Đoạn kết bi thảm của gia đình Sa Hoàng Romanov (Bài 3)

NHÀ ROMANOV – Chương Cuối

ROBERT K. MASSIE

Trần Quang Nghĩa dịch

5 Ngoại trưởng Baker

 

Vào tháng 2 năm 1992, Ngoại trưởng Hoa Kỳ James A. Baker III, trong năm cuối nhiệm kỳ, đã đi công du khắp Liên Xô cũ. Trong ba năm làm việc cho Tổng thống Bush, Liên Xô đã tan rã thành vô số quốc gia độc lập, tất cả đều mong muốn thu hút người Mỹ. đầu tư vốn và chuyển trao bí quyết công nghệ. Do đó, Baker đã được chào đón nồng nhiệt tại Moldova, Armenia, Azerbaijan, Turkmenistan, Tajikistan, Uzbekistan – và dĩ nhiên, cả Nga. Ngày 14 tháng 2, chiếc Air Force 707 màu xanh trắng của ông đã hạ cánh xuống Ekaterinburg, điểm dừng chân cuối cùng trước khi đến Moscow. Thực tế, việc ghé thăm Ekaterinburg không phải là lý do chính cho chuyến dừng chân này. Baker đang trên đường đến một trung tâm nghiên cứu hạt nhân bí mật, được gọi là Chelyabinsk 70, cách đó một trăm dặm về phía nam. Việc Baker đang đến đã đo lường khoảng cách xích lại gần nhau mà hai siêu cường vừa đi qua. Trong nhiều thập kỷ, Chelyabinsk 70 được coi là bí mật đến mức toàn bộ thành phố nhỏ được bao quanh bởi hàng rào thép gai cao ngất và tháp canh. Nhiều dặm xung quanh, vùng nông thôn vắng tanh không một bóng người. Mục đích chuyến thăm của Baker là để xem những nhà khoa học Nga từng chế tạo vũ khí hạt nhân giờ đây đang sử dụng công nghệ của họ để sản xuất ra kim cương nhân tạo; điều này được giới thiệu với người Mỹ như một minh chứng đáng tin cậy của Nga về khả năng chuyển đổi năng lực gây chiến trước đây sang mục đích hòa bình. Theo đó, Baker, các nhân viên của ông và một nhóm phóng viên Mỹ đã đến Chelyabinsk 70, vị Ngoại trưởng đã nói chuyện với các nhà khoa học, và sau đó đoàn Mỹ trở về Ekaterinburg để qua đêm.

Sáng hôm sau là thời gian mà Bộ Ngoại giao gọi là “xả hơi”; nghĩa là không có nơi nào chính thức phải đi và cũng chẳng có việc gì chính thức phải làm. Tổng thống Yeltsin, người mà Baker dự kiến ​​sẽ gặp ở Moscow, đến chiều mới trở về thủ đô Nga và không muốn Baker đến trước ông. Tình cờ thay, Margaret Tutwiler, người phát ngôn chính của Baker, đã mong chờ một buổi sáng rảnh rỗi ở Ekaterinburg. Tutwiler đã quan tâm đến gia tộc Romanov trong nhiều năm, và bà đã đọc rất nhiều về chủ đề này. Bà biết rằng Nhà Ipatiev đã bị phá hủy, nhưng bà vẫn hy vọng có thể đến thăm hiện trường. Trước khi đến thành phố, bà đã đề cập điều này với Ngoại trưởng Baker.

Sau khi trở về từ Chelyabinsk 70 vào tối hôm trước, Baker đã ăn tối với Thống đốc Edvard Rossel trong căn hộ nhỏ của gia đình ông. Baker, bản thân cũng là một thợ săn, đã rất ngưỡng mộ khẩu súng săn của Rossel và chiếc đầu nai sừng tấm lớn treo trên tường. Ông đã lắng nghe Rossel mô tả về những cơ hội kinh doanh hấp dẫn đang chờ đợi người Mỹ ở khu vực này của dãy Ural. Rồi, như đã hứa với Margaret Tutwiler, vị Ngoại trưởng đã hỏi về việc đi tham quan địa điểm Nhà Ipatiev. Vâng, tất nhiên rồi, Rossel đã trả lời, và nếu ngài quan tâm đến gia tộc Romanov, sao không đến xem hài cốt của họ? Baker đã hỏi liệu mình có thể dẫn thêm một người nữa không.

Sáng hôm sau, Baker và Tutwiler tháp tùng Rossel đến địa điểm Ipatiev. “Tuyết phủ đầy mặt đất, hoa cẩm chướng đỏ và trắng nằm dưới chân cây thánh giá bằng bê tông, và mọi người đến thắp nến”, Tutwiler nhớ lại hai năm sau. Baker đã đi đến cây thánh giá, cúi xuống và chạm vào nó với một bàn tay đeo găng. Sau đó đoàn đã lái xe đến nhà xác hai tầng nơi hài cốt được giữ lại. Alexander Avdonin đã chờ ở đó, và Rossel đã giới thiệu ông ấy.

Các khách tham quan đã xem trình diễn cách chồng hình bằng máy tính và sau đó nhìn ngắm các bộ xương. Baker nhặt lên xem kỹ một trong những đoạn xương của Nicholas II. Bản chất khác thường của tình hình được  ông ấy cảm nhận rõ. Vào đầu năm 1994, ngồi trong văn phòng luật sư của mình ở Washington, ông hồi tưởng lại cảm xúc: “Có một cảm giác lịch sử thực sự trong căn phòng đó. Khi chúng tôi – chính quyền Bush – nhậm chức, chúng tôi vẫn phải đối mặt với mối đe dọa đến sự tồn vong của mình từ Liên Xô và khả năng hủy diệt Hoa Kỳ bằng chiến tranh hạt nhân. Tôi nhớ chúng tôi đã thận trọng như thế nào trước Liên Xô, ngay cả vào tháng 5 và tháng 6 năm 1989. Vậy mà, chỉ ba năm sau, một ngoại trưởng Mỹ, đang đứng đó, tại một trong những thành phố từng là nơi khép kín nhất của Liên Xô, vừa trở về từ nhà máy điện hạt nhân Chelyabinsk, và nhìn vào hài cốt của Sa hoàng. Đó là một minh chứng điển hình cho thấy mọi thứ đã tiến xa đến mức nào.

Tutwiler nhớ lại một khoảnh khắc khác của ngày bất thường đó. Tại nhà xác, bà và Ngoại trưởng Baker được thông báo rằng con trai và một trong những cô con gái của Sa hoàng đã không có mặt trong những bộ hài cốt được bày trên bàn trước mặt họ. “Có phải Anastasia không?” Tutwiler hỏi. Một người nào đó – cô không biết là ai trong số những người Nga có mặt – trả lời dứt khoát: “Anastasia đang ở trong phòng này!”.

Trong khi Baker vẫn còn trong nhà xác, Rossel đã đánh tiếng nhờ vả. Ông nói rằng các nhà khoa học ở Ekaterinburg tin chắc rằng những bộ xương này thuộc về gia tộc Romanov, nhưng họ biết rằng để phát hiện này được phương Tây chấp nhận, họ cần sự xác nhận của các chuyên gia pháp y phương Tây.

“Ngài có ai có thể hỗ trợ chúng tôi không?” Rossel hỏi. Baker trả lời rằng khi trở về Washington, ông sẽ xem xét những gì có thể làm. Các phóng viên Mỹ tháp tùng Ngoại trưởng đã ghi lại lời tuyên bố này, và ngày hôm sau nó đã xuất hiện trên nhiều tờ báo.

Baker đã giữ lời hứa. Khi đi đến Moscow, ông đã chỉ thị cho Đại sứ quán Hoa Kỳ thiết lập liên lạc trực tiếp với chính quyền Ekaterinburg. Trở về Washington, ông nói với Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách các vấn đề châu Âu: “Hãy xem chúng ta có thể giúp gì.” Tutwiler vẫn tiếp tục thúc đẩy, và điện tín nhấn mạnh rằng “Ngoại trưởng rất quan tâm đến việc này” đã được gửi từ văn phòng của bà. Hai phòng thí nghiệm pháp y và bệnh lý chính của chính phủ Hoa Kỳ, Viện Bệnh lý Lực lượng Vũ trang (AFIP) đặt tại Trung tâm Y tế Quân đội Walter Reed, và FBI, đã được yêu cầu tham gia. AFIP có kinh nghiệm dày dạn trong việc xác định danh tính xương được khai quật sau nhiều năm. Các mẫu xương và răng của quân nhân Mỹ tử trận tại Việt Nam, nếu không thể xác định được ở Hawaii bằng các phương pháp nhân chủng học, nha khoa và X-quang thông thường,  đã được gửi đến AFIP để phân tích DNA. Tương tự, phòng thí nghiệm của FBI hỗ trợ các cơ quan cảnh sát liên bang, tiểu bang và địa phương như một nguồn hỗ trợ tối ưu nguồn để nhận dạng tội phạm, nạn nhân và người mất tích. Với sự đồng ý của Bộ trưởng Quốc phòng và Giám đốc FBI, cả hai phòng thí nghiệm đã đồng ý hỗ trợ.

Một nhóm công tác, do Tiến sĩ Richard Froede, lúc đó là giám định viên y khoa của quân đội và cựu chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Pháp y Hoa Kỳ, dẫn đầu, đã được thành lập. Tiến sĩ Froede là một nhà nghiên cứu pháp y; nghĩa là ông đã xử lý các thi thể khi chúng còn là xác chết. Trợ lý của ông trong chuyến đi là Tiến sĩ Bill Rodriguez, một nhà nhân chủng học pháp y chuyên xử lý thi thể khi chúng đã trở thành xương. Tiến sĩ Alan Robilliard của FBI cũng đi cùng; chuyên môn của ông, giống như Tiến sĩ Abramov của Moscow, là tái tạo đồ họa máy tính. Tổng cộng, đoàn gồm tám chuyên gia người Mỹ, tất cả đều là nhân viên của chính phủ Hoa Kỳ. Chi phí sẽ do chính phủ chi trả như một khoản đóng góp cho những nỗ lực thiện chí trong mối quan hệ với Nga. (Trên thực tế, tiền lương của các thành viên trong nhóm đã là một phần của ngân sách liên bang; các khoản chi phí bổ sung chủ yếu là chi phí đi lại.)

Nhóm đã gặp nhau nhiều lần tại Washington và bắt đầu sắp xếp vật liệu và thiết bị. Các bức ảnh chụp X-quang trên kính tấm của Sa hoàng và Hoàng hậu đã được mua để so sánh bằng hình ảnh X-quang. Máy chụp X-quang cầm tay, thiết bị quét laser đặc biệt, các thiết bị đồ họa máy tính, được thiết kế để hoạt động với các nguồn điện khác nhau tại hiện trường, đã được thu thập. Sự chuẩn bị này diễn ra rất khẩn trương; phía Nga đã nhấn mạnh rằng họ muốn nhóm nghiên cứu có mặt vào tháng năm. Nhóm đã sẵn sàng đúng hạn: thiết bị đã được đóng thùng, các nhà khoa học đã có hộ chiếu, thị thực Nga, tiêm phòng thương hàn và bạch hầu, và vé máy bay. Rồi đột nhiên, hai ngày trước khi khởi hành, chuyến đi đã bị hủy bỏ. Một bức điện từ Đại sứ quán Mỹ tại Moscow cho biết chính quyền ở Ekaterinburg muốn một nhóm chuyên gia Mỹ khác, do Tiến sĩ William Maples, một nhà nhân chủng học pháp y đến từ Đại học Florida, dẫn đầu.

Các thành viên của nhóm AFIP-FBI đã bị sốc và thất vọng – một số người tỏ ra tức tối. “Tôi không có ác cảm gì với  Bill Maples, bởi vì ông ấy là một con người tuyệt vời”, một trong các lãnh đạo được đề xuất của nhóm cho biết về sự việc này. “Nhưng đây là lời đề nghị hỗ trợ của Ngoại trưởng Baker với người Nga, và chúng tôi là viên chức của chính phủ Hoa Kỳ. Xét về mặt điều tra pháp y, chúng tôi có lẽ là đội ngũ giỏi nhất mà Hoa Kỳ có. Chúng tôi có thể cung cấp nhiều hơn thế, đặc biệt là về phân tích DNA, bởi vì Maples không thể làm điều đó, và cuối cùng phải nhờ đến người Anh thực hiện. Chúng tôi là một trong số ít phòng thí nghiệm trên thế giới có khả năng thực hiện các xét nghiệm DNA ty thể, nên chúng tôi có thể làm việc đó ngay tại đây, ngay trong nhà. Chúng tôi có một phòng xét nghiệm bệnh học khổng lồ với trang thiết bị hiện đại cả ở đây lẫn tại FBI. Là một nhóm của chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi nghĩ mình thực sự có thể đại diện cho Hoa Kỳ. Chưa từng có ai nói “cảm ơn” hay “chúng tôi xin lỗi”. Đó là một chủ đề nhức nhối ở đây trong một thời gian dài.

6 Tò mò về cái chết

Khuôn viên Gainesville của Đại học Florida trải dài trên diện tích vài dặm vuông với cảnh quan tươi tốt của miền Trung Florida. Được chia thành một mạng lưới đường phố, khuôn viên rộng lớn đến mức sinh viên đôi khi cần xe buýt để đi từ lớp học này sang lớp học khác. Một số dãy nhà trống trơn, số khác gần như không có người. Trên một trong những khu đất bằng phẳng, gần như vắng tanh này, một lùm tre cao vút hiện ra trước mắt. Một lối đi gồ ghề, đầy vết bánh xe rẽ khỏi con đường bê tông, đi qua một vườn rau được dựng lên ngẫu hứng, rồi đến một hàng rào thép cao ngất ngưởng, trên đỉnh là những cuộn dây thép gai. Phía sau hàng rào, ẩn mình dưới những rặng tre, là một tòa nhà hoàn toàn bằng kim loại, màu xanh lá cây nhạt, không có cửa sổ, với hàng loạt ống thông gió trên mái. Đây là Phòng Thí nghiệm Nhận dạng Con người C. A. Pound, nơi sáng tạo và cũng là xưởng làm việc của Tiến sĩ William Maples.

Tòa nhà không lớn. Cánh cửa mở ra một văn phòng thư ký nhỏ; phía sau là văn phòng của Tiến sĩ Maples. Có một phòng họp nhỏ và một phòng vệ sinh. Và còn có phòng thí nghiệm do chính Tiến sĩ Maples thiết kế trên máy tính Macintosh. Không ai được phép vào phòng này nếu không có sự cho phép của ông. Khóa cửa có chốt từ ba hướng, và cả trường bảo vệ lẫn thợ khóa trường đại học đều không có chìa khóa riêng. Không có khả năng đột nhập qua mái nhà. Tòa nhà có hệ thống báo động tinh vi, cực kỳ nhạy. Trong bốn năm rưỡi Phòng thí nghiệm Pound hoạt động, hệ thống báo động chưa bao giờ kêu.

Ít ai muốn bước vào căn phòng này. Trên đầu bàn làm việc là những hộp sọ người, bộ xương người và các bộ phận cơ thể đang chờ được khám nghiệm. Dọc theo bức tường phía sau là những kệ đựng đầy những hộp các tông được dán nhãn cẩn thận, cũng chứa toàn xương người. Có máy tính, máy chụp X-quang, bộ xử lý hình ảnh X-quang và máy quay video; có một bàn làm việc với máy khoan, một cái đe nhỏ, tua vít, cờ lê và cưa lưỡi kim cương; có tủ lạnh và tủ đông. Dọc theo một bức tường bên, có ba thùng thép không gỉ lớn, mỗi thùng được đóng kín bằng một nắp che mùi bằng nhựa trong suốt, được nối với các ống  thông gió dẫn lên mái nhà. Trong những thùng này, Tiến sĩ Maples và các trợ lý của ông “tẩm xác”.

“Tẩm xác?”

“Đó là một cách nói cho dễ nghe của việc ‘hầm để tách’ thịt còn bấm ra khỏi xương.”

Tiến sĩ Maples là một nhà nhân chủng học pháp y; ông làm việc với xương. Nếu xương được mang đến cho ông vẫn còn nằm trong thịt, ông phải loại bỏ thịt trước khi bắt đầu làm việc. Ông đặt thi thể vào một trong những thùng chứa, đổ đầy nước sôi vào thùng và xử lý nó cho đến khi ông ta có được một bộ xương. Thực ra, hầu hết công việc này được thực hiện bởi các sinh viên đại học và sau đại học của ông, họ thay phiên nhau quan sát các thùng chứa, mỗi một hoặc hai giờ.

“Cần phải rất cẩn thận để đảm bảo mô mềm tróc ra càng nhanh càng tốt”, Maples giải thích. “Chúng tôi phải đảm bảo xương không bị mềm do ngâm trong nước quá lâu, và nước cũng không cạn khô và làm cháy xương. Nắp đậy khỏi bị nước bắn ra – chúng tôi lo lắng về viêm gan B, AIDS và bệnh lao – và cũng để chống mùi hôi. Đúng vậy, đây là một công việc rất khó chịu, nhưng tôi nhớ chỉ có một hoặc hai sinh viên không thể chịu đựng được.”

Văn phòng bên cạnh của Maples là một nơi khá vui vẻ. Đúng là có mười tám hộp sọ người trên ba tủ hồ sơ lớn, nhưng chúng được sơn màu cam tươi tắn. Bàn làm việc của Maples nằm im lìm dưới một núi tài liệu, thư từ, ảnh chụp và phim chụp X-quang ngổn ngang. Nhưng bản thân William Maples, một người đàn ông hói đầu, mặc áo khoác xanh, quần vải nỉ xám và đeo kính gọng kim loại, lại ngăn nắp đến mức thái quá. Giọng nói của ông trầm, đều đều, mang đậm chất Texas, phản ánh tuổi thơ của ông. Lời nói, cũng như phương pháp luận của ông, được kiềm chế và chính xác. Bác sĩ Maples gần như luôn biết chính xác lời nói hoặc hành động tiếp theo của mình sẽ là gì và tại sao ông phải nói hoặc làm vậy.

“Cả đời tôi luôn tò mò về cái chết”, ông nói. Khi còn học tại Đại học Texas, chuyên ngành tiếng Anh và nhân chủng học, ông đã tự trang trải học phí bằng cách đi lái xe cứu thương của một nhà tang lễ. Đêm đêm, ông phóng xe với tốc độ 105 dặm một giờ để có mặt tại hiện trường tai nạn sớm nhất và giải quyết hậu quả. Ông đã chứng kiến ​​”những điều khủng khiếp”, nhưng trước năm 20 tuổi, ông đã học cách ăn bánh mì kẹp thịt phô mai hun khói ngay trong phòng khám nghiệm tử thi sau khi xem một ca mổ tử thi. Năm 24 tuổi, ông và vợ bắt đầu giai đoạn 4 năm bẫy khỉ đầu chó ở Kenya để nghiên cứu. Khi một con khỉ đầu chó già cắn sâu vào tay Maples, làm rách động mạch, chính Maples cũng đã cận kề cái chết. Năm 1968, Maples đến Gainesville với bằng Tiến sĩ và trở thành trợ lý giáo sư nhân chủng học. Sau 6 năm, ông chuyển từ công việc giảng dạy tích cực sang Khoa Nhân chủng học của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida.

“Lĩnh vực của tôi là nghiên cứu bộ xương người, những thay đổi của nó qua từng giai đoạn của đời người, và những biến thể của nó trên khắp thế giới”, Tiến sĩ Maples nói. Bằng cách kiểm tra các xương khác nhau của bộ xương, Maples thường có thể nhanh chóng xác định được giới tính, tuổi tác, chiều cao và cân nặng của chủ sở hữu bộ xương trong cuộc đời. Kiến thức đặc biệt này đã giúp ông trở nên vô cùng quý giá với tư cách là chuyên gia tư vấn cho cảnh sát địa phương và tiểu bang, đang cố gắng xác định danh tính nạn nhân, điều gì đã xảy ra với nạn nhân tại hiện trường vụ án và ai là người chịu trách nhiệm. Từ năm 1972, khi ông bắt đầu với một vụ án duy nhất, giờ khối lượng công việc của ông đã tăng lên hai đến ba trăm vụ mỗi năm. Trong số đó có tên sát nhân hàng loạt Ted Bundy, kẻ đã sát hại ít nhất 36 phụ nữ trẻ trước khi bị bắt, xét xử và hành quyết – tại Florida. Hai lần một năm, Maples đến Phòng thí nghiệm Nhận dạng Trung ương của Quân đội Hoa Kỳ tại Honolulu để hỗ trợ các trường hợp khó khăn liên quan đến hài cốt quân nhân được đưa về từ Việt Nam.

Đối với hầu hết công việc tư vấn này, thù lao của Tiến sĩ Maples là 200 đô la một giờ. Ông cũng nhận được một phần lương từ Đại học Florida. Tổng cộng, khoản thu nhập này vẫn không đủ để trang trải toàn bộ công việc trong phòng thí nghiệm của ông, và ông đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của các nhà tài trợ bên ngoài. Phòng thí nghiệm C. A. Pound được tài trợ bởi Cicero Addison Pound, Jr., người gốc Gainesville, hiện đã ngoài 70 tuổi, từng là phi công hải quân thời trẻ và đã tham gia vào cuộc tìm kiếm Amelia Earhart [phi công nữ đầu tiên một mình bay qua Đại Tây Dương và mất tích trên Thái Bình Dương vào năm 1937]. Pound trở nên giàu có nhờ bất động sản và đóng góp tiền để xây dựng phòng thí nghiệm của Maples. Maples cũng được một nhà hảo tâm hào phóng là luật sư đã nghỉ hưu William Goza ở Gainesville, người mà Quỹ Wentworth của ông đã tài trợ cho trường đại học và đặc biệt các dự án liên quan đến William Maples.

Sự hỗ trợ tài chính của Goza đã giúp Maples thực hiện được một số cuộc điều tra pháp y. Đây là những vụ án lịch sử, trong đó không có khách hàng nào khác ngoài lịch sử, và động cơ chính là sự khát khao khám phá ra sự thật và giải quyết một bí ẩn. (Tất nhiên, thành công trong những vụ án nổi tiếng này cũng mang lại uy tín quý giá. Nó cực kỳ hữu ích cho một công tố viên khi ông ta có thể đứng trước bồi thẩm đoàn và nói với nhân chứng chuyên môn của mình, “Ông có phải là Tiến sĩ Maples đã…?”) Maples đã tham gia vào bốn vụ án lịch sử như vậy. Năm 1984, ông đã chứng minh rằng xác đã ướp được cho là của Francisco Pizarro, nhà chinh phạt người Tây Ban Nha bị ám sát tại Lima năm 1541, và sau đó được tôn kính trong hơn bốn thế kỷ trong một chiếc quan tài bằng đá cẩm thạch và đồng tráng lệ tại Thánh đường Lima, thực ra thuộc về người khác. Hơn nữa, ông còn chứng minh rằng một bộ xương cổ khác, được chôn dưới hai lớp ván gỗ trong hầm mộ nhà thờ, chính là của Pizarro. Năm 1988, Maples đã kiểm tra bộ xương của John Merrick, Người Voi thế kỷ 19, được Broadway và Hollywood khôi phục danh tiếng trong thời đại chúng ta. (Ngay trước khi Maples xuất hiện, ngôi sao nhạc pop Michael Jackson được cho là đã đề nghị mua bộ xương của Merrick. từ Cao đẳng Bảo tàng Y học Hoàng gia với giá một triệu đô la.) Nỗ lực của Maples là để xác đinh bao nhiêu sự tăng trưởng dị thường khiến làm biến dạng Merrick là do hậu quả của các khối u mô mềm và bao nhiêu là do sự thay đổi trong cấu trúc xương của y. Ông đã tìm thấy rằng Merrick bị cả hai tật bệnh. Năm 1991, ông đã khai quật bộ xương của Zachary Taylor và chứng minh rằng vị cựu tổng thống Hoa Kỳ này không bị đầu độc, như thường được đồn đại, mà có lẽ đã chết vì nhiễm trùng đường ruột. Và, giờ vào năm 1992, Tiến sĩ Maples xử lý bộ xương nhà Romanov.

☆  ☆  ☆

William Maples lần đầu tiên biết đến gia đình Hoàng gia Nga cách đây nhiều năm khi đọc hai cuốn sách. Khi còn là một cậu bé ở Dallas vào những năm 1940, ông đã đọc tác phẩm Đôi Ủng Bảy Dặm  của Richard Halliburton, trong đó có cuộc phỏng vấn “trên giường bệnh” của Halliburton với tên đao phủ Ermakov. Nhiều năm sau, ông ấy đọc Nicholas và Alexandra. Vào tháng 2 năm 1992, ông đã ở New Orleans tham dự cuộc họp thường niên của Học viện

Khoa học pháp y Hoa Kỳ

khi ông đọc tin trên báo cho biết Ngoại trưởng Baker đã được  Nga yêu cầu Mỹ hỗ trợ trong việc nhận dạng một nhóm các bộ xương được khai quật từ một ngôi mộ ở Siberia. Maples bước tới chỗ bác sĩ Richard Froede, giám định viên y khoa của lực lượng vũ trang và hỏi liệu Baker có liên lạc với Froede về việc hỗ trợ hay không. Bác sĩ Froede nói không, ông chưa nghe thấy gì cả. “Ngay lúc đó, tôi quyết định chúng tôi sẽ thử,” Maples nói. “Trong khi cuộc họp vẫn đang diễn ra, tôi đã tổ chức một đội ngũ mà tôi cho là cực kỳ hùng mạnh. Đội ngũ này bao gồm Tiến sĩ Michael Baden, một bác sĩ pháp y, Tiến sĩ Lowell Levine, một nha sĩ pháp y, Tiến sĩ William Hamilton, giám định viên y khoa Gainesville của chúng tôi, và Cathryn Oakes, chuyên gia về tóc và sợi của Cảnh sát Tiểu bang New York. Tôi sẽ đảm nhiệm vai trò là nhà nhân chủng học pháp y và trưởng nhóm.

Trở về Gainesville, Maples soạn một lá thư gửi cho hiệu trưởng Đại học Florida, John Lombardi, để ông ký và gửi cho Alexander Avdonin ở Ekaterinburg. Lá thư trình bày các giấy tờ chứng nhận của nhóm Maples và nói rằng các thành viên đã sẵn sàng. Lombardi tuyên bố sẽ tự túc chi phí đi lại; thực tế, kinh phí sẽ đến từ quỹ của Bill Goza. Hơn nữa, Lombardi tuyên bố ông dự định tổ chức một hội nghị khoa học tại Mỹ để thảo luận về những phát hiện này. “Một số thành viên trong nhóm của ông sẽ cần phải đến dự hội nghị này”, ông nói với Avdonin. “Số tiền do Tiến sĩ Maples gây quỹ sẽ trang trải chi phí đi lại cần thiết cho các đại diện của ông.” Tháng Tư đến, và Maples vẫn chưa nhận được hồi âm. Sau đó, gián tiếp, ông biết Avdonin đang đợi ông gọi điện thoại. Maples gọi ngay lập tức, và ngày hôm sau, một lời mời qua fax đã đến Gainesville, được ký chung bởi Alexander Blokhin, Phó Thống đốc Vùng Sverdlovsk, và Avdonin. Nhóm Florida được yêu cầu đến vào giữa tháng 7, dành vài ngày để khám nghiệm hài cốt, và sau đó tham gia một cuộc hội thảo quốc tế về chủ đề bộ xương.

Khi được cho biết Tiến sĩ Froede và Tiến sĩ Rodriguez thuộc nhóm AFIP-FBI vẫn còn rất buồn về việc họ đột ngột bị sa thải khỏi dự án, Maples nói: “Sau này chúng tôi mới biết Ngoại trưởng Baker đã hỏi Dick Froede. Tôi chắc chắn rằng lúc tôi bắt chuyện với Dick ở New Orleans, ông ấy vẫn chưa được Baker liên lạc. Suy cho cùng, Baker vẫn đang ở Nga. Dù sao thì, khi tôi hỏi Dick, ông ấy đã nói không.” Maples

thừa nhận rằng, ở Mỹ cũng như ở Nga, sự cạnh tranh giữa các nhà khoa học rất khốc liệt. “Tôi không phải là người có tính cạnh tranh cao,” ông nói, “nhưng nếu không ai khác làm điều gì đó tương tự như thế này – điều mà tôi đã quan tâm trong nhiều năm – thì tôi sẽ rất háo hức tham gia.” Theo Maples, dự án AFIP-FBI bị cản trở bởi việc thiếu kinh phí và bởi việc một nhà nhân chủng học pháp y rất được kính trọng, Douglas Ubelaker của Viện Smithsonian, đã rời khỏi  đội chính phủ. Ông cảm thấy người Nga đã cân nhắc trình độ của hai đội và chọn đội của ông.

Tiến sĩ Maples quả thực có một đội ngũ hùng hậu. Tiến sĩ Michael Baden, bác sĩ pháp y, từng là giám định viên y khoa chính của Thành phố New York. Ông từng là chủ tịch hội đồng pháp y do Ủy ban Đặc biệt về Vụ Ám sát của Quốc hội thành lập để xem xét các vụ ám sát John F. Kennedy. và Martin Luther King, Jr. Khi đó ông là đồng giám đốc Đơn vị Khoa học Pháp y của Cảnh sát Tiểu bang New York. Tiến sĩ Lowell Levine, đồng giám đốc của ông tại đơn vị Cảnh sát Tiểu bang New York, cũng có một sự nghiệp lừng lẫy không kém. Ông cũng từng làm việc với ủy ban tuyển chọn của Quốc hội về các vụ ám sát Kennedy và King. Theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao, ông đã đến Argentina và nhận dạng hài cốt của “nhiều người bị mất tích” – .những thanh niên và phụ nữ bị biến mất một cách bí ẩn dưới chế độ độc tài quân sự Argentina. Vài năm sau, tại Brazil, Levine đóng vai trò quan trọng trong việc xác định răng và hộp sọ của Josef Mengele, bác sĩ Đức Quốc xã từ trại Auschwitz. Cathryn Oakes, một trong những chuyên gia hàng đầu về tóc và sợi của quốc gia, cũng làm việc tại Phòng thí nghiệm Tội phạm của Cảnh sát Tiểu bang New York.

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1992, Maples và nhóm của ông đã đến Ekaterinburg và

họ nhận phòng tại Khách sạn Tháng Mười , trước đây chỉ dành cho các quan chức Cộng sản cấp cao. Họ trả toàn bộ chi phí bằng đô la; chính quyền địa phương chỉ cung cấp cho họ một chiếc xe và một tài xế. Sáng sớm hôm sau, họ đến chi nhánh nhà xác Ekaterinburg, nơi lưu giữ hài cốt của Romanov. Họ gặp Nikolai Nevolin, giám đốc nhà xác, Alexander Avdonin, và vợ ông Galina Avdonina, vốn là giáo viên tiếng Anh nên nói tiếng Anh khá lưu loát và những người khác.

Nevolin bảo họ, “Cứ xuống đó và làm những gì các anh muốn.” Theo Maples, nhà xác được thiết kế tương tự như một nhà xác Mỹ ở một thành phố có quy mô tương đương: phòng khám nghiệm tử thi và khu vực lưu trữ thi thể ở tầng một, văn phòng ở tầng hai. Và còn một điều gì đó quen thuộc khác. “Đó là mùi,” Maples nói, “một mùi đặc trưng của nhà xác.” Ở tầng hai, cuối một hành lang dài, có một cánh cổng sắt. Cánh cổng mở vào một phòng chờ nhỏ, và từ đó, mở một cánh cửa khóa khác, họ bước vào căn phòng chứa bộ hài cốt.

Căn phòng rộng khoảng 4,5 x 4,6 mét, tương đương với kích thước của một phòng khách trung bình ở Mỹ. Đây là một căn phòng ở góc nhà  và có hai cửa sổ, cả hai đều được che bằng rèm kéo cho phép ánh sáng lọt vào. Tường được sơn màu xanh lá cây sáng bóng. Ở giữa phòng là một chiếc bàn lớn, trên đó đặt một chiếc máy tính và một bộ kính hiển vi. Bốn bức tường xung quanh phòng được kê sát tường, bốn phía là những chiếc bàn kim loại. Xương được bày trên mặt  bàn này, sắp xếp theo hình dạng từng bộ xương tách rời ra, với hộp sọ ở phía trên, sau đó là các đốt sống tạo thành cột sống, các xương sườn ở hai bên đốt sống, xương cánh tay nằm ngoài xương sườn, và xương chậu, xương chân, mắt cá chân và bàn chân ở phía dưới cùng. Maples kinh hãi khi thấy một số xương dài của đùi và cánh tay đã bị cắt làm đôi; điều này chỉ khiến ông khó ước lượng chiều cao hơn. Khi ông đến, bàn không được phủ vải, nên bất kỳ ai trong phòng cũng có thể nhặt được xương lên xem, như Ngoại trưởng Baker đã làm năm tháng trước. Nhiệt độ trong phòng cũng không được kiểm soát; khi Maples và nhóm của ông ở đó vào giữa mùa hè, căn phòng ấm áp, và họ nhanh chóng cởi bỏ áo khoác.

Maples mở túi đựng máy ảnh và lấy ra một máy ảnh. “Nyet,” một người Nga trong phòng nói với họ.

“Các ông không thể chụp bất kỳ bức ảnh nào.” Lạnh lùng, Maples lẳng lặng cất máy ảnh vào túi và, với Baden, Levine và Oakes, đã dành ba giờ kiểm tra xương. Đối với Maples, danh tính của những bộ xương đã nhanh chóng được làm rõ. “Đó là Demidova,” ông nói. “Đó là

Botkin. Đó là một trong những cô con gái, có lẽ là Olga. Đó là một cô con gái khác, có lẽ là Tatiana. Còn cô con gái thứ ba, có lẽ là Marie. Kia là Nicholas. Còn đó là Alexandra. Còn hai người này là người hầu nam.

Đến trưa, Maples và nhóm của ông thu dọn hành lý và đi dọc hành lang đến văn phòng của Nevolin. “Chúng tôi xong việc rồi và đi đây,” Maples nói. “Các anh có đi ăn trưa không?” Nevolin hỏi. “Không,” Maples nói, “chúng tôi xong việc rồi. Chúng tôi đã làm hết sức mình rồi, và chúng tôi chuẩn bị về nhà đây.” Nevolin bị sốc. “Nhưng các anh không thể đi được,” ông ta phản đối. Maples giải thích, “Chúng tôi phải dẫn chứng bằng tài liệu những gì chúng tôi làm, và trừ khi chúng tôi được phép làm điều này, chúng ta không thể làm gì hơn nữa. Tôi chưa bao giờ thực hiện một vụ án pháp y nơi mà tôi không thể lấy dữ kiện những gì cần thiết phải lấy. Và trừ khi các ông cho phép chúng tôi chụp ảnh làm tài liệu vụ án này, thì chúng ta đã làm xong. Tôi đã đạt được kết luận của mình” Maples nói, giọng đều đều, nhưng ông ấy rõ ràng đang tức tối. “Ông tức giận đến run người”, Galina Avdonina sau này nói với ông.

Nevolin cần thời gian suy nghĩ. “Đi ăn trưa đi, khi nào các anh quay lại, chúng ta sẽ bàn bạc chuyện này và sẽ có câu trả lời cho các anh,” ông ta nói. Nhóm người Mỹ trở về khách sạn, dùng bữa trưa kéo dài kiểu Nga, rồi quay lại nhà xác. Nevolin chào họ bằng câu: “Cứ chụp bao nhiêu ảnh tùy thích.” (“Rõ ràng,” Maples kể lại sau đó, “ông ta đã gọi cho Blokhin và Blokhin nói, ‘Cứ để họ muốn làm gì thì làm.’ Vậy là chúng tôi ở lại suốt tuần còn lại và ghi chép lại mọi thứ. Nhưng chỉ trong hai hoặc ba giờ đầu tiên, chúng tôi đã có kết quả. Chúng tôi biết mình đang xử lý hài cốt của gia đình Hoàng gia, và chúng tôi biết rõ hài cốt nào là của ai.)

☆ ☆ ☆

Chín bộ xương nằm trên bàn nhà xác chỉ được đánh số. Maples – lúc này không hề biết gì về những phát hiện trước đó của Tiến sĩ Abramov  – vẫn tiếp tục sử dụng hệ thống đánh số này. Năm bộ xương là nữ, bốn bộ xương là nam. Tất cả nam giới đều đã trưởng thành; không có cậu bé vị thành niên nào. Trong số năm nữ giới, ba người là phụ nữ trẻ, chỉ mới trưởng thành gần đây. Tất cả khuôn mặt đều bị nứt vỡ nghiêm trọng. Tất cả các bộ xương nữ đều đã từng được làm răng. Một trong những bộ xương nam giới dường như đã sử dụng hàm răng giả phía trên.

Hài cốt dễ nhận dạng nhất – được người Nga dán nhãn số 7 – là của một phụ nữ trung niên có xương sườn lộ rõ dấu hiệu hủy hoại có thể từ những cú đâm bằng lưỡi lê. Điều ngay lập tức bắt được cặp mắt và sự chú ý của Tiến sĩ Levine là hàm răng được chăm sóc nha khoa tỉ mỉ và tuyệt đẹp

trong hộp sọ này. Hai mão răng ở hàm dưới được làm bằng bạch kim. Nơi khác trong miệng này, có những mão sứ trang nhã và những chỗ trám tinh tế bằng vàng. Kỹ thuật nha khoa cho thấy là loại hình nha khoa được phát triển ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 19 và sau đó được áp dụng ở Đức, quê hương của Alexandra. Khi chứng kiến ​​tác phẩm này, Levine và Maples đều tuyên bố hộp sọ này và hài cốt này thuộc về Hoàng hậu Alexandra.

Việc xác định danh tính Nicholas II cũng không khó. Hài cốt được ghi nhãn là Thi thể số 4 thuộc về một người đàn ông trung niên khá thấp bé. Xương hông cho thấy dấu hiệu hao mòn và biến dạng do nhiều năm cưỡi ngựa, một hoạt động đặc trưng của các Sa hoàng Nga. Hộp sọ có vầng trán rộng, dốc, nhô, và vòm miệng rộng, phẳng giống như của Nicholas. Răng cực kỳ tệ hại. Hàm dưới cho thấy sự xâm nhập tàn tệ của bệnh nha chu, và không có bất kỳ chỗ trám nào trên các chiếc răng còn sót lại. Trong hộp sọ, không có phần giữa khuôn mặt; mọi thứ bên dưới hốc mắt đến hàm trên đều bị phá hủy. Cầm hộp sọ của Nicholas II trên tay, Maples đã có một trải nghiệm kỳ lạ: “Chúng tôi đang chuyền hộp sọ cho nhau thì nghe thấy tiếng động lạ bên trong hộp sọ. Chiếu đèn pin vào đáy hộp sọ, nhìn qua khe hở nơi cột sống được neo giữ, chúng tôi phát hiện ra một vật thể nhỏ, teo tóp, có kích thước bằng một quả lê nhỏ, lăn qua lăn lại. Đó là bộ não khô héo của Sa hoàng Nicholas II.”

Độ khám nghiệm Mỹ không gặp nhiều khó khăn với bốn bộ xương trưởng thành còn lại. Thi thể số 1 được xác định là một phụ nữ trưởng thành hoàn toàn qua khung xương chậu. Hộp sọ có một cầu bắc răng vàng đúc sẵn với tay nghề kém ở hàm dưới bên trái; cầu răng này được xác định là của người hầu gái, Demidova.

Thi thể số 2 là bộ xương một người đàn ông cao lớn, trưởng thành với vầng trán phẳng, dốc đặc trưng. Độc đáo nhất trong số những hài cốt còn sót lại, thi thể này vẫn còn nguyên vẹn một phần thân, được giữ lại với nhau bằng adipocere, một chất sáp màu trắng xám hình thành khi mô mỡ kết hợp với nước sau khi chết. Từ khối này, người Nga đã tìm thấy một viên đạn từ vùng xương chậu và một viên từ đốt sống. Hộp sọ có vết thương do đạn bắn vào màng tang trái. Có một vài chiếc răng ở hàm dưới, nhưng hàm trên thì không. Việc biết rằng bộ răng của Bác sĩ Botkin đã được Sokolov tìm thấy hơn 70 năm trước tại Bốn Anh Em đã giúp Maples và Levine xác định những hài cốt này là của ông.

Thi thể số 8 và số 9 được xác định lần lượt là hài cốt của Kharitonov, đầu bếp 48 tuổi, và Trupp, người hầu phòng 61 tuổi. Bộ xương của Kharitonov nát vụn nhiều nhất trong số chín bộ; là thi thể đầu tiên bị ném xuống đáy hố, thi thể  ăn sâu nhất trong vũng axit. Thi thể của Trupp nằm ngay bên dưới thi thể của Sa hoàng. Trong quá trình phân hủy, một số xương đã bị trộn lẫn vào nhau. Hiện giờ, Maples tin rằng, nếu không tiến hành xét nghiệm DNA trên từng mảnh xương, sẽ không thể xác định được xương nào của Sa hoàng và xương nào của người hầu ông ta.

Ba bộ xương còn lại, Thi thể số 3, số 5 và số 6, là của ba phụ nữ trẻ hoặc gần trưởng thành, tất cả đều chia sẻ với nhau và với Thi thể số 7 (Hoàng hậu Alexandra) một cấu trúc xương nhô ra bất thường ở phía sau đầu. Đặc điểm này, được gọi là xương nội khớp và chỉ được tìm thấy ở 5 hoặc 6 phần trăm dân số, cho thấy rõ ràng có một mối quan hệ chị em ruột  giữa ba người phụ nữ trẻ, và mối quan hệ mẹ con giữa ba người họ với Thi thể số 7. Cả ba người phụ nữ trẻ đều có nhiều chỗ  trám răng và các công việc nha khoa tương tự, cho thấy rằng họ được cùng một nha sĩ điều trị.

Người phụ nữ trẻ lớn tuổi nhất trong số này, Thi thể số 3, mới ngoài đôi mươi khi qua đời. Mặc dù một nửa khuôn mặt giữa và hàm dưới của cô bị mất, hình dạng đầu, với vầng trán nhô ra bất thường, rất giống với hình dạng của Nữ Đại Công tước Olga. Người phụ nữ này đã trưởng thành hoàn toàn; Olga được hai mươi hai tuổi tám tháng khi bị giết. Xương chân đã bị cắt, nhưng bằng cách ngoại suy từ chiều dài xương cánh tay, Maples ước tính chiều cao của cô đúng 165cm. Tiến sĩ Levine phát hiện chân răng hàm thứ ba, hay còn gọi là răng khôn, đã phát triển đầy đủ. Điều này càng củng cố thêm quan điểm của Maples rằng cô ấy đã trưởng thành. Vết thương do súng bắn cho thấy một viên đạn đã xuyên qua dưới hàm trái của cô ấy và thoát ra qua phía trước hộp sọ. “Đạn đạo như vậy”, Maples nhận xét, “có thể đến từ một khẩu súng đặt dưới cằm và bắn lên, hoặc từ việc bắn vào một thi thể đã nằm trên sàn.”

Cô con gái tiếp theo – hài cốt được ghi là Thi thể số 5 – là một phụ nữ “ở độ tuổi cuối thiếu niên hoặc đầu hai mươi tuổi,” Maples khẳng định. “Bác sĩ Levine và tôi đồng ý rằng cô ấy là người trẻ nhất trong số năm phụ nữ có bộ xương được bày trước mặt chúng tôi.” Họ kết luận điều này từ thực tế là chóp chân răng hàm thứ ba của cô ấy chưa phát triển hoàn toàn. “Xương cùng của cô ấy, nằm ở phía sau xương chậu, chưa phát triển hoàn toàn. Xương chân tay của cô ấy cho thấy sự phát triển chỉ mới kết thúc gần đây. Lưng của cô ấy có dấu hiệu chưa trưởng thành, nhưng dù sao cũng là phần lưng của một phụ nữ ít nhất 18 tuổi. Chúng tôi ước tính cô ấy cao 171cm. Mặc dù nửa khuôn mặt giữa bị mất, Maples kết luận rằng bộ xương này thuộc về Nữ Đại Công tước Marie, người đã đón sinh nhật lần thứ mười chín của mình năm tuần trước khi qua đời.

Người phụ nữ trẻ thứ ba này, hài cốt được ghi là Thi thể số 6, đã bị bắn vào sau gáy, viên đạn xuyên qua hộp sọ từ phía sau bên trái và thoát ra thái dương bên phải. Cô ấy đã trưởng thành hoàn toàn, và sự phát triển về răng và xương cho thấy cô ấy ở độ tuổi giữa Thi thể số 3 và số 5. ​​Chân răng hàm của cô ấy vẫn chưa hoàn chỉnh, điều này phù hợp với một phụ nữ từ 19 đến 21 tuổi, nhưng không phải là một cô gái 17 tuổi. Maples ước tính chiều cao của cô ấy chỉ hơn 166cm; ông không tìm thấy bằng chứng cho thấy sự phát triển liên tục gần đây. Xương cùng và vành chậu của cô đã trưởng thành, nghĩa là cô ít nhất 18 tuổi. Xương đòn của cô cũng đã trưởng thành, nghĩa là cô ít nhất 20 tuổi. Nữ Đại Công tước Tatiana đã 21 tuổi hai tháng vào thời điểm diễn ra vụ hành quyết. Do đó, Maples đã gán thi thể số 3 cho Olga, thi thể số 5 cho Marie, và thi thể số 6 cho Tatiana.

Tiến sĩ Maples tin chắc rằng không có bộ xương nào trong số ba bộ xương đủ trẻ để thuộc về Anastasia, người mới 17 tuổi một tháng vào đêm xảy ra vụ án mạng. Một lý do nữa là chiều cao. Nhiều bức ảnh Anastasia đứng cạnh các chị gái được chụp cho đến một năm trước khi cô qua đời cho thấy cô thấp hơn Olga và thấp hơn nhiều so với Tatiana và Marie. Vào tháng 9 năm 1917, mười tháng trước vụ án mạng, Hoàng hậu Alexandra đã viết trong nhật ký của mình: “Anastasia rất béo, giống như Marie ngày xưa – eo to, chân nhỏ xíu – tôi hy vọng con bé sẽ cao thêm.” Liệu Anastasia có thể tăng trưởng vượt bậc hơn 5 cm trong năm cuối đời không? Maples nói rằng điều đó có thể xảy ra, nhưng rất khó.

Lý do thứ hai là sự phát triển của răng hàm thứ ba (răng khôn) của ba cô con gái có hài cốt hiện diện. Tiến sĩ Levine, người đã kiểm tra răng ở mỗi hộp sọ, đã ủng hộ vững chắc phát hiện của Maples. “Ông ấy làm việc này về mặt nhân chủng học, tôi làm về mặt nha khoa; sau đó, chúng tôi độc lập ghi lại ước tính của mình về độ tuổi”, Levine nói. “Chúng tôi đưa ra cùng một con số.”

Cuối cùng, và quan trọng nhất đối với Maples, là tình trạng cột sống của ba bộ xương trẻ nhất ở Ekaterinburg. Theo ông, không có bộ xương nào có đặc điểm của một phụ nữ mười bảy tuổi. Sau đó, trong phòng thí nghiệm của mình, Maples giải thích rằng con người phát triển khi xương của họ dài ra ở hai đầu. Chất liệu mềm, giống như sụn hình thành ở hai đầu này và dần dần cứng lại thành xương, khiến toàn bộ xương – và con người – trở nên to hơn hoặc cao hơn. Ở cột sống – cột gồm những đốt xương tròn tạo nên xương sống – xương phát triển lớn hơn (và con người trở nên cao hơn) khi sụn hình thành và cứng lại ở rìa của hai vành trên và dưới. “Ở người già hơn,” Maples giải thích, “hoặc ở một phần lưng của một người trẻ hơn, chúng ta có một vòng hoàn chỉnh xung quanh mép trên cùng và dưới đáy của đốt sống. Nhưng khi người này vẫn chưa hoàn chỉnh ở phần này của cột sống, điều đó cho tôi manh mối rằng chúng ta đang đối phó với một cá nhân trẻ tuổi.”

Cái chết, tất nhiên, sẽ ngăn chặn quá trình chuyển đổi sụn thành xương, và trong xương của những người trẻ tuổi, sụn chuyển sang chất màu hơi vàng, giống như sáp, có xu hướng vỡ vụn và bong ra. Trong phòng thí nghiệm của mình, Maples có một số bộ xương của thanh thiếu niên; ông đã sử dụng chúng để chứng minh luận điểm của mình: “Cột sống của người này có vòng, nhưng bạn thấy đấy, nó đang trong quá trình hợp nhất và đã bong ra ở đây…. Nó gần như hoàn chỉnh ở đây, nhưng bạn thấy đấy, nó vẫn còn hở ở đó. … Ở đây, cái này đã bong ra gần như toàn bộ xung quanh. … Ở đây, nó hiện diện ở phần đế, hoàn toàn hợp nhất với chỉ một chút sẹo ở phía trước, nhưng hai bên vẫn cho thấy còn hở.”

Maples đã áp dụng kiến ​​thức và kinh nghiệm này cho cột sống ông nhìn thấy ở Ekater inburg: “Phụ nữ già đi nhanh hơn nhiều nam giới ở cùng nhóm tuổi”, ông nói. “Trong phụ nữ mười bảy tuổi, bạn hy vọng nhìn thấy cột sống chưa hoàn chỉnh như cái này. Không ai trong số ba bộ xương ở Ekaterinburg có bất kỳ vòng không đầy đủ hoặc thậm chí hoàn chỉnh một phần. Điều kiện này đơn giản là không hiện diện ở một phụ nữ mười bảy tuổi. Tôi chưa bao giờ thấy điều đó. Kể từ đó, tôi đã nhờ một nghiên cứu sinh làm luận án thạc sĩ về nó, và không một phụ nữ mười bảy tuổi nào tìm thấy có cột sống lưng hoàn chỉnh.”

Tiến sĩ Maples nhận thức rõ mâu thuẫn giữa những phát hiện của ông và của Tiến sĩ Abramov. “Tôi tin rằng Anastasia đã mất tích, và ông ấy tin rằng cô con gái mất tích là Marie,” ông nói. “Tôi sẽ không thay đổi quyết định và ông ấy cũng sẽ không thay đổi.” Tại sao Maples lại chắc chắn rằng Abramov đã sai? Câu trả lời của ông rất thẳng thắn: ông chỉ trích kỹ thuật của Abramov khi cố gắng dùng keo dán để tái tạo những khuôn mặt bị hư hại ở Ekaterinburg. Ông tiếp tục, công việc này được thực hiện rất kém, đến nỗi bất kỳ nỗ lực nào để chồng ảnh và hộp sọ lên nhau đều không thể mang lại thông tin chính xác. Maples cho biết, việc tái tạo những khuôn mặt bị hư hại từ các mảnh xương là có thể thực hiện được, nhưng việc này phải được thực hiện hết sức cẩn thận. “Tôi thường tái tạo khuôn mặt bằng cách dán các mảnh xương lại với nhau”, ông tuyên bố. “Và vì lý do này, tôi biết rằng ngay cả khi tất cả các mảnh xương đều ở đó, một chút thay đổi trong góc dán hai mảnh lại với nhau cũng có thể dẫn đến sự khác biệt vài milimét hoặc thậm chí nửa centimet về vị trí xương được đặt. Sau đó, khi bạn cố gắng ghép một mảnh xương khác vào, nó sẽ không khớp. Bạn có một

khoảng trống lớn hơn hoặc nhỏ hơn nửa centimet so với mảnh tiếp theo. Bạn không thể ghép bất kỳ mảnh nào còn lại vào, tất cả chỉ vì một góc nhỏ đã bị dán sai trước đó trong quá trình.

“Trong trường hợp của gia tộc Romanov, toàn bộ phần khuôn mặt – toàn bộ bên phải hoặc bên trái khuôn mặt của một số người con gái – đã bị mất.” Khi Maples thảo luận điều này với Abramov và hỏi nhà khoa học Nga, “Điều gì sẽ xảy ra nếu anh có các dấu mốc bị mất?” Abramov trả lời: “Chúng tôi sẽ ước tính.” Điều này không thể chấp nhận được đối với Maples. “Người Nga đã dày công tái tạo Thi thể số 6, cố gắng phục hồi xương mặt bằng những mảng keo lớn được trét lên những khoảng trống rộng,” ông nói. “Họ buộc phải ước tính đi ước tính lại nhiều lần trong khi lắp ráp những mảnh vỡ này, mà hầu như không có mảnh nào chạm vào mảnh nào. Đó là một nỗ lực đáng chú ý và khéo léo, nhưng nó quá xa vời đối với tôi để chấp nhận. Chứng kiến ​​những gì họ đã làm càng củng cố niềm tin của tôi rằng Anastasia không có trong căn phòng đó.”

Tiến sĩ Maples cũng không chấp nhận kỹ thuật chồng hình vi tính của Tiến sĩ Abramov. “Tôi thực hiện chồng hình video,” ông nói, “nhưng trong thiết kế chồng hình video của tôi, chúng tôi đặt bức ảnh dưới một máy quay video, chúng tôi đặt hộp sọ dưới một máy quay video khác, và chúng tôi chồng các hình ảnh trên một màn hình vi tính duy nhất. Tôi có thể thay đổi vị trí của hộp sọ, thay đổi kích thước hộp sọ, di chuyển hộp sọ, thay đổi kích thước tổng thể của nó so với ảnh chụp, thay đổi vị trí của nó so với khuôn mặt, nhưng không được thay đổi tỷ lệ. Hệ thống không cho phép tôi thao tác dữ liệu. Tôi chỉ làm việc này bằng camera. Nếu bạn sử dụng camera và thêm máy tính vào hệ thống, máy tính có thể thao tác dữ liệu và làm cho mọi thứ khớp với nhau. Và thực tế, toàn bộ hệ thống của Abramov được thiết kế để bắt đầu với hộp sọ mà ông số hóa thành ba chiều chỉ với một vài điểm mốc. Sau đó, ông xử lý hộp sọ đó bằng máy tính cho đến khi nó khớp với ảnh chụp.”

Thực ra, trước khi đến Ekaterinburg, Maples đã định quay lại mang theo ảnh chồng hình và thiết bị của riêng mình. Nhưng “vì khuôn mặt bị hư hại, trong chuyến thăm đầu tiên, tôi đã quyết định rằng việc chồng hình lên nhau chẳng có ích gì, ngay cả để xác định đó là gia đình Hoàng gia, chứ đừng nói đến việc phân biệt giữa ba chị em,” ông tiếp tục. “Và rồi tôi biết rằng Abramov đã dựa vào những khuôn mặt được phục dựng để xác định xem ai trong bốn chị em đã mất tích. Khi kết quả hoàn toàn trái ngược với những phát hiện về tuổi tác mà tôi đã thực hiện với các bộ xương và Lowell đã thực hiện với

răng, tôi không thể chấp nhận sự hiện diện của Anastasia.”

Về vấn đề lớn hơn, Maples hoàn toàn đồng ý với Abramov rằng đây là gia tộc Romanov. Chín bộ xương này phù hợp với yêu cầu về độ tuổi, giới tính, chiều cao và cân nặng của chín tù nhân trong Nhà Ipatiev. “Nếu bạn đi ra ngoài một cách ngẫu nhiên và cố gắng tập hợp một nhóm người khác phù hợp chính xác với những mô tả về lịch sử và ngoại hình này, bạn sẽ phải thực hiện một cuộc nghiên cứu phi thường và sau đó đi tìm và giết chết chín người giống hệt”, Maples nói. Ông coi điều này là rất khó xảy ra đến mức không thể thực hiện được.

Chuyện gì đã xảy ra với hai thi thể mất tích? Kinh nghiệm lâu năm của Maples với những cái chết bạo lực cho ông biết rằng cả mười một tù nhân đều đã bị giết. Với mức độ tàn bạo của vụ tấn công nhắm vào gia đình, ông không thể tin rằng có ai đó được phép trốn thoát khỏi hầm Nhà Ipatiev. Để giải thích thêm, ông xem xét lời kể của Yurovsky, mà ông cho là đúng sự thật. Yurovsky đã mô tả việc thiêu hủy hai thi thể. Một là của Thái tử, thi thể còn lại là một phụ nữ mà ban đầu Yurovsky nghĩ là của Alexandra, sau đó khẳng định chắc chắn là của Demidova. Maples tin rằng thi thể phụ nữ này thuộc về Anastasia. Nhưng làm sao Yurovsky có thể nhầm lẫn thân phận của một cô gái mười bảy tuổi với thi thể của một phụ nữ trưởng thành, dù là 46 như nữ hoàng, hay 40 như người hầu gái?

Câu trả lời, theo Maples, nằm ở những thay đổi về hình dạng cơ thể người do quá trình phân hủy. Gia đình Hoàng gia bị giết vào giữa tháng bảy, khi nhiệt độ trung bình ban ngày là 21 độ C. Khuôn mặt của họ bị dập nát bởi những cú đánh liên tiếp từ báng súng trường. Tóc của họ, thấm đẫm máu, chắc hẳn đã khô thành một khối đen xẫm, đóng bánh, không thể nhận ra. Khi những xác chết bị lột sạch quần áo nằm trên mặt đất, giới tính của nạn nhân sẽ hiện rõ, nhưng ngoài ra, những thi thể trần truồng sẽ trương phình đến mức không thể nhận dạng. Maples đôi khi nhìn thấy thi thể của những cô gái vị thành niên, chỉ vài ngày sau khi chết, đã phình to ra trông giống như những phụ nữ trung niên béo phì.

Quá trình phân hủy còn phức tạp hơn thế nữa. Ở ngoài trời, ruồi dễ dàng tìm đường đến xác người vừa mới chết gần đây. Chúng đẻ trứng vào mắt, lỗ mũi, và như trên những nạn nhân này – trong lớp thịt bầy nhầy đẫm máu của những khuôn mặt bị hủy hoại và những cơ thể bị đâm nát. Trong vòng hai ngày ở nhiệt độ này, trứng sẽ nở thành giòi. Không cần phải nói thêm gì nữa, ngoại trừ việc Maples hiểu tại sao Yurovsky có thể không chắc chắn mình đã thiêu xác người phụ nữ nào.

Vào tháng 4 năm 1993, Tiến sĩ William Hamilton, giám định viên y khoa ở Gainesville, tháp tùng Maples trong chuyến đi thứ hai của Maples tới Ekaterinburg. Sau này tôi hỏi họ, dựa trên kinh nghiệm của họ, điều gì đã xảy ra trong tâm trí của một tên đao phủ đang bắn, đâm lưỡi lê và đập nát khuôn mặt của những nạn nhân bất lực. Hamilton là người đầu tiên trả lời: “Tôi nghĩ rằng đây khá điển hình về kiểu ám sát này. Bạn phi nhân cách hóa nạn nhân, tìm cách  khiến cho họ thành một biểu tượng, cái gì đó không phải là một cá nhân đơn lẻ. Anh đang giết chết chế độ, giết chết triều đại Sa hoàng, xóa bỏ toàn bộ quá khứ đáng ghét và tạo ra một trật tự thế giới mới. Những kẻ giết người hàng loạt cũng làm điều tương tự. Thông thường, chúng phân chia ngăn cách và hoàn toàn phi nhân tính hóa nạn nhân, rồi sau đó có thể thực hiện những hành động tàn bạo mà một người bình thường không thể tưởng tượng nổi.” Maples đồng tình. “Một khi đã quyết định giết người, trong hoàn cảnh đêm đó tại Nhà Ipatiev, tôi ngờ rằng hầu hết những người tham gia đều muốn đảm bảo rằng việc này được thực hiện một cách trọn vẹn”, ông nói. “Người ta không chết theo cách bạn muốn khi bạn bắn họ bằng súng ngắn. Họ vẫn tiếp tục sống, họ vẫn tiếp tục rên rỉ, họ vẫn co giật. Và vì vậy, sau khi bắn hết đạn trong súng ngắn, bạn có xu hướng sử dụng các phương tiện khác. Và báng súng và lưỡi lê đều ở gần đó. Đó là lý do tại sao tôi chắc chắn rằng không có người nào sống sót.”

Tiến sĩ Sergei Abramov

Kỹ thuật chồng hình của Abramov: một bức ảnh của Nicholas II được chồng lên hộp sọ của Nicholas II

Nicholai Nevolin và Tiến sĩ William Maples ở Ekaterinburg

Bình luận về bài viết này