Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử (Bài 12)

NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Joseph Cummins

 Trần Quang Nghĩa dịch

 22 THẾ CHIẾN THỨ HAI 1939-1945

CUỘC XUNG ĐỘT CHẾT CHÓC NHẤT TRONG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI ĐƯỢC TIẾN HÀNH BỞI NHỮNG CHIẾN BINH ĐỂN TỪ KHẮP NƠI TRÊN THẾ GIỚI PHỤC VỤ CHO CÁC CƯỜNG QUỐC PHE ĐỒNG MINH HOẶC PHE TRỤC VÀ KẾT THÚC VỚI SỰ TRỖI DẬY CỦA HAI SIÊU CƯỜNG SAU CHIẾN TRANH, HOA KỲ VÀ LIÊN XÔ.

TỔNG QUAN: CUỘC XUNG ĐỘT  LAN RỘNG NHẤT MÀ THẾ GIỚI TỪNG BIẾT ĐÃ BIẾN ĐỔI TOÀN CẦU TRONG MỌI PHƯƠNG DIỆN

Sau khi Thế Chiến I kết thúc, hàng triệu người Đức đã rơi vào trạng thái oán giận âm ỉ bởi các điều khoản khắc nghiệt của Hiệp ước Versailles. Cuộc Đại Suy thoái những năm 1930 đã trở nên trầm trọng hơn ở Đức do hàng tỷ đô la tiền bồi thường chiến tranh phải trả, cũng như thực tế là một phần lớn lãnh thổ của nước này đã bị chiếm đoạt. Nước Đức, với dân số 65 triệu người, cũng bị cấm sở hữu một đội quân thường trực lớn, nhưng trong thời kỳ Cộng hòa Weimar cai trị nước Đức ngay sau chiến tranh, các nhóm bán quân sự vũ trang bí mật đã xuất hiện. Khi Adolf Hitler lên nắm quyền vào năm 1933, các lực lượng hùng mạnh này (Sturmabetilung, hay SA, và Schutzstaffel, hay SS) đã trở thành hạt nhân của quân đội Đức mới.

Hitler lãnh đạo Đảng Quốc xã Đức, có nghĩa là ông là một người theo chủ nghĩa phát xít. Về cơ bản, ông rao giảng thông điệp rằng Đức cần phải mở rộng ranh giới của mình ra bên ngoài để thích ứng với dân số đang gia tăng, và do đó cần phải tiến hành chiến tranh giành lãnh thổ. Hơn nữa, việc tái cấu trúc nhân khẩu học của Đức theo các đường lối chủng tộc là điều cần thiết – tất cả các chủng tộc khác, đặc biệt là người Do Thái, được coi là “không trong sạch” hoặc “không mong muốn” sẽ bị (điều này sớm được làm rõ) thanh trừng, đặc biệt là nếu họ sống trên lãnh thổ mà người Đức mong muốn chiếm hữu.

Để đạt được mục đích này, Hitler đã đẩy mạnh tái vũ trang Đức trong suốt những năm 1930, phớt lờ các cuộc phản đối vô hiệu quả của chính phủ các nước như Pháp và Anh, vốn cũng đang sa lầy trong khó khăn kinh tế vì cuộc Đại Suy thoái. Các nước này (và Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên hợp quốc, cũng vô dụng không kém,) đã không làm gì khi Hitler đưa quân vào Rhineland (một khu vực dọc biên giới Pháp-Đức phi quân sự hóa sau Thế chiến I) vào năm 1936, và vào năm 1938 đã sáp nhập Áo và nắm quyền kiểm soát Sudetenland, một khu vực của người nói tiếng Đức ở Tiệp Khắc.

Trong trường hợp sau, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã chấp thuận các yêu cầu của Hitler, đổi lại ông ta sẽ không được di chuyển vào phần còn lại của Tiệp Khắc. Chamberlain trở về Anh và tuyên bố “hòa bình trong thời đại của chúng ta”, nhưng trong vòng sáu tháng, Hitler đã sáp nhập phần còn lại của Tiệp Khắc. Trong vòng một năm, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, ngày theo truyền thống được coi là ngày bắt đầu của Thế chiến II, Hitler đã bắt đầu cuộc xâm lược Ba Lan. (Hitler có ý định xâm lược Liên Xô, nhưng lúc đó ông đã ký một hiệp ước bất tương xâm với nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin, đồng ý chia cắt Ba Lan.)

Cuộc tấn công nhanh chóng của Hitler vào Ba Lan – với máy bay ném bom bổ nhào Stuka, xe tăng và bộ binh – là cuộc  blitzkrieg đầu tiên, hay “chiến tranh sấm sét”. Pháp và Đức bị ràng buộc bởi hiệp ước phải giúp Ba Lan và do đó tuyên chiến với Đức vào ngày 3 tháng 9 năm 1939. Tháng 4 năm sau, quân đoàn cơ giới của Hitler xâm lược Na Uy, và vào tháng 5, họ tấn công Hà Lan, Bỉ và Pháp. Quân đội Pháp đã bị đánh bại hoàn toàn, và một lực lượng viễn chinh Anh được cử đến để giúp đỡ đã bị đẩy lùi về bờ biển Kênh đào Anh, nơi họ được sơ tán tại Dunkirk.

Trong khi đó, ở Viễn Đông, người Nhật cũng theo đuổi chính sách bành trướng. Họ đã xâm lược và chiếm Mãn Châu từ tay người Trung Quốc vào năm 1937, và họ đang tham gia vào một cuộc chiến tranh liên tục với Trung Quốc. Các cuộc giao tranh biên giới với Hồng quân ở phía tây Mãn Châu đã chứng minh rằng người Nga là một đối thủ khó khăn hơn nhiều so với quân Nga trong Chiến tranh Nga-Nhật.

Người Nhật chuyển sự chú ý của họ về phía nam, lên kế hoạch xâm lược Đông Nam Á giàu dầu mỏ. Philippines thuộc sở hữu của Hoa Kỳ đã cản đường họ, và các nhà hoạch định chiến tranh Nhật Bản biết rằng sớm muộn gì họ cũng phải tấn công Hoa Kỳ. Nhìn thấy chuỗi chiến thắng của Đức, người Nhật đã đạt được một thỏa thuận phòng thủ chung với Đức và Ý, do Benito Mussolini cai trị. Hiệp ước ba bên này đã thành lập Trục Berlin-Rome-Tokyo, và Đức, Ý và Nhật Bản được gọi là các cường quốc phe Trục.

Bắt đầu từ tháng 8 năm 1940, Hermann Göring, người đứng đầu Luftwaffe (Không lực) hùng mạnh của Đức, đã phát động một chiến dịch ném bom lớn vào Anh, bắt đầu là các căn cứ của Không quân Hoàng gia (RAF), để làm suy yếu nước Anh trước khi Đức xâm lược. RAF đã phải chịu những tổn thất khủng khiếp, nhưng họ đã kiên trì chống trả. (Trong một khoảng thời gian kéo dài hai tuần, một phần tư số phi công Anh đã thiệt mạng.) Sau đó, người Đức đã thay đổi chiến thuật, ném bom các thành phố của Anh bằng các cuộc đánh bom khủng bố. nhưng người Anh, do thủ tướng kiên quyết của họ, Winston Churchill, lãnh đạo, đã nhất quyết không bỏ cuộc. Những chiến thắng của Đức ở Hy Lạp và Balkan đã biến năm 1940 thành một năm chiến thắng cho phe Trục.

Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1941, khi Vương quốc Anh phải hứng chịu những trận ném bom tàn khốc cũng như cuộc phong tỏa do tàu ngầm Đức thực hiện, tình hình đất nước này đã trở nên tồi tệ. Nhưng vào tháng 3 năm đó, Hoa Kỳ, chính thức trung lập, đã thông qua chính sách Lend-Lease, cho phép Mỹ gửi khí tài chiến tranh đến các quốc gia có ảnh hưởng đến an ninh của mình. Các nguồn cung cấp lớn được gửi bằng các đoàn tàu đến Vương quốc Anh qua vùng biển Bắc Đại Tây Dương nguy hiểm, nơi lởn vởn nhiều tàu ngầm U-Boat của Đức.

Tình hình của Vương quốc Anh trở nên tốt hơn đôi chút khi Hitler phạm phải sai lầm lớn khi tấn công Liên Xô vào tháng 6 năm 1941 với lực lượng 1,5 triệu quân. Bị bất ngờ lúc đầu, Liên Xô đã lui quân, tổn thất khoảng 3 triệu quân – tử trận, bị thương và bị bắt trước khi phòng tuyến của Liên Xô ổn định và mùa đông nước Nga khiến quân Đức phải lùi bước.

Vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản đã bất ngờ không kích dữ dội vào căn cứ hải quân Trân Châu Cảng ở Hawaii của Hoa Kỳ. Mặc dù tàn khốc, cuộc tấn công do Đô đốc Isoruku Yamamoto vạch ra đã không đánh trúng các tàu sân bay của Hoa Kỳ đang ở ngoài khơi, và do đó chỉ là một thành công chiến thuật hạn chế. Hoa Kỳ nhanh chóng tuyên chiến với Phe Trục.

Ở Viễn Đông, Nhật Bản đã tấn công và chiếm đóng Philippines, Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn Hà Lan và Singapore vào tháng 4 năm 1942 và chiếm đóng nhiều đảo Nam Thái Bình Dương. Nhưng một nỗ lực nhằm chiếm Cảng Moresby, New Guinea để cắt đứt liên lạc giữa Hoa Kỳ và Úc đã thất bại khi người Mỹ quay trở lại và tiêu diệt lực lượng xâm lược Nhật Bản tại Trận chiến Biển San Hô vào tháng 5 năm 1942. Một tháng sau, một nỗ lực nhằm tiêu diệt hạm đội Hoa Kỳ đã bị ngăn chặn tại Trận chiến Midway khi các máy bay trên tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ đánh chìm bốn tàu sân bay Nhật Bản và người Mỹ bắt đầu đảo ngược tình thế chống lại Nhật Bản ở Thái Bình Dương.

Vào tháng 5 năm 1942, một cuộc tấn công của Afrika Korps (Quân đoàn Phi Châu)  nổi tiếng của Đức, dưới sự chỉ huy của Tướng Erwin Rommel đã đẩy lùi lực lượng Anh phòng thủ ở Libya gần như trở lại Cairo, nhưng sau đó sức kháng cự của Anh đã mạnh lên và họ đã chặn đứng quân Đức trong hai trận chiến tại El Alamein, vào tháng 7 và tháng 10 năm 1942. Một tháng sau, quân đội Anh và Hoa Kỳ (do Tướng Dwight D. Eisenhower chỉ huy) đã đổ bộ vào Maroc ở phía sau quân Đức và bắt chúng trong thế gọng kìm. Quân Đức ở Châu Phi đã buộc phải đầu hàng vào tháng 5 năm 1943. Với các sườn phía nam an toàn, quân đồng minh đã xâm lược Sicily vào tháng 7 và Ý vào tháng 9.

Một đòn giáng khác vào quân Đức đến từ cuộc tấn công bị sa lầy của họ vào thành phố Stalingrad của Nga. Cuộc tấn công của Đức đã tăng tốc kể từ mùa đông năm 1941-42, và họ đã tấn công Stalingrad vào tháng 8 năm 1942. Nhưng sức kháng cự mạnh mẽ bất ngờ từ phía quân Nga đã biến trận chiến giành thành phố thành một cuộc tắm máu khủng khiếp, trong đó 400.000 người Đức mất mạng và toàn bộ quân đội Đức đầu hàng trong vòng bốn tháng, mãi mãi làm chậm lại cuộc xâm lược của Hitler.

Trong khi đó, tại Thái Bình Dương, các nhà hoạch định chiến tranh Hoa Kỳ đã quyết định tấn công Nhật Bản bằng hai mũi nhọn. Một mũi, có căn cứ tại Úc, sẽ tấn công dọc theo bờ biển New Guinea, qua Quần đảo Solomon, và tiến tới Philippines và Tokyo, bỏ qua và cắt đứt nhiều đảo do Nhật Bản chiếm giữ trên đường đi. Mũi tấn công còn lại sẽ tiến dọc theo một số đảo nhỏ hơn của Trung Thái Bình Dương, đến quần đảo Mariana, Philippines và bờ biển Trung Quốc, và từ đó đến các đảo chính của Nhật Bản. Chiến lược sau này khiến việc giữ vững chính quyền Trung Hoa Dân quốc trong cuộc chiến trở nên quan trọng, để bảo vệ sườn trái của Hoa Kỳ. Hàng loạt vũ khí và vật liệu đã được gửi đến quân đội Tưởng Giới Thạch, mặc dù vậy, họ vẫn khó có thể chống lại quân Nhật.

“Cuộc nhảy đảo” của Hoa Kỳ bắt đầu bằng một cuộc tấn công vào Đảo Solomon do Nhật Bản chiếm đóng ở Guadalcanal vào tháng 8 năm 1942, nơi một trận chiến khó khăn kéo dài sáu tháng đã kết thúc bằng chiến thắng của Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1943. Trong khi đó, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã chiến đấu tại các đảo san hô như Tarawa, Peleliu và Bougainville, xây dựng các căn cứ máy bay ném bom khi họ di chuyển. Đến tháng 11 năm 1944, máy bay ném bom B-29 hoạt động tại các sân bay ở phía bắc Mariana và Trung Quốc đã có thể tiếp cận các mục tiêu ở Nhật Bản.

Sau nhiều cuộc tranh luận, cuối cùng quân Đồng minh đã quyết định đổ bộ lên đất Pháp dọc theo bờ biển Normandy vào ngày 6 tháng 6 năm 1944. Với một hạm đội vô tiền khoáng hậu gồm 6.000 tàu chiến có lực lượng tấn công gồm 175.000 quân Anh, Canada và Hoa Kỳ, quân Đồng minh đã giành được một bàn đạp vững chắc ở Pháp. Sau những cuộc giao tranh đẫm máu trong những tháng mùa hè, quân Đồng minh đã có thể đẩy quân Đức vào thế rút lui hoàn toàn vào tháng 8 năm đó.

Tuy nhiên, quân Đức vẫn chưa hề suy yếu. Vào tháng 12 năm 1944, bí mật tập hợp khoảng 250.000 quân và 1.000 xe tăng, họ đã phát động Trận Bulge ở Rừng Ardennes tại Bỉ, gần như đã phá vỡ được phòng tuyến của Hoa Kỳ và Anh. Mặc dù đã có một cuộc chiến dữ dội, họ đã bị đẩy lùi, và quân Đồng minh tiếp tục tiến về Berlin, sử dụng máy bay ném bom hạng nặng để phá hủy các thành phố, nhà máy và quân đội Đức. Trong khi đó, Quân đội Liên Xô chiến thắng đã đẩy lùi quân Đức từ phía đông. Sau khi Hitler tự sát trong boongke Berlin của mình, Đức đã đầu hàng vào ngày 7 tháng 5 năm 1945.

Điều này giúp các đồng minh rảnh tay tập trung toàn bộ sức mạnh vào Nhật Bản. Các cuộc không kích của Hoa Kỳ vào Nhật Bản ngày càng tăng cường độ, nhắm vào dân thường. Vào tháng 4 năm 1945, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã nhảy đảo đến tận các đảo Bonin (Iwo Jima) và Ryukyus (Okinawa) của Nhật Bản, nhưng sức kháng cự của Nhật Bản trở nên dữ dội hơn khi đất nước của họ lâm nguy, đặc biệt là với sự xuất hiện của đội thần phong kamikaze, hay phi công tự sát.

Lo sợ về thương vong sẽ xảy ra nếu người Mỹ và người Anh xâm lược Nhật Bản theo kế hoạch vào tháng 11, Tổng thống Hoa Kỳ mới Harry S. Truman đã quyết định thả các quả bom nguyên tử mới chế tạo xuống Nhật Bản. Quả bom đầu tiên đã được thả ở Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945. Ba ngày sau, một quả bom khác được thả xuống Nagasaki. Với 200.000 người chết vì hai quả bom này, người Nhật đã đầu hàng. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, trên tàu chiến USS Missouri của Hoa Kỳ, Nhật Hoàng đã ký hiệp định đầu hàng chấm dứt Thế chiến II.

Sau chiến tranh, Liên Hợp Quốc được thành lập với hy vọng duy trì hòa bình, nhưng không ai có thể nói một cách chắc chắn rằng cuộc chiến tranh này sẽ chấm dứt mọi cuộc chiến tranh trong tương lai. Thế chiến II, với hàng triệu người chết, đơn giản là quá khủng khiếp. Kết quả tức thời của cuộc chiến là Hoa Kỳ và Liên Xô đã bước lên vị thế siêu cường, nơi họ gần như ngay lập tức đối đầu trong Chiến tranh Lạnh, mỗi bên đe dọa bên kia bằng khả năng hủy diệt hạt nhân.

Trật tự thế giới thuộc địa giờ đã biến mất mãi mãi, với các quốc gia tranh giành quyền tự quyết. Việc phát hiện ra Giải pháp Cuối cùng, tức kế hoạch diệt chủng kéo dài, Holocaust, của Hitler, trong đó hơn 6 triệu người Do Thái bị giết trong các trại tập trung đã thay đổi cách mọi người ở khắp mọi nơi nhìn nhận khái niệm về cái ác. Nó cũng góp phần thúc đẩy sự ra đời của nhà nước Israel.

TRẬN CHIẾN ĐÁNH DẤU SỰ KẾT THÚC CỦA PHE TRỤC

Ngày D: 6 tháng 6 năm 1944

Khi đoàn tàu đông đảo băng qua vùng nước tối tăm, nổi sóng của eo biển Manche, tiếng gầm rú của những chiếc máy bay bảo vệ trên cao, các phóng viên trong hầm tàu ​​với binh lính  các quốc gia Đồng minh, người Mỹ, Anh và Canada, đã nhận thấy một hiện tượng thú vị đang hình thành. Hầu hết binh lính Hoa Kỳ là những tân binh chưa từng chiến đấu trước đây. Thông thường, người ta tin rằng thành phần này phải là những người lo lắng nhất, nhưng trên thực tế, những chiến sĩ trẻ này có vẻ là những người tuyệt vời nhất, gần như hào hứng khi được tham gia vào lịch sử. Rốt cuộc, họ sắp thực hiện cuộc tấn công đầu tiên vào Pháo đài Châu Âu, lãnh thổ của Hitler kể từ năm 1940, và tấn công ngay vào trung tâm của đế chế Đức.

Những người lính Mỹ cười nói, lau sạch súng trường và mài lưỡi lê. Họ biết rằng có một nhiệm vụ khó khăn ở phía trước và một số người sẽ nằm xuống, nhưng tất cả họ đều nghĩ rằng người không may đó sẽ không phải là mình.

Một bức tranh khác với các tiểu đoàn Anh và Canada đã trải qua ba năm hoặc hơn trong chiến tranh. Trong trường hợp của họ, như một quan sát viên đã viết, “Mọi người giỏi đều đã được thăng chức hoặc đã thương vong.” Những chiến binh này đã đối mặt với Wehrmacht của Hitler, bộ binh kiêu hãnh và hiếu chiến của ông ta, và họ biết họ sẽ phải chiến đấu dữ dội như thế nào, đặc biệt là bây giờ, khi bảo vệ lãnh thổ của chính mình. Khi bầu trời sáng dần – nhưng không quang đãng vào sáng sớm u ám ngày 6 tháng 6 năm 1944, những chiến binh này biết chính xác điều gì đang chờ đợi họ. Họ không tự lừa dối mình rằng cá nhân họ sẽ là mục tiêu của một trận mưa hỏa lực chết chóc và hủy diệt.

Tân binh hay cựu chiến binh, niềm hy vọng của quân Đồng minh đặt vào 150.000 người này, những người đang tiến đến cách bờ biển Pháp 60 dặm (97 km) trên khoảng 6.500 tàu đổ bộ. Mặc dù sức mạnh của thế giới đang chống lại Hitler, nhưng ông ta tỏ ra rất khó bị đánh bại. Ở Ý, quân Đồng minh đang tiến lên qua bán đảo, nhưng với tốc độ chậm chạp trên địa hình gồ ghề. Trong khi đó, ở Nga, Hồng quân đang giành chiến thắng, và quân Đức đang dần dần nhường bước.  Ban đêm máy bay  Đồng minh dùi vập dữ dội các thành phố và ngành công nghiệp Đức, nhưng quân Đức vẫn tiếp tục chiến đấu.

Mọi người, quân Đức hay Đồng minh, đều biết rằng sẽ có một cuộc xâm lược lớn ở đâu đó trên bờ biển kênh đào Pháp. Các tuyến phòng thủ của Đức trải dài từ Scandinavia đến Tây Ban Nha, nhưng họ không thể củng cố tất cả các khu vực một cách đồng đều. Những nhà  lập kế hoạch chiến tranh của họ đã đi tới kết luận rằng quân Đồng minh sẽ tấn công qua Eo biển Dover, hướng đến Pas de Calais, khu vực gần nhất giữa Pháp và Anh. Calais có một bến cảng tự nhiên mà quân Đồng minh có thể sử dụng. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với người Đức khi họ bố trí lực lượng dự bị chính của mình là Quân đoàn số 15, gồm khoảng 100.000 người ở đó.

BẢN ĐỒ LỊCH SỬ QUÂN SỰ CỦA QUÂN ĐỒNG MINH TẤN CÔNG VÀO BÃI BIỂN NORMANDY NGÀY 6 THÁNG 6 NĂM 1944 ĐƯỢC HIỂN THỊ TRÊN BẢN ĐỒ LỊCH SỬ QUÂN SỰ CỦA QUÂN ĐỘI HOA KỲ. CÁC BÃI BIỂN ĐỔ BỘ LÀ SWORD, JUNO, GOLD, OMAHA VÀ UTAH, VỚI BA BÃI ĐẦU TIÊN DO QUÂN CANADA VÀ ANH TẤN CÔNG VÀ HAI BÃI CUỐI DO QUÂN MỸ. TỔNG CỘNG, KHOẢNG 10.000 NGƯỜI TRONG SỐ 155.000 NGƯỜI ĐÃ THƯƠNG VONG TRONG CUỘC ĐỔ BỘ.

Nhưng không phải phần còn lại của Bức tường Đại Tây Dương, như người Đức gọi tên, được củng cố kém. Thống chế Erwin Rommel – nổi tiếng với biệt danh Cáo Sa mạc  – đã được giao nhiệm vụ xây dựng hệ thống phòng thủ và quyết tâm không để quân Đồng minh có được bàn đạp ở Pháp. Ông chắc chắn rằng họ sẽ khai thác bất kỳ đầu cầu nào với lợi thế lớn về thiết giáp và máy bay ném bom.

Các nhà hoạch định chiến tranh của Đồng minh – biết từ các cuộc chặn bắt liên lạc Siêu tần số  tuyệt mật của họ rằng quân Đức đang tập trung xung quanh Pas de Calais –  không có ý định tấn công ở đó. Các đồng minh đã dàn dựng một vụ nghi binh hoành tráng và tinh vi để khiến quân Đức nghĩ rằng một cuộc tấn công vào Calais sắp xảy ra. Tuy nhiên, mục tiêu thực sự của các nhà lãnh đạo Đồng minh, chẳng hạn như Tướng Dwight D. Eisenhower, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh, và Tướng Bernard Law Montgomery, người đứng đầu lực lượng bộ binh của Đồng minh, là Normandy, Pháp. Tại đây, cụ thể là tại Bán đảo Cotentin, trên năm bãi biển được thiết kế là Juno, Gold, Sword, Utah và Omaha, màn khởi đầu của hồi kết cục Thế chiến II sẽ mở ra trong một cuộc tấn công được đặt tên thích hợp là Chiến dịch Overlord ( Chúa Tể).

Hạm Đội Tàu Lớn Nhất

Khi quân Đồng minh chống chọi với chứng say sóng và trèo vào thuyền đổ bộ, nhấp nhô lên xuống trong những con sóng lớn của eo biển Manche, họ chứng kiến ​​một cuộc oanh tạc rầm rộ vào các vị trí của kẻ thù. Thật là một cảnh tượng kinh hoàng. Hàng ngàn máy bay che kín bầu trời  trên cao, thả bom biến bờ biển thành một bức màn khói. Những tiếng nổ lớn long trời vang vọng khắp mặt nước, như tiếng bước chân của hàng ngàn gã khổng lồ. Không quân Đồng minh đã thống trị bầu trời, với chỉ 200 máy bay Luftwaffe chống trả.

Những người lính trên thuyền đổ bộ không hề hay biết rằng trận chiến trên bộ giành Normandy đã bắt đầu từ đêm hôm trước, khi 20.000 binh lính của Sư đoàn Nhảy dù 82 và 101 của Hoa Kỳ và Sư đoàn Nhảy dù 6 của Anh đã nhảy xuống phía sau phòng tuyến kẻ thù. Mục tiêu của họ là chặn đường tiếp cận bãi biển Normandy của địch, ngăn quân Đức tăng viện. Nhưng hầu hết lính nhảy dù đều lạc địa chỉ trong sự hỗn loạn không thể tránh khỏi khi thả dù trong bóng đêm, và chỉ có 1 phần 25 lính dù tiếp đất đúng khu vực thả được chỉ định. Tuy nhiên, sự hỗn loạn cũng có lợi thế của nó, khiến quân Đức phải đoán già đoán non về những gì sắp xảy ra. Nhiều chỉ huy Đức coi các cuộc tấn công hỗn loạn của lính dù chỉ là một cuộc đột kích khác của lực lượng biệt kích, ngay cả sau khi một vị tướng Đức bị phục kích và bị giết chết bởi lính Nhảy dù 101 khi tình cờ phát hiện ra xe tham mưu của ông.

Nhưng có một khoảnh khắc, khi bầu trời bình minh bắt đầu rựng sáng nhưng ngay trước khi máy bay ném bom của Đồng minh tràn vào, các xạ thủ Đức trong các lô cốt trên bờ có thể trông thấy chính xác những gì đang diễn ra. Trải dài trên mặt nước trước mặt họ đến tận chân trời là hạm đội tàu kinh khủng nhất mà thế giới từng biết. Sau đó, đàn máy bay ném bom lũ lượt đến, và các xạ thủ Đức đồng loạt cúi gục đầu xuống.

Khi các xạ thủ Đức ngẩng đầu lên điều khiển súng máy, thì binh lính trên tàu đổ bộ đã áp sát bờ biển.

Các bãi biển đổ bộ, từ đông sang tây, là Sword, Juno, Gold, Omaha và Utah. Ba bãi biển đầu tiên do quân đội Canada và Anh tấn công, và hai bãi biển cuối cùng do quân đội Mỹ tấn công. Trên bãi biển Sword, quân Anh, mặc dù phải đối mặt với bãi mìn và chướng ngại vật bố trí trên bãi biển, đã đổ bộ được 28.000 quân với chỉ 600 thương vong và tiến đến cách mục tiêu của họ, thị trấn Caen,

vài dặm.

Những gì xảy ra trên bãi biển Juno phụ thuộc vào vị trí mà bạn đổ bộ và thời điểm bạn đổ bộ. Trong đợt đầu tiên trên Juno, thương vong của quân Canada lên tới gần 50 phần trăm, nhưng ở những khu vực khác của bãi biển nơi sức kháng cự không quá mạnh, quân đồng minh đã đổ bộ gần như không gặp phải sức kháng cự nào.

Tuy nhiên, tại Gold Beach, quân Anh đã chịu thương vong cực kỳ nặng nề. Tàu đổ bộ của họ, sợ hỏa lực địch quá rát, đã thả binh sĩ quá xa bờ biển, hạ thấp các cửa dốc xuống dưới mực nước quá sâu  6 feet (1,8 m), khiến nhiều binh lính bước ra, bị các thiết bị nặng nề kéo xuống nước, đã chết đuối. Những binh lính khác đến được bãi biển, chỉ để hứng chịu hỏa lực tàn khốc và một cảnh hỗn loạn không tưởng tượng được. Như một người lính nhớ lại: “Bãi biển vương vãi xác tàu, một chiếc xe tăng đang bốc cháy, những cuộn chăn và đồ dùng cá nhân, xác chết và những mảnh thi thể. Một anh chàng đi gần tôi bị một quả đạn pháo thổi bay làm đôi, và nửa thân dưới của anh đổ gục thành một đống máu trên cát.”

Trên bãi biển Utah, sự hỗn loạn hàng loạt đã xảy ra. Dòng nước mạnh đã đưa Sư đoàn 4 Hoa Kỳ đi xa gần 2 dặm (3 km) so với mục tiêu, và quân lính không biết họ đang ở đâu. Tuy nhiên, điều này hóa ra lại là một sự may mắn, vì họ đã đổ bộ vào một khu vực không được phòng thủ chặt chẽ. Họ nhanh chóng phá vỡ được bức tường chắn sóng và liên lạc với lính dù từ Sư đoàn Không vận 101.

Omaha đẫm máu

Chính tại bãi biển Omaha, cuộc thảm sát thực sự đạt đến mức độ hoành tráng. Bởi vì bãi biển ở đó là bãi cát trống duy nhất theo cả hai hướng trong vài dặm, nên những người lập kế hoạch của Đức biết rằng quân Đồng minh sẽ phải sử dụng nó.

Bãi biển Omaha chỉ dài 6 dặm (9 km) và sâu khoảng 400 yard (365 m) khi thủy triều xuống, thời điểm cuộc tấn công diễn ra. Phần lớn bãi biển là đá cuội hoặc đá phiến, và có những vách đá cao hướng ra phía trước và hai bên, khiến nó giống như một đấu trường thiên nhiên. Hệ thống phòng thủ của Đức ở đây rất đáng gờm. Từng tấc đất của bãi biển đều được đặt súng máy, súng cối, đại pháo, và các phòng đạn dược ngầm và lô cốt trên đỉnh vách đá, được kết nối bằng một loạt các chiến hào kiên cố. Năm khe núi nhỏ dẫn lên vách đá, nhưng trên đỉnh mỗi khe núi là một khẩu 88, loại pháo hạng nhẹ của Đức phổ biến và nguy hiểm nhất.

Ngay khi lính Mỹ đổ bộ vào đây lúc khoảng 6:40 sáng, quân Đức đã nổ súng. Người Đức kinh ngạc trước sự táo bạo của lính Mỹ. “Chúng hẳn là điên rồi”, một binh sĩ Đức nói với đồng đội của mình. “Chúng định bơi vào bờ ngay dưới họng súng của chúng ta sao?” Tàu đổ bộ đầu tiên trên bãi biển chỉ đơn giản là biến mất sau một trận mưa đạn. Những người lính Mỹ khác bò lên bãi biển, ẩn núp theo những hàng dài ngoằn ngoèo sau những chướng ngại vật trên bãi biển, trong khi súng máy cào lên xuống, giống như những vòi nước tưới cây chết người. (Một xạ thủ Đức đã bắn 12.000 viên đạn vào ngày hôm đó.) Cuối cùng, binh lính Mỹ, được thúc đẩy bởi những sĩ quan và hạ sĩ quan dũng cảm, nhận ra rằng nếu họ cứ ở lì tại chỗ chịu trận, trước sau gì cũng sẽ bị bắn chết. Và vì vậy, họ bắt đầu tiến về phía trước, đơn lẻ hoặc từng nhóm hai ba người, cho đến khi tới  được nơi trú ẩn tương đối của một bức tường chắn sóng gần chân vách đá. Đến chiều, một vài người vượt qua được các lối thoát hiểm, và nhiều người khác cũng đi theo.

Cuối cùng, 40.000 người đã đổ bộ vào bãi biển Omaha trong ngày và tản ra khoảng một dặm từ đỉnh vách đá, nơi họ đào hào – trong khi các lực lượng khác cũng đang hì hục đào hào dọc theo bãi biển Normandy dài 60 dặm (97 km) – chờ đợi cuộc phản công không thể tránh khỏi của Đức.

Sự khởi đầu của hồi kết thúc

Cuộc phản công có thể là điều không thể tránh khỏi, nhưng nó đã không bao giờ xảy ra. Các chỉ huy Đức nghĩ rằng mục tiêu thực sự của cuộc tấn công của Đồng minh vẫn là Pas de Calais, và Normandy chỉ là một trận nghi binh. Các chỉ huy Đức sẽ mất nhiều tuần để tìm ra giải pháp khác, và vào thời điểm đó, quân Đồng minh đã bảo vệ được một đầu cầu vững chắc dài 120 dặm (193 km) và sâu 10 dặm (16 km), trong khi nhiều người và khí tài hơn đã đổ vào các bến cảng nhân tạo mà quân Đồng minh tạo ra ở Normandy.

Tổng cộng, khoảng 10.000 người đã thiệt mạng hoặc bị thương trong tổng số khoảng 155.000 người vào Ngày D, nhưng cái giá cao này có nghĩa là sự hủy diệt cuối cùng của nước Đức Hitler. Rất nhiều cuộc chiến đấu khó khăn vẫn còn ở phía trước, nhưng bước tiến lớn đầu tiên đã được thực hiện.

NHỮNG NHÂN VẬT Ở YALTA

Ba người đều có tất cả quyền lực và vinh quang của mình – Winston Churchill, điếu xì gà trên tay, Franklin Delano Roosevelt, chiếc áo choàng vắt qua vai, và Joseph Stalin, trong bộ quân phục – khi họ gặp nhau vào tháng 2 năm 1945, tại Yalta, ở Crimea để quyết định số phận của thế giới sau chiến tranh.

Mỗi người đều đóng vai trò quan trọng trong việc giúp đưa sự thất bại của Phe Trục ngày càng gần hơn với thực tế. Churchill là thủ tướng Anh, thay thế Neville Chamberlain, người đã xoa dịu Hitler và Đức Quốc xã và do đó đánh mất hết uy tín với người dân Anh. Churchill biết rằng ông cần phải truyền cảm hứng cho Anh để tiếp tục bất chấp mọi khó khăn. Các bài diễn văn của ông trong những ngày đen tối của mùa hè và mùa thu năm 1940 vang vọng với ngôn từ truyền cảm hứng mạnh mẽ, như trong bài diễn văn “giờ phút tuyệt vời nhất của chúng ta” của ông trước quốc hội Anh, nơi ông tuyên bố rằng Trận chiến vì nước Anh đã bắt đầu. Ông nói: “Nếu Đế chế Anh và Khối thịnh vượng chung của nó tồn tại trong một nghìn năm, mọi người sẽ nói rằng, “Đó là giờ phút tuyệt vời nhất của họ.”

Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, người đã lãnh đạo đất nước mình vượt qua cuộc Đại Suy thoái, cũng bắt đầu khéo léo đưa Hoa Kỳ đến với chiến tranh, mặc dù có nhiều người theo chủ nghĩa biệt lập cho rằng Hoa Kỳ không nên can thiệp vào những gì đang diễn ra ở châu Âu. Nhưng Roosevelt, thông qua luật Lend-Lease, đã có thể cung cấp viện trợ cho Vương quốc Anh. Sau đó, khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Roosevelt tuyên chiến bằng những lời lẽ vang dội: “Ngày 7 tháng 12 năm 1941… là ngày sẽ sống mãi trong sự ô nhục”. Ông, giống như Churchill, đã chủ trì một đất nước chứng kiến ​​những thất bại trong những ngày đầu của chiến tranh nhưng đã nhanh chóng tìm được chỗ đứng trong chiến tranh và chấp nhận chế độ phân phối hạn chế cùng các hình thức thiếu thốn khác trên mặt trận dân sự để quân đội có thể tiến xa hơn trong cuộc chiến chống lại Đức, Ý và Nhật Bản.

TRONG ẢNH: BA ÔNG LỚN  TẠI HỘI NGHỊ YALTA Ở CRIMEA ĐẠI DIỆN CHO BA CƯỜNG QUỐC LỚN CỦA THẾ GIỚI Ở CUỐI CUỘC CHIẾN TRANH.

Thủ tướng Joseph Stalin là một trường hợp khác. Ông là nhà độc tài toàn trị của một đất nước mà ông đã tàn nhẫn thanh trừng (hoặc bỏ đói hàng triệu người dân vì chính sách tập thể hóa nông nghiệp của ông.) Và ông đã bị lừa khi nghĩ rằng Hitler là đồng minh của mình vào đầu cuộc chiến. Tuy nhiên, khi người Nga thoạt đầu loạng choạng sau cuộc phát động bất ngờ của Chiến dịch Barbarossa, cuộc tấn công ồ ạt của Hitler vào Nga, Stalin cũng đã cung cấp xương sống giúp đất nước ông không ngã quỵ.

Tại Yalta, ba nhà lãnh đạo này đã họp lại để quyết định điều gì sẽ xảy ra sau khi Đức và Nhật Bản bị đánh bại. Họ đã quyết định chia nước Đức thành các vùng do Nga, Anh và Hoa Kỳ giám sát. Nhưng tại Yalta, Stalin đã đồng ý cho phép Pháp cai trị một vùng – miễn là vùng đó đến từ lãnh thổ Anh hoặc Hoa Kỳ.

Đứng đầu trong chương trình nghị sự của Stalin là Ba Lan. Ông muốn đất nước này thuộc Liên Xô, tuyên bố rằng theo truyền thống, đây là “hành lang mà kẻ thù đi qua để vào Nga”. Roosevelt đồng ý với điều này, mặc dù nó không khác việc bán đứng Ba Lan cho Nga. Điều này khiến Churchill rất thất vọng, vì Vương quốc Anh đã hứa công nhận Ba Lan sẽ trở thành một quốc gia tự do sau chiến tranh. Nhưng Roosevelt muốn đổi lại một điều gì đó – lời hứa của Stalin là sẽ tấn công Nhật Bản, quốc gia mà nước này đã có hiệp ước bất tương xâm, trong vòng 90 ngày sau khi Đức bị đánh bại.

Roosevelt đã bị chỉ trích nặng nề vì quyết định này, nhưng vào thời điểm đó, ông không biết liệu bom nguyên tử có được phát triển kịp thời để sử dụng chống lại Nhật Bản hay không, và ông biết rằng bất kỳ cuộc xâm chiếm nào vào các đảo chính của Nhật Bản cũng sẽ là một cuộc tắm máu. Ông hy vọng rằng việc thành lập Liên hiệp quốc – mà tại Yalta Stalin đã đồng ý tham gia – sẽ giúp cải thiện tình trạng khốn khổ của Ba Lan. Roosevelt đã chết vì xuất huyết não chỉ sau hơn hai tháng sau Yalta. Vào cuối chiến tranh, Stalin đã tấn công Nhật Bản, nhưng chủ yếu là để giành quyền lực ở Mãn Châu. Và Ba Lan không may đã bị kéo trở lại phía sau cái mà sau này Churchill gọi là “Bức màn sắt”.

VŨ KHÍ CHIẾN TRANH

 

Chiến tranh trên bộ: Tấn công bằng xe tăng – Kỵ binh cơ giới, đã làm thay đổi cuộc chiến trên bộ

Trong khi xe tăng và xe bọc thép mới được đưa vào sử dụng trong Thế chiến I, chúng đã trở thành yếu tố quyết định trong Thế chiến II. Trong thời gian giữa hai cuộc chiến, các nhà hoạch định quân sự lúc đầu nghĩ rằng xe tăng chỉ nên được sử dụng như công cụ hỗ trợ cho bộ binh.

Tuy nhiên, nhiều nhà hoạch định chiến tranh có tư duy tiến bộ bao gồm người Anh J.F.C. Fuller và Basil H. Liddell Hart và tướng Đức Heinz Guderian tin vào việc sử dụng các sư đoàn thiết giáp cơ giới hóa hoàn toàn. Người Đức đặc biệt đi tiên phong trong ý tưởng về các sư đoàn xe tăng (thiết giáp), tạo ra những sư đoàn đầu tiên vào giữa những năm 1930. Bộ binh đi cùng các sư đoàn này, trong các xe bán xích bọc thép, và cũng có pháo binh cơ động, nhưng lực lượng giết chóc thực sự là hai trung đoàn xe tăng có thể được sử dụng để xuyên thủng các phòng tuyến của kẻ thù trước bộ binh chính quy. Người Đức đã áp dụng điều này một cách hiệu quả ở Ba Lan và Pháp và trong giai đoạn đầu của cuộc tiến công nhanh chóng vào Nga.

Xe tăng Đức chủ chốt trong chiến tranh là Tiger I, được đưa vào chiến đấu vào đầu năm 1941. Nó được bọc thép rất dày, đến mức nó gặp vấn đề khi vượt qua hầu hết các cây cầu. Nó mang theo (cùng với hai súng máy) khẩu pháo 88 mạnh mẽ của Đức, cùng với kính ngắm quang học Zeiss cực kỳ hiệu quả, do đó Tiger có thể hạ gục xe tăng địch ở phạm vi 1.600 yard (1,5 km).

Điều này gây rắc rối cho xe tăng Sherman của Hoa Kỳ và xe tăng T-34 của Nga, vốn phải tiến gần đến khoảng 500 yard (457 m) trước khi có thể hy vọng xuyên thủng lớp giáp của Tiger. Nhưng nhược điểm lớn nhất của Tiger là thời gian sản xuất quá lâu. Trong cùng khoảng thời gian mà các nhà máy Đức có thể sản xuất 1.300 chiếc Tiger, 40.000 chiếc Sherman và 60.000 chiếc T-34 có thể ra lò. Cuối cùng, ngay cả với hỏa lực áp đảo của nó, điều này đã khiến Tiger phải chịu số phận bi đát.

TIGER I, ĐƯỢC PHÁT TRIỂN BỞI NGƯỜI ĐỨC, CÓ VẺ LÀ CỖ MÁY TỐT NHẤT NHƯNG PHẢI MẤT 50 NGÀY ĐỂ SẢN XUẤT TRONG KHI XE TĂNG SHERMAN CỦA MỸ VÀ T-14 CỦA NGA NHANH CHÓNG VƯỢT QUA SỐ LƯỢNG CỦA NÓ.

Chiến tranh trên biển: Tàu sân bay làm cho chiến tranh trên không trở nên cơ động

Cũng giống như xe tăng là biểu tượng của chiến tranh trên bộ trong Thế chiến II, tàu sân bay đại diện cho chiến tranh trên biển. Sau Thế chiến I, nhiều chỉ huy hải quân tiếp tục gắn những giấc mơ chiến lược của họ vào các thiết giáp hạm lớp dreadnought khổng lồ, và chúng chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh hải quân.

Nhưng tàu sân bay là then chốt. Vào cuối Thế chiến I, một số tàu của hải quân Hoa Kỳ và Anh đã được cải tạo để máy bay hai tầng cánh có thể cất cánh từ boong tàu, nhưng tàu sân bay đầu tiên được chế tạo có mục đích là HMS Hermes, được đóng vào năm 1918. Tàu sân bay này và các tàu sân bay khác do Anh, Nhật Bản và Hoa Kỳ đóng trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh đã mang theo những chiếc máy bay ngày càng lớn hơn, chức năng của chúng đã thay đổi từ chỉ trinh sát ở phía trước một lực lượng đặc nhiệm gồm các tàu chiến sang ném bom và phóng ngư lôi vào tàu địch.

Đòn đánh thực sự đầu tiên từ tàu sân bay xảy ra khi tàu sân bay Anh tiêu diệt một nửa hạm đội Ý neo đậu tại Taranto, Ý. Máy bay Nhật Bản tàn phá Trân Châu Cảng đến từ tàu sân bay. Đáp lại, phi công Billy Mitchell khiến Nhật Bản sửng sốt khi ném bom Tokyo chỉ vài tháng sau trận Trân Châu Cảng bằng 16 chiếc B-25 bí mật được phóng từ một tàu sân bay của Hoa Kỳ.

Trong trận hải chiến nổi tiếng nhất của cuộc chiến, Trận Midway, chủ yếu sử dụng máy bay của hải quân, quân Mỹ đã phá hủy 4 tàu sân bay Nhật Bản và thay đổi cục diện cuộc chiến ở Thái Bình Dương.

Cuộc chiến trên không: Máy bay ném bom hạng nặng gây ra sự hủy diệt cho các mục tiêu quân sự và dân sự

Sức mạnh hủy diệt nhất của Thế chiến II, đến từ bầu trời, không có gì sánh bằng sự ra đời của máy bay ném bom hạng nặng và khả năng thả hàng tấn bom nổ và bom cháy vào cả mục tiêu quân sự và dân sự. Trong khi hình ảnh mang tính biểu tượng của Thế chiến I là những chiến hào dài ngoằn ngoèo xuyên qua vùng đất hoang cằn cỗi, thì hình ảnh tượng trưng nhất cho Thế chiến II là những tàn tích đầy ám ảnh của một thành phố, những đống đổ nát với một vài bức tường nằm rải rác còn đứng thẳng.

Người Anh sử dụng Wellington hoặc Lancaster; người Mỹ sử dụng các pháo đài bay B-25, B-17 hoặc Siêu Pháo đài bay B-29; và người Đức sử dụng Junkel 88 hoặc Heinkel III, hoặc thậm chí là máy bay ném bom phản lực được phát triển vào cuối năm 1944, gần như không thể đánh chặn vì tốc độ của nó nhưng đã ra đời quá muộn để cơ thể ảnh hưởng đến tiến trình của cuộc chiến. Máy bay ném bom của Nhật Bản là Betty nhanh nhưng được bọc thép mỏng.

Tất cả những chiếc máy bay này đều được sử dụng để chống lại các mục tiêu quân sự, cũng như các mục tiêu dân sự. Ném bom khủng bố có chủ đích vào các mục tiêu dân sự nhằm phá vỡ tinh thần của kẻ thù là vũ khí chính của Thế chiến II, được quân Đồng minh sử dụng rộng rãi nhất sau năm 1943. Tổng cộng, Hoa Kỳ và Anh đã thả 2 triệu tấn (1,8 tỷ kg) bom xuống châu Âu, giết chết 600.000 thường dân Đức, 60 phần trăm trong số đó là phụ nữ và trẻ em. (Khoảng 60.000 thường dân Anh đã chết vì bom của Đức.)

Trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương, người Mỹ đã gây ra thảm họa cho dân thường Nhật Bản. Trong các cuộc ném bom tầm thấp ban đêm được hoàn thiện bởi Tướng Hoa Kỳ Curtis LeMay, các Siêu pháo đài bay Hoa Kỳ đã thả bom cháy bằng xăng đông đặc xuống kẻ thù, thiêu rụi các thành phố bằng gỗ thành bình địa và tạo ra những cơn bão lửa lớn. (Nhật Bản không còn khả năng phòng không để chống lại máy bay ném bom, do đó chúng có thể bay gần hơn đến mục tiêu của mình.) 200.000 người Nhật đã thiệt mạng và 13 triệu người khác trở thành vô gia cư. Tuy nhiên, cho đến khi quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima, giết chết 80.000 người trong vòng vài giờ, Nhật Bản mới chịu đầu hàng.

Nhìn chung, kể từ khi chiến tranh kết thúc, người ta đã công nhận rằng ném bom chiến lược vào các mục tiêu quân sự có hiệu quả cao trong việc giúp đánh bại kẻ thù. Tuy nhiên, ném bom vào các trung tâm dân cư, không làm mất tinh thần kẻ địch, mà thực sự làm cho đối thủ càng cứng rắn hơn.

Bom nguyên tử:Một loại bom mới cực kỳ mạnh”

Vào tháng 8 năm 1939, Albert Einstein đã viết một số lá thư cho Tổng thống Franklin Delano Roosevelt, thông báo với ông rằng phản ứng phân hạch hạt nhân của nguyên tử uranium bằng cách dùng neutron bắn phá nó có thể tạo ra “một loại bom mới cực kỳ mạnh”. Einstein cũng nói với Roosevelt một điều thậm chí còn đáng báo động hơn: Người Đức đã cấm xuất khẩu uranium và đã nghiên cứu vũ khí thử nghiệm này. Ông thúc giục Roosevelt giúp nhanh chóng thiết lập một chương trình phát triển bom nguyên tử đi  trước người Đức.

Theo yêu cầu của Roosevelt, các nhà khoa học đã từng nghiên cứu về phản ứng phân hạch hạt nhân – bao gồm Enrico Fermi, Edward Teller và J. Robert Oppenheimer cùng với nhiều người khác – hợp tác vào đầu những năm 1940. Fermi, tại Đại học Chicago, đã xây dựng lò phản ứng hạt nhân thành công đầu tiên, cho thấy phản ứng phân hạch hạt nhân có kiểm soát có thể hoạt động. Đây là một bước tiến lớn trong quá trình phát triển bom nguyên tử, bí ẩn phức tạp của nó đã được giải quyết từng bước bởi Dự án Manhattan tuyệt mật, do Oppenheimer đứng đầu, với các địa điểm ở New York và trên khắp cả nước, bao gồm cả Phòng thí nghiệm Los Alamos ở New Mexico.

Vào ngày 16 tháng 7 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên, lõi của nó là plutonium ổn định và mạnh hơn thay vì uranium, đã được kích nổ trên đỉnh một tòa tháp gần Alamogordo, New Mexico. Fermi đã viết rằng vụ nổ đã tạo ra “một cột khói khổng lồ với phần đầu mở rộng như một cây nấm khổng lồ”. Vụ nổ, mạnh hơn cả những gì các nhà khoa học nghĩ, đã tạo ra nhiệt độ quá cao (7.000°F [3.871°C]) khiến cát gần đó bị chảy dính lại với nhau.

Tổng thống Roosevelt đã qua đời vào đầu năm đó, nhưng Tổng thống Harry S. Truman đã đưa ra quyết định thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản chỉ một tháng sau cuộc thử nghiệm đầu tiên này. Đó là quyết định chấm dứt Thế chiến II và góp phần khởi đầu Chiến tranh Lạnh.

TRONG MỘT QUYẾT ĐỊNH VẪN CÒN GÂY TRANH CÃI, TỔNG THỐNG HARRY TRUMAN ĐÃ RA LỆNH THẢ BOM NGUYÊN TỬ XUỐNG NHẬT BẢN: TRONG HÌNH TRÊN LÀ ĐÁM MÂY HÌNH NẤM TRÊN NAGASAKI. HAI QUẢ BOM NGUYÊN TỬ KẾT HỢP GÂY TỬ VONG CHO 200.000 NGƯỜI TRƯỚC KHI NGƯỜI NHẬT CHỊU ĐẦU HÀNG.

HOLOCAUST: CUỘC THẢM SÁT THỂ HIỆN SỰ VÔ NHÂN ĐẠO CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI CON NGƯỜI

Như nhà sử học John Keegan đã chỉ ra, một trong những điều khiến cho việc Hitler giết hại hơn 6 triệu người Do Thái (cũng như những “người không mong muốn” khác, chẳng hạn người Digan, người thiểu năng trí tuệ, chiến binh kháng chiến người Ba Lan và Pháp, và giáo sĩ) thậm chí còn gây sốc hơn là, trong khi hàng trăm nghìn, ngay cả hàng triệu người, đã bị giết trong các chiến dịch của những đội quân như  La Mã, Mông Cổ và Tây Ban Nha, thì “thảm sát thực sự đã bị cấm trong chiến tranh ở châu Âu kể từ thế kỷ XVII”. Với Hitler, thảm sát ở quy mô không thể tưởng tượng nổi đã quay trở lại.

Sau khi Đức Quốc xã lên nắm quyền vào những năm 1930, người Do Thái ở Đức phải chịu đựng một loạt các biện pháp quản lý pháp lý chế tài lên đến đỉnh điểm là Luật Nuremberg năm 1935, trong đó người Do Thái bị tước quyền công dân Đức. Có khoảng nửa triệu người Do Thái ở Đức vào thời điểm đó và trong khi một phần năm dân số này cố gắng di cư khỏi đất nước, phần đông đến các quốc gia lân cận, nhưng những quốc gia này cũng sớm bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Heinrich Himmler, người đứng đầu SS của Đức, đã lập ra bốn nhóm đặc nhiệm được chia thành các Sonderkommandos, hay Biệt kích Đặc nhiệm, đã giết khoảng 1.000.000 người Do Thái ở các khu vực mới bị chinh phục của Ba Lan và Nga. Nhưng những cái chết này chủ yếu là do bị bắn, mà Himmler coi là không hiệu quả và quá chậm chạp.

Năm 1942, y đề xuất cái mà y gọi là Endlosung, hay Giải pháp Cuối cùng, theo lệnh của Hitler. Endlosung đưa người Do Thái từ các khu ổ chuột ở các thành phố lớn đến nơi họ bị giam giữ và chở họ đến các trại tập trung. Một số trong đó là trại lao động, nơi các tù nhân thực sự bị bắt làm việc cho đến chết. Những nơi khác, như Treblinka và Sobidor, chỉ đơn giản là trại hủy diệt, nơi người Do Thái bị dồn vào phòng hơi ngạt ngay khi họ đến.

Đến mùa xuân năm 1944, đã có 20 trại tập trung và khoảng 160 trại lao động nhỏ hơn, và khoảng 6 triệu người Do Thái – 40 phần trăm dân số Do Thái trên thế giới – đã bị giết. Thực tế là một dân tộc được cho là văn minh vào giữa thế kỷ XX có thể xuống tay thảm sát rất nhiều người vô tội là một điều mà thế giới đã phải vật lộn suy nghĩ kể từ đó. Tuy nhiên, làn sóng đồng cảm với hoàn cảnh khốn khổ của người Do Thái ngay sau Thế chiến II đã phần nào giúp họ giành lại được mảnh đất cội nguồn và gầy dựng một quốc gia của riêng mình.

 TRÊN ĐÂY LÀ HAI TÙ NHÂN CỦA TRẠI TẬP TRUNG AMPHING Ở ĐỨC NGAY SAU KHI ĐƯỢC QUÂN ĐỘI HOA KỲ GIẢI PHÓNG.

Bình luận về bài viết này