NHÀ ROMANOV – Chương Cuối

Trần Quang Nghĩa dịch
7 Hội thảo Ekaterinburg
Maples và nhóm của ông không trở về thẳng nhà sau ba ngày tìm thấy hài cốt của gia tộc Romanov. Thay vào đó, họ ở lại Ekaterinburg để tham dự hội thảo kéo dài hai ngày do chính quyền vùng Sverdlovsk tổ chức, “Trang cuối cùng của lịch sử Hoàng gia: Kết quả nghiên cứu về thảm kịch Ekaterinburg.” Khoảng một trăm người đã tham dự và 20 tham luận đã được trình bày, chủ yếu bởi các nhà khoa học từ nhiều vùng khác nhau của Nga và Liên Xô cũ. Thống đốc vùng Sverdlovsk, Edvard Rossel, đã khai mạc hội thảo. Alexander Avdonin mô tả cách ông và Geli Ryabov tìm thấy hài cốt. Giáo sư Krukov ở Moscow đã lên án “những vi phạm thô bạo đối với các chuẩn mực khảo cổ học và pháp y” liên quan đến việc khai quật hài cốt. Nikolai Nevolin đã phân tích tình trạng của hài cốt được lấy ra từ hố mộ. Giáo sư Popov từ St. Petersburg đã mô tả thiệt hại do đạn súng lục gây ra cho các bộ hài cốt. Tiến sĩ Svetlana Gurtovaya thuộc văn phòng của Tiến sĩ Plaksin tại Bộ Y tế đã mô tả việc tìm thấy lông mu từ thi thể số 5 và số 7 và “các vật phẩm giống tóc” từ thi thể số 4. Tất cả những vật phẩm này, bà báo cáo, “hóa ra cực kỳ mỏng manh và dễ vỡ, và nếu chạm vào, chúng gần như biến thành bột.” Tiến sĩ Abramov mô tả việc nhận dạng gia đình này bằng phương pháp chồng hình được hỗ trợ bởi máy tính. Tiến sĩ Filipchuk từ Kiev giải thích việc xác định tuổi, giới tính và chiều cao mà ông thu được bằng cách kiểm tra hộp sọ, xương ống dài và xương chậu của các nạn nhân. Victor Zvyagin từ Moscow khẳng định rằng Thi thể số 1 (mà cả Abramov và Maples đều xác định là người hầu gái Demidova) là nam giới; Filipchuk nhẹ nhàng sửa lưng Zvyagin, nói rằng, “Theo dữ liệu của chúng tôi, bộ xương này thuộc về một người phụ nữ to lớn, hoàn toàn không có nghi ngờ gì rằng xương chậu của bộ xương này là của một người phụ nữ.” Tiến sĩ Pavel Ivanov thuộc Viện Sinh học Phân tử Moscow đã nói về thông tin bổ sung có thể thu được từ việc phân tích DNA của xương, có thể tiến hành ở Anh. Một số diễn giả không phải là nhà khoa học. Một người luận giải về quân phục mà Nicholas II mặc như một phản ánh tính cách của ông. Một người theo chủ nghĩa quân chủ từ Hội Quý tộc Nga tại Moscow đã tự giới thiệu mình là đại diện của “Nữ Đại Công tước Maria Vladimirovna và Nữ Đại Công tước góa phụ Leonida Georgievna”. Ngay cả Nam tước Falz-Fein, nhà triệu phú vùng Liechtenstein, cũng được phép phát biểu. Ông nói riêng về bản thân, nhắc đến điền trang nơi ông sinh ra, “Askanya Nova, từng là điền trang lớn nhất nước Nga”, và nói rằng lòng tận tụy của ông đối với lịch sử và văn hóa Nga là vô cùng nhiệt thành và bền bỉ. Nhóm nghiên cứu Mỹ không có tên trong chương trình nghị sự ban đầu, nhưng vào cuối hội thảo, Maples được mời lên trình bày những phát hiện của mình.
Trong cuộc họp báo vào cuối chương trình, Maples được hỏi: “Trình độ chuyên môn pháp y của Nga nằm ở mức nào, khi mà ông có thể hoàn thành trong ba ngày những gì mà người của chúng tôi phải mất cả năm?” Câu trả lời của ông rất tế nhị: “Đừng quên, họ đã dành rất nhiều thời gian để sắp xếp lại tất cả các bộ xương, tái tạo lại khuôn mặt và hộp sọ bị vỡ. Sau đó, tôi và các đồng nghiệp chỉ cần đến xem.” Tuy nhiên, mặc dù họ không nói được tiếng Nga, người Mỹ vẫn hiểu đủ để lấy làm ngạc nhiên trước tính thiếu phối hợp rõ ràng giữa các nhà khoa học Nga có mặt. Dường như mỗi người đều chuyên về một bộ phận khác nhau của cơ thể và áp dụng các kỹ thuật khác nhau. Một chuyên gia từ Saratov chỉ chuyên về cổ tay người; ông đã xác định mọi thứ về hài cốt, bao gồm cả tuổi tác, bằng cách kiểm tra các xương nhỏ ở cổ tay. Cách tốt nhất để xác định tuổi của một bộ xương, Michael Baden nói là giám định hộp sọ, răng, đốt sống và xương chậu. “Nhưng” – Baden nhún vai – “nếu bạn chỉ biết về nhân chủng học của cổ tay, bạn sẽ làm mọi thứ bằng cổ tay.”
Một số người Nga dường như đang giữ khư khư nghiên cứu của họ, bảo vệ thông tin mà mình nghĩ là độc đáo. Maples và các đồng nghiệp của ông đã quen với lề lối hội thảo khoa học phương Tây, mà mục đích cơ bản là chia sẻ và phổ biến những kiến thức mới mẻ. Trước một cuộc hội thảo, Maples nói sau đó, các nhà khoa học phương Tây thường nộp các bảng tóm tắt, tương đối còn mơ hồ vì tác giả chưa hoàn thành việc nghiên cứu. Nhưng đến thời điểm gặp mặt, một bài viết được mong đợi sẽ trình bày chi tiết những kết quả, phân tích, và kết luận. Về phương diện này, hành vi của nhà huyết thanh học Moscow, Gurtovaya, người có bài tham luận về kết quả phân tích loại nhóm máu từ mẫu tóc, đặc biệt khiến Maples thích thú, Bà nói với hội nghị rằng bà đã xét nghiệm xương và tóc từ khu vực chôn cất để tìm nhóm máu A, B và O, nhưng khi kết thúc, bà không công bố kết quả. Maples, nghiêng sang người bên cạnh trong khán phòng, một sử gia nghệ thuật Nga nói được tiếng Anh, nói: “Hãy hỏi bà ấy xem họ có xác định được nhóm máu của hài cốt không.” Người Nga liền đặt câu hỏi, nói rằng của người Mỹ ngồi cạnh. “Câu trả lời của diễn giả,” Maples nói, “là ‘Da (Có – tiếng Nga)‘. Không gì hơn. Tôi nói, ‘Hỏi bả ấy xem bà ấy có kết quả từ tóc hay từ xương không.’ Bà ấy nói, ‘Có cả hai.’ Tôi nói, ‘Hỏi bà ấy xem kết quả có giống nhau giữa tóc và xương không.’ Người Nga bên cạnh dịch câu hỏi ra tiếng Nga và hỏi bà ấy, và bà trả lời, ‘Da’. Vậy nên tôi nói, ‘Hỏi bà ấy nhóm máu gì.’ Và bà ấy nói, ‘Ồ, chúng tôi phải giữ cái bí mật nho nhỏ của riêng mình.’ “ Điều này làm Maples nhớ đến một câu trích dẫn: “Ở Nga, mọi thứ đều là bí mật, nhưng không có điều bí mật nào cả. Trên thực tế,” ông nói, “trong vòng mười lăm phút, có người đã nói với tôi kết quả của bà ấy là: Tích cực.”
Cathryn Oakes, chuyên gia về tóc và sợi trong nhóm của Maples, đã có một trải nghiệm còn khó chịu hơn với Gurtovaya. Oakes đã thực hiện chuyến đi từ Mỹ vì cô được cho biết rằng có tóc người trong hố chôn. Do đó, khi đến Ekaterinburg, cô hỏi, “Tôi có thể xem tóc được không?” “Ồ, tóc ở Moscow,” cô ấy được cho biết. Nhưng, người cung cấp thông tin ấy nói tiếp, Gurtovaya, chuyên gia Moscow, sẽ có mặt tại Ekaterinburg dự hội nghị vài ngày sau đó và sẽ mang theo tóc. Khi Gurtovaya đến, Oakes tự giới thiệu và hỏi, “Tôi có thể xem tóc được không?” “Ồ, được chứ,” Gurtovaya trả lời. Nhưng cô ấy không cung cấp tóc. Trong lần gặp tiếp theo, Gurtovaya nói với Oakes rằng “tóc đó không tốt chút nào”. Ngay cả bây giờ, Oakes vẫn không biết phải tin điều gì: “Hình như bà ấy không mang theo tóc đó. Hoặc có lẽ bà ấy có mạng theo nhưng chỉ đơn giản là không muốn cho tôi xem. Dù sao đi nữa, tôi cũng không hề chứng kiến được hay làm bất cứ điều gì.” Trong những chuyến thăm sau đó đến Nga và Ekaterinburg của Tiến sĩ Maples và nhóm của ông, Cathryn Oakes đã từ chối tham gia.
Maples không biết điều đó khi ông mới đến, nhưng tệ nạn phân chia ngăn cách kiến thức giữa những người Nga còn mở rộng đến mức họ đã giữ bí mật với Plaksin và Abramov về việc Maples và các đồng nghiệp Mỹ sẽ tham dự hội thảo. “Họ không hề biết chúng tôi có mặt ở đó cho đến khi họ bước vào cửa,” Cathryn Oakes nhớ lại. “Và họ không hề hài lòng.” “Họ bị sốc,” Lowell Levine đồng tình. “Có một cuộc giằng co đang diễn ra giữa Moscow và Ekaterinburg,” Maples giải thích. “Những người giám định pháp y ở Moscow muốn hài cốt được gửi về Moscow. Người Ekaterinburg lại muốn giữ hài cốt ở đó. Vào một thời điểm nào đó trong cuộc đấu tranh này, Ekaterinburg nhận ra rằng họ sẽ bị áp đảo về mặt lực lượng. Nếu muốn duy trì quyền kiểm soát, họ phải có đội giám định pháp y riêng. Nhưng không có nhà khoa học giám định pháp y nào tầm cỡ như Moscow ở Ekaterinburg. Đó là lúc họ đã đưa ra yêu cầu của mình tới Ngoại trưởng Baker. Kết quả là, chúng tôi đã đến, và chúng tôi không nhận ra mình đã trở thành Đội Ekaterinburg.”
Chính trong bầu không khí xung đột, ngờ vực và thù địch lẫn nhau chỉ được che giấu một phần đó mà William Maples, vốn tin rằng thi thể mất tích là nữ Đại Công tước Anastasia, lần đầu chạm trán với Sergei Abramov, người tin rằng cô con gái mất tích là Marie.
☆ ☆ ☆
“Việc Giáo sư Maples tham dự hội nghị ở Ekaterinburg hoàn toàn do chính quyền Ekaterinburg sắp xếp,” Abramov sau đó nói. “Chúng tôi phát hiện ra điều này hoàn toàn tình cờ. Thật kỳ lạ. Ông ấy được phép chụp ảnh bộ hài cốt, còn chúng tôi, những chuyên gia Nga, lại không được phép làm điều này. Tôi không có ác cảm gì với Tiến sĩ Maples. Tôi rất kính trọng ông ấy. Nhưng vai trò của ông ấy trong tất cả những chuyện này khiến chúng tôi bối rối. Nếu ông ấy đang làm việc này một cách độc lập với chúng tôi, vậy thì tại sao lại cần đến chúng tôi? Và nếu ông ta đang cùng chúng tôi nghiên cứu, tại sao lại giấu ông ta với chúng tôi? Ông ấy và tôi chưa bao giờ sát cánh cạnh nhau bên những bộ xương.”
Trong buổi hội thảo, sau khi Maples tuyên bố kết luận Anastasia chính là cô con gái mất tích, Abramov đã đến gặp và khuyên ông không nên loan báo ý kiến này khi trở về Mỹ. “Tôi làm vậy để bảo vệ ông ấy”, Abramov giải thích. “Ông ấy chỉ dành ba ngày bên những bộ xương. Còn chúng tôi đã ở bên chúng cả một năm. Vì ông ấy, tôi không muốn mọi chuyện hóa ra là chúng tôi đúng còn ông ấy sai.” Dĩ nhiên, Abramov không hề biết rằng Maples đã trù tính nói trong buổi họp báo cuối cuộc hội thảo ở Ekaterinburg rằng ông tin rằng nữ công tước mất tích chính là Anastasia.
Một năm sau, vào tháng 7 năm 1993, Maples trở lại Ekaterinburg để được quay phim quá trình giám định xương bởi Nova, chương trình truyền hình khoa học của PBS Hoa Kỳ. Trên đường đi về nhà, ông dừng lại một chút ở Moscow và lần đầu tiên đến thăm Abramov tại văn phòng của ông. “Tiến sĩ Maples đã kiệt sức”, Abramov nói. “Ông ấy đã thức dậy lúc 4:00 sáng ở Ekaterinburg để bay đến Moscow. Ông ấy mang theo nhân viên đài truyền hình và họ quay cảnh chúng tôi bắt tay thân thiện” Maples giải thích với Abramov rằng kỹ thuật giám định và đo xương của mình đã chứng minh rằng không có bộ xương nữ nào có thể là của một thiếu nữ mười bảy tuổi. “Sau đó,” Abramov nói, “hóa ra là ông ấy và tôi không đo cùng một loại xương. Chúng tôi đo xương hông và xương đùi; ông ấy đo xương cẳng tay (đoạn cánh tay dưới từ khuỷu đến cổ tay), gồm xương trụ và xương quay, những xương này không cho biết chính xác lắm về chiều cao. Nhưng Maples nói với tôi, ‘anh đã cưa xương đùi làm đôi.’ Tôi nói, ‘Không, chúng tôi không làm thế. Có ai khác đã làm. Chúng tôi đã đo xương đùi trước khi nó bị cắt. Và, thẳng thắn mà nói, chúng tôi đã không mong đợi có bất kỳ chuyên gia nào khác sẽ đến.’
Trong cuộc trò chuyện đó, Abramov đã đề cập với Maples một vấn đề liên quan đến những chiếc xương cẳng tay mà Maples đã quan tâm: “Những chiếc xương này rất dễ bị lẫn vào nhau giữa các thi thể. Chúng không được đưa ra khỏi lòng đất một cách thận trọng nhất. Và một khi chúng nằm trên bàn trong nhà xác, ai cũng có thể nhặt lên và, do nhầm lẫn, đặt xuống ở một vị trí khác. Giáo sư Popov đã ở đó – mà không có chúng tôi. Giáo sư Zvyagin đã ở đó mà không có chúng tôi. Và giờ Giáo sư Maples đã ở đó – mà không có chúng tôi.”
Vào cuối cuộc họp này, Maples, muốn hòa giải, đã nói với Abramov rằng mặc dù kết quả của ông khác, nhưng nếu Abramov có thể chứng minh một cách tuyệt đối rằng Anastasia có mặt trong số những bộ xương, “Tôi sẽ vui sướng làm việc đó cho anh,” Abramov đáp lại một cách vui vẻ, rồi hỏi Maples liệu ông có biết nhà khoa học phương Tây nổi tiếng nào khác có thể giúp giải quyết vấn đề bằng phương pháp chồng hình không. Maples đã cung cấp một cái tên, Giáo sư Richard Helmer thuộc Viện Pháp y Bonn, Đức, chủ tịch Nhóm Nhận dạng Sọ mặt của Hiệp hội Khoa học Pháp y Quốc tế. Abramov, biết rõ danh tiếng của Helmer và đã đọc các chuyên khảo của ông, ngay lập tức mời ông đến Moscow. Một công ty thương mại đã cung cấp chi phí, và đầu tháng 9 năm 1993, Helmer đã dành năm ngày ở Moscow để xem xét kỹ thuật và kết quả của Abramov. Ông nói với Abramov rằng chương trình chồng hình của ông ta là chương trình tốt nhất mà ông từng thấy – và rằng ông đã thấy tất cả các chương trình chồng hình hiện có.
Sau đó, ông cho biết hiện mình tin tưởng vào kết quả của Abramov và đồng ý rằng Anastasia là một trong những bộ xương ở Ekaterinburg.
Sau cuộc gặp đó, Abramov tiếp tục đề xuất giải quyết vấn đề bằng cách mời cả Helmer và Maples đến Ekaterinburg để cùng làm việc với ông về bộ hài cốt. Ông cũng sẽ mời Tiến sĩ Filipchuk từ Kiev. Do không có cuộc giám định chung nào như vậy, Abramov dựa vào những phát hiện của mình, được củng cố bởi Giáo sư Helmer. Và bởi vì Tiến sĩ Maples đã giới thiệu cho ông ta biết tên Giáo sư Helmer
☆ ☆ ☆
“Thực tế là với những phương pháp hiện có và dựa trên tài liệu so sánh mà chúng ta có, tôi không tin là có thể xác định được ai mất tích, Marie hay Anastasia.”
Người phát biểu là Nikolai Nevolin, giám đốc Phòng Pháp y Vùng Sverdlovsk, người điều hành nhà xác Ekaterinburg, nơi hài cốt đã được lưu giữ bốn năm nay. Ông ấy sống trong một tòa nhà chung cư nhiều tầng gần nhà xác, và chúng tôi đến đó tìm ông ấy vì đã ngoài giờ làm việc. Chúng tôi ngồi dưới những tán dương xào xạc dưới ánh hoàng hôn, ngắm nhìn lũ trẻ nô đùa ngoài sân trong khi Avdonin vào trong tìm ông ấy. Chẳng mấy chốc, Nevolin xuất hiện, một người đàn ông ngoài bốn mươi tuổi, vóc dáng lực lưỡng, ăn nói nhỏ nhẹ. Ông ta mặc một chiếc áo phông Mỹ màu đen và cam, một món quà của Lowell Levine. Là một nhà nhân chủng học pháp y, công việc thường ngày của ông ta là nghiên cứu các tội ác bạo lực và cái chết mà người Siberia đương thời gây ra cho nhau. Nhưng ông ta cũng quen thuộc với những bộ xương đặc biệt này. Ông đã làm việc bên cạnh Abramov và Maples, và ông ta đã nghiên cứu kỹ lưỡng các kỹ thuật của cả hai. Theo ông ta, cả hai đều sai.
“Maples nói về việc xác định chính xác tuổi tác đến mức ông ấy có thể khẳng định rằng không có bộ xương nào thuộc về một phụ nữ mười bảy tuổi,” Nevolin nói. “Đúng vậy, bạn có thể nói về mức trung bình. Nhưng một chuyên gia biết rằng từ xương, bạn không thể nói chính xác sự phát triển hay tuổi tác của một thiếu niên. Răng là một thước đo tốt hơn. Các nha sĩ pháp y, khi nghiên cứu sự phát triển, cho biết họ có thể ước tính tuổi trong phạm vi cộng hoặc trừ hai năm rưỡi. Điều đó là hợp lý. Tôi chấp nhận điều đó.”
Nevolin không hề tỏ ra phòng thủ hay gay gắt trong lời chỉ trích của mình. Ông biết rằng cả Maples lẫn Abramov đều có danh tiếng lớn hơn mình. Nhưng ông vẫn giữ thái độ kiên quyết. Ông không chấp nhận lập luận của Maples cho rằng mình có thể xác định tuổi tác bằng mức độ phát triển ở rìa trên và dưới của cột sống. “Tôi không nói rằng tình trạng vôi hóa đốt sống mà Tiến sĩ Maples đang nói đến không xảy ra; tất nhiên, nó luôn diễn ra. Nhưng quá trình không cố định vào bất kỳ tuổi tác cụ thể nào, chẳng hạn như 16 hoặc 17 tuổi. Y học không cho biết một điều như vậy. Những gì tồn tại là các khoảng cách – chẳng hạn từ 14 đến 19 tuổi – khi quá trình tăng trưởng xảy ra. Tôi nghĩ rằng Tiến sĩ Maples có thể đã đi đến kết luận nhầm lẫn bởi thực tế là bộ xương đã ở dưới lòng đất hơn 70 năm. Bề mặt của xương đã phần nào bị hủy hoại; chúng rất khác so với các bộ xương gần đây, mà anh ấy – và chúng tôi – thường tiếp xúc trong phòng thí nghiệm.
“Cuối cùng, tôi phải nói rằng việc xác định tuổi bằng cột sống chưa bao giờ được coi là đáng tin cậy, dù ở trong nước hay ngoài nước. Các phương pháp đáng tin cậy nhất để xác định tuổi là mức độ mòn của răng, cách đan các đường nối trên hộp sọ, và, phương pháp đáng tin cậy nhất trong tất cả, là phương pháp của Hanson – giám định cấu trúc phần trên của các xương ống dài. Đây là những phương pháp cơ bản cho phép chúng ta xác định tuổi một cách chính xác nhất. Cột sống không liên quan gì đến việc này. Người Mỹ, người Châu Âu, người Nga – tất cả đều giống nhau. Và nếu ai đó cố gắng phân biệt những hài cốt này theo chiều cao, thì cũng sẽ không hiệu quả. Bạn không thể đổ lỗi cho việc xương đã bị cưa xuyên qua… Ngay cả khi nó còn nguyên vẹn, cũng không thể xác định chiều cao chính xác. Vì vậy, nếu một người, xét theo chiều cao, nói rằng đây là nạn nhân này và đây là nạn nhân kia, thì tôi nghĩ, nói một cách nhẹ nhàng, người này không hoàn toàn nói đúng sự thật.”
Nevolin chuyển sang kết quả của Abramov, đạt được bằng phương pháp chồng hình. “Cách này tốt hơn một chút,” ông nói. “Bởi vì ở đây chúng ta sử dụng phương pháp loại trừ. Chúng ta chụp ảnh người càng gần ngày chết càng tốt. Chúng ta có hình ảnh hộp sọ. Chúng được đặt chồng lên nhau. Nếu hình ảnh hộp sọ khớp với hình ảnh khuôn mặt của người trong ảnh, chúng ta có thể nói rằng hộp sọ có thể thuộc về người trong ảnh. Điều này đúng hơn theo nghĩa phủ định. Nếu hộp sọ không khớp với hình ảnh của ảnh, chúng ta có thể nói rằng hộp sọ này không thuộc về người trong ảnh. Vì thế mỗi hộp sọ khớp vào mỗi bức ảnh. Nó sẽ không khớp với một số bức ảnh; nó có thể chỉ khớp với một trong số chúng. Không nên chấp nhận đây là một phương pháp phân loại, đặc biệt là trong trường hợp này. Phương pháp này vẫn chưa thực sự đáng tin cậy, và thứ hai, trong trường hợp này, hầu như tất cả các phần mặt của hộp sọ đã bị phá hủy và một số phần sọ bị hư hại do đạn bắn.
Kết luận cá nhân của Nevolin được đưa ra với một nụ cười gượng gạo: “Các nhà khoa học Nga tin theo một hướng, các nhà khoa học Mỹ lại tin theo hướng khác. Tôi tin theo hướng thứ ba. Tôi tin rằng lập luận về Marie và Anastasia hiện không thể được giải quyết một cách dứt khoát. Họ quá gần nhau về tuổi tác và không chênh lệch quá nhiều về chiều cao để các chuyên gia pháp y trong và ngoài nước có thể xác định danh tính của họ.” Giải pháp cuối cùng, ông nhấn mạnh, phải được tìm ra theo cách truyền thống: tìm kiếm hồ sơ bệnh án và so sánh răng, cầu răng, mão răng, miếng trám, xương gãy và bất kỳ điểm bất thường nào khác về xương dựa vào hồ sơ viết tay và nếu có thể, cả phim chụp X-quang. Giống như Lowell Levine, Nevolin khẳng định rằng hồ sơ bệnh án của gia đình Hoàng gia phải nằm ở đâu đó trong kho lưu trữ. “Tôi không thể tin rằng hồ sơ bệnh án của gia đình Romanov lại bị thất lạc”, Nevolin nói. “Chúng tồn tại ở đâu đó. Những tài liệu như vậy không bao giờ bị thất lạc. Nhưng rất nhiều điều đã xảy ra trong đất nước chúng ta, chỉ có Chúa mới biết những tài liệu này đã đi về đâu. Tôi tin rằng chúng sẽ được tìm thấy. Nếu tìm thấy, sẽ không còn thắc mắc gì nữa. Chúng ta sẽ biết ai là ai.”
* Những phát hiện của Filipchuk liên quan đến các nữ công tước trẻ tuổi phù hợp với Maples hơn là Abramov. Ông tin rằng Thi thể số 5 là cô con gái cao nhất trong số các cô con gái và bị giết ở tuổi hai mươi. Đây chính là bộ xương mà Maples xác định là Marie và Abramov cho là Tatiana. Filipchuk tuyên bố rằng thi thể số 6 là cô con gái cao thứ hai và đã chết ở độ tuổi từ hai mươi đến hai mươi bốn. Maples xác định số 6 là Tatiana, Abramov cho là Anastasia.
† Việc công khai bác bỏ nghiên cứu của Zvyagin có thể đã mang lại chút thỏa mãn cá nhân cho Abramov, người có mặt trong khán phòng. Zvyagin là người đầu tiên Abramov nghĩ đến khi ông lên án những “kẻ ngốc” đã chỉ trích công trình của ông ở Ekaterinburg và bảo trợ ông suốt mùa thu, mùa đông và mùa xuân trước đó.
8 Ở ranh giới của tri thức
Báo cáo thứ 17 được trình bày tại cuộc hội thảo tháng 7 năm 1992 ở Ekaterinburg bởi nhà sinh học phân tử vui vẻ, tóc đen, bốn mươi mốt tuổi, Tiến sĩ Pavel Ivanov của Viện Sinh học Phân tử Englehardt thuộc Hàn lâm Khoa học Nga ở Moscow. Chủ đề của Ivanov là xét nghiệm DNA. Ông nói với hội nghị rằng, vào cuối năm 1991, Trưởng khoa Giám định Y khoa Nga Vladislav Plaksin đã yêu cầu ông xem xét khả năng sử dụng kỹ thuật mới này để giúp nhận dạng các bộ hài cốt được Alexander Avdonin và Geli Ryabov tìm thấy. Ivanov biết rằng công việc này không thể thực hiện được ở Nga. Ông giải thích với hội nghị rằng “không ai ở Nga có kinh nghiệm làm việc với chất liệu xương”, và Nga cũng không sở hữu công nghệ cần thiết. Trong thời gian ở London vào tháng 12 năm 1991, ông đã đến thăm nơi mà ông gọi là “Trung tâm Nghiên cứu Tội phạm Trung ương” của Bộ Nội vụ Anh tại Aldermaston ở Berkshire và bắt đầu đàm phán về một nghiên cứu chung giữa Anh và Nga về những bộ xương.
Đầu tháng 7 năm 1992, chỉ hai tuần trước hội nghị này, một thỏa thuận đã được ký kết giữa Bộ Y tế Nga và Bộ Nội vụ Anh. Một nỗ lực chung sẽ diễn ra tại Aldermaston có sự tham gia của Tiến sĩ Peter Gill, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phân tử thuộc Phòng Pháp y Bộ Nội vụ, Ngài Alec Jeffreys của Trường đại học Leicester, người sáng lập ra kỹ thuật lấy dấu vân tay DNA, và Tiến sĩ Erika Hagelberg của Đại học Cambridge, một chuyên gia về phân tích di truyền phân tử các hài cốt Phía Nga sẽ là chính Ivanov. Tất cả các chi phí trừ chi phí đi lại sẽ được Phòng Pháp y Anh thanh toán, và chi phí đi lại (về cơ bản là vé máy bay của Ivanov đến và đi từ Anh) sẽ do chính quyền vùng Sverdlovsk, nơi đã chấp thuận thỏa thuận, đài thọ. Ivanov nói với khán giả rằng các xét nghiệm ở Anh sẽ cho phép các nhà nghiên cứu xác định liệu trong số chín bộ xương được khai quật, có tồn tại một nhóm gia đình hay không. Hơn nữa, nếu có thể chiết xuất đủ DNA không bị nhiễm bẩn từ hài cốt, và nếu có thể thuyết phục được những người có quan hệ huyết thống với gia đình Hoàng gia hiến tặng mẫu vật phẩm để so sánh, thì có thể chứng minh được nhóm gia đình được tìm thấy trong hố mộ có phải là gia đình của Sa hoàng Nicholas II hay không.
☆ ☆ ☆
Việc hài cốt phải được chuyển đến Anh vì công nghệ DNA không có sẵn ở quốc gia của họ khiến các nhà khoa học Nga bối rối. “Chúng tôi đã nghiên cứu về xét nghiệm phân tử di truyền được một thời gian,” Nikolai Nevolin nói với một nụ cười gượng gạo. “Viện sĩ Vavilov đã bắt đầu sử dụng phương pháp này. Sau đó, ngài Stalin đã bắn chết toàn bộ nhóm nghiên cứu của ông ta. Kết quả là, chúng tôi bắt đầu tụt hậu.”
Khi Stalin qua đời năm 1953, Pavel Ivanov mới hai tuổi. Hai mươi năm sau, dưới thời Brezhnev, Ivanov đang trên đường lấy bằng cử nhân sinh học phân tử tại Đại học Tổng hợp Moscow – “trường tốt nhất nước Nga, được đánh giá cao ở châu Âu.” Ông bắt đầu sự nghiệp với tư cách là một nhà khoa học nghiên cứu thuần túy, làm việc trong dự án quốc tế về bộ gen người tại Viện Sinh học Phân tử. Năm 1987, nhóm của ông, trong nỗ lực đọc mã di truyền tạo nên con người, đã phát hiện ra một kỹ thuật lấy dấu vân tay DNA tương tự, nhưng không giống hệt, với công trình đầu tiên do Alec Jeffreys thực hiện ở Anh. Ivanov, vẫn là một nhà khoa học cơ bản, bắt đầu khám phá và phát triển công nghệ này. Công trình của ông đã thu hút sự chú ý của các tổ chức “thường nhật”, chẳng hạn như phòng thí nghiệm tội phạm pháp y và KGB. “Họ bày tỏ sự quan tâm đến các ứng dụng thực tế của công trình của tôi và đề nghị tôi thành lập một phòng thí nghiệm DNA pháp y”, ông giải thích. “Tôi đồng ý vì khoa học pháp y rất thú vị đối với tôi và bởi vì, với mức độ tội phạm cao như ở Moscow, tôi nghĩ mình có thể làm điều gì đó để giúp đỡ. Tôi không làm việc cho KGB; tôi chưa hề là một người Cộng sản. Nhưng tôi hiểu rõ tiềm năng của những kỹ thuật này trong việc chống tội phạm. Kể từ đó, tôi đã làm hai công việc. Tôi vẫn giữ chức vụ nhà khoa học thuần túy tại Viện Sinh học Phân tử và tôi cũng trở thành cố vấn DNA cho giám định viên y khoa chính của Nga, Tiến sĩ Plaksin. Sau đó, khi vụ án Romanov nổ ra, tôi trở thành giám định viên DNA chính của Nga đươc bổ nhiệm bởi Tổng Chưởng lý Nhà nước Nga.”
Ivanov làm việc ở cả hai nơi để kiếm tiền. Vợ ông, một phó giáo sư sinh học, có mức lương ít ỏi; ông giúp đỡ mẹ mình, một nhà kinh tế học đã nghỉ hưu với mức lương hưu eo hẹp; và ông có hai con. Mặc dù khối lượng công việc rất lớn, ông vẫn tự coi mình là người may mắn. Ông đi du lịch khắp nơi nhiều hơn hầu hết các nhà khoa học Nga, tham dự các hội nghị xa xôi như ở Úc và Dubai. Ông từng làm việc tại phòng xét nghiệm DNA của FBI ở Washington, D.C., và đã đi lại khắp nước Mỹ. Vào giữa những năm 1990, công trình nghiên cứu về hài cốt của gia tộc Romanov đã giúp ông trở thành nhà sinh học phân tử nổi tiếng nhất nước Nga. Mùa hè năm 1994, ông lái chiếc Volvo của mình từ Moscow đến Ulm bên sông Danube ở miền nam nước Đức để thực hiện xét nghiệm DNA trên thi thể của một di dân Nga vừa mới qua đời, tự nhận mình là Thái tử Alexis. Trong một buổi tối dài tại một nhà hàng Đức, ông ta kể về mối liên hệ của mình với hài cốt nhà Romanov:
“Tôi là người quyết định chúng tôi nên đến Anh khi Plaksin hỏi ý kiến tôi”, Ivanov nói. “Phòng xét nghiệm của FBI ở Washington và AFIP đều làm xét nghiệm DNA rất tốt, nhưng tôi chọn Peter Gill vì tôi biết ông ấy và vì Phòng Khoa học Pháp y Anh có trình độ chuyên môn cao nhất trong loại hình điều tra đặc biệt này – tức là sử dụng DNA ty thể. Dĩ nhiên, tôi cũng đã cân nhắc việc nhờ Hoàng thân Philip, Công tước xứ Edinburgh (cũng là chồng của Nữ hoàng Elizabeth II của Vương quốc Anh), giúp đỡ chúng tôi. Và tôi biết rằng ông ấy sẽ sẵn lòng giúp đỡ hơn nhiều nếu công việc được thực hiện ở Anh. Nhưng chúng tôi phải tìm tài trợ. Đối với một nhà khoa học Nga ngày nay, vấn đề luôn là tiền bạc. Không có rào cản chính trị nhưng có rào cản về tài chính. Bạn không thể đến nơi bạn muốn.”
Vào ngày 15 tháng 9 năm 1992, Pavel Ivanov lên máy bay phản lực ở Moscow. Đi với ông, trong chiếc túi du lịch của hãng hàng không British Airways, được bọc cẩn thận và niêm phong bằng nhựa polyetylen, là những mảnh xương đùi của mỗi bộ xương nằm trên bàn trong nhà xác Ekaterinburg. Tại phi trường Heathrow, Ivanov được Nigel McCrery, một nhà sản xuất truyền hình của BBC, người đã hoạt động tích cực trong quá trình đàm phán để đưa hài cốt đến Anh, tiếp đón.▪︎
* McCrery, một người đàn ông hào hoa, nhiệt tình, từng là cảnh sát trước khi đến Cambridge để học lịch sử Nga, nhận được công lao to lớn trong việc thúc đẩy nỗ lực hợp tác Anh-Nga. Nghe tin việc khám phá ra bộ hài cốt, ông nói, ông đã gọi điện cho Avdonin ở Ekaterinburg. Avdonin giới thiệu ông với Pavel Ivanov. Ivanov nói với ông rằng nơi tốt nhất trên thế giới để xét nghiệm DNA là Aldermaston và cho ông cái tên Peter Gill. McCrery đã gọi điện cho Gill, người mà ông nói là “rất hào hứng, nhưng không chắc Bộ Nội vụ sẽ chấp thuận. Vâng, Kenneth Clark, [lúc đó] là Bộ trưởng Nội vụ, sống ở góc phố gần nhà tôi và tôi đã quen biết ông ta trong nhiều năm. Ông ấy là đại biểu quốc hội của tôi. Vì vậy tôi tiếp xúc với ông ấy và chỉ rõ Phòng Khoa học Pháp y của ông sẽ tăng thêm uy tín thế nào nếu tham gia dự án. ‘Ông cho phép chứ?’ Và Clark nói, ‘Đó là một ý tưởng tuyệt vời.’ Thế là tôi gọi lại cho Ivanov và Ivanov nói, ‘Làm sao tôi có thể đến đó? Tôi không có tiền.’ Vì vậy, tôi nói, ‘Tôi sẽ trả tiền cho chuyến đi.’ Thực ra, ai đó ở Nga đã trả tiền cho chuyến đi của Ivanov, thế là tôi đã liên lạc với Hệ Sinh học Ứng dụng, hãng chế tạo các máy quét gen và các máy khác được sử dụng trong hoạt động DNA và hỏi liệu họ có tài trợ cho chi phí sinh hoạt của Ivanov ở Anh được không. Họ nói có, và trợ cấp ba đến năm nghìn bảng đủ sống trong mười tháng. Vì thế ông ấy đến và mang theo xương.”
McCrery, cảm thấy “không phù hợp khi chở gia đình Hoàng gia Nga trong cốp xe Volvo của mình”, đã thuê một chiếc limousine Bentley từ Nhà Tang lễ. Vì vậy, theo đúng nghi thức, Ivanov, McCrery và hài cốt của gia đình Romanov được đưa đến nhà Peter Gill trong rừng gần Aldermaston, nơi ba người đàn ông chụp ảnh kỷ niệm. Sáng hôm sau, Gill và Ivanov mang xương qua hàng rào thép gai cao ngất và các trạm kiểm soát an ninh của cơ sở nghiên cứu nguyên tử khổng lồ của Bộ Quốc phòng Anh tại Aldermaston. Bên trong khu phức hợp và ở một bên, Phòng Khoa học Pháp y được cấp một tòa nhà nhỏ để sử dụng làm phòng thí nghiệm nghiên cứu. Trong mười tháng tiếp theo, hai người và một nhóm khác sẽ ra sức so sánh và đối chiếu DNA của những bộ xương ở Ekaterinburg với nhau và với những người thân còn sống của gia đình Hoàng gia Nga bị sát hại.
☆ ☆ ☆
Nếu Phòng Thí nghiệm Tội phạm Trung ương của FBI được chuyển thành một doanh nghiệp tư nhân, được hướng dẫn phát triển “phương pháp tiếp cận thương mại, tập trung vào khách hàng, có ý thức về chi phí” và được yêu cầu hòa vốn hoặc kiếm lời bằng cách tính phí và cung cấp dịch vụ cho tất cả những ai bước vào cửa, thì nó sẽ gần giống với những gì đã xảy ra gần đây với cơ quan tương đương với FBI của Anh, Phòng Khoa học Pháp y Bộ Nội vụ. Trong 50 năm, bắt đầu từ những năm 1930, Phòng Khoa học Pháp y (FSS) hoạt động như một nguồn hỗ trợ điều tra chuyên môn cho các sở cảnh sát cấp tỉnh và địa phương ở Anh và xứ Wales. Các chuyên gia từ FSS đã điều tra kỹ lưỡng những bằng chứng trong các vụ án giết người, hiếp dâm, phóng hỏa, sử dụng ma túy và làm giả. Họ đã đến hiện trường vụ án, khám nghiệm tử thi, lấy dấu vân tay, vũ khí, đạn, vết bẩn, nồng độ cồn, mẫu chữ viết tay và máy đánh chữ cũ. Những người hưởng lợi từ kiến thức chuyên môn này là các công tố viên Hoàng gia, mà FSS thay mặt họ cung cấp lời khai chuyên môn tại tòa. Người dân Anh đã trả tiền cho những dịch vụ này bằng cách đóng thuế.
Vào tháng 4 năm 1991, FSS đã thực thi chủ nghĩa Thatcher (chính sách chính trị và kinh tế do cựu Thủ tướng Anh thuộc đảng Bảo thủ Margaret Thatcher, đặc biệt chủ trương tư nhân hóa các ngành công nghiệp quốc hữu hóa). Sáu trăm nhà khoa học, kỹ thuật viên và các nhân viên khác của FSS làm việc tại sáu phòng thí nghiệm rải rác khắp đất nước, bỗng biến thành những vũ khí khoa học cho thuê. FSS trở thành một doanh nghiệp, buộc phải tự tìm đường ra thế giới bằng cách thu phí dịch vụ. Cánh cửa được mở ra cho tất cả mọi người – thuật ngữ được sử dụng là “mở rộng cơ sở khách hàng”. Luật sư bào chữa, chính phủ nước ngoài, giám định viên bảo hiểm, cơ quan y tế khu vực và công dân tư nhân đều được mời tham gia vào. Sự chuyển đổi này thật “hỗn loạn”, Tổng Giám đốc FSS Janet Thompson thừa nhận. Đối với hầu hết các nhà khoa học, “thế giới kinh doanh vẫn có vẻ cực đoan”. Trong giai đoạn 1991-1992, công việc điều tra cho cảnh sát giảm 18% và thâm hụt 1,1 triệu bảng Anh được ghi nhận. Nhưng năm sau, tình hình đã được cải thiện. Cảnh sát đã quay trở lại và đóng các khoản phí theo quy định. FSS đã thu được lợi nhuận bằng với khoản lỗ trước đó. Đáng chú ý nhất, vào mùa hè năm đó, dịch vụ và nhà sinh học phân tử hàng đầu của nó, Tiến sĩ Peter Gill, đã trở thành tiêu đề tin tức, không chỉ ở Anh mà trên toàn thế giới.
☆ ☆ ☆
Tiến sĩ Gill, Trưởng khoa Dịch vụ Sinh học (Nghiên cứu) thuộc Phòng Khoa học Pháp y, là một người đàn ông gầy gò, khoảng đầu bốn mươi tuổi, cao khoảng 175cm, khuôn mặt nhợt nhạt, tóc tai bù xù, ria mép nâu và đôi mắt cảnh giác sau cặp kính dày. Ông mặc một bộ vest xanh đậm trong các buổi họp báo, nhưng trong và xung quanh phòng thí nghiệm, trang phục thường thấy của ông là một chiếc áo len cũ mèm, quần nhung rộng thùng thình và đôi giày lười cũ kỹ. Sinh ra ở Essex, Gill tốt nghiệp cử nhân ngành động vật học tại Đại học Bristol, nhận bằng tiến sĩ di truyền học từ Đại học Liverpool, và làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ năm năm về di truyền học tại Đại học Nottingham. Năm 1982, ông gia nhập Phòng Thí nghiệm Nghiên cứu Khoa học Pháp y tại Aldermaston nghiên cứu ứng dụng pháp y của các phương pháp phân loại máu thông thường. Năm 1985, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ trong ngành, ông bắt đầu nghiên cứu ứng dụng của phương pháp phân tích DNA trong khoa học pháp y. Nhận thức được tầm quan trọng của công trình khai phá của Alec Jeffreys, ông đã gia nhập phòng thí nghiệm của Jeffreys trong một thời gian ngắn và cùng năm đó, ông là đồng tác giả với Jeffreys trong một bài báo khoa học đầu tiên chứng minh rằng phương pháp phân tích DNA có thể được sử dụng trong khoa học pháp y. Các phương pháp được mô tả trong bài báo này hiện đang được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Bản thân Gill đã công bố hơn 70 bài báo khoa học.
Mặc dù nhút nhát và nói năng thận trọng với người lạ, nhưng có một điểm mà Tiến sĩ Gill luôn nhấn mạnh: phòng thí nghiệm của ông là tốt nhất thuộc loại đó trên thế giới – “Chúng tôi vẫn giữ vững vị thế dẫn đầu thế giới” là cách ông nói. Do đó, theo ông, có thể hoàn toàn hiểu được việc Pavel Ivanov muốn mang hài cốt người Nga đến Aldermaston. “Ivanov đã hỏi tôi từ lâu liệu chúng tôi có muốn thực hiện những xét nghiệm này không,” Gill nói. “Khi ông ấy đề nghị, tôi phải thông qua Bộ Nội vụ. Họ đã cân nhắc tất cả các hệ lụy chính trị, và cuối cùng chúng tôi đã được chấp thuận.”
Những hệ lụy chính trị tồn tại ở nhiều cấp độ. Rõ ràng nhất là mối quan hệ hiện tại giữa chính phủ Bảo thủ của John Major ở Anh và tổng thống Boris Yeltsin ở Nga. Cả hai bên đều quan tâm đến việc hiện thực hóa một dự án ngoại giao bị trì hoãn từ lâu: chuyến thăm Nga của Nữ hoàng Anh. Chưa có vị vua Anh nào đến thăm Nga kể từ năm 1908, khi Vua Edward VII và Hoàng hậu đi du thuyền đến Tallinn (lúc đó là Reval) để thăm Sa hoàng Nicholas II và Hoàng hậu Alexandra.*
Ghi chú: ▪︎ Thực tế, lực lượng an ninh của cả hai nước đều lo ngại về khả năng khủng bố đến mức Vua Edward chưa bao giờ thực sự đặt chân lên lãnh thổ Đế quốc Nga. Tất cả các cuộc họp đều được tổ chức trên hai du thuyền.
Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin cả hai đều đã mời Nữ hoàng đến, và Nữ hoàng cùng Bộ Ngoại giao Anh cũng muốn chuyến thăm diễn ra.
Nhưng trước tiên, vẫn còn một số vấn đề lịch sử và gia đình chưa được giải quyết. Hoàng gia Nga và Hoàng gia Anh có quan hệ họ hàng gần gũi. Vua George V, ông nội của Nữ hoàng Elizabeth II, là anh em chú bác với Nicholas II. Quả thực, sự giống nhau về ngoại hình giữa hai anh em họ gần gũi đến mức tại đám cưới của George, Nicholas thường bị nhầm lẫn là chú rể. Vua George cũng là anh em cô cậu với Hoàng hậu Alexandra. Vào mùa xuân năm 1917, sau khi sa hoàng thoái vị và trong khi Alexander Kerensky và chính phủ Nga lâm thời đã tìm cách bảo vệ an toàn cho gia đình Hoàng gia bằng cách dự tính đưa họ đến tị nạn hợp pháp ở nước ngoài, Vua George V lúc đầu hoan nghênh đề xuất sẽ mang anh em họ người Nga của mình đến Anh an toàn bằng tàu. Nhưng sau đó, nhà vua – lo sợ rằng việc cựu sa hoàng làm mất lòng dân Anh sẽ làm hoen ố chế độ quân chủ Anh – đã đổi ngược quyết định và khăng khăng không cho họ đến. Hành động của George V đã góp phần gây ra cái chết cho Nicholas, vợ và năm đứa con của ông. Khi cánh cửa nước Anh đóng sầm lại, Kerensky đã gửi gia đình đến Siberia, hy vọng đưa họ ra khỏi tầm với của những người Bôn-sê-vích. Họ vẫn bị buộc ở đó cho đến khi, bảy tháng sau khi Kerensky rơi đài, cánh tay dài của Lenin vươn ra.
Thảm họa này đã dẫn đến nhiều lời chỉ trích. Các thành viên của Hoàng gia Nga trốn thoát được, những quý tộc di cư, và nhiều thành viên Bạch vệ Nga ở nước ngoài đã lên án gay gắt Vua George, gia đình và con cháu của ông. Trong ba phần tư thế kỷ, nhiều người Nga còn nhìn người Anh với nỗi nghi ngờ và oán hận sâu sắc. Hoàng gia Anh nhận thức rõ sự thù địch này.
Trong nhiều năm qua, các quan chức cung điện đã cố gắng che giấu vai trò của nhà vua trong thảm kịch Romanov; các nhà viết tiểu sử chính thức của George V được khuyến cáo họ nên “bỏ qua những sự việc và sự cố có thể gây mất uy tín cho nhà vua”. Năm 1992, khả năng hài cốt của Romanov có thể được chuyển đến Anh để các nhà khoa học Anh xác minh với sự giúp đỡ của những người trong Hoàng gia Anh đã mang đến cơ hội xoa dịu một số cảm xúc mãnh liệt này.
Theo người phát ngôn của Phòng Khoa học Pháp y, người thường xuyên gần gũi với Tiến sĩ Gill để đặc biệt trả lời các câu hỏi không liên quan đến khoa học, quyết định mang xương đến Aldermaston được đưa ra ở cấp độ tương đối thấp; tức là bởi Janet Thompson, Tổng Giám đốc FSS. “Tất nhiên,” người phát ngôn nói, “với tính chất quan trọng của dự án này, chúng tôi đã trình bày lên Bộ trưởng Nội vụ. Ông ấy có thể phản đối nếu muốn.” Người phát ngôn không biết liệu Kenneth Clark đã thảo luận dự án này với Bộ trưởng Ngoại giao hay Thủ tướng hay chưa. Hoặc liệu có ai nghĩ đến việc tham khảo ý kiến Hoàng gia hay không. Tuy nhiên, nếu không làm vậy, Tiến sĩ Thompson và Bộ trưởng Clark đang gánh vác những trách nhiệm lịch sử và ngoại giao vượt xa phạm vi nhiệm vụ chuyên môn và chính trị thông thường của họ.
Có một lĩnh vực mà Thompson – không nghi ngờ gì được Clark ủng hộ – đã tự mình đưa ra quyết định. Đây chính là quyết định phớt lờ chính sách mới của Thatcher, theo đó FSS sẽ phải tính phí dịch vụ và cố gắng sinh lợi nhuận. Cơ quan này đã chi một khoản tiền lớn cho dự án Romanov. “Chúng tôi đã thực hiện tất cả chín dự án, toàn bộ,” Peter Gill nói. “Nó rất tốn kém.” “Rất tốn kém,” người phát ngôn hòa điệu, nói thêm con số chính xác vẫn chưa có. Tổng chi phí có thể được ước tính sơ bộ. Một năm sau, FSS có dịp làm việc với một công dân tư nhân muốn thực hiện xét nghiệm DNA cho một phụ nữ không rõ danh tính và một người có thể là họ hàng. Các xét nghiệm này sẽ được thực hiện trên mô được bảo quản và máu mới lấy gần đây, cả hai nguồn đều dễ lấy DNA hơn nhiều so với xương cốt cũ, đã chôn vùi từ lâu. Để thực hiện công việc này, FSS yêu cầu đặt cọc 5.000 nghìn bảng Anh, cộng thêm 5.000 bảng Anh được ký quỹ tại một ngân hàng Anh. Toàn bộ số tiền này đã được chi tiêu hết. Dự án Romanov bao gồm việc phân loại và đối chiếu các mảnh xương từ chín người Nga, cùng với mẫu máu của ít nhất ba người thân còn sống hiện nay. Ngay cả khi sử dụng cùng mức chi phí dù cho các xét nghiệm này khó hơn nhiều, điều này có nghĩa là mười hai hồ sơ DNA sẽ tốn 60.000 bảng Anh (hơn 100.000 đô la). Tiến sĩ Alka Mansukhan, một nhà sinh học phân tử thường xuyên thực hiện chiết xuất và giải trình tự DNA tại Trung tâm Y khoa Đại học New York tin rằng, nếu tính cả chi phí điều hành, con số này có lẽ chính xác. Bộ Nội vụ và các kế toán viên của FSS đã tài trợ những chi phí này dưới dạng nghiên cứu thuần túy.
☆ ☆ ☆
Cơ thể người trưởng thành là một khối cố kết gồm 80 ngàn tỷ tế bào, vậy mà trong tất cả số lượng lớn và sự đa dạng này, tồn tại một sự giống nhau phi thường: mỗi một tế bào này chứa đựng tất cả thông tin di truyền cần thiết để tạo nên một con người hoàn chỉnh và độc đáo. Thông tin di truyền này được lưu giữ trong các nhiễm sắc thể; ở một người bình thường, mỗi nhân tế bào có 46 nhiễm sắc thể, 23 nhiễm sắc thể từ mẹ và 23 nhiễm sắc thể từ cha. Nhiễm sắc thể được tạo thành từ các phân tử DNA (axit deoxyribonucleic), sử dụng cấu trúc hóa học riêng của chúng để lưu trữ thông tin di truyền và các lệnh. Phân tử DNA được tạo ra từ bốn cấu trúc hóa học cơ bản – các khối kiến tạo được gọi là bazơ, và trình tự trong đó những bazơ này xảy ra cung cấp thông tin cần thiết để bắt đầu và kiểm soát việc kiến tạo cơ thể người. Nói đơn giản, các nhà sinh học phân tử giải thích bốn bazơ bằng các chữ cái đầu của chúng, A, G, C, và T (adenine, guanine, cytosine và thymine).
Các bazơ xuất hiện theo cặp kết nối với hydro; A kết nối với T; G kết nối với C; những tổ hợp này được gọi là cặp bazơ. Vào năm 1953, James Watson và Francis Crick đã khám phá ra cấu trúc phân tử tổng thể, chi tiết của DNA. Họ tìm thấy những sợi dài, xoắn chặt, mỗi sợi giống như một chiếc thang xoắn ốc. Các cặp bazơ A, C, G và T tạo thành các bậc thang; các cạnh của thang, nơi các bậc thang được gắn vào, được tạo thành từ các phân tử xen kẽ của đường và phốt phát. Watson và Crick đặt tên cho khám phá của họ là chuỗi xoắn kép.
Cấu trúc độc đáo của mỗi cơ thể con người được quyết định bởi sự kết hợp khác nhau của bốn chữ cái này trong các cặp bazơ của DNA. Ví dụ, tại một điểm nào đó trên chuỗi, một cá nhân sẽ đọc A, C, G, T, C, C, T. Một người khác, trong cùng một phần của chuỗi, sẽ hiển thị một trình tự khác, chẳng hạn như A, T, T, C, A, G, C. Bất kể trình tự cặp bazơ nào, mỗi tế bào trong cơ thể người đều chứa cùng một trình tự DNA, lưu trữ cùng một thông tin và mệnh lệnh. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn nghiêm trọng, tự nhiên chỉ kích hoạt phần hệ thống mệnh lệnh nào cần thiết cho chức năng của tế bào cụ thể đó.
Mỗi tế bào với bộ 46 nhiễm sắc thể chứa khoảng 3,3 tỷ cặp bazơ DNA, được xâu chuỗi lại thành các cụm đường xoắn ốc kép. Nếu cấu trúc này được phóng đại để con người có thể nhìn thấy được năm ký tự (A, G, T, С, T) lớn nửa inch, (1,27cm), phải cần một dải giấy dài 162 dặm để viết hết toàn bộ chuỗi bazơ của một nhiễm sắc thể đơn lẻ. Xấp xỉ 99,9 phần trăm trong số 3,3 tỷ cặp bazơ được tìm thấy trong một tế bào đơn lẻ xuất hiện cùng một trình tự ở tất cả con người; chúng đảm bảo rằng tất cả con người có những đặc điểm giống nhau: hai mắt, hai tai, một mũi, mười ngón chân, máu, nước bọt, axit dạ dày, v.v. Tuy nhiên, trong 0,1 phần trăm còn lại (tức là 3,3 triệu cặp bazơ), trình tự của các cặp bazơ này khác nhau giữa mỗi người. Chính sự khác biệt ở cấp độ phân tử cơ bản này cho phép các nhà khoa học xác định ai là nguồn gốc của mẫu xương, mô, máu, tinh dịch hay nước bọt này hay của mẫu khác.
Trong những năm đầu thập niên 1980, Tiến sĩ Alec Jeffreys, làm việc tại Đại học Leicester lần đầu tiên nhận ra tiềm năng to lớn của biến thể DNA ở con người trong việc giải quyết các vấn đề về nhận dạng Ông đã xác định được các vùng trong các vùng siêu biến đổi và sử dụng các đồng vị phóng xạ, gọi là đầu dò, để tạo ra hình ảnh trên phim của các chuỗi DNA được chiết xuất từ các cá nhân. Những ký hiệu hữu hình này trông rất giống với mã vạch được in trên bao bì và lon ở mọi siêu thị. Các mẫu DNA này – Jeffreys gọi là “Dấu vân tay DNA” sau đó dùng để so sánh DNA của một người với DNA của người khác. Bởi vì trẻ em sẽ lấy được một nửa cặp bazơ DNA của chúng từ mẹ và một nửa từ cha, mối quan hệ gia đình có thể được thiết lập hoặc bác bỏ. Năm 1983, một cậu bé bị từ chối nhập cảnh vào Anh vì một viên chức xét đơn nhập cư nghi ngờ cậu không phải là con trai của một phụ nữ Ghana đã có quyền định cư ở Vương quốc Anh. Kỹ thuật DNA mới mẻ của Jeffreys đã được đem ra sử dụng và chứng minh rằng cậu bé chính là con trai ruột của người phụ nữ. Xác suất xảy ra sự trùng khớp ngẫu nhiên này là một phần mười triệu.
Trong vòng chưa đầy một thập kỷ, phân tích DNA đã trở thành công cụ khoa học pháp y mạnh mẽ nhất kể từ khi khám phá ra rằng không có dấu vân tay của hai người nào giống hệt nhau vào thế kỷ 19. Việc so sánh DNA hiện nay thường xuyên giải quyết được các vụ án về quan hệ cha con. Kẻ giết người được nhận diện bằng mẫu máu, tóc, các mô khác, hoặc chất dịch, dạng lỏng hoặc khô. Các mẫu DNA từ xương và răng đã giúp giải quyết những bí ẩn lâu đời liên quan đến người mất tích và thi thể không xác định. DNA có độ ổn định đáng kinh ngạc: nó đã được chiết xuất và nhận dạng từ xác ướp Ai Cập ba nghìn năm tuổi, từ một con voi ma mút bảy nghìn năm tuổi, từ nước bọt khô còn sót lại khi liếm một con tem bưu chính. Và, nếu được xử lý và nhận dạng đúng cách, nó sẽ không thể sai sót. Không công tố viên hay luật sư bào chữa nào, không nhà sử học, không giáo sĩ nào thuộc bất kỳ tôn giáo nào, không người nào tin vào bất kỳ hệ tư tưởng chính trị nào, có thể bác bỏ thông điệp cốt lõi của DNA: rằng mỗi con người đều khác biệt với nhau. Bằng chứng DNA, theo một công tố viên quận của Mỹ, “giống như ngón tay của Chúa chỉ vào ai đó và nói, ‘Ngươi chính là kẻ đó!'”
☆ ☆ ☆
Do tuổi đời và tình trạng xuống cấp của xương Romanov, Tiến sĩ Gill và Tiến sĩ Ivanov đã phải đối mặt với một nhiệm vụ khó khăn hơn nhiều so với bất kỳ xét nghiệm phân tích DNA nào trước đây. Trong môi trường vô trùng, họ bắt đầu bằng cách mài đi một milimét bề mặt ngoài bị nhiễm bẩn của xương bằng đĩa mài gắn với một máy khoan điện tốc độ cao. Phần xương còn lại được đông lạnh trong nitơ lỏng, sau đó được nghiền thành bột mịn và hòa tan trong các dung dịch khác nhau, rồi ly tâm để giải phóng một lượng DNA cực nhỏ. Trên thực tế, lượng mẫu thu được quá ít ỏi và bị phân hủy đến nỗi Gill và Ivanov phải áp dụng một kỹ thuật mới được phát triển gần đây hơn gọi là PCR (phản ứng chuỗi polymerase), trong đó các bộ phận liên quan được chọn lọc của các sợi cặp bazơ được nhân đôi hóa học nhiều lần trong ống nghiệm để cung cấp đủ số lượng chất liệu DNA để các nhà khoa học nghiên cứu.
Sử dụng DNA nhân, nhóm Aldermaston trước tiên quay sang xác định giới tính của từng bộ xương. Một gen trên nhiễm sắc thể X (con cái có hai nhiễm sắc thể X) dài hơn sáu cặp bazơ so với gen tương tự trên nhiễm sắc thể Y (con đực có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y). Sử dụng PCR, các nhà khoa học có thể thu thập đủ dữ liệu để đo lường và xác định sự khác biệt sáu cặp bazơ này. Kết quả đã xác nhận những phát hiện nhân chủng học của Abramov và Maples: có bốn nam và năm nữ. Tiếp theo, vẫn sử dụng DNA nhân và nghiên cứu trình tự cặp bazơ, Gill và Ivanov đã kiểm tra cả chín mẫu để tìm mối quan hệ gia đình. Trình tự lặp lại ngắn (gọi là STR) là sự lặp lại cặp bazơ tự nhiên trong một số vùng siêu biến đổi của nhiễm sắc thể – chẳng hạn như T, A, T, T – xảy ra lặp đi lặp lại. Trong một gia đình, các trình tự này và số lần lặp lại có xu hướng
không đổi; một sự khác biệt
trình tự hoặc số lần lặp lại khác nhau trong mỗi mẫu riêng lẻ sẽ chỉ ra rằng chúng không thuộc cùng nhóm gia đình. Một lần nữa, kết quả là những gì đã xảy ra nếu quả thật các mẫu xương đến từ gia đình Hoàng gia Nga. Theo lời Gill: “Mẫu xương từ 3 đến 7 thể hiện mô hình được mong đợi trong một nhóm gia đình nơi 4 và 7 là cha mẹ của các mẫu con cái 3, 5 và 6.” Bốn người lớn còn lại bị loại trừ khỏi danh sách cha mẹ tiềm năng. Báo cáo của Gill tiếp tục: “Nếu những hài cốt này là của gia đình Romanov . . . thì xét nghiệm dữ liệu cho thấy một trong những cô con gái và Thái tử Alexis đã mất tích khỏi hố chôn.” Các xét nghiệm khác đã xác định quan hệ cha con. Kiểu dạng DNA STR từ thi thể số 4 được tìm thấy ở thi thể số 3, số 5 và số 6; do đó, người đàn ông trưởng thành được cho là Nicholas đã được xác nhận là cha của ba cô gái trẻ. Gill và Ivanov chỉ có thể làm được đến mức này với một lượng nhỏ DNA nhân đã xuống cấp sẵn có. Họ đã xác lập được một nhóm gồm bốn nam và năm nữ. Họ đã xác lập được một gia đình: một người cha, một người mẹ và ba cô con gái. Nhưng để nhận dạng những người đàn ông và phụ nữ này – để gọi tên cho họ – hai nhà khoa học phải tiến hành một chiến thuật khác.
May mắn thay, một hình thức DNA thứ hai khả dụng trong tế bào con người. Được gọi là DNA ty thể, nó xuất hiện dồi dào trong các đơn vị bên ngoài nhân, đóng vai trò như các nhà máy điện cho tế bào. DNA ty thể được di truyền độc lập với DNA nhân, và trong khi DNA nhân được di truyền một nửa từ mẹ, một nửa từ cha, thì DNA ty thể được di truyền hoàn toàn từ mẹ. Từ mẹ sang con gái, nó được truyền nguyên vẹn, “truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác không thay đổi, như một cỗ máy thời gian”, Gill nói. “Mã di truyền giống nhau sẽ được chia sẻ giữa mẹ, bà ngoại, bà cố ngoại, bà sơ ngoại, v.v.” Tại mọi điểm trong chuỗi này, con trai đều sở hữu DNA ty thể nhận được từ mẹ, nhưng con trai không thể truyền DNA ty thể này cho con gái hoặc con trai của mình. Do đó, như một công cụ để xác định danh tính, DNA ty thể có thể được sử dụng để nhận dạng một người phụ nữ ở bất kỳ vị trí nào trong chuỗi dọc của phụ nữ có nguồn gốc từ nhau. Và nó có thể xác định con trai của một trong những người phụ nữ này. Nhưng nó không thể tiếp tục qua dòng dõi nam giới; với con trai, chuỗi đã bị phá vỡ.
Gill và Ivanov đã chiết xuất DNA ty thể từ chín mẫu xương mang đến từ Nga. Các chiết xuất được khuếch đại bằng PCR đến số lượng có thể sử dụng được Trong nỗi vui mừng Gill cho biết chất lượng trình tự DNA thu được “nói chung tương đương với trình tự thu được từ các mẫu máu tươi”. Tập trung vào hai đoạn khác nhau của trình tự DNA thường siêu biến đổi giữa những người khác nhau, và thu được từ 634 đến 782 chữ cái cặp bazơ cho mỗi trong chín đối tượng, các nhà khoa học đã hoàn thành hồ sơ DNA cho tất cả chín mẫu xương mà họ sở hữu.
Tiếp theo, họ cần DNA đương thời để so sánh. Cuộc tìm kiếm người thân còn sống bắt đầu. Những người ở FSS và Bộ Nội vụ
lục sách từ thư viện và dò tìm cây phả hệ. Ai đó đã lập một danh sách tên những người phù hợp về mặt khoa học và có thể tiếp cận. Trong trường hợp Hoàng hậu Alexandra, việc tìm ra một người thân còn sống hữu ích về mặt di truyền thật dễ dàng. Chị gái của Alexandra, Quận chúa Victoria xứ Battenberg, có một cô con gái, đã trở thành Quận chúa Alice xứ Hy Lạp. Quận chúa Alice, đến lượt mình, sinh ra bốn cô con gái và một cậu con trai. Năm 1993, chỉ có một trong những cô con gái này, Quận chúa Sophie xứ Hanover, còn sống. Người con trai là Hoàng thân Philip, sau này trở thành Công tước xứ Edinburgh và là phu quân của Nữ hoàng Elizabeth II của Anh. Hoàng thân Philip, cháu trai của Hoàng hậu Alexandra, hoàn toàn phù hợp để so sánh DNA ty thể với mẫu xương của Hoàng hậu Nga bị sát hại. Theo đó, Tiến sĩ Thompson, giám đốc FSS, đã viết thư cho Cung điện Buckingham và hỏi liệu hoàng thân có sẵn lòng giúp đỡ không. Philip đồng ý, và một ống nghiệm chứa đầy máu của ông đã sớm được chuyển đến Aldermaston. Việc xét nghiệm được thực hiện ở những phần của trình tự DNA ty thể, nơi diễn ra tính đa dạng lớn nhất giữa các nhóm gia đình. Đến tháng 11, Gill và Ivanov đã có kết quả: sự trùng khớp là hoàn hảo; trình tự các cặp bazơ DNA giữa người mẹ, ba cô gái trẻ, và Hoàng thân
Philip giống hệt nhau. Gill và Ivanov biết rằng họ đã tìm thấy hài cốt của Alexandra Feodorovna và ba trong số bốn người con gái của bà.
Việc xác nhận sự hiện diện của Sa hoàng Nicholas II khó khăn hơn nhiều. Việc tìm kiếm mẫu DNA để so sánh với mẫu lấy từ xương đùi của Thi thể số 4 đã diễn ra trên diện rộng, kéo dài và trong một số trường hợp còn gây tranh cãi. Những nỗ lực đầu tiên được thực hiện bởi Pavel Ivanov. Ông được biết rằng em trai của Nicholas II, Đại Công tước George, qua đời năm 1899 vì bệnh lao ở tuổi 28, đã được chôn cất tại lăng mộ của gia tộc Romanov, Thánh đường St. Peter và Paul ở St. Petersburg. So sánh DNA giữa hai anh em là đủ. Từ Anh, Ivanov liên lạc với Anatoly Sobchak, thị trưởng St. Petersburg, và Vladimir Soloviev, người sau này trở thành điều tra viên đứng đầu được giao phụ trách vụ án Romanov. “Họ phản đối, cho rằng việc này quá tốn kém,” Ivanov kể lại. “Những ngôi mộ trong lăng được làm bằng đá cẩm thạch Ý… Các ông phải đập vỡ nó… Ai sẽ trả tiền cho việc này?’ Vân vân.” Ivanov kiên trì trong tám tháng, và có lúc, Mstislav Rostropovich, nghệ sĩ cello kiêm nhạc trưởng, bạn của Sobchak, dường như sắp chịu trả tiền cho việc khai quật hài cốt của Đại Công tước George.
Tuy nhiên, trước khi chuyện này xảy ra, Rostropovich nói với Ivanov rằng ông sắp lên đường sang Nhật Bản. Ivanov, lúc đó vẫn còn ở Anh, nhớ lại rằng vào năm 1892, Nicholas II, với tư cách là Thái tử, đã đến thăm Nhật Bản. Tại Otsu, người thừa kế ngai vàng Nga bất ngờ bị một tên lính Nhật Bản cầm kiếm tấn công. Đòn tấn công, nhắm vào đầu, sượt qua trán, khiến máu phun ra nhưng không sâu. Vết thương đã được băng bó bằng một chiếc khăn tay. Trong 100 năm qua, một bảo tàng ở Otsu đã giữ chiếc khăn tay thấm máu
trong một hộp nhỏ. Đối với
mục đích so sánh DNA, không có gì có thể cung cấp sự nhận dạng tích cực chính xác hơn việc trùng khớp giữa chất liệu xương của một nguồn gốc vô danh với mẫu máu từ một người đã biết. Ivanov háo hức muốn đi đến Nhật Bản, nhưng, như thường lệ, “không có tiền. Người Anh nói, Tại sao chúng tôi lại phải trả tiền cho việc này? Người Nga nói, Chúng tôi không có tiền.” Cuối cùng, Rostropovich đã sắp xếp chuyến đi cho Ivanov. “Đó là số tiền chúng tôi định dùng để đào George lên,” Ivanov nói. “Vì vậy, thay vì George, chúng tôi đã đến Nhật Bản.”
Người Nhật không muốn giao hay thậm chí chạm đến chiếc khăn tay, nhưng Rostropovich đã nói chuyện với người bạn của mình là hoàng đế Nhật Bản, và hoàng đế nói chuyện với các cơ quan chức năng có liên quan. Khi Ivanov đến, ông được phép cắt ra từ chiếc khăn tay một dải dài 7cm và rộng 3mm. Khổ thay, quay lại phòng thí nghiệm của Gill ở Anh, Ivanov gặp phải khó khăn khác. “Chiếc khăn tay đã bị quá nhiều người cầm nắm,” ông nói. “Các tế bào bong ra khỏi các ngón tay vây vào vải. Có rất nhiều máu trên khăn tay, nhưng ai biết được có bao nhiêu thuộc về Nicholas? Và còn có rất nhiều bụi và đất. Nên không thể nói bất kì kết quả nào nhận được là đáng tin cậy. Có thể còn nhiều chất ô nhiễm khác nữa.”
Sau khi thất bại với cả George và Nhật Bản, Ivanov đã tìm ra nguồn DNA khả thi thứ ba để so sánh với mảnh xương đùi được cho là của Sa hoàng tại Aldermaston. Năm 1916, em gái của Nicholas II, Nữ Đại Công tước Olga, kết hôn với Đại tá Nicholas Kulikovsky, một thường dân. Cùng với Kulikovsky, Olga sinh hai con trai, Tikhon, sinh năm 1917, và Guri, sinh năm 1919. Năm 1948, Olga và gia đình chuyển đến Canada, nơi Kulikovsky mua một trang trại và chăn nuôi heo. Guri Kulikovsky qua đời, nhưng vào năm 1992, khi Gill và Ivanov bắt đầu công việc chung, Tikhon, ở tuổi 75, đang sống hưu trí ở Toronto. Vào thời điểm đó, ông là cháu trai duy nhất còn sống của Sa hoàng Nicholas II và, vì vậy, là nguồn tài liệu tốt nhất hiện có để đối chiếu DNA ty thể. Nếu xương đùi từ Thi thể số 4 là của Nicholas II, nó sẽ hoàn toàn trùng khớp với DNA từ Tikhon Kulikovsky.
Tuy nhiên, ông Kulikovsky đã từ chối hợp tác. Khi Ivanov viết thư cho ông, giải thích mục đích của cuộc điều tra và yêu cầu mẫu máu, ông ta không thèm hồi âm. Ivanov đã thử lại thông qua Giám mục Basil Rodzianko của Giáo hội Chính thống giáo tại Mỹ, và cuối cùng, thông qua Metropolitan Vitaly, người đứng đầu Giáo hội Chính thống giáo Nga ở hải ngoại. Rốt cục, Kulikovsky cũng chịu trả lời Ivanov. “Ông ấy nói với tôi rằng theo ông toàn bộ chuyện xương cốt này là một trò lừa bịp,” Ivanov nhớ lại. “Ông ấy nói, ‘Làm sao một người Nga như ông lại có thể làm việc ở Anh, nơi đã đối xử tàn nhẫn với Sa hoàng và chế độ quân chủ Nga như vậy?’ Ông ấy nói, ‘Vì lý do chính trị, tôi sẽ không bao giờ đưa cho ông một mẫu máu hay bất cứ thứ gì liên quan đến máu của tôi.’ ” Ivanov tỏ ra thất vọng, nhưng ông không bỏ cuộc. “Lúc đó, tình hình rất nghiêm trọng,” Ivanov nói. “Ông ấy là người thân gần nhất. Tôi đã tốn rất nhiều tiền để nói chuyện đường dài với ông ấy và vợ ông ấy qua điện thoại, cam đoan với họ rằng tôi không phải là đặc vụ KGB. Và họ trả lời, ‘Vậy thì có lẽ lý do duy nhất cho cuộc điều tra của các ông là để chứng minh rằng Tikhon Nicholaevich không phải là hoàng tộc.'” Ivanov bỏ cuộc. “Thế là chúng tôi buộc phải quên chuyện Tikhon này rồi,” ông nói. “Và sau khi chúng tôi công bố công trình, một số người đã viết rằng phân tích của chúng tôi không chính xác vì chúng tôi không sử dụng máu của Tikhon Kulikovsky. Thực tế là máu của ông ấy không còn cần thiết nữa. Chúng tôi đã tìm thấy hai người thân khác. Họ đã cho chúng tôi máu, và chúng tôi đã có mọi thứ cần thiết cho nghiên cứu của mình.”
Để xác định vị trí của hai người họ hàng còn lại, các nhà phả hệ Aldermaston đã xem xét lại cây phả hệ. Bởi vì chuỗi DNA ty thể tương tự được lặp lại vô hạn qua nhiều thế hệ phụ nữ, họ tập trung vào những người phụ nữ gần gũi nhất về huyết thống với Sa hoàng Nicholas II. Bắt đầu từ mẹ của ông, Thái hậu Marie, họ đã tìm thấy một dòng dõi không bị gián đoạn gồm năm thế hệ mẹ và con gái, dẫn đến một hậu duệ đương thời sẵn sàng giúp đỡ. Em gái của Sa hoàng, Nữ Đại Công tước Xenia, có một con gái, Quận chúa Irina. Irina này kết hôn với Hoàng thân Felix Yussoupov, nổi tiếng vì đã sát hại Rasputin. Irina và Felix sinh được một người con gái, cũng tên là Irina. Irina thứ hai này kết hôn với Bá tước Nicholas Sheremetyev và có một con gái, Xenia. Sau khi kết hôn, nữ Bá tước trẻ Xenia Sheremetyeva đổi tên thành Xenia Sfiris. Hiện đã ngoài 50 tuổi, bà Sfiris sống ở Athens và Paris, và chính tại Athens, bà đã nhận được lời kêu gọi giúp đỡ của FSS. Là một người phụ nữ cởi mở, tốt bụng, bà đồng ý ngay lập tức. Làm theo hướng dẫn, bà chích ngón tay, để máu chảy vào khăn tay giấy, cho đến khi khô, bỏ khăn vào phong bì và mang đến Đại sứ quán Anh. Từ đó, khăn được chuyển đến Aldermaston qua đường bưu điện ngoại giao.
Người hiến tặng vật phẩm DNA khác để xác định Nicholas II được tìm thấy ở nơi có vẻ như là một nhánh vô cùng xa xôi của cây phả hệ hoàng gia châu Âu đồ sộ. Tuy nhiên, mặc dù dòng dõi trải dài qua sáu thế hệ, mối liên hệ này vẫn đáng tin cậy và hiệu quả như trường hợp của bà Sfiris. James George Alexander Bannerman Carnegie, Công tước xứ Fife đời thứ ba, Bá tước Macduff, và Lord Carnegie, là một quý tộc và nông dân Scotland 66 tuổi, xuất thân từ một nữ tổ tiên chung của Sa hoàng Nicholas II. Bà là Louise xứ Hesse-Cassel, một công chúa Đức đã kết hôn với Vua Christian IX của Đan Mạch. Một trong những con gái của bà trở thành Hoàng hậu Marie Feodorovna của Nga, mẹ của Nicholas II. Một người con gái lớn khác, Alexandra, đã kết hôn với Hoàng tử xứ Wales, sau này là Vua Edward VII. Louise, con gái của Hoàng hậu Alexandra, đã kết hôn với Công tước đời thứ nhất của xứ Fife. Năm 1929, con gái của Louise là Maud sinh ra James, và người này đã kế vị tước vị này vào năm 1959. Công tước sẵn lòng hiến máu nhưng không muốn bị công khai nên đã đặt điều kiện là phải giữ kín danh tính. Chắc chắn, theo thời gian và với một cuộc điều tra quan trọng như thế này, thông tin sẽ bị rò rỉ.
Đúng như Gill và Ivanov dự đoán, DNA ty thể của Xenia Sfiris hoàn toàn trùng khớp với DNA của Công tước xứ Fife. Nhưng khi so sánh độ dài 782 chữ cái cặp bazơ của người phụ nữ Hy Lạp và vị quý tộc Scotland với
cùng một đoạn DNA ty thể được chiết xuất từ xương được cho là của vị Sa hoàng, lại có sự không trùng khớp. Chỉ có một chữ cái khác biệt. Ở vị trí 16169, Xenia Sfiris và Công tước xứ Fife có chữ T; ở vị trí này, Nicholas có chữ C. 781 cặp còn lại có trình tự giống hệt nhau. Để kiểm tra dữ liệu, Gill và Ivanov đã thực hiện một lần chiết xuất DNA ty thể thứ hai từ xương được cho là của Sa hoàng. Họ nhân bản DNA trong vùng này sau khi khuếch đại bằng PCR và sau đó biến đổi sản phẩm thành vi khuẩn E. coli. Khi tiến hành giải trình tự mới các dòng vô tính này, 7 dòng vô tính được phát hiện có chữ T ở vị trí 16169, do đó trùng khớp với bà Sfiris và Công tước xứ Fife. Tuy nhiên, 28 dòng vô tính vẫn mắc một lỗi chính tả duy nhất, một chữ cái C không khớp. Các nhà khoa học Aldermaston kết luận rằng Sa hoàng Nicholas II sở hữu hai dạng DNA ty thể, một trong số đó trùng khớp chính xác với người thân của ông; còn lại, tại một điểm duy nhất, thì không. Tình trạng hiếm gặp này được gọi là dị hợp tử (heteroplasmy).
Chữ cái duy nhất của cặp bazơ không khớp này đã gây lo lắng nhiều tại Aldermaston. Trong bài báo của mình, hai nhà khoa học đã trình bày cách giải thích của họ về những gì họ đã tìm thấy: “Chúng tôi cho rằng DNA ty thể được chiết xuất từ sa hoàng có tính chất dị hợp tử về mặt di truyền. Điều này làm phức tạp thêm cách lý giải này bởi vì độ tin cậy của bằng chứng phụ thuộc vào việc liệu chúng ta có chấp nhận tiên nghiệm rằng một sự đột biến đã xảy ra ở Sa hoàng hay không. Xác suất xảy ra một đột biến duy nhất được tính toán là khoảng một trên ba trăm mỗi thế hệ, nhưng ước tính này không tính đến tác động của dị hợp tử (phần lớn trong số đó có thể không được phát hiện).”
Gill hiểu rằng sự không khớp một chữ cái này đã nảy sinh những nghi vấn về tính xác thực của những phát hiện của ông. Ông tin rằng một đột biến đã xảy ra, mặc dù ông thừa nhận rằng khả năng xảy ra đột biến ở bất kỳ thế hệ nào là rất thấp. “Một đột biến được cho là xảy ra [trong một gia đình] khoảng một lần trong ba trăm thế hệ”, ông nói. Nhưng ông khẳng định rằng mình đang nói chủ yếu về một dị hợp tử, mà ông đã tìm thấy, chứ không phải một đột biến, mà ông không thể chứng minh nhưng đó là nguyên nhân khả dĩ của dị hợp tử đó. “Dị hợp tử khác với đột biến trong DNA nhân; nó có nghĩa là có hai loại DNA ty thể trong cùng một người. Điều chúng tôi đã làm là chứng minh rằng có hai loại DNA ty thể ở sa hoàng. Một trong hai loại này chỉ khác nhau một bazơ; loại còn lại giống hệt với những họ hàng.” Đó là bằng chứng khá tốt cho thấy có một đột biến thực sự. Hãy nhớ rằng chúng tôi đang làm việc ngay tại ranh giới của kiến thức. Tỷ lệ thực tế của hiện tượng này vẫn chưa được biết rõ, và chúng tôi ngờ rằng nó phổ biến hơn nhiều so với dự đoán ban đầu.”
☆ ☆ ☆
Vào tháng 7 năm 1993, sau mười tháng làm việc, Gill và Ivanov đã sẵn sàng công bố kết quả của họ với thế giới. Phòng Khoa học Pháp y đã triệu tập một cuộc họp báo và vào ngày 10 tháng 7, một hội trường lớn tại tòa nhà hiện đại trống trải của Bộ Nội vụ ở Queen Anne’s Gate đầy ắp
phóng viên, nhiếp ảnh gia,
và nhà quay phim truyền hình. Tiến sĩ Janet Thompson, tổng giám đốc FSS, chủ trì. Tiên liệu rằng mình có thể được hỏi ai là người gánh chịu chi phí nghiên cứu này, bà bắt đầu bằng việc bày tỏ hy vọng
“FSS sẽ sớm có thể đưa các kỹ thuật đã được sử dụng, một khi đã được xác nhận giá trị, vào thực tiễn điều tra trong các vụ án hình sự vì lợi ích của hệ thống tư pháp quốc gia nói chung.”
Gill giải thích những gì ông và các đồng nghiệp đã làm. Ông mô tả cách xác định giới tính của các mẫu vật, cách thiết lập mối quan hệ gia đình giữa năm bộ xương, cách mẫu máu của Hoàng thân Philip đã giúp xác định danh tính của Alexandra Feodorovna và các con gái bà, và cách dị hợp tử được tìm thấy trong DNA của Sa hoàng đã làm phức tạp nỗ lực này như thế nào để có thể đưa ra một tuyên bố chắc chắn về Nicholas. Tuy nhiên, nhóm Aldermaston tuyên bố rằng, dựa trên bằng chứng DNA và kết hợp với bằng chứng nhân chủng học và lịch sử do những người khác cung cấp, họ chắc chắn 98,5% rằng đây là gia tộc Romanov. Gill cho biết tỷ lệ này dựa trên cách diễn giải thận trọng nhất về bằng chứng DNA. Một cách diễn giải rộng rãi hơn sẽ làm tăng khả năng 99 phần trăm. Pavel Ivanov có cái nhìn bao quát hơn về những gì đã được thực hiện. “Chúng ta đang rất gần với phần cuối cùng của bí ẩn này, một trong những bí ẩn lớn nhất của thế kỷ XX, một trong những bí ẩn lớn nhất của đất nước tôi, của nước Nga”, ông nói.
Buổi họp báo được giật tít giật gân trên mặt báo: CÂU ĐỐ VỀ DI CỐT CỦA ROMANOV ĐÃ ĐƯỢC GIẢI ĐÁP (Financial Times), XÉT NGHIỆM DNA XÁC NHẬN BỘ XƯƠNG CỦA SA HOÀNG (The Times), HÀI CỐT CỦA SA HOÀNG NICHOLAS ĐÃ ĐƯỢC NHẬN DIỆN (The Washington Post. Thông tấn xã Tass nói với độc giả Nga rằng “các nhà khoa học Anh gần như không có
bất kỳ nghi ngờ nào” về những di cốt được tìm thấy ở Siberia là của Sa hoàng Nicholas II và gia đình ông. Bảy tháng sau, vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Peter Gill, Pavel Ivanov và những người khác đăng những phát hiện của họ qua một bài viết trên tạp chí Nature Genetics, tờ báo có thẩm quyền trong chuyên môn của họ. Những phát hiện và bài viết của họ chưa bao giờ bị thách thức hoặc thậm chí chỉ trích nhẹ nhàng, trên báo in hoặc bằng lời nói, bởi bất kỳ nhà khoa học DNA nào.

Tiến sĩ Peter Gill

Tiến sĩ Pavel Ivanov