Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 13

    Hồ Bạch Thảo

 Tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 [31/1-1/3/1775]. (Thanh, Càn Long thứ 40); Trịnh Sâm ở Hà Trung [huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh], sai Nguyễn Quỳnh đem cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng và viết lời dặn bảo rằng:

Nay đã bình được Thuận Hóa rồi, còn Quảng Nam cũng nên lần lượt bình định nốt. Việc này, nếu không phải tay nguyên lão, không ai có thể đương nổi trách nhiệm. Vậy phàm điều khiển các việc, vỗ về hay đánh dẹp, đều cho phép được tùy tiện thi hành“.

 Trịnh Sâm sai sứ thần dụ bảo nhân dân Thuận Hóa: Tha cho tô thuế; đình hoãn việc bắt phu; cho phép kỳ lão hào mục được giải bày điều lợi hại về tình trạng của dân.

Bổ dụng Nguyễn Khản giữ chức Tham lãnh Nghệ An. Khản là người có văn học, từng kết giao với Trịnh Sâm lúc Sâm chưa lên ngôi Chúa. Lúc Sâm lên nối ngôi, bèn cất nhắc Khản cùng với cha là Nguyễn Nghiễm giữ công việc trong phủ Chúa. Khản thường sắp xếp cảnh trí ở vườn và sân của họ Trịnh, lại trang điểm cho hầu gái vào chầu để chúa Trịnh vui thích. Đến nay giữ chức Tham lãnh, bèn hạ lệnh mua vét hết thóc nhà giàu để cung cấp lương quân lính. Sau khi Khản đã được mệnh lên giữ chức, thủ hạ của hắn cậy thế làm càn, nhân dân nhiều người ta oán; Trịnh Sâm biết được tình tệ ấy, cho triệu về triều, giáng chức ba bậc.

Về phía nhà Nguyễn, vào tháng giêng Chúa Nguyễn Phúc Thuần dừng chân ở Bến Giá thuộc tỉnh Quảng Nam, triệu Tả quân Nguyễn Cửu Dật đến hành tại. Chúa lập hoàng tôn Dương làm Thế tử, gọi là Đông cung, cho Trấn phủ Quảng Nam, tổng lý các công việc trong ngoài, và sai các tướng duyệt quân thủy bộ làm kế tiến thủ. Chúa ở được vài ngày thì quân Tây Sơn sai Tập Đình và Lý Tài đem thủy binh ra cửa biển Đại áp [huyện Tam Kỳ, Quảng Nam], bộ binh của Nguyễn Nhạc thì theo ven núi ra sông Thu Bồn, hai đạo cùng đánh. Nguyễn Cửu Dật đánh không lợi, chạy ra Trà Sơn [Đà Nẵng]. Đông cung lui về Cu Đê [Đà Nẵng]. Chúa đi Liên Chử, sai quan hầu truyền bảo Đông cung rằng :

Hiện nay đằng trước có giặc Tây Sơn, đằng sau có quân họ Trịnh, mà số quân tinh giỏi của ta không đầy một nghìn, lương thảo thiếu thốn. Vả lại Cu Đê là đất hẹp hòi, quân cô thế không có cứu viện, mà quân ở Gia Định thì đã lâu không tin tức gì. Đã bàn cho Nguyễn Cửu Thận là Hữu quân đại đô đốc cùng ngươi lưu giữ nơi này, còn Nguyễn Cửu Dật thì chỉnh bị chiến thuyền hộ giá đi Gia Định, thu quân về đánh Phú Yên, Quy Nhơn để chia thế giặc. Quân Cu Đê sẽ nhân đó mà hợp sức tiến đánh. Đó là cái kế đánh xa để cứu gần vậy”.

Đông cung vâng mệnh ở lại Cu Đê; Tôn Thất Tĩnh, Tôn Thất Chí và Tống Phước Đạm đều dưới quyền.

Tháng 2 [2/3-30/3/1775], Trịnh Sâm từ Hà Trung [huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh] trở về kinh sư; sai Hoàng Ngũ Phúc đem quân lấn chiếm Quảng Nam.

Ngày Canh Dần [13/3/1775], Chúa Nguyễn Phúc Thuần vượt biển, gặp gió to, thuyền đi theo của Tôn Thất Kính và Nguyễn Cửu Dật đều đắm. Bấy giờ Nguyễn vương Ánh [Nguyễn Phúc Ánh, Gia Long] mới 14 tuổi, cùng Chúa ngồi chung thuyền, chỉ riêng thuyền này không việc gì. Đến Bình Khang [Khánh Hòa] thì bọn Tống Phước Hiệp, Nguyễn Khoa Thuyên tự Yên Cương [Hòn Khói, Khánh Hòa] đến nghênh đón.

Chúa tức thì cho Phước Hiệp làm Tiết chế Kính quận công. Khoa Thuyên làm Tham chính. Bộ thuộc và quân ứng nghĩa là bọn Nguyễn Văn Nhân đều được trao chức Cai đội, Đội trưởng. Khoa Thuyên cùng Chưởng cơ Trương Phước Thận theo Chúa vào Nam.

Ngày Nhâm Dần [25/3/1775], thuyền chúa đến Gia Định. Chúa dừng đóng ở Bến Nghé [Sài Gòn]. Mạc Thiên Tứ đem các con tới hành tại bái yết. Chúa khen và ủy lạo, thăng chức Đô đốc quận công, cho con là Hoàng làm Chưởng cơ, Thảng làm Cai cơ Thắng thủy, Diên làm Tham tướng Cai cơ, đều sai về đạo Trấn Giang [Cần Thơ] đóng giữ.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                      

Riêng Đông cung đóng ở Cu Đê [Đà Nẵng], Nguyễn Nhạc mưu đón rước Đông cung lập làm Chúa để mượn tiếng đánh lừa dân chúng, bèn sai người trong đảng là Thống suất Diện, Tiên phong chính thống bộ là Tường đem 2.000 quân đóng đồn ở Thúy Loan và Bồ Bản [Quảng Nam] làm thượng đạo; Tập Đình và Lý Tài đem 2.000 quân đóng đồn ở Ba Độ làm trung đạo; Đốc chiến Phong, Hổ tướng Hãn đem 2.000 quân đóng ở Hà Thân, làm hạ đạo; hẹn ai rước được Đông cung thì có trọng thưởng. Đông cung biết tin, sai mưu sĩ là Giáo Quý đến nói với tướng thượng đạo là Diện và Tường rằng :

 “Tây Sơn dẫu một thời gian hung hăng, nhưng phía bắc có quân Trịnh, phía nam có đại binh Gia Định, trước mặt sau lưng đều bị địch, khó giữ lâu được, bọn ngươi nếu không sớm biết thời cơ, sau này không khỏi là bè đảng giặc. Chi bằng tránh chỗ tối, hướng chỗ sáng, theo ta vào Nam, ước hẹn với quân Gia Định cùng mưu đồ khôi phục, để công danh ghi sử sách, há chẳng hay ư

Bọn Diện, Tường đều vâng mệnh theo Đông cung, do đường núi mà đi, dân đi theo đông. Tập Đình và Lý Tài đem binh đuổi theo đến Ô Da, đánh phá được bọn Diện, Tường, ép mang Đông cung về phố Hội An. Tập Đình nhiều lần muốn hại Đông cung, Lý Tài khuyên mãi mới thôi.

Hoàng Ngũ Phúc vượt đèo Hải Vân, từ đồn Trung Sơn và xã Câu Đê tiến quân. Văn Nhạc phân phối sai Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, đón đánh quân của Ngũ Phúc ở Cẩm Sa [Đà Nẵng]. Quân của Tập Đình đều người Quảng Đông, đầu đội vải đỏ, cổ đeo giấy vàng, giấy bạc, tay cầm lá chắn bằng mây và siêu đao lớn, cỡi trần xông pha đánh chém, thế rất mạnh tợn. Đội tiền quân của Ngũ Phúc không thể địch được, Quế Vũ bá, nha hiệu của Ngũ Phúc, bị chết tại trận. Bấy giờ thuộc tướng là Hoàng Đình Thể, Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh nhanh nhẹn vào phá trận, Ngũ Phúc lùa quân ồ ạt tiến đánh. Tập Đình thua chạy; Nguyễn Nhạc và Lý Tài lui quân giữ Bản Tân [phía nam Quảng Nam]. Nhạc và Lý Tài cùng mưu giết Tập Đình; Tập Đình mang nhiều châu báu của cải chạy về quê Quảng Đông, sau bị Tổng đốc tỉnh này là Lý Thị Nghiêu giết. Nguyễn Nhạc bèn đón Đông cung về Quy Nhơn; riêng Hoàng Ngũ Phúc thì đóng quân ở Quảng Nam.

Tháng 5 [29/5-27/6/1775], dùng lại Ngô Thì Sĩ, cho giữ chức Hiệu lý trong viện Hàn Lâm. Lúc Thì Sĩ làm quan ở Thanh Nghệ, đi đến đâu đều có thơ đề vịnh; khi hành quân vào Nam. Sâm đọc thơ, rất trọng tài của Sĩ; cho nên nay từ chỗ bị cách về nhà được khởi phục ra làm quan.

Tại miền Nam, Lưu thủ doanh Long Hồ [Vĩnh Long] Tống Phước Hiệp tiến quân lấy được Phú Yên, quân bộ đóng ở Xuân Đài, quân thủy đóng ở Vũng Lấm, sai Tri huyện Đồng Xuân là Bạch Doãn Triều  ra lệnh cho quân Tây Sơn rằng:

Trả Đông cung ta, nếu không thì đại binh sẽ đến, không còn đường chạy”.

Nguyễn Nhạc cả sợ, giả cách nhận lời; rồi dời Đông cung đến Hà Liêu, An Thái để tránh. Lại nhân sau khi thua trận ở Cẩm Sa, đồ đảng của Nhạc phần nhiều ly tán; quân của Hoàng Ngũ Phúc tiến đóng ở Châu Ổ [huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi]. Nhạc bèn sai thuộc hạ là bọn Phan Văn Tuế đem vàng lụa đến xin hàng và xin làm tiền khu. Ngũ Phúc tin lời, nhân dâng biểu xin cho Văn Nhạc làm Tiền phong tướng quân, giữ chức Hiệu trưởng Tây Sơn. Rồi sai người gia khách giữ công việc thư ký là Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc, ấn, cờ và kiếm ban cho Nguyễn Nhạc.

Nhạc lại mưu lập Đông cung để thu lòng dân, bèn rước Đông cung về đất Bông Giang, đem con gái là Thọ Hương gả cho. Nhiều lần xin Đông cung lên ngôi vương, nhưng Đông cung không nhận. Nhạc bèn sai quan hầu của Đông cung là Tôn Thất Tĩnh đi Quảng Ngãi phủ dụ quân dân, giao kết với các sách dân thiểu số; lại sai Tôn Thất Chí vào Phú Yên lấy cái ý tôn lập Đông cung để dụ Tống Phước Hiệp. Sau khi đi được vài tháng, Chí nghe tin Tĩnh bị Tây Sơn giết, bèn vào Gia Định không trở về nữa.

Tháng 7 [27/7-25/8/1775], Tống Phước Hiệp giao tranh với quân Tây Sơn tại Phú Yên, bị thua. Bấy giờ Nguyễn Nhạc sai người đến xin hàng, Phước Hiệp tin lời không phòng bị; Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh úp phá được. Cai đội Nguyễn Văn Hiền cố sức đánh, bị chết trận; Huệ bắt được Cai cơ Nguyễn Khoa Kiên đem về, và lưu Lý Tài đóng ở Phú Yên. Phước Hiệp lui giữ Hòn Khói [Khánh Hòa]; Chưởng cơ Tống Phước Hòa giữ Ô Cam.

Nguyễn Nhạc đem công Huệ đánh phá được Phú Yên xin với Hoàng Ngũ Phúc cho Huệ làm Tây Sơn hiệu tiền phong tướng quân. Gặp lúc có bệnh dịch, quân Trịnh chết quá nữa; vì vậy Phúc bí mật định kế hồi binh. Bọn văn thần Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Lệnh Tân đều muốn lưu quân ở Quảng Nam, đặt quan trấn thủ. Ngũ Phúc không nghe, gửi thư cho Trịnh Sâm xin đem quân về Thuận Hóa, bỏ đất hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn để bước sau sẽ tính; Sâm y cho.

 Tháng 10 [24/10-22/11/1775] tại kinh đô Thăng Long mở khoa thi hội; cho bọn Ngô Thế Trị và Phan Huy Ích 18 người đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân; xử tội Đinh Thì Trung đày đi châu xa; giam Lê Quý Kiệt vào ngục. Quý Kiệt con Lê Quý Đôn cùng Đinh Thì Trung đổi quyển cho nhau trong trường thi. Việc bị lộ, Đinh Thì Trung phải tội lưu đày đi Yên Quảng, Quý Kiệt phải trở về làm dân. Nhân Đinh Thì Trung phát giác bức thư riêng của Quý Kiệt và cáo tố là do Quý Đôn chủ sự. Trịnh Sâm lấy cớ Lê Quý Đôn là bậc đại thần, bỏ đi không xét; luận thêm tội Quý Kiệt, bắt giam ở ngục.

Tháng 11 [23/11-23/12/1775] Chu Văn Tiếp đem quân về theo Chúa Nguyễn. Chu Văn Tiếp người huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên; dũng cảm, có tài lược. Lúc đầu họp quân ở Trà Lang hơn 1.000 người, từng hợp tác với Tây Sơn lập Đông cung. Sau bất bình với Tây Sơn theo Chúa Nguyễn; Tống Phước Hiệp đem việc này báo lên. Chúa sai Văn Tiếp đem quân bản bộ đóng giữ thượng đạo, để tiếp ứng với quân 5 dinh, do đó quân thế dần dần lại mạnh lên.

Tướng Tây Sơn là Lý Tài bị Tây Sơn đối đãi bạc bẽo; nhân đóng giữ Phú Yên, bèn đem hết binh mã sở thuộc đến dinh Tống Phước Hiệp đầu hàng. Việc báo lên, chúa bằng lòng nhận, cho theo quyền tiết chế của Phước Hiệp.

Chúa Nguyễn sai Tham tán Trần Văn Thức đem quân giữ Phú Yên, cùng quân Tống Phước Hiệp làm thế dựa nhau để chống giặc; lấy Bùi Hữu Lễ làm Ký lục dinh Long Hồ [Vĩnh Long].

Tháng 12 [21/1-18/2/1776] Hoàng Ngũ Phúc bi bệnh phải đưa về triều, chết trên đường; bèn sai Bùi Thế Đạt và Nguyễn Đình Đống trấn giữ Thuận Hóa, dùng bọn Phan Lê Phiên, Uông Sĩ Điển và Nguyễn Lệnh Tân phụ tá. Sau đó, bổ dụng Lê Quý Đôn và Nguyễn Mậu Dĩnh giữ chức Hiệp đồng, xếp đặt công việc trong quân, cho phép cứ 10 ngày một lần đề đạt tình hình về triều. Lại bổ dụng Ngô Phúc Oánh giữ chức lưu thủ đồn Động Hải [huyện Quảng Ninh, Quảng Bình], Phan Cận giữ chức Hiệp đồng.

Trước kia vào năm Cảnh Hưng thứ 28 [1767], Ngô Thời Sĩ làm Ðốc đồng tỉnh Thái Nguyên, hiểu luật lệ nhà Thanh về việc người xuất cảnh hợp pháp phải được cấp giấy “Thân chiếu”. Riêng dân Trung Quốc trốn sang làm phu mỏ tại nước ta thuộc loại nhập cảnh bất hợp pháp; nên xin triều đình liên lạc với quan lại nhà Thanh tìm cách đuổi họ về nước. Nay triều đình ta tiếp tục chính sách đó, phục chức cho Ngô Thì Sĩ, và liên lạc với nhà Thanh để giải quyết số dân Trung Quốc sống bất hợp pháp tại An Nam. Viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu thấy được quá nhiều dân Trung Quốc nhập cảnh bất hợp pháp, nên hạn chế bằng cách chỉ cho dân buôn có giấy Thân chiếu được ra vào tại hai cửa quan Bình Nhi, Thủy Khẩu; riêng ải Do Thôn gần trấn Nam Quan thì chiếu theo lệ cũ đóng cửa:

Ngày 15 Tân Dậu tháng 5 năm Càn Long thứ 40 [12/6/1775]. Ðại học sĩ tước Bá, giữ chức Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu:

Ðiều tra đất Thổ ty tại các phủ Thái Bình, Long Châu, Trấn An giáp giới An Nam. Vào năm Càn Long thứ 9 [1744] , viên Tổng đốc tiền nhiệm Mã Nhĩ Thái cho mở cửa ải Do Thôn (1) để thông buôn bán. Từ đó nhân dân nội địa dựa vào để đưa hàng hóa xuất nhập khẩu; do vậy dân ngu vụ lợi đông như bầy vịt, thường thường gây chuyện. Nếu không dùng biện pháp để phòng bị, dân nội địa sẽ rầm rộ đến ngoại Phiên gây sự. Xin từ nay trở về sau cấp giấy ra vào cho những dân lương thiện, có vốn hàng hóa; do hai cửa quan Bình Nhi (2), Thủy Khẩu (3) xét hỏi cho xuất khẩu; còn ải Do Thôn thì chiếu theo lệ cũ đóng cửa, những dân buôn nhỏ và bọn gánh hàng cấm không được ra khỏi quan ải.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðúng, y theo lời bàn.

Dụ quân cơ đại thần rằng:

Lý Thị Nghiêu dâng tấu triệp về việc cấm tại biên giới An Nam, lời bàn đúng; đã phê cho y theo tấu nghị. Biên giới ngoại Di không nên dung dưỡng dân nội địa tự tiện ra vào, bọn gian vượt biên giới gây sự; việc dĩ vãng khó mà truy xét, chuyện chưa xẩy ra đáng nghiêm khắc cấm đoán. Còn việc thuộc quốc mang quân đánh bắt, tuy rằng gian dân phải chịu, nhưng xét lý thì cũng không thích hợp; mà dân lưu manh ham lợi ở nước ngoài, ở lâu không về cũng không đúng thể thức. Trước đây tại ải Do Thôn cấp giấy cho dân ra vào, do Mã Nhĩ Thái liệu biện sai; đến nay đã trên 30 năm, ngày ngày chồng chất, khiến giới hạn trong ngoài không rõ ràng, kẻ gian người ngay lẫn lộn, sự việc rất quan hệ. Nay Lý Thị Nghiêu xin cấm đóng ải Do Thôn; dân buôn nhỏ, kẻ đi một mình với cái gánh, bị đình chỉ không cấp giấy cho ra ngoài; vốn thuộc bỏ sự thái quá. Còn những người dân lương thiện, có vốn buôn bán, vẫn chấp nhận cấp giấy ra vào; ý cho dân được thông thương. Nhưng bọn người dân lương thiện có vốn buôn bán, tất phải có bạn đồng hành; khó bảo đảm rằng trong đó không có loại muốn lén vượt. Bảo rằng mậu dịch có đi, phải có lại; giống như những thuyền buôn ngoài cửa biển, đến, đi phải kê hạch; nếu chỉ xét nghiệm khi ra, mà không nói đến định hạn lúc nào để xét trở về, thì sợ rằng đi mà không trở lại, lưu cựu tại nước ngoài, mối tệ chưa thể tận trừ. Lại được biết hai xứ Quảng Ðông, Quảng Tây tiếp giáp với An Nam; ngoài các các cửa chính quan ải, chỗ còn lại thì chưa thiết lập rào dậu, nên việc ra vào không bị ngăn trở; quả thực chưa liệu biện ỗn thỏa. Ða số dân lén vượt đều là dân du thủ du thực không có nghề, viên Tổng đốc nói rằng họ cần an phận mưu sinh tại nội địa, chăm chỉ làm ăn, mới đúng theo lẽ. Nhưng do các Tổng đốc, Tuần phủ nơi biên giới, không coi trọng tình hình biên cảnh, khiến lần lữa ngày tháng.

Lý Thị Nghiêu là người đảm đang gánh vác công việc, trù tính tất có thể chu đáo; nay truyền dụ viên Tổng đốc lo liệu cách nào để việc phòng cấm xác thực liệu biện ỗn thỏa. Nhưng sự buông lỏng xẩy ra đã lâu, nay bắt đầu sửa đổi lại; nếu khẩn trương gấp rút sách nhiễu, sợ dân ngu dễ bị nghi hoặc kinh sợ; hãy nên đừng để lộ thanh sắc, từ từ thi hành, trì cửu theo phương sách chính yếu, thì công việc mới thực sự giải quyết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 982 trang 23-25)

Tuần vũ Quảng Tây, Hùng Học Bằng, tâu trình dân phu mỏ Trung Quốc gây sự tại xưởng Tống Tinh, Thái Nguyên [tỉnh Bắc Kạn ngày nay], bị quan lại An Nam can thiệp đánh đuổi:

Ngày 28 Giáp Thìn tháng 6 năm Càn Long thứ 40 [25/7/1775]. Dụ Quân cơ đại thần:

“ Hùng Học Bằng tâu ‘Cứ theo lời bẩm của phủ Thái Bình, tại xưởng Tống Tinh (4) An Nam, có bọn dân nội địa tên Trương Ðức Dụ, Lý Kiều Quang sinh hiềm khích dùng vũ khí đánh nhau; nghe rằng có quan Di mang binh đến can thiệp. Lại được quan Tổng đốc thông tri việc này, nên khẩn cấp điều tra liệu biện.’…...” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 985, trang 17-20)

Sau đó khoảng nữa tháng, Hùng Học Bằng tiếp tục tâu rằng tại ải Ðộng Long giáp giới tỉnh Cao Bằng, có 320 phu mỏ từ xưởng Tống Tinh trở về. Vua Càn Long muốn an sáp bọn này tại xứ Ô Lỗ Mộc Tề thuộc tỉnh Tân Cương để khỏi trốn về, và giúp định cư canh tác đất mới chiếm được:

Ngày 9 Giáp Dần tháng 7 năm Càn Long thứ 40 [4/8/1775]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Theo Hùng Học Bằng tâu: Tại ải Ðộng Long (5) có dân làm mỏ tại An Nam kéo về gồm 320 tên khai là dân Quảng Ðông , làm công sống qua ngày tại xưởng Tống Tinh. Nay do đám đông làm xưởng bị tan rã, bèn chạy về nước kiếm sống, hình thù tiều tụy giống như dân ăn mày. Hiện đã sai Tri phủ Triệu Do Thục chia giải đến tỉnh Quảng Ðông, để được Lý Thị Nghiêu thẩm xét lo liệu.

Giải quyết rất tốt, trong tấu triệp đã phê. Chúng là bọn vô loại, tự tiện vượt đến đất Di nước ngoài, mỗi ngày một nhiều, dễ sinh gây hấn, làm mối lo biên giới. Cứ Lý Thị Nghiêu, Hùng Học Bằng lần lượt tâu, tại xưởng Tống Tinh An Nam có người dân nội địa tên Trương Ðức Dụ gây đánh nhau, rồi quan Di mang quân đến can thiệp. Mấy lần ra chỉ dụ cho các viên Tổng đốc, Tuần phủ cùng nhau bàn bạc tìm cách ngăn cấm, không để cho trốn vượt tiếp; lại định chương trình mậu dịch, dụ rõ ràng cho viên quốc vương đúng thời điểm liệu biện ỗn thỏa. Lần này số người tại ải Ðộng Long chạy trở về, đều là người làm việc trong xưởng, số lượng đến trên 300 tên; vì do trước đây làm không tốt nên gây ra như vậy, theo Hùng Học Bằng thì đã cho áp giải đến Quảng Ðông thẩm vấn và liệu biện. Nay truyền dụ Lý Thị Nghiêu, cho thi hành thiết thực tra vấn, nếu như trong đó điều tra được bọn cấu kết với Trương Ðức Dụ, Lý Kiều Quang gây hấn, thì chiếu theo luật xử lý; nếu chỉ là hạng người không có chỗ kiếm ăn, chạy về nội địa, không can dự vào bọn phỉ, thì phân biệt an sáp. Nhưng bọn chúng là những người không yên bổn phận, nếu lưu tại Lưỡng Quảng lâu ngày, thì suy nghĩ cũ lại nỗi lên, khó chắc rằng không vượt biên đi lần nữa; chi bằng chia ra để an sáp tại các xứ như Ô Lỗ Mộc Tề (6), lệnh đóng đồn định cư canh tác thì tiện lợi cả hai. Lại lệnh Lý Thị Nghiêu  hiểu dụ  các phạm dân rằng các ngươi là dân nghèo du thủ du thực, khó kiếm ra miếng ăn, nay phát vãng đến Tân Cương trồng trọt, mỗi người có ruộng tốt cày cấy mưu sinh, được an cư lạc nghiệp; cần yên tĩnh giữ pháp luật, để đáp ứng với lòng nhân ưu cấp; nếu giữa đường hoặc lúc đến nơi, dám đào thoát thì lập tức bị truy nã, chiếu theo án phạm nhân tại Tân Cương bỏ trốn, bắt xử tử, các ngươi hãy lấy đó làm răn, đừng tự đi đến chỗ chết. Răn đe như vậy khiến cho các phạm nhân cùng biết mà cảnh giác; ngoài ra cần thông tri cho các Tổng đốc, Tuần phủ thuộc các địa phương trên đường giải phạm nhân, điều động quân hộ tống.

Ðem dụ này chuyển theo độ khẩn 400 lý một ngày [200 km] truyền cho Lý Thị Nghiêu tuân theo liệu biện, xong việc phúc tấu; cùng gửi bản sao tấu triệp của Hùng Học Bằng cho Lý Thị Nghiêu xem; lại dụ Hùng Học Bằng hay biết.” ( Cao Tông Thực Lục quyển 986, trang 10-12)                              

Nữa tháng sau Hùng Học Bằng tâu thêm rằng lại có hơn 1.100 tên phu mỏ từ An Nam trốn về tại 3 xứ Tiểu Trấn An, Bách Sắc, Qui Thuận thuộc tỉnh Quảng Tây. Với số lượng đông như vậy, nếu áp giải một lượt đến Ô Lỗ Mộc Tề xa xôi, sợ chúng bỏ trốn hoặc gây loạn, nên Vua Càn Long đề ra các biện pháp an ninh như chia ra từng toán nhỏ, không cho biết chỗ đến, các tỉnh trên đường đi phải lưu tâm canh phòng, kẻ bỏ trốn bị bắt xử tử ngay:

Ngày 19 Giáp Tý tháng 7 năm Càn Long thứ 40 [14/8/1775]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Trước đây cứ Hùng Học Bằng tâu: Có hơn 300 trăm người từ xưởng tại An Nam qua ải Ðồng Long trở về, đã chia ra rồi gửi đến Quảng Ðông cho Lý Thị Nghiêu thẩm vấn liệu biện.

Giải quyết tốt, đây là bọn người không yên bổn phận, nếu lưu tại Lưỡng Quảng lâu ngày, khó đoan chắc rằng không đào thoán lần nữa; nên đã ra lệnh cho Lý Thị Nghiêu tra vấn minh bạch, nếu trong đó có bọn phạm nhân cùng bọn Trương Ðức Dụ, Lý Kiều Quang gây hấn, thì trị tội nặng. Nếu chỉ là dân nghèo không kíếm ra miếng ăn, hỏi ra không có lý do nào khác, thi chia ra cho phát vãng đến các xứ tại Ô Lỗ Mộc Tề, lệnh tụ tập tại đó để trồng trọt mưu sinh. Nếu như bỏ trốn, khi bắt được chiếu theo lệ những phạm nhân phát vãng đến Tân Cương đào thoát, đem xử tử.

Nay theo lời Hùng Học Bằng tâu thêm rằng: Ba xứ Tiểu Trấn An, Bách Sắc, Qui Thuận (7) có hơn 1100 tên; nên sai quyền Án sát Chu Thăng Hoàn đích thân đến Nam Ninh, đôn đốc liệu biện. Việc làm tốt; mới đây Lý Thị Nghiêu tâu rằng số người nhiều, đường dài áp giải sợ có sơ suất; nên lệnh Tri đạo Hữu Giang Hoàng Bang Ninh đến tại Trấn An thẩm tra, trích ra những phạm nhân quan trọng giải về Quảng Ðông; đó cũng là biện pháp giản tiện. Nay số phạm nhân có hơn 1100 tên, so với trước hơn gấp 3, giải đến tỉnh Quảng Ðông càng không dễ; viên Tuần phủ đã đích thân đến xứ này, lại có cả quyền ty Niết (8) tại nơi gần đó thẩm tra, như vậy càng thêm đỡ mệt sức. Duy số người quá đông, lưu tại đất đó càng bất tiện; cần phải phân phát đến các xứ tại Ô Lỗ Mộc Tề trồng trọt, để không gây hậu hoạn một lần nữa.

Nhưng bọn phỉ này phần lớn thuộc loại du thủ du thực, tụ tập một nơi, không thể không lưu tâm đề phòng; nếu cho chúng biết bị phát vãng đến Tân Cương, chúng sợ phải đi xa, tìm cách gây hấn. Cần cư xử trấn tĩnh, làm coi như không có chuyện gì, chớ lộ vẽ khẩn trương; lúc chia ra để áp giải, chỉ nói là phân phát đến tỉnh bên cạnh an sáp, để có đủ cơm áo. Khiến cho tâm lòng chúng không nghi, bảo phái viên quản giải trên đường giải thích cho chúng biết rằng Hoàng thượng vì các ngươi mà trù hoạch sinh kế, khiến mọi người có đủ ăn, an cư lạc nghiệp, đây là điều phúc cho các ngươi; nếu không tự thương mình, lo giữ pháp luật, trên đường đi tìm cách bỏ trốn, thì sẽ bị bắt tức thời rồi chiếu theo lệ trị người bỏ trốn tại Tân Cương đem xử tử ngay, các người đừng để phải xử hình phạt đó. Chờ khi rời phủ Trấn An khá xa, không thể trốn về được; mới cho biết rõ sự thực; cách làm như vậy, tương đối ỗn thỏa hơn.

Nay truyền lệnh Hùng Học Bằng, cần điềm tĩnh đừng để lộ thanh sắc, lo liệu một cách ỗn thỏa, chớ tỏ vẽ khẩn trương. Nhưng cần thông tri cho các Tổng đốc, Tuần phủ các địa phương trên đường đi qua, để mang quân hộ tống. Lại báo cho Ðô thống Ô Lỗ Mộc Tề, đợi khi các phạm nhân được giải tới, cho an trí các nơi tại Ô Lỗ Mộc Tề để trồng trọt; đừng để tụ tập tại một nơi gây sự. Ðưa dụ này theo độ khẩn 500 lý một ngày [250 km] truyền cho Lý Thị Nghiêu, Hùng Học Bằng hay biết, sao gửi tấu triệp của Hùng Học Bằng để Lý Thị Nghiêu duyệt khán; mỗi người hãy đem tình hình đã liệu biện tâu lên.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 987, trang 6-8)

Đến tháng 8, Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu tâu số dân xưởng mỏ từ An Nam trở về lên đến trên 2000; Vua Càn Long nhận xét địa phương Ô Lỗ Mộc Tề  không thể định cư hết  số lượng đông như vậy, nên phải nghĩ đến giải pháp khác. Ngoài ra Quốc vương An Nam đã cho bắt và giải đến 18 tên thủ phạm, tòng phạm, trong vụ gây rối tại xưởng mỏ Tống Tinh; đề nghị bọn chúng được khoan dung, miễn bị tra cứu. Càn Long lại sai Quân cơ đại thần soạn thay cho Tổng đốc Lưỡng Quảng thư trả lời An Nam, nội dung từ chối lời xin của Quốc vương, phải chiếu theo luật để nghiêm trừng, nhắm cảnh giới trong tương lai, không muốn bọn phỉ lại trở lại quấy nhiễu An Nam nữa. Kết quả triều đình nước ta đã khéo léo nương theo chính sách của nhà Thanh nghiêm khắc với dân sống bất hợp pháp tại nước ngoài; nhờ đó có thể trục xuất người Hoa một cách ỗn thỏa,  làm lợi cho đất nước:

Ngày 8 Quí Mùi tháng 8 năm Càn Long thứ 40 [2/9/1775]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Trước đây theo lời tâu tiếp của Hùng Học Bằng cho biết bọn dân làm mỏ từ An Nam trốn về Tiểu Trấn An có đến trên 1000 tên, số lượng so với lần đầu tăng thêm hơn 3 lần; càng bất tiện lưu lại đất này. Nên đã ra chỉ dụ cho các viên Tổng đốc, Tuần phủ đem bọn dân xưởng mỏ phân phát đến Ô Lỗ Mộc Tề; nhưng hiểu dụ rằng chớ cho biết rõ nơi sẽ đến sinh sống, thì công việc mới ỗn thỏa. Nay cứ lời tâu của Lý Thị Nghiêu: Dân trốn trở về, hiện đã lên đến trên 2000 người, nghiêm xét những phạm nhân chính yếu gây chuyện thì trị tội nặng; nếu thuộc loại buôn bán, làm công tại nơi phụ cận, thì điều tra rõ rồi cho trở về quê, giải giao cho quan địa phương để nghiêm khắc quản thúc.

“ Việc liệu biện chưa ỗn thỏa, do bởi khi Lý Thị Nghiêu gửi tấu triệp này thì vẫn chưa nhận được 2 chỉ dụ mới gửi trước đây, nên mới tâu như vậy. Bọn phỉ này, phần lớn là du thủ du thực, không yên bổn phận; nếu cho chúng ở lại quê nhà, nhưng bọn chúng đã quen đường đi An Nam, lâu ngày rồi cũng tìm cách trốn đến đất Di để gây sự. Duy về số lượng lên đến trên 2000 thì quá nhiều, một vùng Ô Lỗ Mộc Tề cũng không dung nỗi số giặc phỉ như vậy; lại về việc áp giải dọc đường, do số lượng đông lo liệu cũng không dễ, đáng phải phân biệt ra cho ỗn thỏa.

Nhưng công việc quan hệ như vậy, sợ một mình Hùng Học Bằng không quản lý nỗi; nay truyền Lý Thị Nghiêu cấp tốc đến tỉnh Quảng Tây, điều tra kỹ dân trốn về. Nếu tại An Nam gây chuyện, không tuân theo pháp luật, thì chiếu theo lệ có biện pháp; trường hợp trong đó có bọn ngu ngốc không có khả năng, hoặc bà con có sản nghiệp có thể dựa được, thì cho trở về quê để quan địa phương nghiêm thi hành quản thúc; lệnh tại địa phương cày cấy làm mướn sinh sống, không được xuất cảnh gây chuyện một lần nữa, sau này nếu vi phạm, thì tội thêm nặng. Nếu chỉ có một mình, không có ai nương nhờ, thì quyết không thể lưu tại quê, khiến cho sau này lại nãy ý đi theo đường cũ. Lý Thi Nghiêu cần cho gia tăng khám xét quan sát cho kỹ, kẻ hình dáng có vẽ hung hãn, cho phát vãng đến các xứ Ô Lỗ Mộc Tề, lệnh ra sức làm đồn điền. Ðối với những kẻ nhân tuần, yếu đuối, thì ước lượng cho an sáp tại các tỉnh trong nội địa để mỗi người được mưu sinh; nhưng không được an sáp tại các tỉnh dọc theo đường chính, biên cương, hoặc giáp giới với Lưỡng Quảng, đề phòng cho sau này không thể trốn tránh gây sự.

Lại lúc bắt đầu giải đi, dụ một cách rõ ràng rằng đây là do chiếu chỉ đặc ân, do các ngươi nghèo khổ không nơi nương dựa, bèn ban cho ruộng đất để tự mưu sinh, không phải là bị đày. Lại ra lệnh cho các nhân viên giải tống đề phòng ỗn thỏa, đừng để đào thoát dọc đường; nếu có tên nào trên đường đào thoát, ngay trong ngày bắt được, chiếu theo lệ người bị đày đến Tân Cương bỏ trốn đem xử tử. Tại các nơi gần biên giới, phải nghiêm mật phòng bị, ước định kế hoạch toàn thiện, không được phép lại có người trốn tới An Nam gây chuyện. Lý Thị Nghiêu sắp xếp ỗn thỏa, hãy phúc tấu ngay. Ngày khởi hành đến Quảng Tây đầu tiên thi hành theo chiếu chỉ này, hãy tâu cho biết. Lúc Lý Thị Nghiêu chưa đến nơi, Hùng Học Bằng cần xử sự trấn tĩnh, không thể vì người nhiều, chuyện lớn rồi đâm ra hoảng hốt. Còn điều xưng rằng ‘ Quốc vương An Nam bắt được và cho giải đến gồm thủ phạm bọn Trương Ðức Dụ 3 tên, và bọn Trương Học Xương 15 tòng phạm; hiện giao cho đạo Tả Giang tiếp thu, để giải đến tỉnh Quảng Ðông.’

“ Sự việc cần chiếu theo luật lệ mà làm, không được bỏ qua một chút nào. Nếu như đã giải ngay đến Quảng Ðông, thì hãy giam cấm tại tỉnh này để có biện pháp riêng; bất tất vì Lý Thị Nghiêu hiện đến tỉnh Quảng Tây, rồi lại giải trở lại. Nếu vẫn chưa giải, thì đợi Lý thị Nghiêu đến, rồi cùng thẩm biện một lần. Nhưng hiện nay tại vùng Nam Ninh, các phạm nhân trốn về đều tụ tập tại đó, vậy những phạm nhân đầu sỏ, không nên giải đến đó, khiến cho số còn lại đâm kinh ngờ; lệnh Lý Thị Nghiêu hãy tìm một phủ dọc đường, đem chúng giam cấm nghiêm nhặt; đợi đến khi liệu biện xong mọi việc ỗn thỏa trở về, lại thẩm xét bọn này một lần nữa.

Lại trong tờ tư của Quốc vương An Nam ‘ Cầu xin cho bọn này được dung thứ miễn trị tội.’ Tuy do viên Quốc vương có ý tốt, nhưng dân nội địa vượt biên giới gây chuyện, đáng phải ràng buộc bởi pháp luật nội địa, không tiện khoan giảm. Ðáng dùng hịch này, để viên Quốc vương biết rằng Thiên triều có đủ uy đức, không giả tá chút nào; hiện ra lệnh Quân cơ đại thần thay Lý Thị Nghiêu soạn bản thảo như sau:

‘ Tiếp được viên Quốc vương gửi tờ tư đến, cùng đem bọn 3 thủ phạm gây sự tại xưởng là Trương Ðức Dụ, Cổ Vũ Thang, Lý Kiều Quang, và 15 tên a tòng giải đến quan ải. Trong tư văn thanh minh rằng bọn phạm nhân đã nhận tội, giao nạp khí giới, nghe theo sự phân xử; lại xưng bọn đi theo là những người làm ăn, không sinh sự; khi đến cửa khẩu để trở về quê quán tuân theo pháp luật, xin được khoan dung, miễn bị tra cứu.

Mỹ ý của Quốc vương, muốn xin dùm cho được thương xót; duyệt qua tờ tư rất vui lòng; tuy nhiên chúng là dân nội địa vượt biên giới gây sự, luật của triều đình đã có điều khoản rõ ràng, khó có thể giảm nhẹ. Không những 18 tên thủ phạm bị bắt cần dựa theo luật trừng trị nặng; đối số còn lại trốn trở về, Bản bộ đường hiện đích thân đến vùng gần tỉnh Quảng Tây nghiên cứu cặn kẻ sự việc, nếu trong đó còn có những kẻ phụ họa với thủ phạm làm điều trái pháp luật, thì vẫn y theo luật trừng trị. Ðối với bọn ô hợp, nghe tin bị nã bắt thì tan hàng; tuy đối với bọn cầm vũ khí chống lại thì có khác, nhưng đã đến ngoại quốc gây sự thì không thể không hỏi. Nay Bản các, Bản bộ đường cùng tra vấn, xem tình tiết khinh trọng; phân biệt cho quản chế tại nội địa, vùng ngoài biên, hoặc trở về quê quán; để khỏi sinh sự một lần nữa, nếu kẻ nào vi phạm sẽ bị trị tội thêm gấp bội; nội dung sẽ tâu lên đại Hoàng đế, để chờ chiếu chỉ chấp thuận cho thi hành.

Nội dung pháp độ Trung Quốc không có một chút nào giả tá, không thể theo lời xin của Quốc vương, mà uốn cong pháp luật chiều theo tình riêng. Vả lại lý do bản Các, Bộ đường chiếu theo luật để nghiêm trừng, nhắm cảnh giới trong tương lai, không muốn bọn phỉ lại trở lại quấy nhiễu, đó là ý bảo hộ nước ngươi. Viên Quốc vương nên thể theo thâm tâm của bản Các, Bộ đường chấp pháp nghiêm nhặt.

Tái bút: Bản Các, Bộ đường hiện tại định nghiêm chương trình, không cho phép dân nội địa lại đến biên cảnh Quốc vương cư trú gây chuyện; từ nay trở về sau nếu có dân chúng tại biên thùy ngầm vượt biên giới đến cư trú, viên Quốc vương nên tùy lúc báo cho biết, để tiện ban hịch giải giao để trừng trị, thì công việc càng thêm ỗn thỏa.’

“ Nay giao bản cảo này cho viên Tổng đốc, hãy chép lại rồi gửi cho viên Quốc vương, lại đưa nguyên văn tờ tư của An Nam trả về cho viên Tổng đốc lưu giữ. Gửi theo độ khẩn 600 lý một ngày [300 km.], truyền dụ để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 988 trang 12-17)

Cuối cùng phu mỏ tại An Nam đào thoát trở về nước được điều tra phân loại xong; Tổng đốc Lưỡng Quảng xin cho đày đến Tân Cương 156 tên thuộc loại hung hãn gây sự; số còn lại hoặc an sáp tại 4 tỉnh Giang Tô, An Huy, Chiết Giang, Hà Nam; hoặc bà con có thể nương dựa được, thì cho đưa về nguyên quán ra lệnh quản thúc:

Ngày 2 Bính Tý tháng 10 năm Càn Long thứ 40 [25/10/1775]. Dụ Quân cơ đại thần:

Lý Thị Nghiêu tâu về vụ án dân làm mỏ tại An Nam đào thoát trở về ‘ Ngoại trừ loại hung hãn gây sự gồm 63 tên, nên phát vãng Y Lê [Tân Cương], cấp đất làm tôi tớ cho quân lính, đợi xét rõ sẽ phân biệt biện lý; số bị đuổi tại xưởng, tung tích hung dữ, phát vãng đến các xứ Ô Lỗ Mộc Tề [Tân Cương] để ra sức đồn điền, gồm 93 tên. Bọn buôn bán nơi phụ cận, nghe hơi tình hình rồi bỏ trốn, thuộc loại đơn chiếc không có kẻ nương nhờ; ước lượng phát vãng đến Giang Tô 240 tên, An Huy 180 tên, Chiết Giang 240 tên, Hà Nam 147 tên; báo tin cho các Tuần phủ địa phương phân tán đến các phủ huyện an sáp để tự mưu sinh. Số người mà bà con có nghề nghiệp có thể dựa được, gồm 280 cho giải về nguyên quán, ra lệnh quan địa phương gia tăng quản thúc.’

Việc liệu biện rất tốt, cứ theo sự phân biệt như vậy mà phát vãng....” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 992, trang 4-5).

Sau khi an sáp xong phu mỏ từ An Nam đào thoát trở về nước, và đóng cửa ải Do Thôn khiến việc buôn bán giữa hai nước bị đình trệ; nhà Thanh đề xuất chọn một địa điểm tại biên giới để buôn bán chung. Nhưng phía An Nam không muốn người Hoa ra vào, nên từ chối rằng 4 tỉnh giáp giới thực không có thổ sản để buôn bán chung:

Ngày 22 Ất Mùi tháng 11 năm Càn Long thứ 40 [12/1/1776]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Cứ theo lời tâu của Lý Thị Nghiêu ‘Tiếp nhận lời phúc đáp của An Nam rằng 4 tỉnh giáp giới của nước này, thực không có thổ sản để buôn bán chung. Hiện đã phúc đáp cho đình chỉ việc buôn bán.’

Bọn gian xuất cảnh buôn bán là đầu mối gây sự, vốn nên cấm chỉ. Huống hồ mới đây có bọn Trương Ðức Dụ khai mỏ tại An Nam gây án giết người, rồi dân chạy trốn trở về nội địa rất nhiều; không thể không chỉnh đốn việc biên phòng, hạch hỏi cấm chỉ. Còn việc định ngày buôn bán chung, vốn lo An Nam có thể trông nhờ đồ vật của nội địa, khó có thể ngăn cấm hoàn toàn; nên ra lệnh viên Tổng đốc lấy ý riêng thông tri bàn luận với viên Quốc vương, rồi trình lên để liệu biện.

Nay viên Quốc vương cho rằng buôn bán chung không tiện, như vậy thì bọn gian thương không thể lợi dụng trốn vượt, biên cảnh càng thêm nghiêm túc thanh sạch. Cần nghiêm sức các quan văn võ dọc đường biên giới ra sức kê tra, không để cho một người trốn vượt. Lại nên bảo viên Quốc vương nhất thể lưu tâm, nếu như có dân nội địa ngầm đến nước này, hãy tróc nã trình tống. Viên Tổng đốc đã liệu biện rất chu toàn ỗn thỏa, nay lệnh Quân cơ đại thần thay mặt soạn bản thảo tờ  hịch, sai viên Tổng đốc dụ nước này như sau:

‘ Về vụ án dân nội địa tên Trương Ðức Dụ tụ đám đông gây sự tại xưởng Tống Tinh, nước ngươi đã giải đến thẩm vấn; lại còn số khác lục tục trốn về rất nhiều, đều được bản Các, Bộ đường tâu lên rõ ràng để phân biệt nghiêm trừng. Nhân dân nội địa vốn không được phép ngầm vượt biên cảnh; huống gì Quốc vương được tiếng cung thuận, thì cái bọn không yên bổn phận càng không được quấy nhiễu tại vùng đất ngươi, nên đã nghiêm sức cho các viên chức cấm chỉ nhân dân xuất khẩu. Nhưng chỉ lo cho nước ngươi, hoặc có nơi ngưỡng vọng hàng hóa của Trung Quốc, nếu ra lệnh cấm triệt để, khiến cho việc sinh hoạt tại nước ngươi có phần bất tiện. Do đó bản Các, Bộ đường nghĩ ra việc cho nhân dân tại biên giới buôn bán chung, khiến việc mậu dịch tại nước ngươi có chỗ nhờ; vậy trong sự điều chỉnh cũng có ý thể tuất; nhân đó gửi văn thư cho viên Quốc vương bảo tra xét tình hình tại xứ ngươi, rồi phúc trình. Gần đây qua lời phúc tấu của viên Quốc vương xưng rằng ‘ Nơi biên giới tục dân hủ lậu, không cần đến hàng hóa quan trọng của Trung châu; phép hỗ thị chỉ đặt không vậy thôi, trù tính cặn kẽ thì thấy không tiện.’ Nước ngươi không cần việc đưa hàng hóa buôn bn chung với nội địa; nếu vậy thì biên cảnh được nghiêm túc tảo thanh, đối với nước ngươi càng thêm hữu ích; bởi vậy ban hịch để phúc đáp. Nay đã nghiêm sức các quan văn võ binh lính ra sức tuần tiễu kê tra, không cho phép một người xuất khẩu, lại thông sức vĩnh viễn tuân hành. Lần này sau khi tra cấm, nếu còn có bọn phỉ ngầm trốn vượt đến nước ngươi lưu trú, viên Quốc vương hãy cho điều tra bắt giải tống, bản Các, Bộ đường sẽ chiếu theo pháp luật trừng tri; bọn gian ắt phải tuân sợ, biên cảnh của người sẽ được vĩnh viên an ninh; viên Quốc vương hãy tuân theo, đừng để sơ hốt.’

“ Ðem truyền dụ Lý Thị Nghiêu hay biết, cùng chép nguyên văn mà phát vãng.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 997, trang 15-17).

Trong sử liệu chép vào tháng 2 nêu trên [2/3-30/3/1775] cho biết Nguyễn Nhạc và Lý Tài mưu giết Tập Đình; Tập Đình mang nhiều châu báu của cải chạy về quê tại Quảng Đông, Trung Quốc. Sau đó vào cuối năm, việc Tập Ðình và đồng bọn trốn về nước, đã đến tai vua Càn Long; trong văn bản Thanh Thực Lục cái tên Tập Ðình dùng tại An Nam, được đổi lại theo tên chính thức của y tại quê hương Triều Châu, Quảng Ðông là Lý A Tập [李阿集]. Nhắm phúc đáp lời tâu của Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu về vụ án Lý A Tập và đồng đảng; vua Càn Long đích thân đề ra biện pháp xử lý, cùng tỏ ra lưu tâm đến việc tịch thu tài sản bọn chúng cướp được tại Thuận Hóa, An Nam:

Ngày 7 Canh Thìn tháng 11 năm Càn Long thứ 40 [28/12/1775]. Lại dụ:

Bọn Lý Thị Nghiêu tâu: ‘ Lại bắt được Lý A Tập [李阿集] ngầm vượt đến An Nam gây chuyện, trong vụ án có bọn Lưu A My, Tôn A Hiển, 9 tên. Cùng tại trang viên của tên tội phạm A Kỳ, thuộc vùng trang trại của A Nhiễm; tìm ra một quyển sổ ghi 72 tên tội phạm, người tại vùng Triều Châu. Hiện tại sai Ủy viên, chiếu theo tên mà tróc nã; rồi giải đến tỉnh phúc thẩm, định tội.’

Bọn phỉ này dám từ đất Quảng Ðông ngầm vượt đến An Nam nhận chức quan của ngụy, đúng là loại không tuân pháp luật. Nếu trên biển cướp đoạt tài sản, hoặc hung ác giết người; đáng tróc nã gấp để xử tội nặng. Nếu chỉ nấn ná tại nước ngoài gây chuyện, rồi sợ tội trốn trở về; không như tên Trương Trọng Trung tại tỉnh Tứ Xuyên, trốn cùng quân nội địa, rồi trở thành kẻ chủ mưu; thì có thể khoan hồng giảm cho tội chết. Nay truyền dụ cho Lý Thị Nghiêu, khi bắt được các phạm nhân; ngoại trừ gia sản của chúng, cùng những vật kiện vàng bạc cướp được tại Thuận Hóa, thì điều tra rõ rồi đem nạp quan; lại đem các phạm nhân ra tra tấn, nếu như phạm tội cướp của giết người, thì thẩm vấn minh bạch rồi xử tử. Số còn lại hạch hỏi kỹ tình tội, những kẻ hơi nặng phát vãng đến Y Lê, Ách Lỗ Ðặc (9) làm nô lệ; tội ít hơn thì phát vãng đến các xứ Ô Lỗ Mộc Tề làm nô lệ cho quân lính. Loại tối nhẹ thì phân phát đến các tỉnh an sáp, nhưng không được cho lưu tại quê nhà, khiến lâu ngày nãy ý đi theo con đường cũ. Những kẻ lúc giải đi mà đào thoát, bắt được lập tức cho xử tử tại chỗ. Ðem dụ này theo độ khẩn 400 dặm 1 ngày [200 km.], truyền dụ để hay biết.” (Cao Tông Thực Lục quyển 996, trang 12-13)     

Tiếp tục nhận được tờ tâu thứ hai của Lý Thị Nghiêu, trình lên những người có công trong vụ bắt Lý A Tập và bè đảng, vua Càn Long khen lao và đòi hỏi phải đưa những nhân viên này lên bộ, dẫn gặp mặt trực tiếp. Phải chăng Càn Long cho rằng đây là vụ án lớn, có nhiều đồ quí giá tịch thu được, nên phải dẫn các viên chức phụ trách vụ án đến kinh đô Bắc Kinh xa cách hàng vạn dặm, để hỏi han cho rõ ràng, tránh sự che dấu của thuộc cấp:

Ngày 9 tháng 12 năm Càn Long thứ 40 [29/1/1776]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Cứ lời tâu của Lý Thị Nghiêu qua tấu triệp nội dung  ‘Theo lời bẩm báo của doanh Hải Khẩu, Tham tướng Vương Trung Lập về việc bắt được các phạm nhân cướp biển; Tuần kiểm Lưu Dục Tú bắt được đầu sỏ giặc Hồng A Hán, cùng tra cứu việc bọn Lý A Tập lén vượt biên đến nước Phiên bên ngoài, nhận chức tước ngụy.’

Việc liệu biện rất tốt; họ Lê, Nguyễn tại An Nam hai bên cừu địch, cùng Nguyễn Ông Cổn [Nguyễn Nhạc] đầy tham vọng; hãy xếp lại đó không bàn. Còn như bọn Lý A Tập là dân nội địa, to gan dám vượt biên ra nước Phiên bên ngoài; nhân cảnh nội chiến, nhận chức ngụy, thực thuộc loại không tuân pháp luật quá lắm; đáng phải cấp tốc thẩm vấn minh bạch, xử theo tội nặng. Những đồ vật vàng bạc chúng cướp đoạt được, cùng tài sản các phạm nhân hiện đang gửi dấu, đều phải điều tra minh bạch, tịch thu nạp vào cửa quan. Còn như binh đinh Quách Anh Lý nhận hối lộ, thu vén gửi cho người đàn bà nước Phiên, thực trái pháp luật, đáng tra tấn xử tội nặng. Các địa phương tại duyên hải, nếu gặp bọn dân gian tại biển gây sự; các quan văn võ lưu tâm quan sát điều tra, bẩm báo đúng lúc, nghiêm cách tróc nã tra xử, thì bọn nhỏ bé tự nhiên phải nghe tiếng mà rụt lại; nơi cương giới ven biển chẳng mấy lúc trở nên ninh thiếp.

Tỉnh Quảng Ðông liệu biện vụ án này, thấy được ngày thường đã tuần phòng nghiêm mật. Những viên chức đã tra bắt được bọn cướp như Tham tướng Vương Trung Lập, Tri huyện Uông Cấu, Tuần kiểm Lưu Dục Tú, cùng Phòng hộ gian dân Phó tướng Ngô Bản Hán, cùng các Tri huyện Hứa Hiến, Nhậm Quả thẩm tra truy nã dân gian dân; đều là những người trung thực được việc. Nay ra lệnh cho bọn Tổng đốc hỏi han khảo sát, rồi dẫn lên bộ để gặp. Ðem dụ này theo độ khẩn 400 dặm 1 ngày [200 km] để truyền hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 998 trang 15-16)

Rồi các phạm nhân từ An Nam trở về tỉnh Phúc Kiến cung khai thêm, vua Càn Long đòi hỏi Lý Thị Nghiêu phải điều tra tiếp. Riêng về của cải châu báu tịch thu được, trong văn bản xác nhận triều đình chỉ mới nhận được ngọc quí Bình Ðịnh Ngọc Phù, còn các loại khác thì qui định rằng vàng và châu báu thì đem nạp triều đình, bạc nén đưa vào ngân khố tỉnh, riêng tài sản nặng cùng ruộng đất được đem bán hóa giá:

Ngày 19 Nhâm Tuất tháng 12 năm Càn Long thứ 40 [8/2/1776]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Hôm nay bọn Chung Âm tâu‘ Bọn Lý A Tập tại An Nam nhận chức ngụy từ Nguyễn Ông Cổn Nguyễn Nhạc, dùng binh gây sự. Căn cứ vào bọn Âu Thịnh Tổ, Vương Tứ Hải từ An Nam trở về đất Mân [Phúc Kiến], rồi bị bắt khai rằng: Họ Lê tại An Nam trú tại Ðông Kinh, vốn triều cống và được triều đình ta phong tước hiệu. Phía tây nam nước này, vốn bị họ Nguyễn chiếm cứ. Gần đây vương họ Nguyễn mất, người con thứ nối dõi; có Nguyễn Nhạc, tức Nguyễn Ông Cổn, tự xưng là Tây Sơn vương, lấy danh nghĩa trừ gian, lập dòng đích. Y chiêu tập dân nội địa là bọn Lý A Tập, Lý A Trí, chia quản binh mã thuyền bè, tranh đoạt các nơi; lại lừa dối dân Phiên sai khiến nhận chức. Rồi Vương Ðông Kinh [Vua Lê] sai viên Quốc lão (10) mang quân đánh, Nguyễn Nhạc thua bại, bọn Lý A Trí, Lý A Tập chia nhau trốn tránh.’

Án này trước đây đã được Lý Thị Nghiêu lần lượt tấu báo rằng đã bắt được bọn tội phạm, tra tấn lấy cung đều xưng Nguyễn Nhạc chiêu tập dân Phiên, dấy binh gây sự, cuối cùng binh bại người tan; không nói đến việc Vương Ðông Kinh sai quốc lão mang binh đánh nên thua. Nay bọn Âu Thịnh Tổ tại tỉnh Mân cung khai về sự tình, so với nguyên cung từ Quảng Ðông không phù hợp. Hai họ Lê, Nguyễn từ trước đến nay vốn không hòa mục; nay họ Nguyễn gây hấn với nhau, vốn không liên quan đến họ Lê, vậy Vương họ Lê không đáng phải mang binh công kích. Hoặc giả họ Lê thừa cơ họ Nguyễn có nội chiến, mượn tiếng hưng binh dẹp loạn, hy vọng thôn tính đất này để trừ hậu hoạn, cũng không chừng? Về vụ án bọn Lý A Tập hiện còn tại Quảng Ðông, lệnh Lý Thị Nghiêu lập tức cho thẩm vấn thêm rõ, nhắm được tình tiết xác thực, sao lục cung từ tâu lên.

“Tái bút: Tra xét các vật Lý A Tập cướp được tại thuyền trong đó có Bình Ðịnh ngọc phù được trình tiến, ngoài ra có hay không các vật trân quí khác, cùng với các tài sản cộng lại được bao nhiêu, thì chưa tâu đến. Lệnh Lý Thị Nghiêu, lại cho tra rõ lần nữa, trong số tài vật của Lý A Tài như các loại vàng, châu ngọc; phải tâu rõ giải giao về kinh đô; riêng bạc lượng tồn trử tại tỉnh nhập vào cửa quan lưu dùng; các vật thô nặng và ruộng đất tài sản thì hóa giá sung công. Nay đem gộp các văn kiện, truyền dụ để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 990, trang 15-16)

Chú thích:

  1. Ải Do Thôn: tại biên giới, giữa huyện Ninh Minh tỉnh Quảng Tây và huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay.

2.Quan ải Bình Nhi: tại biên giới huyện Tràng Ðịnh tỉnh Lạng Sơn, chỗ sông Kỳ Cùng chảy sang Trung Quốc.

3.Quan ải Thủy Khẩu: tại biên giới huyện Phục Hòa tỉnh Cao Bằng, nơi sông Bằng chảy sang Trung Quốc.

4.Xưởng Tống Tinh: Theo Ðai Nam Nhất Thống Chí (bản dịch tập 4, trang 208) châu Bạch Thông tỉnh Thái Nguyên, có mỏ bạc Tống Tinh . Nay thuộc huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Cạn.

5.Ải Ðộng Long: tại châu Tiểu Trấn An, tỉnh Quảng Tây; giáp với thôn Quì, tỉnh Cao Bằng.

6.Ô Lỗ Mộc Tề: hiện nay là thủ phủ tỉnh Tân Cương, thuộc phía tây bắc Trung Quốc.

7.Các châu Tiểu Trấn An, Bách Sắc, Qui Thuận đều thuộc phủ Trấn An, tỉnh Quảng Tây.

8.Quyền ty niết: chỉ quyền Án sát.

9.Ách Lỗ Ðặc tức Ngạch Lỗ Ðặc, tên một bộ lạc Mông Cổ xưa, nay thuộc tỉnh Tân Cương.

10.Quốc lão: chỉ Hoàng Ngũ Phúc, danh tướng của chúa Trịnh

Bình luận về bài viết này