
Đỗ Ngọc Giao
10-Jan-2024
1. Giới thiệu
Ở một bài trước,[1] ta được biết di dân thời Hán-Tấn bên Tàu, khi chạy loạn sang Giao Châu (miền bắc nước ta ngày nay) để định cư, đã đem theo và truyền lại cho cư dân bổn địa một số tri thức hữu ích, từ nuôi tằm, dệt lụa, thêu thùa, buôn bán,… tới Đạo giáo, Phật giáo. Dù vậy, tiếng nói thì của ai nấy xài: cư dân nói tiếng proto-Vietic và di dân nói thổ ngữ Sinitic; không có bằng chứng gì rằng các trào Hán-Tấn đã cử ‘giáo viên’ sang Giao Châu mở lớp dạy tiếng Sinitic cho cư dân bổn địa, như là người Tàu ngày nay cử ‘giáo viên’ sang Mỹ mở ‘viện Khổng Tử’ dạy tiếng Sinitic cho người Mỹ, chẳng hạn.
Từ thế kỷ 11, cư dân nước Đại Việt bắt đầu nhận thêm tri thức bên Tàu đưa sang, lần này gần như là nguyên kho kinh sách chữ Hán kể cả kinh Phật. Trong cái kho này có Đường thi, một loại thơ làm-theo-luật (regulated poetry) đặt ra hồi thế kỷ 7 (coi thêm hình 1 bên dưới), mà về sau người Việt phỏng theo để làm ra ‘những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam’[2]:
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi! thu mênh mông
– Bích Khê (1916–1946)
Bài này làm rõ đôi điều xung quanh Đường thi và thơ ta, dùng dữ liệu ngôn-ngữ-học đã nêu ở các bài trước.1,[3]
2. Đường thi
2.1 Đôi điều chưa biết
Bảng dưới là quê nhà của 85 nhà thơ hàng đầu thời trào Đường, ở các tỉnh ngày nay bên Tàu.[4]
miền bắc 50 miền nam 35
Thiểm Tây 18 Chiết Giang 12
Hà Nam 13 Giang Tô 7
Sơn Tây 9 Tứ Xuyên 5
Hà Bắc 6 Hồ Bắc 4
Sơn Đông 3 An Huy 4
Cam Túc 1 Giang Tây 1
Phước Kiến 1
Thượng Hải 1
Người ta còn giữ được chừng 40 ngàn bài Đường thi (c 600–900) của 2510 tác giả, chưa kể những người khuyết danh; 5 vị làm thơ nhiều nhứt lần lượt như sau.[5]
tên số chữ
Bạch Cư Dị 白居易 187,964
Đỗ Phủ 杜甫 105,930
Lý Bạch 李白 84,465
Nguyên Chẩn 元稹 66,426
Lưu Võ Tích 劉禹錫 47,880
Mỗi nhà thơ ưa dùng một số ‘từ’ khác nhau.5
Bạch Cư Dị
- nỗi khổ ở đời: 病 bịnh 衰 suy 憂 ưu 苦 khổ 貧 bần 臥 ngọa
- uống rượu: 杯 bôi 飲 ẩm 酒 tửu 歡 hoan 醉 túy
- chiến chinh: 弦 huyền
Đỗ Phủ
- nỗi khổ ở đời: 衰 suy 老 lão 病 bịnh
- chiến chinh: 胡 Hồ 兵 binh 亂 loạn 泥 nê 失 thất 骨 cốt 軍 quân 夫 phu 戰 chiến
Lý Bạch
- chiến chinh: 胡 Hồ 劍 kiếm 陵 lăng 嘆 thán 悲 bi 夫 phu
- đàn bà: 笑 tiếu 美 mỹ 顏 nhan 女 nữ
- uống rượu: 杯 bôi 飲 ẩm
Dữ liệu cho thấy 3 nhà thơ đều quan tâm tới thời cuộc (chiến chinh), nhưng riêng Lý Bạch thì ngại nhắc tới nỗi khổ ở đời mà ưa nói chuyện uống rượu với đàn bà hơn.
Qua lớp ‘từ’ mà thi nhơn trào Đường hay dùng, ta có thể suy đoán đôi điều như sau.5
Họ sống kham khổ
- ăn uống: rượu 酒, cơm 飯, rau 菜
- ăn bận: áo 衣, nón 帽, giáp 甲
- ăn ở: buồng 房, cửa 門, tiệm 店
- đồ đạc: bút 筆, sách 書, đờn 琴
- sản phẩm văn minh: xe 車, nỏ 弓, chén 杯
Họ sống nơi thôn dã
- cảnh vật buồn tẻ: núi 山, ao 池, đường 道
- thời gian lê thê: năm 年, thu 秋, ngày 晝
- cây trái: cây 木, mận 李, rễ 根
- muông thú: ngựa 馬, chim 鳥, cá 魚
- phương hướng: đông 東, sau 後, trên 上
- màu sắc: đỏ 紅, vàng 金, trắng 素
Họ sống xa lánh thực tại
- tình cảm: nói 談, cười 笑, thương 愛
- quan hệ: cha 父, vua 王, tăng 僧
Đàng khác, người ta nhận thấy mỗi thời nhà thơ ưa dùng một số ‘từ’ đặc biệt, thí dụ 不 bất ở thời Hán-Tấn-Đường.
Bảng dưới là 20 ‘từ’ ưa dùng trong Đường thi so với Tống thi, theo thứ tự nhiều ít.[6]
| Đường thi | Tống thi |
| 1. 不 bất 11. 月 nguyệt
2. 人 nhơn 12. 上 thượng 3. 风 phong 13. 中 trung 4. 云 vân (rằng) 14. 来 lai 5. 日 nhựt 15. 长 trường 6. 山 sơn 16. 有 hữu 7. 天 thiên 17. 水 thủy 8. 春 xuân 18. 何 hà (ai?) 9. 无 vô 19. 一 nhứt 10. 花 hoa 20. 年 niên |
1. 人 nhơn 11. 何 hà
2. 风 phong 12. 如 như 3. 山 sơn 13. 日 nhựt 4. 无 vô 14. 春 xuân 5. 天 thiên 15. 中 trung 6. 有 hữu 16. 水 thủy 7. 云 vân 17. 生 sanh 8. 来 lai 18. 时 thời 9. 花 hoa 19. 自 tự 10. 月 nguyệt 20. 我 ngã |
Dữ liệu cũng cho thấy 我 (tôi) là một ‘từ’ ưa dùng trong Thi kinh, Hán thi và Tấn thi, nhưng tới thời trào Đường về sau thì hiếm khi dùng hoặc chẳng còn dùng nữa. Phải chăng thi nhơn thời Đường trở về sau chẳng dám nói ra cái ‘tôi’ của mình?
Dựa theo từ ngữ, người ta chia thơ Tàu ra 3 nhóm chánh (hình 1).

Hình 1.(6)
2.2 Đôi điều chưa biết rõ
2.2.1 Đường thi xướng trong tiếng Việt mới trúng luật?
Dưới đây giải thích từng điểm.
- Đường thi làm ra để xướng trong tiếng gì?
Nước Tàu ngày nay có nhiều thổ ngữ Sinitic (gọi chung là ‘tiếng Tàu’), xếp vô gần chục nhóm ‘phương ngôn’, thí dụ Mandarin ở miền bắc, Min ở Phước Kiến, Yue ở Quảng Đông. Tiếng nói chánh thức (official language) của người Tàu là một thứ tiếng ‘nhơn tạo’ mà họ quy định phải nói theo giọng thổ ngữ Mandarin ở Bắc Kinh. Hình 2 cho thấy cái gốc gần nhứt của những phương ngôn Sinitic (không kể Min) là một thứ tiếng nói trong khoảng 400–1200 CE kêu bằng Middle Chinese (viết tắt ‘MC’).

Hình 2
MC có 4 tone (điệu), do các nhà ngôn-ngữ-học tái lập.
ký hiệu tên gọi tương đương trong tiếng Việt (thí dụ) tên gọi trong thơ
1 bằng am, àm bằng
2 thượng ảm, ãm trắc
3 khứ ám, ạm trắc
4 nhập áp, ạp trắc
Với dữ liệu trên, ta không chắc Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ,… có nói tiếng MC hay chăng, nhưng ta chắc rằng:
Cái luật mà mấy vị đó đặt ra để làm thơ là dựa theo cách đọc chữ Hán trong tiếng MC;
nói cách khác:
Đường thi làm ra để xướng trong tiếng MC.
- Vì sao người Việt đọc được Đường thi?
Hình 3 tóm tắt lịch sử tiếng Việt trong mối quan hệ với tiếng Sinitic.

Hình 3
Tiếng Việt ngày nay có hai lớp ‘từ’ mượn của tiếng Sinitic, gọi chung là Sino-Vietnamese.[7]
- Early Sino-Vietnamese (viết tắt ‘ESV’): mượn của cư dân gốc Tàu ở Giao Châu thời Hán-Tấn. Thí dụ: búa 斧, bùa 符, Bụt 佛.
- Late Sino-Vietnamese (viết tắt ‘LSV’): vốn là kho ngữ vựng trong tiếng MC của cư dân gốc Tàu ở An Nam (Annamese Middle Chinese, viết tắt ‘AMC’), mà họ đem qua tiếng proto-Viet-Muong của dân bổn xứ, khi họ bỏ tiếng mẹ đẻ AMC và nói tiếng của dân bổn xứ, từ năm 1000.
Thí dụ 4 ‘từ’ LSV ta đọc quân tử nhứt ngôn, chính là cách đọc 4 chữ Hán 君子一言 trong tiếng AMC của cư dân gốc Tàu, mà sau năm 1000, khi trở thành người Việt, họ đã truyền lại cho người Việt. Tất nhiên, họ cũng đã truyền lại ý nghĩa của 4 chữ đó, để người Việt hiểu cho trúng, không thôi quân tử nhứt ngôn bị hiểu là quân tử dại thì thiệt hại biết chừng nào!
Dù vậy, người Việt, không kể giới ‘nho sỹ’ am hiểu chữ Hán, thì phần đông hiểu một số ít ‘từ’ LSV hay xài mà thôi. Tóm lại:
Nhờ có lớp ‘từ’ LSV mà người Việt đọc được Đường thi, nhưng đọc để nghe cho vui vậy thôi, chớ nếu muốn hiểu thì phải kiếm ‘nho sỹ’ nhờ dịch nghĩa dùm.
- Khảo sát hai bài Đường thi
Bây giờ ta sẽ coi Đường thi xướng trong tiếng Việt có trúng luật hay chăng.
Trước hết là một bài của Đỗ Phủ (712–770).
兩個黃鸝鳴翠柳
一行白鷺上青天
窗含西嶺千秋雪
門泊東吳萬里船
Hình 4 bên trái là bài thơ xướng trong tiếng MC bên Tàu, và khi đem qua nước ta xướng trong tiếng Việt (bên phải) thì vẫn trúng luật như trong tiếng MC (vần điệu đầy đủ).

Hình 4 (B: bằng, T: trắc)
Tiếp theo là một bài của Lưu Võ Tích (772–842).
今日花前飲
甘心醉數杯
但愁花有語
不為老人開
Hình 5 bên trái là bài thơ xướng trong tiếng MC bên Tàu, nhưng khi đem qua nước ta xướng trong tiếng Việt (bên phải) thì bị sai luật (mất vần).

Hình 5 (B: bằng, T: trắc)
Tóm lại, hai thí dụ trên cho thấy:
Đường thi xướng trong tiếng Việt thì có thể vẫn trúng luật (vần điệu đầy đủ) mà cũng có thể bị sai luật (mất vần và/hoặc điệu).
2.2.2 Người Việt đầu tiên làm Đường thi?
Nghe nói có một ‘người Việt’ thời trào Đường biết làm Đường thi, tên Liêu Hữu Phương.[8]
Tiếc thay, điều đó không trúng. Không có phép mầu nào giúp người bổn địa nói tiếng proto-Viet-Muong ở An Nam trước năm 1000 làm được Đường thi. Vị đó ắt là một người Tàu.
Nhơn tiện nói thêm, bài thơ [duy nhứt] của vị đó khi xướng trong tiếng MC thì trúng luật nhưng xướng trong tiếng Việt thì bị mất vần.[9]
嗟君沒世委空囊 ta quân một thế uỷ không nang MC: nang
幾度勞心翰墨場 kỷ độ lao tâm hàn mặc trường MC: drjang
半面為君申一慟 bán diện vi quân thân nhất đỗng MC: duwng3
不知何處是家鄉 bất tri hà xứ thị gia hương MC: xjang
3. Thơ ca người Việt
3.1 Nam quốc sơn hà
Lãnh Nam chích quái, một tài liệu thế kỷ 14, kể rằng hồi cuối thế kỷ 10, khi vua Lê Đại Hành dàn trận đánh quân Tống, thì đêm nọ có tiếng ‘thần nhơn tàng hình’ ở trên cao xướng một bài thơ làm cho quân Tống nghe thấy thất kinh bỏ chạy.
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư
Bài thơ này thiên hạ đã bàn luận nhiều lắm. Hiềm một nỗi, ít ai để ý rằng đó là một bài thơ gồm 28 ‘từ’ LSV, mà lớp ‘từ’ này thì quân Tống không hiểu (lúc đó họ nói tiếng MC) và quân ta cũng không hiểu luôn (lúc đó ta nói tiếng proto-Viet-Muong).
Bởi vậy, ít ai nhận ra rằng trong thời gian xảy ra chuyện vua Lê Đại Hành thì chắc chắn không có bài thơ này.
Vậy bài thơ làm ra hồi nào?
Không có manh mối rõ ràng. Dù sao, nếu muốn tìm manh mối, thì cách dễ nhứt là tìm ngay ở bài thơ này chớ chẳng đâu xa.
Đọc kỹ câu chót của bài thơ, nói lên cái họa ‘gươm sáng chém như chẻ tre’ xảy ra cho địch quân, tôi hiểu thâm ý ở câu đó như vầy:
Ta không dọa suông rằng cái họa đó sẽ xảy ra cho bọn mi, mà ta nhắc lại rằng cái họa đó đã xảy ra cho bọn mi nhiều lần rồi.
Và cái ý đó chính là manh mối.
(Với các ‘version’ khác của câu chót trong bài thơ, thí dụ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư, ta cũng có thể hiểu như trên, mặc dù khó hơn.)
Tóm lại, tôi dè dặt cho rằng:
- Bài thơ Nam quốc sơn hà làm ra hồi đầu thế kỷ 14, sau khi người Việt cho thấy họ có đủ năng lực để đánh bại quân Tàu nhiều lần rồi.
- Tác giả của bài thơ có thể chính là Trần Thế Pháp, dù ta chưa rõ ông đã góp phần soạn ra Lãnh Nam chích quái hay chăng. Bài thơ đưa vô chuyện kể để câu chuyện thêm đậm đà, vậy thôi.
- Bài thơ trong Lãnh Nam chích quái, như nêu trên, mới là nguyên bổn.
3.2 Dân ta làm thơ ta từ khi nào?
Như đã giải thích bên trên, dân ta muốn làm thơ thì trước hết tiếng Việt phải có tone mới được.
Vậy tiếng Việt có tone khi nào?
Alves, nhà ngôn-ngữ-học người Mỹ, cho dữ liệu như bảng dưới.[10]
| năm | tiếng nói của cư dân gốc Tàu | tiếng nói của cư dân bổn xứ |
| 0 CE | thổ ngữ Sinitic: không có tone | Vietic: không có tone |
| 600 CE | Early Sino-Vietnamese: có tone
thí dụ: búa, bùa, Bụt |
Vietic: không có tone |
| 1000 CE | Late Sino-Vietnamese: có tone
thí dụ: nhơn, nghĩa, lễ |
Viet-Muong: có tone |
Bảng trên cho thấy từ thế kỷ 11 tiếng Viet-Muong mới có tone. Vậy ta dè dặt cho rằng:
- Tiếng Việt có tone nảy ra trong thời trào Lý (c 1000–1200);
- Thơ ca dân gian, dùng tiếng Việt có tone, nảy ra từ đầu trào Trần (c 1200–1400).
Tiếc rằng, ta không còn bằng chứng gì của thơ ca dân gian ở cái thuở ban đầu đó.[11]
Nguyễn Trãi (1380–1442) là nhà thơ đầu tiên để lại bằng chứng làm thơ ta (thơ nôm) theo luật Đường thi với tiếng Việt có tone:
Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm
Những lệ xuân qua tuổi tác thêm
Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ
Một phen liễu rủ một phen mềm.9
Nhơn tiện nói thêm, khoảng vài chục năm gần đây, trên internet, có một vị đã ‘khảo cứu’ những bài văn/thơ trong tài liệu của người Tàu trước công nguyên, thí dụ Việt nhơn ca, và giải thích rằng bài đó là ‘thơ lục bát của tiếng Việt’ (sic).[12]
Song le, tiếc thay, vị đó không biết rằng muốn làm thơ lục bát thì tiếng Việt phải có tone, mà tiếng Việt có tone thì mới nảy ra sau năm 1000 CE.
Nói cách khác, cái đầu ta có hai nửa: một nửa thì ‘khảo cứu’ khoa học, nửa kia thì bất chấp khoa học.
[1] https://nghiencuulichsu.com/2023/12/21/truyen-ba-tri-thuc-o-giao-chau-thoi-han-tan/
[2] Hoài Thanh và Hoài Chân. 1942. Thi nhân Việt Nam.
[3] https://nghiencuulichsu.com/2023/11/27/nguon-goc-nguoi-viet-bai-15/
[4] Wang Zhaopeng, Qiao Junjun, T. Mazanec. Geographic distribution and change in Tang poetry: data analysis from the “chronological map of Tang-Song literature”. Journal of Chinese Literature and Culture 2018.
[5] John Lee, Wong Tak-sum. Glimpses of ancient China from classical Chinese poems. Proceedings of COLING 2012.
[6] Liu, Liang. (2015). On the evolution of word usage of classical Chinese poetry.
[7] John Dương Phan (2013) Lacquered words: the evolution of Vietnamese under Sinitic influences from the 1st century BCE through the 17th century CE.
[8] Dương Tuấn Anh. Tư liệu về một người Việt trở thành ‘hoàng đường chi nghĩa sĩ’. Hán Nôm số 3(88) 2008.
[10] Mark Alves. Early Sino-Vietnamese lexical data and the relative chronology of tonogenesis in Chinese and Vietnamese. Bulletin of Chinese Linguistics 11 (2018).
[11] Nguyễn Quang Hồng (2006) Khái lược về văn học chữ Nôm ở Việt Nam.