vật đính ước và nhờ cậy mình se duyên cùng chàng Kim cho  trọn lời thệ nguyện sắt đá trước đất trời, không hiểu Vân có biết người chị cao cả của mình đã tính trước con đường tự kết liễu đời mình nếu có việc chẳng lành xảy ra trong mấy lời dặn dò thật bi ai:

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sao dầu có bao giờ.

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Trong buổi tiệc đoàn viên 15  năm sau đó, bây giờ một Thúy Vân không khúc mắt, vẫn ngây thơ, trơn tuột, mới có ý kiến. Sau khi vô một chút rượu,nàng đứng lên giải bày quyết định trả lại ông chồng si tình, chung thuỷ, tội nghiệp cho bà chị như trả lại một bảo vật người chị đã nhờ mình giữ đùm trong bấy nhiêu năm. Và nàng lập luận có tình, có lý, có nghĩa, có vịn vào tâm linh:

Tàng tàng chén cúc dở say,

Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.

Rằng: Trong tác hợp cơ trời.

Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.

Gặp cơn bình địa ba đào,

Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.

Cũng là phận cải duyên kim,

Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?

Những là rày ước mai ao,

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!

Bây giờ gương vỡ lại lành,

Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.

Còn duyên may lại còn người,

Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.

Quả mai ba bảy đương vừa,

Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì

Hành động này của Thúy Vân, nếu xét nàng đã sống đủ lâu với chàng Kim, nếu xét chị mình đã gánh chịu bao “cơn bình địa ba đào”, nếu xét Vân đã “tàng tàng chén cúc dở say,” (không biết nàng nói hay rượu nói), không nói lên gì nhiều trong chuyển biến tính cách của nàng), cho nên không gây ấn tượng gì lắm. Và khi Kim Trọng và Thúy Kiều, trong đêm động phòng, đã quyết định

Đem tình cầm sắc đổi ra cầm kỳ,

thì trong lúc Kiều và Kim

Khi chén rượu khi cuộc cờ,

Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.

thì Vân lại tiếp tục an phận làm vợ thứ và “sản xuất” ra một lô con cái sau này sẽ “ăn nên làm ra,” gây hiển vinh cho dòng họ:

Thừa gia chẳng hết nàng Vân,

Một cây cù mộc một sân quế hòe.

Bây giờ xét đến Kim Trọng:

Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.

Nền phú hậu, bậc tài danh,

Văn chương nết đất, thông minh tính trời.

Phong tư tài mạo tót vời,

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

Mới chỉ là bạn học của Vương Quan, mà đã si tình hai chị gái người ta mới biết tên mà chưa từng gặp mặt.

Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân.

Vẫn nghe thơm nức hương lân,

Một nền đồng Tước khoá xuân hai Kiều.

Nước non cách mấy buồng thêu,

Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng

Dù đa tình đa cảm nhưng anh chàng cũng là một con người có tính cách trước nhau như một, một lòng một dạ với người yêu. Chàng cũng xứng danh quân tử, khi yêu là tính chuyện lâu dài, không sa đà vào chỗ trăng hoa, ong bướm. Có lần, nhân dịp ở nhà một mình, đêm khuya nàng xồng xộc qua thư phòng của chàng Kim trong động thái dường như “cột đi tìm trâu”; và sau phen nghe Kiều đàn và chuyện trò tình tứ, dần dần:

Hoa hương càng tỏ thức hồng,

Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.

Và khi chàng Kim:

Sóng tình dường đã xiêu xiêu,

Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.

Thì Kiều đã ngăn lại và dạy cho anh chàng một bài học, và anh chàng:

Thấy lời đoan chính dễ nghe,

Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân

Ai ngờ thình lình địa ngục trần gian sụp xuống. Trong thời gian Kim Trọng về quê hộ tang chú, thì ở đây Vương ông gặp sự cố phải đáo tụng đình, khiến Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh, lấy tiền hối lộ cửa quan để chả được tha. Sau khi bị tên Mã ma cô chịu đấm ăn xôi, dở trò:

Tiếc thay một đóa trà mi,

Con ong đã tỏ đường đi lối về.

Nàng đã than:

Biết thân đến nước nỗi này,

Nhị đào thà bẻ cho người tình chung

Khi trở lại, được gia quyến Kiều kể lể ngọn ngành cảnh gia biến lạ thường, Kim Trọng

Vật mình vẫy gió tuôn mưa,

Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!

Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,

Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.

 Một mặt chàng:

Vội về sửa chốn vườn hoa,

Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.

Thần hôn chăm chút lễ thường,

Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa

Một mặt chàng:

Đinh ninh mài lệ chép thơ,

Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.

Biết bao công mướn của thuê,

Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi.

Người một nơi hỏi một nơi,

Mênh mông nào biết bể trời nơi nao

Nhưng họ không ngờ Lâm Thanh đây chỉ là địa chỉ ma mà tên họ Mã đã nói dối khi rước Kiều về lầu xanh. Chỗ làm ăn hợp tác với Thần Bạch Mi của vợ chồng hắn là ở Lâm Tri.

Trong cơn tuyệt vọng:

Sinh càng thảm thiết khát khao,

Như nung gan sắt như bào lòng son.

Ruột tằm ngày một héo don,

Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.

Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê,

Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.

Thật là ghê gớm, tay này là siêu đa cảm, siêu ủy mị “siêu suy sụp“ khiến:

Xuân huyên lo sợ biết bao,

Quá ra khi đến thế nào mà hay!

Vội vàng sắm sửa chọn ngày,

Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.

Và như thường lệ, Vân không có ý kiến, thế là tình chị buộc vào duyên em. Dù vậy nỗi nhớ nhung ray rứt vẫn đè nặng tâm khảm chàng trai nhất mực lụy tình:

Vui nào đã cất sầu kia được nào!

Khi ăn ở lúc ra vào,

Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.

Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,

Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng

Ở với ông chồng mà lúc nào cũng tương tư người yêu cũ, cho dù là bà chị mình, và mối tương tư kéo dài đằng đẵng hơn chục năm, chắc chỉ có củ khoai Thúy  Vân mới chịu được.

Đến khi Kim Trọng và Vương Quan cùng thi đỗ ra làm quan, được phái về Lâm Tri trấn nhậm. Và trong một đêm Vân nằm mơ thấy chị (thứ này hiếm), liền kể lại cho chồng. Nhờ đó hỏi thăm người thư lại già, cùng với Thúc Sinh,  mới biết được tung tích phần đầu cuộc đời gian truân của Kiều, đến đoạn Kiều về với Từ Hải khi người anh hùng đã:

Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,

Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng

Anh chàng đa tình, chung thuỷ, kiên trì lại tiếp tục

Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,

Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.

Xót thay chiếc lá bơ vơ,

Kiếp trần biết giữ bao giờ cho xong?

Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,

Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!

Lời xưa đã lỗi muôn vàn,

Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,

Như vậy từ đầu đến cuối truyện, chàng Kim vẫn giữ một cốt cách đáng cho ta vô cùng ngưỡng mộ, nhưng không khiến ta bất ngờ hay ấn tượng chút nào. Tuy có khác với cá tính với Thúy Vân, vô cùng tiêu cực,  Kim Trọng thì cực kì tích cực trong nỗi bi thương và trong việc truy tìm người yêu thuở ban đầu  của mình.

Nhân vật thứ ba, Thúc Sinh, thậm chí không hề kém cạnh trong biểu lộ tình yêu, mà có khi hơn vì anh chàng còn phải đương đầu với  thủ đoạn của bà La Sát ở nhà. Là một thương gia nhưng cũng là tay ăn chơi sành sỏi:

Thúc sinh quen thói bốc rời,

Trăm nghìn đổ một trận cười như không.

Những tưởng Kiều chỉ là một trong số những cô kiều mà anh chàng playboy thường lui tới, nhưng

Lạ gì thanh khí lẽ hằng,

Một dây một buộc ai giằng cho ra.

Sớm đào tối mận lân la,

Trước còn trăng gió sau ra đá vàng.

Về phần nàng, khi biết Thúc Sinh không phải là một tay chơi qua đường như những đại gia phàm tục khác, mà đang tìm hiểu nàng để

Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông

Nàng bèn thổ lộ khao khát muốn thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp, chỉ mong làm vợ lẻ là thỏa nguyện rồi chứ không có ác ý phá gia cang người yêu, hy vọng:

Như chàng có vững tay co,
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
Thế trong dầu lớn hơn ngoài,
Trước hàm sư tử gửi người đằng la.

Sau khi Thúc Sinh tìm cách chuộc nàng về, họ sống một thời gian hạnh phúc bên nhau như phu thê:

Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai.

Một nhà sum họp trúc mai,

Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.

Hương càng đượm lửa càng nồng,

Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.

Kiều giục giã khuyên Thúc Sinh về quê Vô tích vì chàng xa nhà đã lâu. Nàng thiết tha khuyên chàng đừng cố giấu nhẹm mà nên trình bày nguồn cơn lẽ thiệt với vợ nhà để xin chị cả cho nàng yên phận với vị trí thấp kém là nàng đã mãn nguyện lắm rồi. Nàng như có linh cảm về một bà vợ cả “phi thường,” và đầy mưu trí sâu hiểm.

E tình nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
Nghĩ ra thật cũng nên đường,
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
Ở vào khuôn phép nói ra mối đường.

E thay những dạ phi thường,
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng,
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng kíp liệu lại nhà,
Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
Rày lần mai lữa như hình chưa thông.

Nàng như có linh tính về những điều chẳng lành nếu cứ tiếp tục giấu giếm mối tình bất chính:

Nàng rằng: Non nước xa khơi,
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
Dù khi sóng gió bất tình,
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
Lại mang những việc tày trời đến sau.

Và những lời dặn dò trước khi chia tay cho thấy tình cảm giữa Kiều và Thúc Sinh thật là sâu đậm:

Thương nhau xin nhớ lời nhau,

Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.

Chén đưa nhớ bữa hôm nay,

Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!

Người lên ngựa kẻ chia bào,

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.

Dặm hồng bụi cuốn chinh an,

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.

Người về chiếc bóng năm canh,

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.

Nhưng tiếc thay, chàng Thúc nhà ta có tâm lý giống như các đám mày râu lỡ ăn vụng khác, nếu giấu nhẹm được thì thà không hở môi còn hơn phải gánh chịu cảnh sư tử hống. Thấy Hoạn Thư không hạch hỏi gì, chỉ nói bóng gió chung chung, tưởng nàng chẳng biết mô tê gì, nên tự tin tiếp tục không hở môi, quên đi lời căn dặn khẩn thiết của Kiều trước lúc chia tay:

Chàng về xem ý tứ nhà,

Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.

Mấy phen cười nói tỉnh say,

Tóc tơ bất động mảy may sự tình.

Nghĩ đà bưng kín miệng bình,

Nào ai có khảo mà mình đã xưng

Những là e ấp dùng dằng,

Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi.

Phải chỉ chàng biết tánh ý vợ nhà, dù rất ghen tuông, nhưng nếu thú tội và chịu khó xin xỏ thì Kiều đã được nhận làm vợ lẽ và sống một cuộc đời yên lành, có danh phận như nàng khao khát, vì Hoạn Thư đã từng thổ lộ với lòng mình:

Ví bằng thú thật cùng ta,

Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.

Dại chi chẳng giữ lấy nền,

Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?

Lại còn bưng bít giấu quanh,

Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!

Nhưng như vậy thì chúng ra sẽ mất đi một nhân vật mạnh mẽ đẩy mạch truyện lên cao trào vừa đầy phấn khích vừa ngập tràn bị thương trước khi đến một kết thúc có hậu cho nhân vật chính của chúng ta.

 Vậy là Thúc Sinh trước sau chỉ là một con người đa tình, tốt bụng, có tình, có nghĩa, nhưng cá tính không có gì nổi bật, khó có thể gây được ấn tượng với người đọc chúng ta.

Thế là chỉ còn Hoạn Thư và Từ Hải vào “chung kết”  theo thứ tự là nhân vật phản diện và chính diện. Chắc chắn đến đây bạn đã có lựa chọn của mình rồi.

Trong cuộc đời lưu lạc trầm luân của Kiều, giây phút hạnh phúc thì ngắn ngủi trong khi những bất hạnh, đày đọa thì chất ngất. Trong đêm tối vô vọng đau thương đó những ngày tháng sống với Từ Hải là ánh chớp lóe sáng rực rỡ, là vinh hiển đỉnh cao mà nàng chưa từng dám mơ ước.

Trong phần sau của quãng đời kỹ nữ, Từ Hải, một khách biên đình, xuất hiện trong cuộc đời nàng. Tướng tá thì:

Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.

Tài nghệ và tính khí thì:

Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

Đội trời đạp đất ở đời,

. . .

Giang hồ quen thú vẫy vùng,

Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.

Và ngay lần gặp đầu tiên, khi được Kiều thành thực thấy ở mình là một con người có chí lớn và tin rằng người anh hùng thời vị ngộ sẽ đạt được đại thành tựu trong sự nghiệp, thì Từ đã kết nàng ngay:

Nghe lời vừa ý gật đầu,

Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người!

Khen cho con mắt tinh đời,

Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!

Một lời đã biết tên ta,

Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!

Từ lập tức chuộc nàng ra khỏi chốn lầu xanh và sống với nàng như vợ chồng chưa cưới. Dù cũng say đắm vì tình, nhưng Từ không bi lụy, yếu đuối như Kim Trọng và Thúc Sinh. Sắc đẹp mỹ nhân không làm chàng chìm đắm mà quên khuấy đi sự nghiệp còn dang dở. Nên chỉ sau

Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.

Và khi Kiều bịn rịn, chàng trách:

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?

Và hứa như đinh đóng cột:

Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,

.Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì?

Và kẻ trượng phu đã giữ lời. Độc giả nào để cảm xúc mình lên xuống theo từng bước lưu lạc đầy nước mắt của Kiều chắc hẳn  cảm xúc không khỏi dâng trào vượt mọi kìm hãm khi đến đoạn, sau khi đã đạt được những thành công bước đầu, tạo ra một thế lực hăm dọa an nguy cả triều đình, Từ Hải lập tức cho quan binh, thị nữ rầm rập về quê đón tiếp người yêu trong nghi thức lễ tân hôn hết sức rạng rỡ giữa lúc nàng đang phân vân ngơ ngác không biết có nên theo lối xóm chạy đi lánh nạn:

Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương,

Ngất trời sát khí mơ màng,

Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh.

Người quen kẻ thuộc chung quanh

Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.

Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,

Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.

Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ

Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.

Giáp binh kéo đến quanh nhà,

Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân?

Hai bên mười vị tướng quân,

Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.

Cung nga, thể nữ nối sau,

Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.

Sẵn sàng phượng liễn loan nghi,

Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng.

Dựng cờ, nổi trống lên đàng,

Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.

Tình yêu của Từ Hải đối với Kiều  quá lớn, trong đó xen lẫn niềm kính trọng. Chàng không chỉ vì Kiều mà dám dẫm đạp lên dư luận thành kiến của một xã hội phong kiến, chẳng những dám cưới một kỹ nữ mà còn hãnh diện vì điều ấy với một cuộc đón rước trọng thể không thể vẻ vang hơn được:

Hoả bài tiền lộ ruổi mau,

Nam đình nghe động trống chầu đại doanh.

Kéo cờ lũy, phát súng thành,

Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài.

Rỡ mình, là vẻ cân đai,

Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.

Và thậm chí còn cho nàng dự phần trong việc bày binh bố trận:

Biết Từ là đấng anh hùng,

Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn

Người anh hùng này có hai nỗi đam mê lớn: tình yêu với Kiều và xây dựng nghiệp lớn. Và nàng, giờ đã mãn nguyện với đời sống vợ chồng hạnh phúc bấy lâu khao khát và tranh đấu tìm kiếm, chỉ muốn được bình an, ấm êm, xum họp với gia đình trong vinh hiển làm cha mẹ, họ hàng rỡ ràng, nhất là khi đã trải qua bao nhiêu cay đắng, oan khiên, lừa lọc. Thật dễ hiểu khi một Kiều thông minh dễ dàng bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa.

Từ Hải, dù biết rằng:

Một tay gây dựng cơ đồ,

Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!

Bó thân về với triều đình,

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?

Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Nhưng cuối cùng, nỗi đam mê này đã xung khắc và áp đảo nỗi đam mê kia và người anh hùng cũng không thoát nỗi cảnh

Sắc bất ba đào dị nịch nhân

Để đến nỗi

Đương khi bất ý chẳng ngờ,

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!

Và hình tượng

Trong vòng tên đá bời bời,

Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ

là cao trào đầy ấn tượng, khúc ngoặt bi hùng của đường dây cốt truyện, nhưng chưa thể nói là ấn tượng về phương diện xây dựng cá tính nhân vật.

Và, chắc các bạn đã biết kết luận của cụ Đông Hồ về câu hỏi đâu là nhân vật mà cụ ấn tượng nhất, tâm đắc nhất. Đúng, đó là nhân vật Hoạn Thư, bà xã đáo để của chàng Thúc.

Thân thế Hoạn Thư cũng không tầm thường:

Vốn dòng họ Hoạn danh gia,

Con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư.

Duyên đằng thuận nẻo gió đưa,

Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.

Tính nết cũng không đơn giản:

Ở ăn thì nết cũng hay,

Nói điều ràng buộc thì tay cũng già

Khi biết tin chồng lang chạ, thói thường là người vợ đùng đùng nổi giận, hạch sách, đay nghiến chồng, rồi dở những chiêu đánh ghen “truyền thống” như sử dụng bạo lực với tình địch giữa thanh thiên bạch nhật, hoặc tàn nhẫn hơn là rạch mặt hoặc tạt a-xít. Nhưng đường đường là một tiểu thư con nhà trâm anh thế phiệt, bà không thể có những hành động không xứng tầm như thế:

Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.

Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen,

Xấu chàng mà có ai khen chi mình!

 Một mặt nàng cho “đặc vụ” đến tận Lâm Tri điều tra sự tình, một mặt giữ kín chuyện tai tiếng này không muốn gây tiếng xấu cho ông chồng

Nỗi lòng kín chẳng ai hay,

Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.

Tuần sau bỗng thấy hai người,

Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.

Tiểu thư nổi giận đùng đùng:

Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!

Chồng tao nào phải như ai,

Điều này hẳn miệng những người thị phi!

Vội vàng xuống lệnh ra uy,

Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.

Trong ngoài kín mít như bưng.

Nào ai còn dám nói năng một lời

Nhưng bên trong nàng rất tự tin:

Lo gì việc ấy mà lo,
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhãn tiền,
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay.

Ta có thể như nghe được tiếng Tiểu thư nghiến răng ken két sau mỗi cụm từ “Làm cho” trong đoạn hăm he của nàng. Nàng rất tự tin vì nàng đã nghĩ ra một mưu tính rất đỗi sâu độc, bắt cóc mục tiêu và đánh lạc hướng việc điều tra. Điều nghiên thực địa, lên kế hoạch chi tiết và tiến hành nhanh gọn, Hoạn Thư không kém cục Mật vụ Mossad của Israel. Sau khi không khai thác được gì từ Thúc Sinh trong việc muốn chồng tự mình khai ra việc tác tệ và khẩn khoản xin được vợ tha thứ và chấp nhận thân phận vợ lẽ của Kiều như nàng khuyên nhủ, một mực dặn dò trước khi chàng Thúc về quê thăm vợ nhà. Nếu Thúc Sinh biết tính tình người vợ của mình, nếu như:

Ví bằng thú thật cùng ta,

Thì mọi việc có thể đã êm đẹp như Kiều mong ước, vì Hoạn Thư sẵn sàng

Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên

Đợi khi Thúc Sinh vừa mới từ giả vợ nhà, lên đường trở lại Lâm Tri, Hoạn Thư cho thủ hạ đi tắt đường biển đến Lâm Tri trước Thúc, xông vào chụp thuốc mê nàng Kiều đáng thương, rồi phóng hỏa đốt nhà, trước đó không quên quăng vào một thây ma vô chủ để phi tang.

Bọn đầu trâu mặt ngựa chở Kiều đang hôn mê một mạch về nhà mẹ của Hoạn Thư. Tại đó Kiều bị một trận đòn nhừ tử rồi xung vào hàng ngũ tôi tớ. Sau đó một ít hôm, Hoạn Thư ngụy tạo việc vô tình đến thăm mẹ, và được mẹ tặng một thị tỳ tên Hoa Nô mới mua về. Kiều làm sao nghi ngờ được kẻ chủ mưu là phu nhân của Thúc Sinh.

Kiều hầu hạ, phục dịch Hoạn Thư một thời gian khoảng nửa năm, đây là khoảng thời gian mà Tiểu thư phần nào nhân ra các phẩm chất cao quý của tình dịch, và có chút chuyển biến về tình cảm mà Kiều nào hay, trong một số sự kiện như khi yêu cầu Kiều đàn cho mình thưởng thức:

Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
Tiểu thư xem cũng thương tài,
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.

Rồi như thường lệ khi Thúc Sinh hồi hương, trong bữa tiệc tẩy trần, Hoạn Thư đem Kiều ra khoe với chồng, hai người trong cảnh éo le không dám nhìn mặt nhau. Hoạn Thư hẳn vô cùng đắc ý khi đạt được tâm nguyện bấy lâu của mình:

Làm cho nhìn chẳng được nhau,
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!

Hoạn Thư bắt nàng dâng rượu, bắt nàng gảy đàn mua vui, hăm he phạt roi khi làm anh chồng si tình sụt sùi không phải vì bản nhạc Đoạn trường quá bi ai, mà vì tình cảnh thống thiết có một không hai. Hành hạ hai người đến cảnh bà, Tiểu thư mới đôi phần hả dạ. Từ thời khắc này trở đi Hoạn Thư ắt hẳn đã được Kiều xếp vào danh sách “khủng bố.”

Một thời gian sau thấy Kiều luôn sầu thảm, Tiểu thư nhờ chồng hỏi tra, và nàng:

Cúi đầu quỳ trước sân hoa,

Thân cung nàng mới dâng qua một tờ.

Diện tiền trình với Tiểu thư,

Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.

Liền tay trao lại Thúc Sinh,

Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!

Ví chăng có số giàu sang,

Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!

Bể trần chìm nổi thuyền quyên,

Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!

 

Trong một đoạn thơ mà Hoạn Thư bày tỏ đến ba lần niềm cảm thương cuộc đời vô duyên lận đận của một người nết na, tài sắc, người trước đây nàng căm thù hết mực.

Thuận theo thỉnh nguyện của nàng trong đơn, Hoạn Thư cho Kiều ra Quan Âm Các sau vườn để ngày đêm tụng kinh niệm Phật. Một lần, thừa cơ vợ bảo là mình về thăm phụ thân, chàng Thúc lẻn ra Quan Âm Các để tâm sự với người yêu cũ. Hai bên ôm nhau khóc và giãi bày nỗi lòng:

Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh

Thúc thổ lộ là những mong muốn xổ lòng để “sống thác với tình,” nhưng còn kẹt chữ hiếu nên không dám “bẻ một chữ đồng làm hai.”. Còn Kiều, nghĩ rằng mình như chiếc thuyền mỏng manh ỷong cơn sóng dữ, sống sót còn đã khó, huống hồ đèo bòng gì thêm, chỉ muốn Thúc Sinh:

Liệu bài mở cửa cho ra,
Ấy là tình nặng ấy là ân sâu!

Và Thúc Sinh, đã hết “đường binh” với bà vợ nham hiểm khôn lường, nên cũng đồng ý, khuyên người tình:

 Liệu mà xa chạy cao bay,

Ái ân ta có ngần này mà thôi!

Giữa lúc hai người tỉ tê tâm sự trong nước mắt, thì nghe người thị tỳ mà chàng Thúc cắt đặt cảnh giác đánh tiếng, hai người mới rời nhau ra và:

Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.

Cười cười, nói nói ngọt ngào,

Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?

Dối quanh Sinh mới liệu lời:

Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.

Khen rằng: Bút pháp đã tinh,

So vào với thiếp Lan đình nào thua!

Tiếc thay lưu lạc giang hồ,

Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!

Sau đó, khi được thị tì tiết lộ, Hoạn Thư đã đứng đó theo dõi hai người hơn nửa giờ trước khi bảo thị tì lên tiếng cảnh báo:

Hoa rằng: Bà đã đến lâu,

Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.

Rành rành kẽ tóc chân tơ,

Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.

Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.

Ngăn tôi đứng lại một bên,

Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.

Nghe hết cớ sự, Kiều

. . . kinh hãi xiết đâu:

Đàn bà thế ấy thấy âu một người!

Ấy mới gan ấy mới tài,

Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!

Người đâu sâu sắc hơn đời,

Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!

Kiều đã mất tự tin nơi các phẩm hạnh của mình, vốn đã dần dần chuyển hóa được cá tính Tiểu thư trong thời gian dài sống chung. Nhất là tình cảnh bắt được quả tang này, Tiểu thư không những không  lồng lộn lên, xắn tay áo, vắt tóc cao, xông vào ăn tươi nuốt sống tình địch, mà còn:

  .  . . im chẳng đãi đằng,

Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!

Giận dầu ra dạ thế thường,

Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu!

Và hơn nữa còn ngợi khen Kiều có bút pháp không kém nhà thư pháp đệ nhất Vương Hi Chi đời Tấn. Ta nên nhớ Tiểu thư đã không tiếc lời khen tặng Kiều đánh đàn hay, rồi trong một việc khác khen viết thơ hay, và lần này thư pháp tuyệt diệu. Ta nên nhớ không có tình địch nào tán thán đối phương, như vậy những lời ca tụng có cánh này của Hoạn Thư dành cho Kiều chứng tỏ trong thâm tâm nàng chẳng những không còn coi Kiều là tình địch nữa, mà còn “lòng riêng riêng những kính yêu,” đúng như nàng đã tự biện hộ cho mình trong ngày nàng đứng giữa cái sống và cái chết sau này.

 Không phải chỉ có Tiểu thư mới hành xử “phi thường”,  mà chính nàng cũng xử sự “phi thường”, không như các tình địch tầm thường khác; nàng không xúi giục người tình trốn đi, phá gia cang vợ lớn, mà chỉ:

Thân ta ta phải lo âu,

Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!

Ví chăng chắp cánh cao bay,

Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa!

Tiếc thay, dù khôn ngoan, sắc sảo, Kiều và cả Thúc Sinh đều không biết là giờ đây Tiểu thư không còn lòng dạ hiểm sâu như trước đây mà đã được phẩm cách và tài năng Kiều cảm hóa mà Kiều không biết; và nếu tỉnh táo, hai người có thể nghĩ đến một lối thoát  khác êm ấm cho cả ba.

Thế là nàng tìm cách trèo tường trốn thoát sau khi chôm một số đồ thờ cúng đắt tiền làm kế sinh nhai. Hành động này dẫn nàng đến một ngã rẽ bi thảm khác của đoạn đường 15 năm đoạn trường; và nỗi oán giận của nàng đối với Hoạn Thư hẳn đã tăng lên gấp bội, khiến Tiểu Thư đứng đầu trong danh sách báo thù.

Nhưng có lẽ Kiều cũng phân vân khi xếp Hoạn Thư đứng giữa trong danh sách báo ân báo thù. Vì nếu nàng tin chắc Hoạn Thư là con người từ trước đến sau đều hành xử độc ác hiểm sâu với mình, thì hẳn nàng đã xếp cô ta vào vị trí bị hành hình sau rốt mới hả giận; vì khi đó người mà nàng cho là độc ác, tinh ma phải rụng rời chứng kiến cảnh

Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.

trước khi chính mình bị lôi ra xử trảm, chẳng khác nào bị hành quyết hai lần, sao mà chịu nỗi. Hẳn Kiều còn muốn nghe lời biện hộ để chắc chắn mình không mang tiếng giết kẻ oan sai.

Hoạn Thư hẳn phải vô cùng run sợ khi:

Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.

Và càng bấn loạn khi người xưa có nhiều ân oán xuất hiện với vị thế đảo ngược mà còn giả bộ nhún nhường, kiểu cách:

Thoạt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?

Và tiếp theo là đay nghiến và răn dạy:

Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!

“Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.” Ta hãy nghe từng  lời biện hộ của nàng.

Trước tiên, Tiểu thư hạ mình:

Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,

Nàng bộc bạch mình là loại phụ nữ lòng dạ nhỏ nhen, không tránh khỏi việc ghen tuông thấp kém. Lập luận này chắc không thuyết phục được Kiều vì thủ đoạn ghen tuông không “thường tình” chút nào.

Câu trần tình tiếp theo mới có sức nặng khai phá:

Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Phạm nhân nhắc cho Kiều sự kiện, khi nàng được cắt đặt việc viết kinh niệm Phật ở Quan Âm các như mình yêu cầu, Kiều đã dứt tình (chú ý chữ “dứt tình”, ý nói Kiều đã khước từ tình cảm của mình) mà trốn đi. Với thế lực của mình (con gái quan lại bộ), Hoạn Thư có thể dễ dàng,  nếu muốn, cho quan binh đi truy đuổi và bắt lại mà xử tội, nhưng Tiểu thư lại “chẳng theo.” Tại sao một tình địch hiểm độc như Kiều nghĩ lại chẳng theo phương sách ấy. Lý do được nói rõ trong hai câu tiếp theo. Hai câu này đã  “đánh gục” được nàng Kiều thông minh và tình cảm, đen trắng phân minh:

Lòng riêng riêng những kính yêu;
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.

Tuy trong thâm tâm vừa kính lại vừa yêu, (đến đây hẳn Kiều sẽ lần lượt nhớ lại nhiều lần được Tiểu thư tán thán, nào khen tài đánh đàn, khen làm thơ hay,  khen viết chữ đẹp, thương con người tài sắc mà lắm nỗi truân chuyên, mà trước đây nàng gán cho đó là hành động hiểm sâu. Nhưng, vì nhận mình là nhi nữ thường tình, không thể vượt qua ải “chồng chung,” nên đã dại dột gây ra việc chông gai. Từ “chồng chung” ở đây Hoạn Thư sử dụng rất đắc và sắc sảo. Nàng muốn gợi ý với Kiều rằng trong thâm tâm nàng đã coi Kiều là vợ của Thúc Sinh như kết quả của tấm tình kính yêu của mình đối với đối phương, dù mức độ cải hóa chưa đủ “đô” để có thể công khai điều đó. Và thật đúng lúc và may mắn cho Hoạn Thư, vì chính trong giờ phút này, sau một thời gian

Vinh hoa bõ lúc phong trần,

Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.

bên người chồng chính thức Từ Hải, giờ đây Kiều hẳn đã thấm thía và thông cảm được luận điểm “Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai” của Hoạn Thư. Vậy là lời bào chữa của nàng quả là hợp tình, hợp lý, nên có lẽ không cần hai câu kết khéo léo:

Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?

Để Kiều phải cất tiếng khen:

. . .  Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,

Và tha bổng Hoạn Thư.

Vậy đó, theo cụ Đông Hồ, Hoạn Thư là nhân vật ấn tượng nhất và tâm đắc nhất đối với cụ. Còn bạn, bạn có đồng ý với kết luận của cụ không? Nếu không,  có lẽ là tại tôi không đủ sức khôi phục đầy đủ bài phiếm luận duyên dáng của cụ, vậy là tôi có tội với cụ rồi. Thôi thì các bạn hãy dung tình, cứ xem những “lời quê chắp nhặt dông dài” này chỉ để  “mua vui cũng được một vài” phút phì phèo thuốc  trong dịp trà dư tữu hậu đón xuân về.

Qua bài phiếm luận này, chúng ta có dịp thưởng thức lại các câu thơ thần của Nguyễn Du trong số nhiều câu thơ thần khác giúp nâng ông lên vị trí thi bá của văn đàn nước ta, được bao thế hệ văn nhân ca tụng. Trong số ấy, tôi chợt nhớ đến một nhà thơ giữa thế kỷ 20, không nói ai cũng biết, vừa tăm tiếng, vừa tai tiếng. Tăm tiếng vì trong một lần đi công tác ngang qua Huyện Nghi Xuân, quê hương bậc thi hào, ông đã viết nên bài thơ tưởng nhớ tuyệt vời, trong có đoạn:

Tiếng thơ ai động đất trời

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu

Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày

Hỡi Người xưa của ta nay

Khúc vui xin lại so dây cùng Người

Nhưng hẳn là ông ta không có tư cách “so dây cùng Người,” vì chính ông đã từng ca tụng một nhân vật được cho là trùm khủng bố của thế kỷ 20, với những vần thơ đầy tai tiếng như sau:

Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!

Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không?

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười

Yêu con yêu nước yêu nòi

Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!

Cùng một con người mà có thể viết cả hai bài thơ như thế, ông xứng đáng được coi là một nhân vật ấn tượng trong đời thực, chứ không phải nhân vật hư cấu trong văn chương như Hoạn Thư.

 


2 thoughts on “Mùa xuân nhớ phiếm luận của cụ Đông Hồ về các nhân vật trong Truyện Kiều

  1. Mình đọc Truyện Kiều nhiều lần, xem cách Nguyễn Du tả về gia thế, vị thế và quyền thế của Họa Thư trong truyện thì mình không ghét được Hoạn Thư. Nhân vật vừa thực tế vừa là điểm sáng với mình ở Truyện Kiều

    Thích

Gửi phản hồi cho haibaraaa Hủy trả lời