Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

Trần Quang Nghĩa dịch
15 MỘT CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH MỚI?
Cuộc xung đột ở Syria năm 2012 đã khơi lại ý tưởng về một “Chiến tranh Lạnh mới”. Với việc CIA hỗ trợ phiến quân và Nga giúp duy trì chế độ hiện tại, tại thời điểm viết bài này, dường như những “cuộc chiến tranh ủy nhiệm” giống như những cuộc chiến tranh từng diễn ra trong những năm 1950 và 1960 đang một lần nữa diễn ra, khi các hệ tư tưởng Đông và Tây xung đột. Nhưng đằng sau tất cả những lời lẽ hoa mỹ về sự thay đổi lập trường của Nga sau sự sụp đổ của Liên Xô, liệu có điều gì thực sự thay đổi? Chẳng phải sẽ chính xác hơn nếu nói rằng sự sụp đổ của bức tường Berlin và sự kết thúc của Chủ nghĩa Cộng sản đã đánh dấu một giai đoạn mới trong Chiến tranh Lạnh, một cuộc chiến diễn ra liên tục kể từ đó?
Người ta vẫn đang tranh luận về mức độ khác biệt giữa KGB và các cơ quan được thành lập từ các thành viên và bộ máy của nó. Tổng cục 1 của KGB chịu trách nhiệm về các hoạt động ở nước ngoài – trở thành Cục Tình báo Đối ngoại, ban đầu do Yevgeni Primakov đứng đầu. Như người phát ngôn Yuri Kobaladze đã chỉ ra vào năm 1994, mục đích chính của họ là thu thập thông tin từ cả nguồn công khai và bí mật: ‘Điều đó không có nghĩa là chúng tôi sẽ ngừng thu thập thông tin về các anh, và các anh sẽ ngừng thu thập thông tin về chúng tôi, đúng không? Có những quốc gia thân thiện nhưng không có cơ quan tình báo thân thiện.’ Tổng cục 2 cuối cùng trở thành FSB sau khi Boris Yeltsin giải tán Bộ An ninh sau những nghi ngờ về lòng trung thành của bộ này trong thời gian đấu tranh của ông với quốc hội Nga năm 1993. Một cách không thành thật, CIA tuyên bố rằng họ cũng có thể đóng cửa nếu các hoạt động của CIA ở Nga chấm dứt.
Khả năng đó gần như không có. Việc phát hiện ra điệp viên Nga Aldrich Ames vào năm 1994, cùng Edwin Pitts và Harold Nicholson hai năm sau đó – tất cả đều sẵn sàng làm việc cho những người kế nhiệm KGB – dường như đã biện minh cho cái nhìn bi quan của một số người Mỹ, những người cho rằng thái độ thân thiện công khai mà chính quyền Clinton thể hiện với Liên Xô cũ là không có cơ sở.
Giám đốc FSB Nikolai Kovalev bình luận vào năm 1996 rằng ‘Chưa bao giờ có nhiều điệp viên bị chúng tôi bắt giữ như vậy kể từ thời điểm các điệp viên Đức được cử đến trong những năm Thế chiến thứ II.’ Khoảng 400 nhân viên tình báo nước ngoài đã bị bắt hoặc bị giám sát tại Nga trong hai năm trước đó, và FSB đã nhanh chóng công bố những thành công của họ: Platon Obukhov, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao Nga, đã bị bắt vào tháng 4 năm 1996, vì bị cáo buộc liên lạc qua radio với một thành viên của đội ngũ nhân viên Đại sứ quán Anh và chuyển thông tin quốc phòng chính trị và chiến lược cho MI6. FSB tuyên bố đây là thất bại lớn nhất của người Anh kể từ thời Penkovsky. Obukhov bị kết án tám năm tù, nhưng đã được xét xử lại vào năm 2002 và được đưa đến bệnh viện tâm thần để điều trị. Vladimir Sentsov cũng bị xét xử vì tội làm gián điệp cho Anh và nhận án mười năm tù: công nhân tại một viện quốc phòng bị buộc tội bán bí mật công nghệ cho M16.
Thiếu tá Lực lượng Tên lửa Chiến lược Dudinka bị bắt khi đang cố gắng lấy 500.000 đô la từ ‘một người nước ngoài theo FSB, y đã chuẩn bị sẵn thông tin mật trên một đĩa mềm, bao gồm cả hệ thống chỉ huy và kiểm soát cho một đội tên lửa. Trung tá Andrei Dudin thuộc FAPSI (cơ quan tình báo Nga tương đương NSA) đã bị kết án mười hai năm tù sau khi liên lạc với BND của Đức. Thiếu tá Dudnik thuộc Trung tâm Trinh sát Không gian Nga bị bắt quả tang đang chuyển giao ảnh vệ tinh tối mật cho tình báo Israel; họ cũng đang điều hành một điệp viên trong GRU, người này cũng đã bị bắt.
CIA đã mất một nhân viên chỉ được nhắc đến với cái tên Finkel trong các báo cáo của FSB sau khi anh ta bị kết tội chuyển giao nghiên cứu quốc phòng bí mật cho Cơ quan để nhận “tiền thưởng”. Một cựu cố vấn của Bộ Ngoại giao cũng bị FSB bắt giữ. Anh chỉ được biết đến với cái tên Makarov, đã hợp tác với CIA kể từ thời gian làm việc tại Đại sứ quán Liên Xô ở Bolivia vào năm 1976, nhưng theo hồ sơ của FSB, y chỉ nhận được 21.000 đô la cho những nỗ lực của mình.
FSB không mấy mặn mà với văn hóa cởi mở mới được cho là đặc trưng của nước Nga mới. Một cuộc khảo sát báo chí Nga vào giữa những năm 1990 cho thấy một số trường hợp FSB bắt giữ người với cáo buộc làm gián điệp, mặc dù mục đích của họ là tiết lộ thông tin công khai, chứ không phải bán cho các chính phủ nước ngoài.
Boris Yeltsin đã bổ nhiệm một vị trí quan trọng vào FSB trong tháng 7 năm 1998, khi ông cử Vladimir Putin làm giám đốc, một vị trí mà ông ta giữ cho đến khi trở thành Quyền Thủ tướng vào tháng 8 năm 1999. Putin đã phục vụ trong KGB từ năm 1975 đến năm 1991, từ chức vào ngày thứ hai của cuộc đảo chính bất thành vào tháng 8 năm đó. Cách tiếp cận cứng rắn hơn của ông ta có thể được coi là nguyên nhân dẫn đến thái độ đôi khi cứng rắn hơn của Nga trong nhiệm kỳ tổng thống của ông ta vào thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21.
Những dư âm của tình trạng căng thẳng thời Chiến tranh Lạnh xưa kia thỉnh thoảng lại bùng lên một cách công khai hơn. Khi cựu sĩ quan KGB Vladimir Galkin bước xuống sân bay JFK ở New York vào tháng 10 năm 1996, ông thấy mình trở thành khách mời bất đắc dĩ của FBI, dựa trên cáo buộc rằng vài năm trước đó ông đã tìm cách lấy thông tin về chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao” của Reagan từ Tập đoàn Data General. FBI đã bắt được những đặc vụ mà ông điều hành, nhưng nếu không có lời khai của ông, họ sẽ không có chứng cớ, vì vậy, vi phạm thỏa thuận bất thành văn giữa CIA và Nga rằng các cựu sĩ quan tình báo sẽ được yên thân, họ đã bắt giữ Galkin. Mặc dù
FBI đề nghị ông lựa chọn giữa 30 năm tù giam hoặc được hỗ trợ đào tẩu, ông đã đưa ra một lựa chọn thứ ba, yêu cầu một chiếc điện thoại và gọi cho vợ mình ở Moscow. Bà đã báo cho tình báo Nga, khiến tình hình ngay lập tức leo thang. Đáp lại, Giám đốc CIA John Deutch đã gây áp lực lên FBI và Bộ Tư pháp để hủy bỏ các cáo buộc; Thủ tướng Nga Viktor S. Chernomyrdin đã đích thân khiếu nại lên Phó Tổng thống Hoa Kỳ Al Gore. FBI đã nhượng bộ, điều này có lẽ đã cứu vô số cựu đặc vụ CIA lúc đó đang hoạt động
tại Nga khỏi những rắc rối.
Một sự phân biệt rõ ràng đã được thực hiện giữa các nhân viên tình báo cho các quốc gia nước ngoài trước đây là thù địch nhưng giờ là đồng minh (dù không khăng khít), chẳng hạn như Galkin, và những người mà họ điều hành, mà các hoạt động phản bội trước đây chưa từng bị đưa ra ánh sáng. Một số hoạt động này được phát hiện nhờ công trình nghiên cứu đáng kinh ngạc và tỉ mỉ của Đại tá Vasili Mitrokhin, người đã đào tẩu sang phương Tây năm 1992, mang theo thành quả lao động của mình trong kho lưu trữ KGB. Trong suốt mười năm, ông đã ghi chép rất nhiều tài liệu mật, được cất giấu trong các thùng đựng sữa gần nhà nghỉ dưỡng của mình sau khi nghỉ hưu. Những tài liệu này cung cấp chi tiết về các điệp viên KGB trong quá khứ và hiện tại, và khi được phân tích, chúng đã trở thành cơ sở cho nhiều vụ bắt giữ trên khắp thế giới phương Tây.
Trong số này có cựu nhân viên NSA Robert Lipka, người bắt đầu làm việc cho KGB vào giữa những năm 1960. Theo người đứng đầu trạm tình báo Liên Xô tại Washington lúc bấy giờ, vốn chịu trách nhiệm đánh giá thông tin, Lipka đã giao nộp bất cứ thông tin nào y có được, một số trong đó cực kỳ nhạy cảm, nhưng phần lớn không có giá trị.
Y bị thúc đẩy bởi tiền bạc – khoản tiền tiêu chuẩn là 1.000 đô la – mà y dùng để trang trải học phí đại học. Y làm việc cho KGB cho đến năm 1974, và sau đó sẵn sàng được tái kích hoạt khi được “người Nga” tiếp cận vào năm 1996. MI6, cơ quan đã tiếp cận được các tài liệu của Mitrokhin sau khi CIA từ chối, đã chuyển một cảnh báo cho FBI, và FBI đã thiết lập một chiến dịch truy quét để bắt Lipka.
Hồ sơ của Mitrokhin cũng góp phần vào việc bắt giữ George Trofimov. Chúng cung cấp đủ thông tin để xác định Trofimov và người phụ trách KGB của y vào năm 1994, nhưng theo Quy chế Giới hạn Truy tố của Đức, họ không thể bị buộc tội. Tưởng chừng như y sẽ thoát tội, nhưng FBI quyết tâm thu thập đủ bằng chứng để bắt giữ y. Khi Trofimov trở về Florida sau khi nghỉ hưu, y đã bị tiếp cận bởi một đặc vụ FBI đóng giả làm thành viên của SVR. Trofimov sau đó tuyên bố rằng mình đã bịa ra câu chuyện chuyển thông tin cho KGB để cố gắng kiếm tiền: ‘Tôi không thể giải thích logic đằng sau việc đó nữa,’ y nói với CBS vào năm 2009. ‘Logic chính của tôi là, tôi cần tiền, họ cần một lý do để giúp tôi. Họ cần một sự biện minh, vì vậy tôi sẽ cố gắng cung cấp cho họ điều đó. Và đó là những gì tôi đã làm.’ Trong một diễn biến bất thường, một trong những nhân chứng ngôi sao chống lại Trofimov tại phiên tòa cuối cùng của y vào năm 2001 là Oleg Kalugin của KGB, người đã mô tả các cuộc gặp với người Mỹ trong hồi ký của mình. Vẫn khẳng định mình vô tội, Trofimov bị kết án tù chung thân.
Nếu các cấp lãnh đạo cao cấp của các cơ quan Hoa Kỳ hy vọng rằng thông tin từ kho lưu trữ Mitrokhin, cùng với hoạt động đánh lưới của họ đối với tài liệu các cơ quan tình báo các nước khối Đông Âu khác nhau, sau sự sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản, có nghĩa là sẽ không còn những điều bất ngờ khó chịu nào xảy ra tương tự như Aldrich Ames, họ đã phải chịu một cú sốc lớn vào năm 2001. Robert Hanssen cuối cùng đã bị bắt quả tang; theo một số lời kể, phản ứng đầu tiên của y là: ‘Sao các ông lâu thế?’
Đó là một câu hỏi công bằng, và là câu hỏi đã được đặt ra ở nhiều cấp bậc trong quá trình điều tra hậu sự không thể tránh khỏi. Hanssen đã tự cắt giảm công việc của mình cho Liên Xô hai tuần trước khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, ngay sau khi đến thăm một linh mục khác và xưng tội, như y đã làm một thập kỷ trước đó. Y đã cảnh báo KGB rằng mình sắp được thăng chức, điều này sẽ khiến y “tạm thời không còn chịu trách nhiệm trực tiếp” mặc dù y đã trích dẫn lời phát biểu của Tướng Patton trước cuộc đổ bộ Normandy: “Hãy bắt tay vào việc này thôi, xong rồi chúng ta có thể đi đá đít bọn Nhật Bản khốn nạn kia một trận.’ Đó không phải là lần duy nhất y trích dẫn vị tướng này – và câu nói thô lỗ đặc biệt này hóa ra đã hủy hoại Hanssen.
Hanssen đã nối lại liên lạc với GRU trong một thời gian ngắn vào năm 1993, để xem liệu thông tin mà y đã chuyển cho KGB trước đó có được chia sẻ với tình báo quân sự Liên Xô hay không. Tuy nhiên, mặc dù y tự giới thiệu mình là “Ramon Garcia”, hy vọng sẽ được nhận ra, nhưng người của GRU mà y tiếp cận lại nghĩ rằng đó là một cái bẫy của FBI, và không có gì xảy ra tiếp. Hanssen luôn theo dõi máy tính của FBI để tìm kiếm bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy minh đang bị nghi ngờ, đôi khi khiến người ta đặt câu hỏi về hành vi của y khi y tuyên bố đang kiểm tra an ninh hệ thống hoặc một tin tặc mật khẩu được phát hiện trên ổ cứng của y. Đáng ngạc nhiên là không ai đã suy nghĩ nhiều hơn về điều đó, ngay cả khi Earl Pitts nhắc đến tên Hanssen trong cuộc thẩm vấn. Đặc vụ FBI Thomas K. Kimmel Jr. tin chắc rằng có một nội gián thứ hai trong Văn phòng, nhưng không tìm thấy đủ bằng cớ để chứng minh cho giả thuyết của mình.
Tin rằng mình đã an toàn, Hanssen lại liên lạc với người Nga vào tháng 10 năm 1999. SVR không thể tin vào vận may của mình: “Chúng tôi chân thành bày tỏ niềm vui mừng nhân dịp nối lại liên lạc với anh”, họ viết lại. Sự chậm trễ trong liên lạc bắt đầu khiến Hanssen lo lắng: “Tôi đã gần như hy sinh bản thân để giúp các anh, vậy mà tôi lại nhận được sự im lặng”, y viết vào tháng 3 năm 2000. Họ trả lời vào tháng 7 yêu cầu y cung cấp “thông tin về hoạt động của một nhóm đặc biệt đang tìm kiếm một “nội gián” trong CIA và FBI” để giúp đảm bảo an ninh cho y, nhưng cảnh báo y không được gửi thư cho họ. Hanssen yêu cầu chuyển số tiền mà người Nga đã dành dụm cho y vào một ngân hàng Thụy Sĩ, nhưng họ từ chối “vì giờ không thể che giấu nguồn gốc của nó được nữa”. Một hòm thư bí mật đã được thiết lập tại Công viên Foxtone vào ngày 18 tháng 2 năm 2001.
Vận may của Hanssen vẫn tiếp tục. Cuộc săn nội gián tập trung vào điệp viên CIA Brian Kelley, vì anh ta trùng khớp với hồ sơ mà họ đã chuẩn bị. Kelley hoàn toàn vô tội, nhưng ba năm điều tra anh ta đã bị lãng phí; đám mây đen bao trùm anh ta chỉ mới bắt đầu tan biến sau khi Hanssen bị bắt.
Hanssen không hề hay biết về kế hoạch của nhóm săn nội gián đang tìm kiếm một nguồn tin Nga có thể bị mua chuộc để tiết lộ danh tính của kẻ nội gián, lúc này vẫn được cho là Brian Kelley. Một cựu sĩ quan KGB đã nghỉ hưu, hiện đang sống tại Moscow, được nhắm đến: ông ta muốn mở rộng kinh doanh.
ở nước ngoài nên được mời đến một cuộc họp ở New York vào tháng 4 năm 2000. Trước sự ngạc nhiên của FBI, ông tuyên bố rằng mình có quyền truy cập vào hồ sơ của KGB về điệp viên này, mà ông đã mang đi khỏi trụ sở KGB trước khi nghỉ hưu. Hồ sơ không chứa tên của điệp viên, nhưng có tất cả các chi tiết mà y đã cung cấp cho KGB trong nhiều năm. Ông thậm chí còn có quyền truy cập vào một đoạn băng ghi âm lời nói của điệp viên này. Sau một hồi thương lượng, ông đã bán hồ sơ cho người Mỹ với giá 7 triệu đô la.
Khi CIA lấy được hồ sơ từ Nga và chuyển cho FBI, nó là một kho báu vượt xa những gì các chuyên gia săn gián điệp có thể hy vọng ở bất kỳ giai đoạn điều tra nào: mô tả các tài liệu mà tên nội gián đã cung cấp; đĩa máy tính chứa bản sao các bức thư trao đổi giữa người Nga và tên đặc vụ của họ. Khi nghe băng, họ nhận ra rằng đó không phải là giọng nói của Kelley, mà là một người nào đó nghe quen quen, và cụm từ “bọn Nhật Bản khốn nạn” cũng đã từng được nghe thấy ở FBI. Cả đội kinh hoàng nhận ra người họ đang tìm kiếm chính là Robert Hanssen.
Vào giai đoạn cuối sự nghiệp, Hanssen được điều động đến Văn phòng Phái đoàn Nước ngoài thuộc Bộ Ngoại giao, nhưng để theo dõi y kỹ lưỡng, Văn phòng muốn y trở lại trụ sở FBI. Do đó, y được giao một vị trí mới, dường như công nhận chuyên môn máy tính của y, và được đưa về trụ sở. Tại đây, y bị theo dõi liên tục, điện thoại nhà bị nghe lén. Khi y đi họp, văn phòng của y bị lục soát, tại đó người ta tìm thấy các tin nhắn từ SVR trên một thẻ nhớ.
Hanssen bắt đầu nghi ngờ, cả về yếu tố ‘vô bổ’ của công việc mới và ‘những tín hiệu vô tuyến liên tục phát ra ‘ từ xe của y. Y đã viết thư cho SVR, lưu ý rằng “công lao lớn nhất đối với các anh đã kết thúc, và đã đến lúc tôi phải rút lui khỏi nhiệm vụ. Có điều gì đó đã đánh thức con hổ đang ngủ”.
Tuy nhiên, y vẫn nhận được cuộc hẹn vào ngày 18 tháng 2 năm 2001, điều mà FBI đã biết từ thẻ nhớ. Có lẽ vào lúc đó y đã muốn chết rồi. Y từng nói với một người bạn, Ron Mlotek, “Phải là một thằng đần độn, ngu ngốc mới làm nội gián cho KGB vì anh ta sẽ bị bắt. Bởi vì chúng tôi sẽ tóm được anh ta.’
Và họ đã làm được. Robert Hanssen bị bắt khi đang tuồn một gói tài liệu vào hộp thư chết dưới gầm cầu ở Công viên Foxstone. Như Tổng Chưởng lý John Ashcroft đã phát biểu tại buổi họp báo công bố vụ bắt giữ: “Đây là một ngày khó khăn cho FBI.” Hanssen đã nhận tội và hứa sẽ hợp tác; điều này đã cứu y khỏi án tử hình. Y bị kết án tù chung thân và không được ân xá.
Một số nhà quan sát, đáng chú ý là cựu giám đốc CIA Milt Bearden, tin rằng vẫn chưa tìm thấy một gián điệp khác hoạt động đồng thời với Ames và Hanssen. Cả hai đều không tiếp cận được một số thông tin đã lọt vào tay KGB, dẫn đến việc bắt giữ Oleg Gordievsky, cùng nhiều người khác. Với mức độ căng thẳng hiện tại giữa Đông và Tây, danh tính của điệp viên này khó có thể bị phát hiện, ít nhất là khi hắn ta còn sống.
Mặc dù phần lớn sự tập trung là cần thiết để chống lại các mối đe dọa khủng bố tiềm tàng và thực tế từ những kẻ cực đoan trong những tháng sau vụ 11/9, MI5 vẫn tích cực tham gia vào hoạt động phản gián. Hai chiến dịch gài bẫy đã thành công trong việc bắt giữ các nhân viên của British Aerospace đang cố gắng bán tài liệu mật cho SVR. Cả Rafael Bravo và Ian Parr đều bị bắt sau khi họ liên hệ với Đại sứ quán Nga để chào hàng, và đáng tiếc là lịch sử chính thức của MI5 không giải thích làm thế nào Cơ quan An ninh phát hiện ra cách tiếp cận của họ! Bravo bị kết án 11 năm tù, Parr 8 năm tù. Và MI5 đã nhận được phản đối chính thức từ SVR rằng điệp viên của họ đã giả danh sĩ quan tình báo Nga để gài bẫy Bravo.
Có một yếu tố hài hước trong cuộc trao đổi đầu tiên giữa Liên bang Nga và Vương quốc Anh năm 2006. Trong một chương trình trên truyền hình Nga, FSB đã cáo buộc bốn nhà ngoại giao Anh làm gián điệp, phối hợp với một công dân Nga. Một hòn đá giả trên đường phố Moscow chứa thiết bị điện tử được sử dụng để truyền và nhận thông tin. FSB đã quay phim việc sử dụng thiết bị này và liên kết nó với những cáo buộc rằng người Anh đã bí mật chi trả cho các nhóm nhân quyền. Khi được hỏi về những cáo buộc vào thời điểm đó, Thủ tướng Tony Blair trả lời: “Tôi e rằng các vị sẽ gặp lại cái thói quen cũ rích là không bao giờ bình luận về các vấn đề an ninh. Trừ khi chúng tôi muốn, rõ ràng là vậy.” Năm 2012, Chánh văn phòng của ông, Jonathan Powell, thừa nhận trong một bộ phim tài liệu của BBC rằng vụ việc hòn đá là “đáng xấu hổ”, và “họ đã bắt chúng tôi ngay tại trận”.
Các cuộc thảo luận sau đó trong năm không hề hài hước chút nào, và làm xấu đi mối quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là khi có vẻ các chiến thuật thời Chiến tranh Lạnh được sử dụng trở lại. Cựu điệp viên KGB Alexander Litvinenko dường như đã chết vì bị đầu độc sau khi uống một tách trà có pha thêm chất phóng xạ Polonium-210 vào ngày 1 tháng 11 năm 2006. Ông là một người chỉ trích thẳng thắn cả chế độ của Vladimir Putin lẫn cá nhân nhà lãnh đạo Nga, cáo buộc rằng FSB dưới thời Putin đã ra lệnh cho ông ám sát nhà tài phiệt Nga Boris Berezovsky; rằng cơ quan này chịu trách nhiệm cho một loạt vụ đám bom rồi đổ lỗi cho những kẻ ly khai Chechnya, vốn là công cụ đưa Putin lên nắm quyền; và thậm chí Putin còn là một kẻ ấu dâm. Ông được cấp tị nạn tại Anh vào năm 2000, nơi ông làm cố vấn cho cả MI5 và MI6 và viết những bài công kích ngày càng gay gắt nhắm vào FSB và Putin, cáo buộc họ hỗ trợ khủng bố, bao gồm cả al-Qaeda, và chịu trách nhiệm cho vụ đánh bom 7/7 ở London. Hai tuần trước khi uống rượu say, ông nói rằng Putin đã ra lệnh ám sát nhà báo Nga Anna Politkovskaya.
Vào ngày 1 tháng 11 Litvinenko đã gặp các cựu điệp viên KGB Dmitry Kovtun và Andrei Lugovoi và ngã bệnh ngay sau đó. Ông qua đời tại bệnh viện vào ngày 23 tháng 11. Cuộc điều tra của cảnh sát đã dẫn đến việc yêu cầu dẫn độ Lugovoi từ Nga, nhưng yêu cầu này đã không được xử lý. Lugovoi tuyên bố yêu cầu này có động cơ chính trị, và thậm chí còn sẵn sàng trải qua một cuộc kiểm tra phát hiện nói dối. Cuộc kiểm tra được thực hiện bởi một công ty truyền thông Pháp, đơn vị cung cấp các bài kiểm tra cho các chương trình truyền hình ban ngày như The Jeremy Kyle Show. Lugovoi nói rằng mình không liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vụ giết người, hoặc có bất kỳ liên quan nào đến polonium. ‘Sau khi phân tích cẩn thận tất cả các biểu đồ thu được từ cuộc kiểm tra, chúng tôi xác định rằng câu trả lời cho những câu hỏi này là không sai. Do đó, theo ý kiến chuyên môn của chúng tôi, Andrey Lugovoi đã nói sự thật khi trả lời những câu hỏi trên”, kết quả cho biết. Điều này dường như đi ngược lại bằng chứng về dấu vết polonium trong phòng khách sạn của ông ta, và trên những chuyến bay mà ông ta đã sử dụng giữa London và Moscow. Lugovoi hiện được miễn trừ dẫn độ theo quy định của quốc hội với tư cách là một nghị sĩ Nga đương nhiệm; một cuộc điều tra được ra lệnh vào tháng 10 năm 2011 vẫn chưa được triệu tập vào tháng 7 năm 2012, khi góa phụ của Litvinenko vận động Quốc hội Anh hỗ trợ bà tìm ra câu trả lời cuối cùng.
Mối quan hệ giữa Nga và Anh vẫn chưa hoàn toàn phục hồi sau sự cố. Các nhà ngoại giao đã bị cả hai nước trục xuất. Các phi vụ ném bom tầm xa được Nga tái khởi động vào năm 2007, buộc các máy bay của Không quân Hoàng gia Anh (RAF) phải xuất kích bất ngờ khi chúng đến quá gần không phận Anh. Tháng 1 năm sau, Nga tuyên bố rằng Hội đồng Anh tại Moscow đầy rẫy điệp viên. Tháng 7 năm đó, một “nguồn tin an ninh cấp cao” nói với tờ Daily Telegraph: “Nga là một quốc gia bị tình nghi thực hiện các vụ giết người trên đường phố Anh, và phải thừa nhận rằng đã làm một lần thì họ sẽ tiếp tục làm.” Sáu tháng sau, người ta tiết lộ rằng số lượng điệp viên tình báo Nga tại Anh vẫn ở mức tương đương thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, một thông tin mà MI5 coi là nghiêm trọng đến mức phải đăng tải lên trang web của mình. “Nếu một quốc gia, chẳng hạn như Nga hay Iran, có thể đánh cắp một phần mềm giúp họ tiết kiệm bảy năm nghiên cứu và phát triển thì họ sẽ làm điều đó mà không chút do dự”, một “nguồn tin từ Whitehall” cho biết. “Các điệp viên Nga sẽ nhắm mục tiêu vào bất kỳ ai mà họ tin hữu dụng với họ. Làm gián điệp đã ăn sâu vào DNA của đất nước họ. Họ đã làm điều đó trong nhiều thế kỷ và họ đơn giản là không dừng lại chỉ vì Chiến tranh Lạnh đã kết thúc.’ Và rõ ràng là Anh không phải là mục tiêu duy nhất.
Đường dây gián điệp bị triệt phá ở Mỹ năm 2010 là một món quà dành cho các nhà báo, nhờ sự dính líu của người mẫu tương lai kiêm ngôi sao trang bìa Anna Chapman. Câu chuyện hội tụ đầy đủ các yếu tố của một tác phẩm gián điệp kinh điển: các điệp viên nằm vùng được cài cắm một thập kỷ trước ngay giữa lòng ngoại ô, một cái bẫy ngọt ngào xinh đẹp đã tiếp cận một thành viên chủ chốt trong nội các của Tổng thống Obama đến mức FBI buộc phải hành động, và một cuộc trao đổi đặc vụ đầy kịch tính tại Sân bay Quốc tế Vienna.
Mười điệp viên Nga, bao gồm Chapman, đã bị bắt vào ngày 27 tháng 6 năm 2010; điệp viên thứ mười một bị bắt giữ hai ngày sau đó tại Síp khi đang trên đường đến Budapest; hai thành viên khác của đường dây đã trốn thoát trở về Nga. Trong bản cáo trạng chống lại các điệp viên, FBI đã bao gồm những chỉ dẫn mà SVR đã đưa ra cho những người nằm vùng: ‘Các anh được cử đến Hoa Kỳ để thực hiện một chuyến công tác dài hạn. Học vấn, tài khoản ngân hàng, xe cộ, nhà cửa, v.v. của các anh – tất cả đều phục vụ một mục đích: hoàn thành nhiệm vụ chính của các anh, tức là tìm kiếm và phát triển mối quan hệ trong giới hoạch định chính sách tại Hoa Kỳ và gửi thông tin tình báo đến Trung tâm.’ Tuy nhiên, chứng cớ chống lại Chapman một phần được cung cấp bởi chiếc máy tính xách tay mà chính cô ta đã đưa cho một đặc vụ FBI đóng giả làm đầu mối liên lạc của SVR, và cô ta đã mua một chiếc điện thoại di động đăng ký với địa chỉ ’99 Fake Street’.
FBI đã tiến hành chiến dịch truy bắt chúng – Chiến dịch Chuyện Ma – trong nhiều năm. Các tài liệu được công bố trên trang web của FBI, mặc dù đã được biên tập kỹ lưỡng, cho thấy đường dây này đã bị theo dõi từ năm 2002 và số lượng lớn bằng chứng video chống lại họ cho thấy họ sử dụng hộp thư chết, trao đổi thông tin “khi đi lướt qua” các viên chức Nga và các thủ đoạn nghề nghiệp khác. Trong một số trường hợp, người Nga đã lấy danh tính của công dân Mỹ và tạo dựng vỏ bọc hoàn chỉnh cho mình, bao gồm cả việc nhập học, tốt nghiệp đại học và tham gia các tổ chức chuyên nghiệp. Họ lập gia đình như một phần vỏ bọc và thậm chí, theo lời một trong những đứa trẻ, còn có ý định tuyển dụng chúng làm việc cho FSB khi thời cơ đến.
Chapman là thành viên mới gia nhập đường dây gián điệp và đã bị FBI nhắm đến. Tuy nhiên, cô cảm thấy bất an khi, vào ngày 26 tháng 6, điệp viên SVR giả mạo yêu cầu cô chuyển hộ chiếu giả cho một điệp viên khác. Cô đã liên lạc với cha mình, một cựu sĩ quan KGB, để xin lời khuyên; ông khuyên cô không nên làm theo hướng dẫn và nộp hộ chiếu tại đồn cảnh sát. Cô ta đã làm vậy vào ngày hôm sau và bị bắt. Nỗ lực gài bẫy này của FBI có thể là một âm mưu nhằm thu thập bằng chứng mạnh mẽ hơn chống lại cô ta. Theo Frank Figliuzzi, giám đốc phản gián của Cục, ông nói với một bộ phim tài liệu của Kênh 4 Anh năm 2012: “Chúng tôi rất lo ngại. Họ đã tiếp cận một thành viên nội các đương nhiệm của Hoa Kỳ đến mức chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi không thể để chuyện này tiếp diễn nữa.” Đây là lần đầu tiên xác nhận Chapman có năng lực hơn những gì các báo cáo ban đầu đã chỉ ra.
Ngay cả trước khi đường dây gián điệp bị bắt, việc chuẩn bị cho một cuộc trao đổi gián điệp với người Nga đã được thực hiện. Khi CIA tiếp cận, và FSB đã đưa ra những phản đối và phủ nhận giả tạo cần thiết, mọi chi tiết đã được sắp xếp nhanh chóng. Chapman và các đặc vụ Nga khác đã được trao đổi để lấy: Igor Sutyagin, bị kết tội chuyển thông tin chi tiết về hệ thống tàu ngầm cho CIA; Sergei Skripal, một đại tá GRU từng làm việc cho MI6; Đại tá SVR Alexander Zaporozhsky, bị kết án 18 năm tù vì tội làm gián điệp cho người Mỹ vào năm 2003; và Gennady Vasilenko, một cựu sĩ quan KGB, người bị tin tưởng, một cách nhầm lẫn, là điệp viên hai mang cho người Mỹ, nhờ thông tin do Robert Hanssen cung cấp. Không có bằng chứng nào được tìm thấy chống lại ông, nhưng ông đã bị bỏ tù vì những cáo buộc khác. Ông là người duy nhất không phạm tội phản quốc chống lại Liên Xô hoặc Liên bang Nga. Theo một số báo cáo, ông đã được đưa vào cuộc trao đổi sau một yêu cầu cá nhân từ người đồng cấp cũ của mình, sĩ quan CIA Jack Platt.
Những điệp viên trở về cuối cùng đã được ca ngợi là anh hùng (sau khi được thẩm vấn, và SVR có thể chắc chắn rằng họ không bị biến thành điệp viên hai mang). Chapman hiện đang dẫn một chương trình truyền hình và xuất hiện trên tạp chí Maxim phiên bản tiếng Nga, cũng như trên sàn catwalk. Điều này có thể khiến người ta nghĩ rằng những gì cô ấy làm không đáng được coi trọng, nhưng, như cựu Tổng giám đốc M15 Sir Stephen Lander đã chỉ ra, ‘Việc họ không có gì nổi bật hoặc trông không nghiêm túc là một phần tạo nên sức hấp dẫn của ngành này. Đó là lý do tại sao người Nga lại rất thành công trong một số việc này. Họ có thể đưa mọi người vào những vị trí đó theo thời gian xây dựng vỏ bọc của họ để sau này trở nên hữu ích. Họ là một phần của một cỗ máy Và cỗ máy đó rất chuyên nghiệp và nghiêm túc.’
Vụ Chapman đã có tác động dây chuyền ở Anh khi M15 tin rằng họ đã tìm thấy một đặc vụ đánh bẫy mật ngọt khác ngay sau khi Chapman và các đồng nghiệp của cô bị hồi hương.
Sinh viên Nga Ekaterina Zatuliveter, 26 tuổi, đã bị bắt và được thông báo sẽ bị trục xuất vì gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Điều này diễn ra sau cuộc điều tra về mối quan hệ của cô với nghị sĩ Portsmouth Mike Hancock, trong đó cô có khả năng tiếp cận các tài liệu mật.
Bằng chứng chống lại cô ta có vẻ rất rõ ràng. Hoặc Zatuliveter có sở thích với đàn ông quyền lực, hoặc có điều gì đó mờ ám trong cách cô ta chọn bạn đời. Trước khi ngoại tình với Hancock, cô ta từng có quan hệ với một nhà ngoại giao Hà Lan. Sau đó, khi cô ta và Hancock đường ai nấy đi, cô ta hẹn hò với cả một quan chức NATO (hỏi ông ta về cuộc họp mà ông ta đã tham dự với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright), và một quan chức cấp cao của Liên Hiệp Quốc.
Zatuliveter gặp Hancock khi ông đến thăm Đại học St Petersburg vào năm 2006, cô cuối cùng đã đến Anh để trở thành nhà nghiên cứu không lương của ông tại Hạ viện. MI5 nghi ngờ rằng cô đã được SVR chỉ đạo quyến rũ Hancock, người nổi tiếng với các mối quan hệ ngoài luồng, để có được quyền ra vào tòa nhà và biết được công việc của ông tại các ủy ban quốc phòng khác nhau.
Trong một loạt cuộc phỏng vấn với cả MI5 và MI6, tiêu chuẩn đối với bất kỳ công dân nước ngoài nào làm việc trong khu vực hạn chế như vậy, Zatuliveter đã kịch liệt phủ nhận việc cô có bất kỳ liên quan nào đến cơ quan tình báo Nga. Khi nhận được lệnh trục xuất, cô quyết tâm chống lại lệnh này và đã kháng cáo lên Ủy ban Phúc thẩm Di trú Đặc biệt.
Vụ án được xét xử vào tháng 10 năm 2011. Việc cô ấy thực sự gặp một điệp viên người Nga trong thời gian ngoại tình với Hancock càng trở nên tồi tệ hơn.
Mặc dù cô khẳng định không hề biết anh ta thực sự là gián điệp. Cô cũng từng nói đùa trong một email rằng mối quan hệ của mình với viên chức NATO đã khiến một nửa NATO bị vô hiệu hóa, và Điện Kremlin đã gọi điện chúc mừng cô. Tuy nhiên, mặc dù Ủy ban đồng ý rằng Cơ quan An ninh có “nhiều căn cứ để nghi ngờ”, Ủy ban không tin rằng họ đã chứng minh được lập luận của mình. Và vào tháng 11 năm 2011 Zatuliveter vẫn được phép ở lại Anh. Tuy nhiên, cô đã trở về Nga vào tháng sau đó.
Có thể chính thức không còn được gọi là Chiến tranh Lạnh nữa, nhưng rõ ràng là “Trò chơi lớn” giữa Đông và Tây vẫn còn rất sống động. Trung úy Jeffrey Paul Delisle đã bị bắt tại Canada vì chuyển tài liệu cho người Nga từ trung tâm tình báo hải quân Canada ở Halifax, Nova Scotia vào tháng 1 năm 2012. Một người Đức sáu mươi tuổi đã bị bắt tại Hà Lan vào tháng 5 năm 2012, bị cáo buộc chuyển 450 tài liệu mật cho một trong những đầu mối liên lạc cũ của Anna Chapman. Cựu đại tá FSB Valery Mikhailov bị kết án mười tám năm tù vào ngày 6 tháng 6 năm 2012 sau khi chuyển tài liệu cho các sĩ quan CIA tại Moscow.
Theo trang web của MI5: ‘Mối đe dọa gián điệp (do thám) không chấm dứt sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản Liên Xô vào đầu những năm 1990. Hoạt động gián điệp chống lại lợi ích của Vương quốc Anh vẫn tiếp diễn và lan rộng, xảo quyệt và có khả năng gây thiệt hại rất lớn. Mục tiêu cuối cùng của công việc của chúng tôi là gây khó khăn nhất có thể cho các điệp viên nước ngoài hoạt động chống lại Vương quốc Anh.’
Vào tháng 2 năm 2012, Tổng thống Nga sắp mãn nhiệm Dimitri Medvedev đã nói với FSB rằng lực lượng phản gián Nga đã phát hiện 199 điệp viên nước ngoài vào năm 2011, chứng minh rằng ‘hoạt động của tình báo [nước ngoài] không hề giảm sút’.
FBI nhất trí: Tình hình gián điệp không đi theo con đường của Chiến tranh Lạnh. Hoàn toàn không. Họ hoạt động năng suất hơn bao giờ hết – và nhắm vào những bí mật quý giá nhất của quốc gia. Là cơ quan chủ chốt trong việc vạch trần, ngăn chặn và điều tra các hoạt động tình báo trên lãnh thổ Hoa Kỳ, FBI nỗ lực ngăn chặn vũ khí hủy diệt hàng loạt và các công nghệ bị cấm vận khác rơi vào tay kẻ xấu, bảo vệ bí mật và tài sản quốc gia quan trọng, đồng thời củng cố bức tranh toàn cảnh về các mối đe dọa toàn cầu bằng cách chủ động thu thập thông tin và tình báo.
Liệu chúng ta có bao giờ đạt đến giai đoạn không cần đến điệp viên nữa không? Như Tổng Giám đốc MI5 Jonathan Evans đã phát biểu tại Thành phố London vào ngày 25 tháng 6 năm 2012:
Những người trong chúng ta được trả lương để suy nghĩ về tương lai từ góc độ an ninh thường kết luận rằng các mối đe dọa trong tương lai đang trở nên phức tạp, khó lường và đáng báo động hơn. Sau một thời gian dài làm việc trong ngành An ninh, tôi kết luận rằng điều này hiếm khi xảy ra. Sự thật là tương lai luôn có vẻ khó lường và phức tạp bởi vì nó chưa xảy ra.
Tuy nhiên, chúng ta chưa cảm nhận được sức mạnh của những bất định mà tổ tiên chúng ta đã trải qua. Và quá trình chọn lọc tự nhiên đã để lại cho chúng ta, với tư cách là một chủng loài, khả năng nhận diện mối đe dọa rất phát triển nhưng một khả năng kém phát triển hơn trong việc nhìn thấy cơ hội. Điều này giúp giải thích câu nói xưa rằng khi giới tình báo ngửi thấy mùi hoa hồng, họ sẽ tìm đến đám tang.
Gián điệp đã tồn tại từ khi loài người còn tồn tại những nhóm đối lập. Tôn Tử đã khuyên: “Hãy khôn khéo! Hãy khôn khéo! và sử dụng gián điệp cho mọi loại công việc” trong Binh pháp Tôn Tử 2.500 năm trước. Các mối đe dọa có thể thay đổi, nhưng nhu cầu thông tin về chúng sẽ không bao giờ mất đi. Và chừng nào tình hình vẫn còn như vậy, gián điệp sẽ tiếp tục phát triển mạnh.
Dịch xong ngày 13 tháng 10 năm 2025