Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 6a)

Nghèo và đói do tự sai lầm, bên ta vẫn quyết “giải phóng miền Nam”

 Nguyễn Ngọ

Kỳ Lân K

 Vẫn tiếp tục đề tài tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam

  – Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.

    – Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước

Nhắc lại kết quả tìm hiểu 2 câu trên.

1- Mỹ chưa đủ tiêu chuẩn đế quốc nếu so với Liên Xô, Trung Quốc. Còn chính quyền miền Nam cũng chưa đủ tiêu chuẩn “bè lũ bán nước” vì nó được 60-70 quốc gia công nhận về ngoại giao. Nghĩa là, nó không kém (mà còn hơn) chính quyền của ta ở miền Bắc.

Mặc! Dẫu chúng là gì… ta vẫn “quyết tiến bước” để “diệt” và “phá tan” chúng – đúng như lời bài hát. Chỉ cần Liên Xô Trung Quốc phải giúp ta về vũ khí, vật liệu, xăng dầu, quân trang và có thể cả lương thực nữa. Còn ta? Ngoài quyết tâm, ta không tiếc sinh lực.

2- Mục tiêu của ta quá lớn. Đó là ta quyết diệt đế quốc Mỹ. Nó hùng mạnh nhất thế giới, cho đến nay vẫn đứng đầu thế giới. Còn ta, suốt 15 năm tiến hành cuộc nội chiến cách mạng, nhưng kinh tế và đời sống ở miền Bắc sa sút tới mức phải dùng tem phiếu để phân phối lương thực, vải, đường và hàng chục thứ khác. .

Mặc! Quyết tâm của ta vẫn sắt đá. Và rốt cuộc, ta vẫn thắng. Vậy nguyên nhân thắng do đâu? Có ý kiến cho rằng… do ta dám hy sinh. Để rồi xem…

3- Bài này (6a) tìm hiểu thực lực của ta khi hạ quyết tâm “giải phóng miền Nam”. Bởi vì, ngay từ đầu miền Bắc đã nghèo hơn miền Nam, mà đây sẽ là cuộc chiến ác liệt nhất, tốn kém nhất trong Lịch Sử và kéo dài hơn cuộc khởi nghĩa của đức Lê Lợi. Ta kỳ vọng vào sự xây dựng thành công  CNXH ở miền Bắc sẽ tạo ra nguồn lực cung cấp cho chiến tranh. Nhưng kết quả ngược lại: Kinh tế thất bại tới mức phải dùng tem phiếu trong cuộc sống (đã nói ở trên).

I . QUYẾT TÂM SẮT ĐÁ CỦA TA

  1. Khẳng định trên trên Nghị Quyết

– Ngay năm 1959 đã có 2 Nghị quyết của trung ương ĐCS:

     – Nghị Quyết về hợp tác hóa nông nghiệp. Sẽ thực hiện với tốc độ cao nhất trên toàn miền Bắc. Nếu đọc lại NQ này, ngoài thứ văn phong rất đặc trưng, ta còn thấy trình độ tư duy và quan niệm về CNXH của một thời. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là sự quyết tâm và sau đó là sự kỳ vọng, nếu đưa được tất thảy nông dân (trên 90% dân) từ cá thể chuyển sang cách làm ăn tập thể. Đủ thấy, sự sốt ruột và vội vã tới mức nào trong khát vọng tiến lên CNXH và chi viện miền Nam.

Nghị Quyết đấu tranh thống nhất đất nước. Đây chính là sự bổ sung và phát triển Đề Cương cách mạng miền Nam do cụ Lê Duẩn soạn thảo.

– Ngay năm sau (1960) đã có Đại Hội toàn đảng. Cả hai chủ trương chiến lược này được gộp lại trong một Nghị Quyết chung, có câu (nguyên văn):

Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:

    – Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

    – Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau.

  1. Về lý luận: Quá dễ hiểu. Về thực hiện: Chỉ cần đủ quyết tâm

– Lý luận: Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một xã hội không còn bóc lột nữa, do vậy tốt đẹp chưa từng có trong lịch sử. Ai nghe được, mà chẳng mê tít?

– Lý luận tiếp: Do vậy, để có CNXH việc trước tiên là xóa bỏ bóc lột. Nếu vậy, xin hãy thực hiện thật sớm, thật nhanh… Dễ ợt! Chỉ cần đủ quyết tâm…

– Phe ta khăng khăng quan điểm: Giàu là do bóc lột mà giàu. Từ đó suy ra: nghèo là do bị bóc lột mà nghèo. Từ quan điểm này, phe ta đã sử dụng quyền lực (cướp được) để trở thành vị hiệp sĩ của thời đại, thay Trời thực hiện sứ mệnh “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo”.

– Ở nước ta, hai giai cấp giàu (địa chủ, tư sản) bị tiêu diệt bằng bạo lực và cải tạo cưỡng bách mà chỉ cần 5 năm. Đây là thành tích kỷ lục, phải ghi nhận trong Lịch Sử.

khi bên ta thực hiện cuộc Cải cách ruộng đất và “đánh tư sản”. Do vậy, một khi bên ta cướp được quyền lực, ta liền dùng ngay bạo lực tiêu diệt sớm nhất, nhanh nhất bọn nhà giàu. Hai giai cấp (địa chủ và tư sản) bị xóa bỏ bằng bạo lực, cưỡng chế và bắt buộc cải tạo. Tiêu diệt 2 giai cấp mà chỉ tốn 5 năm là kỷ lục chưa từng có trong lịch sử. Điều này nói lên sự sốt ruột và sự kỳ vong của nhà hiệp sĩ. Vài chục ngàn địa chủ bị giết oan, nhưng tiếng khóc uất nghẹn của thiểu số bị chìm lấp vì tiếng reo hò nổ trời của vài chục triệu nông dân nghèo. Kết quả là: “Trăm người oán, (nhưng) vạn người ơn”.

Do vậy, ngay năm 1960 xã hội miền Bắc đã được coi hết bóc lột, đã chín muồi để có Nghị Quyết III đưa ngay miền Bắc tiến lên CNXH. Khẩu hiệu Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH” được trưng lên khắp đầu đường, xó chợ, khiến Công-Nông hớn hở, hả hê, hể hả…

– Nông nghiệp. Cũng về lý luận, phải nhanh chóng đưa nông dân (chiếm trên 90% số dân) vào hợp tác xã. Nếu để cái khối người rất khổng lồ này làm ăn cá thể sẽ đưa tới sự phân hóa giàu-nghèo, do nội bộ bóc lột lẫn nhau. Do vậy, nhất thiết phải đưa họ vào các hợp tác xã, làm ăn tập thể. Tốc độ khủng khiếp tới mức cũng chỉ sau 5 năm các hợp tác xã đã thu nhận gần hết số nông dân trong cả nước. Đó là năm 1965.

– Công nghiệp. Trong bách nghệ (trăm nghề), riêng nghề nông thu hút 95% số dân, còn lại 5% chia nhau làm mọi nghề khác. Đủ thấy công nghiệp èo uột ra sao, mà chẳng cần ngó vào các bản thống kê kinh tế. Nhưng ý chí của ta mới thật ghê gớm: Vừa dốc toàn lực vào chiến tranh (giải phóng miền Nam), lại vừa bắt đầu xây dựng công nghiệp hiện đại, trong đó phải có công nghiệp nặng. Bởi vì, về lý luận, phải có công nghiệp nặng mới đáng mặt XHCN.

Tóm lại, cách làm vội vã và tự tin này dường như nhà hiệp sĩ đã có cẩm nang,  với lời dặn… cứ thế, cứ thế… mà làm.

  1. Giấc mơ đẹp suy ra từ lý luận

Lý luận dạy: Chủ nghĩa xã hội có năng suất vượt trội, do vậy sẽ hơn hẳn và sẽ tất thắng chủ nghĩa tư bản. Miền Bắc tiến lên CNXH sẽ trở thành hậu phương vững chắc, dư sức cung cấp sinh lực, vật lực, tài lực (toàn lực) cho chiến trường miền Nam, bất chấp khoảng cách cả ngàn dặm.

Nếu suy luận tiếp, xã hội miền Bắc do Công, Nông làm chủ sẽ trở thành tấm gương sáng chói, khiến đồng bào miền Nam phải kinh ngạc và ngưỡng vọng. Câu hỏi: Liệu đồng bào miền Nam có di cư ra miền Bắc? Đến đây, muốn suy luận xa hơn, cần phải chờ (coi: Lý luận có được hiện thực chứng minh (?)… 

Thực tế, chẳng cần chờ quá lâu. Chỉ sau 2 năm tiến lên CNXH, năng suất các hợp tác xã đã tụt lùi, sau đó phải phân phối lương thực để tránh nạn đói. Tem phiếu tồn tại dai dẳng. Và 15 năm sau (nhiều cụ già không còn tuổi để chờ tiếp), giấc mơ XHCN mới thành hiện thực, phơi bày đầy đủ trên toàn quốc. Rồi, tình hình đen tối kéo dài tới 10 năm, đến mức vị hiệp sĩ phải cấp tốc Đổi Mới để tự cứu nguy (1986). Chuyện này nếu trình bày cũng thú vị, tiếc rằng không thuộc nội dung bài này.

II . CÀNG ĐI LÊN CNXH: CÀNG… RỚT XUỐNG

  1. Càng tuân theo chỉ đạo: Càng thất bại

– Cụ Marx nói vắn tắt, nhưng chắc nịch: Tư hữu là bóc lột, cần xóa bỏ. Đây là tiêu chuẩn thép để phân biệt người Marxist chân chính hay kẻ xét lại, thoái hóa.

Tập thể hóa sản xuất (đưa toàn thể nông dân vào hợp tác xã) chính là cách xóa bỏ quyền tư hữu ruộng đất của mỗi nông dân, nhưng tổng cộng chiếm trên 90% dân số. Điều này rất quan trọng ở xã hội thuần nông, để nó khỏi tự phát trở thành chủ nghĩa tư bản.

– Lẽ ra, theo lý luận, nông dân phải đưa 100% ruộng đất vào hợp tác xã, nhưng thực tế chỉ là 95%, còn 5% vẫn được phép thuộc về tư hữu. Có lý do. Với 5% đất, sẽ không lo chuyện “tự phát” lên tư bản, mà còn tận dụng được lao động nhàn rỗi của mỗi gia đình (mỗi hộ).

Vô tình, tức ngoài ý muốn, chính năng suất cực cao ở cái 5% đất đai này (so với năng suất quá thấp của 95% bị tập thể hóa) đã cho thấy sai lầm nằm ngay trong bản chất của chủ nghĩa xã hội. Nó rành rành ra, chỉ những người mắc bệnh giáo điều quá nặng mới không thể nhận ra. Điển hình là chuyện cụ Trường Chinh không nhận ra, cứ phê phán cấp dưới ông Kim Ngọc, mà lẽ ra phải là ngược lại.

Dù đã tuyệt đối tuân theo chỉ đạo, nhưng năng suất trong lao động tập thể vẫn sa sút, không có bất cứ cách nào chặn lại được. Rốt cuộc, 95% đất đai thuộc hợp tác xã chỉ đem lại 50% thu nhập cho hộ nông dân, còn 5% đất đai tư hữu cũng đem lại 50% thu nhập. Chuyện kỳ quái cách nay trên 60 năm khiến những người dưới 70 tuổi thời hiện nay (2025) không thể hiểu nổi, nếu nguồn kiến thức chỉ trông vào sách giáo khoa.

Hợp tác xã quy định một buổi lao động được tính công là 10 điểm. Ví dụ, cày (hoặc bừa, cấy) xong một sào ruộng, hoặc chuyển 10 gánh phân ra ruộng, hoặc tát nước cho 2 sào đất… đều được 10 điểm. Nhưng hợp tác xã với hàng ngàn xã viên, không có cách nào kiểm tra chất lượng công việc của từng người. Mỗi xã viên chỉ tham gia từng công đoạn trong quá trình sản xuất, mà không được phép biết (và không cần quan tâm tới) kết quả cuối cùng. Họ trở thành người làm thuê, chỉ mong tích lũy thật nhiều “điểm”, nhưng với công sức và thời gian bỏ ra ít nhất. Sớm hay muộn, sự gian dối sẽ đồng loạt xảy ra.

Trong khi đó, cũng những nông dân ấy, lại đầy trách nhiệm khi chăm sóc cái mảnh đất 5% mà mình thật sự làm chủ. 

  1. Sáng kiến dễ ợt: Cứ giao nốt 95% đất cho các hộ

Hàng năm, mỗi hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đủ sản phẩm cho nhà nước. Đó chính là thuế. Trong thời chiến, còn phải nộp “quân”. Cái câu “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” là tiêu chuẩn thi đua của một thời.

Ông Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy) giải quyết điều trên dễ ợt (nhưng làm chui, vì trái “đường lối”). Ông chỉ cần đem toàn bộ 95% đất công chia cho các “hộ” và khoán mức sản phẩm mỗi hộ phải đóng (để hợp tác xã nộp thuế cho nhà nước). Kết quả tức khắc xảy ra. Hợp tác xã vượt mức thuế do nhà nước quy định, còn các gia định lại càng vượt mức thu nhập so với trước đây. Thật lạ! Chả lẽ làm ngược lời Marx dạy thì dân mới ấm no, mừng rỡ?  

III. THẤT BẠI THỂ HIỆN MUÔN VẺ

  1. Nhìn chung

Nông nghiệp. Sau khi hợp tác hóa (1958–1960), sản lượng lúa cả miền Bắc bắt đầu tụt dốc, chỉ đạt khoảng 5 triệu tấn thóc/năm (cả 2 vụ). Dân số tăng nhanh, do vậy  bình quân chưa tới 300 kg thóc/người/năm (mức tối thiểu phải là 400kg/người). Bắt đầu ăn độn và nhận gạo trợ giúp từ Trung Quốc. Tới lúc bữa cơm của dân đô thị phải có bột mì (tự chế biến thành sợi) do Liên Xô giúp. Những người nếm trải chuyện này, nay chỉ còn rất ít. Các vị gây ra chuyện này, nay chẳng còn ai.

Công nghiệp. Công nghiệp nặng thất bại vì trình độ quản lý kém và do chiến tranh, dẫn tới thua lỗ (ví dụ, Gang thép Thái Nguyên, Nhiệt điện Uông Bí, cơ khí Hà Nội)… Công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng: rất sa sút, gần như bị bỏ bê.

– Buộc phải thực hiện chế độ tem phiếu. Do các mặt hàng thiết yếu như lương thực, vải, đường, sữa, xà phòng, thuốc men… đều khan hiếm, cần phải dùng tem phiếu để ai cũng được mua theo định mức. Câu nói vui, nhưng khó cười: Chẳng ai phải chết đói, nhưng ai cũng đói đến chết.

  1. Vài biểu hiện cụ thể (bài sau sẽ nói thêm)

     – Xuất hiện ca dao châm biếm, đả kích

Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (tháng 3-1964) do đích thân cụ Hồ chủ trì, với lời kêu gọi của chính Cụ (nguyên văn): “Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp đồng bào miền Nam ruột thịt”. Ngay lập tức xuất hiện hai câu ca dao hưởng ứng lời kêu gọi:

– Mỗi người làm việc bằng hai

Để cho chủ nhiệm mua đài, mua xe

– Mỗi người làm việc bằng ba

Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân

Xin nhớ rằng năm ấy (1964) cái “đài” (cái radio – máy thu thanh, để nghe tin tức, âm nhạc) là một tài sản, kèm theo tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu. Cái xe đạp lại càng quý hơn, ngoài giấy sở hữu, còn có biển số (như ô tô). Câu ca dao 1 ở trên tố cáo các vị chủ nhiệm hợp tác xã (bần cố nông, đảng viên) là bọn tham nhũng. Câu ca dao 2 tố cáo mức tham ô nặng hơn. Trong khi nhà của xã viên lợp bằng lá, sân bằng đất nện, thì chủ nhiệm có nhà xây lợp ngói, sân lát gạch.

     – XHCN = Xếp Hàng Cả Ngày

Hình trên. Xếp hàng cả ngày để mua được những thứ thiết yếu nhất

Nhận xét từ hình trên. Bà bán hàng ốm yếu, thiểu não, bất an. Người mua chen chúc, nhẫn nhục, cam chịu. Hai khách hàng đến lượt đang cố đưa tem phiếu tận tay người bán. Nỗi lo của những người đến muộn là xếp hàng tới nơi thì “hết hàng”. Biết bao thứ hàng thiết yếu phải có tem phiếu mới mua được. Và phải xếp hàng dài. Cãi nhau, đánh nhau, xỉ vả nhau rất dễ xảy ra, vì những nguyên nhân rất nhỏ nhặt. Các cô, các bà không dời cái nón vì phần lớn thời gian trong ngày là ở ngoài trời, không có mái che. Những người dưới 70 tuổi thời nay nếu chỉ có một nguồn nhận thức, sẽ khó mà hình dung và tin rằng cha-mẹ, ông-bà mình thời 1960 sống ra sao.

     – Lao động nhằm tạo khí thế “thi đua XHCN”, năng suất rất thấp

Hình. Dân làng đào kênh dẫn nước vào đồng ruộng thời hợp tác xã.

Ảnh: do phóng viên Philip Jones Griffiths/Magnumphoto chụp

Lao động kiểu này (tập thể, công cụ thơ sơ, xô bồ, chen chúc)… đem lại “khí thế”, nhưng năng suất rất thấp.

  • Tuổi thơ vốn rất vô tư, hồn nhiên, vẫn khó giấu cái khổ

Đúng là vô tư, hồn nhiên, dẫu thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu điều kiện vui chơi. Nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng cao, thể hiện ở chiều cao, cân nặng.

Thế hệ này lớn lên chưa kịp cầm súng chống Mỹ, nhưng cũng sắp hết tuổi để được ở lại bộ Chính Trị thêm một khóa nữa. 

  1. Tạm ngừng, để quay lại đúng chủ đề

Tên bài là Nghèo và đói vẫn quyết tâm “giải phóng miền Nam”.  

Bên ta kỳ vọng chủ nghĩa xã hội sẽ đem lại no ấm, sung túc, giàu có cho miền Bắc, từ đó sẽ chi viện cho cuộc nội chiến cách mạng “giải phóng miền Nam”. Miền Bắc vốn đã nghèo, lại càng nghèo khi cố thực hiện đầy đủ mọi lý luận và bài bản của Marx-Lenin. Càng tuân theo chỉ đạo, càng tệ hại. Làm ngược (gọi là phá rào) càng dễ thở. Câu hỏi: Liệu sai lầm nằm ngay trong bản thân lý luận?

Bằng chứng càng rõ ràng, hiển nhiên, khi bên ta áp đặt CNXH cho cả miền Nam (sau 1975) – ngay lập tức, thảm cảnh lan ra cả nước, kéo dài suốt 10 năm tiếp theo.

Bốn chữ “giải phóng miền Nam” trở thành nỗi xấu hổ, nếu bên ta vẫn còn liêm sỉ.

Hầu hết chi phí vật chất cho chiến tranh, bên ta đành trông vào viện trợ từ bên ngoài. Bên ta chỉ đóng góp sinh lực.

Trong cuộc đọ sức với Mỹ và “ngụy”, bên nó chiến đấu tại chỗ, cố thủ và phòng ngự nên tổn thất thấp hơn hẳn. Còn bên ta từ xa tới (phải hành quân hàng ngàn km), vũ khi kém hiện đại, lại phải chủ động tấn công… do vậy sự hy sinh là rất lớn.

Bên ta phải dùng nhiều sinh lực để chiến thắng là tất nhiên.

One thought on “Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 6a)

  1. Loạt bài viết xuyên tạc lịch sử này – với mục đích đầu độc thế hệ trẻ, chưa biết chiến tranh là gì – tưởng đã chấm dứt nhưng vẫn còn dai dẳng!

    Mỹ có là đế quốc hay không thì họ cũng đã tàn hại đất nước ta đến cùng cực. Ta căm hận muốn diệt họ là chuyện bình thường. Năm 1965 họ mới đem quân vào trực tiếp tham chiến, nhưng thực tế nếu không có tài lực của họ thì thực dân Pháp làm sao tiến hành chiến tranh được? Nếu thế thì đất nước ta đã độc lập thống nhất lâu rồi. Nói diệt Đế quốc Mỹ là xuất phát từ lòng căm phẫn, nặng phần tuyên truyền, còn thực tế thì ai cũng biết là mục đích chỉ là đuổi họ đi thôi.

    Liên Xô hay Trung Quốc có là đế quốc hay không thì ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ của họ mà vẫn giữ vững chủ quyền, độc lập. Tất nhiên là cũng không khỏi bị họ o ép như trong Hội nghị Genève, và ảnh hưởng tai hại của Maoïsme trong Cải cách Ruộng đất! Tới thời ông Lê Duẩn thì ta đàm phán thẳng với Mỹ, họ không xía vào được nữa. Chuyện Maoïsme thì cũng vào thời Lê Duẩn có một số người ở Đại sứ quán TQ tuyên truyền về thuyết “Ba thế giới”, Khi Chu Ân Lai sang thăm VN, ta cũng nói thẳng với ông ta là VN không chấp nhận thuyết đó. Họ Chu cũng đã ra lệnh cấm.

    Chính quyền miền Nam được 60-70 quốc gia công nhận về ngoại giao nên không phải là bán nước? Lập luận này chỉ tính số lượng mà bất cần nội dung. Vào thời điểm đó Mỹ là trùm thiên hạ với nền kinh tế chiếm 40% thế giới và sức mạnh quân sự, khoa học kỹ thuật vượt trội. Thế thì chả có mấy nước muốn làm mất lòng họ. Mà cả thế giới biết rõ VNCH là đệ tử của Mỹ. Với lại đối với các nước khác thì chính quyền miền Nam có là “chân” hay là “ngụy” thì họ cũng chẳng quan tâm! Được lòng Mỹ mà lại có quan hệ, có thể giao thương có lợi thì sao không công nhận nó nhỉ? Trên BBC tiếng Việt có bài viết về quan hệ của Anh với VN : Anh là đồng minh thân thiết nhất của Mỹ thì đương nhiên là họ công nhận chính quyền miền Nam rồi. Nhưng Anh có cơ quan lãnh sự ở Hà Nội mà sau khi VM tiếp thu thì cũng không động gì đến. Lãnh sự này không có việc làm nên để giải khuây, họ quan sát phân tích và báo về London. Họ báo rằng quân đội miền Bắc có tinh thần chiến đấu rất cao và họ sẽ đánh bại Mỹ và quân đội miền Nam. Đồng thời Đại sứ quán ở miền Nam báo cáo là chính quyền miền Nam là chính quyền mất lòng dân, thực thể này hoàn toàn không có tương lai. Thế cho nên sau này Mỹ rất tha thiết mong đồng minh Anh gửi quân qua tham chiến, dù chỉ với số lượng tượng trưng, nhưng trước sau Anh vẫn không đáp ứng. Nước Anh là đồng minh thân thiết nhất của Mỹ mà còn thế thì đủ hiểu các nước khác thế nào! Còn chính quyền miền Bắc mà cũng được gần từng ấy nước công nhận thì mới có ý nghĩa, vì lúc đó chỉ có mười mấy nước Cộng sản thôi.

    Bài 1 viết là “Số địa chủ (trong đó 3/4 bị vu oan) bị giết, bị đầy đọa đến chết… lên tới hàng trăm ngàn (sáu con số)”. Sáu con số có thể từ 100.000 đến 999.999! Tôi đã có bình luận vạch rõ là bịa đặt, vu khống trắng trợn. Ai muốn rõ hơn thì đọc phần bình luận của tôi trong bài đó. Ngắn gọn thì chỉ là ước lượng thôi chứ không có số thống kê chính xác, các chuyên gia phương Tây đưa ra nhiều con số, cao nhất là 50.000, thấp nhất chỉ 800. Riêng ý kiến của ông Vũ Thư Hiên – một tay chiêu hồi mới khác – là có cơ sở nhất, khoảng 4.000-5.000 người thôi. Bài 6a này thì hạ xuống còn “Vài chục ngàn địa chủ bị giết oan”. Thế cũng là tiến bộ rồi nhỉ? Chứng tỏ là tác giả tiền hậu bất nhất, không thận trọng tìm hiểu số liệu để biết sự thực, mà chỉ chăm chăm phóng đại để buộc tội. Có điều là chỉ nói số người bị giết trong Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc, còn tuyệt nhiên không nói gì đến số người bị giết trong các chiến dịch Tố Cộng Diệt Cộng (TCDC) của miền Nam. Cũng chỉ là ước lượng thôi, nhưng chắc chắn là hơn gấp nhiều chục lần so với CCRĐ. Cũng không nói rõ là CCRĐ đã sửa sai, xin lỗi và bồi thường cho một số nạn nhân – Ông Trường Chinh mất chức Tổng bí thư vì thế –, còn TCDC thì vẫn đương nhiên là đúng đắn!

    Về chuyện kinh tế tập trung chỉ huy làm cho miền Bắc thành nghèo đói là đúng sự thực. Nhưng cũng có nguyên nhân của nó. Người VN đánh giặc giữ nước thì giỏi, nhưng làm kinh tế thì thực tình mà nói không mấy hay! Từ khi lập quốc đến 1945 thì chỉ biết kinh tế tiểu nông với con trâu đi trước cái cày. Tuyên bố độc lập xong rồi thì cũng mò mẫm, tìm mô hình của thế giới mà bắt chước! Từ năm 1945 cho tới 1975 thực tế thì cũng chẳng có mấy thời gian xây dựng kinh tế, chủ yếu là dồn hết tâm lực để thống nhất đất nước. Lúc đó cần Trung quốc và Liên Xô giúp đỡ thì tất yếu phải theo mô hình kinh tế của họ chứ không thể khác được.

    Miền Nam không thể nói là giàu có được, chỉ có thể nói là mức sống cao nhờ viện trợ Mỹ và từ năm 1965 là thêm vào số chi tiêu khổng lồ của hơn ½ triệu quân Mỹ và chư hầu. Tôi nhớ vào năm 1965 chả có xuất khẩu gì cả thế mà đến ngòi viết lá tre – để học trò tập viết chữ – cũng dùng Le Coq hay Caporal nhập từ Pháp. Xe Honda, máy lạnh, bếp gas, TV v.v… đều đặt hàng – thời đó thường gọi theo tiếng Pháp là “còm măng” tức commander – từ Châu Âu hay Nhật. Không xuất mà cái gì cũng nhập thì hẳn biết là phải dựa vào ngoại tệ viện trợ của Mỹ rồi. Sau 1968 thì Mỹ bắt đầu đám phán với miền Bắc, rút quân và giảm viện trợ thì mức sống xuống giốc ngay. Về mặt tuyên truyền thì có vẻ khó giải thích mức sống cao của miền Nam với dân miền Bắc, nên có lẽ một số cán bộ tuyên huấn non tay đành bịa đặt ra về sự khốn khổ của dân miền Nam? Nếu là thức giả thì hẳn phải hiểu rõ vấn đề chứ. Cũng chính mức sống cao giả tạo này là nguyên nhân chủ yếu phát sinh phong trào “thuyền nhân” sau 1975, khi hoàn toàn không còn viện trợ của Mỹ và TQ cũng cắt viện trợ cho miền Bắc. Những kẻ chống cộng gọi là “tị nạn Cộng sản”, trong khi các tổ chức quốc tế minh định là “tị nạn kinh tế”.

    Tác giả Nguyễn Ngọ tự giới thiệu là U90-100, tuổi Ngọ, có Huân chương chống Mỹ (hạng 1 và 2). Vậy tôi cũng xin tự giới thiệu : tôi mới là U80 thôi, cũng tuổi Ngọ nhưng nhỏ hơn 1 kỷ, không có huân chương gì cả, không phải gia đình cách mạng, ngược lại là gia đình phản cách mạng! Thuộc một gia tộc địa chủ chống cộng khét tiếng là họ Bùi Vĩnh Trinh. Tôi sống thời thơ ấu ở nông thôn tỉnh Quảng Nam cho đến năm 1965 phải bỏ ruộng vườn, chạy vào Sài Gòn, được gọi là “tị nạn Cộng sản”, nhưng thực ra là tị nạn bom đạn của Mỹ và VNCH. Do sống qua 2 trào VNCH, lại có thời gian sống ở vùng xôi đậu – theo cách gọi của Mỹ và VNCH là FREE FIRE ZONE – nên tôi hiểu khá rõ về VC và VNCH. Diễn biến tư tưởng của tôi có vẻ hoàn toàn đi ngược so với tác giả. Từ nhỏ bị nhồi sọ nên tôi rất căm ghét VC và miền Bắc. Khi trưởng thành sống ở Sài Gòn thì tôi cũng không ngộ nhận gì về chế độ VNCH. Tôi thấy rõ đây là chế độ tay sai, đầy tớ của Pháp rồi tiếp tục được Mỹ nuôi dưỡng. Nhưng lúc đó tôi cho rằng miền Bắc cũng là tay sai của Nga Sô và Trung Cộng. Vậy thì làm đầy tớ cho người giàu vẫn hơn. Tôi giữ vững quan điểm đó cho mãi đến năm 1979, khi nổ ra cuộc chiến biên giới Việt – Trung, tôi mới tá hỏa nhận thấy nhận định của mình sai sai thế nào ấy. Tôi mới cất công tìm đọc các tư liệu (sau này nhờ Internet nên khá phong phú). Từ từ tôi thay đổi quan điểm cho đến 180o! Nghĩa là không còn chống cộng, căm ghét CS nữa, không có nghĩa là theo Cộng. Sau năm 1975 tôi cũng có đi làm cơ quan rồi cty nhà nước nhưng chỉ để kiếm sống, chưa hề tham gia Đảng, Đoàn gì cả, cũng chưa từng được học khóa chính trị nào cả. Thật tình mà nói hiện giờ tôi cũng chẳng thấy chế độ CHXHCHVN có gì tốt đẹp, nhưng tôi tin là nó là chế độ made in Vietnam, với tất cả những cái tốt và xấu, ưu điểm và khuyết điểm của dân tộc VN. Nói thẳng là rõ ràng nó đỡ tồi tệ hơn các chế độ gọi là dân chủ đa đảng của các nước Đông Nam Á đồng đẳng như Thái Lan, Philippines, Indonesia. Mà nước ta đã bị 30 năm chiến tranh khủng khiếp và 20 năm bị cấm vận ngặt nghèo, còn họ thì hưởng lợi lớn từ cuộc chiến. Thế thì sao nhỉ?

    Xin tạm dừng ở đây. Nếu tác giả hoặc độc giả nào có bình luận phản bác hoặc muốn trao đổi gì thì tôi sẵn sàng hầu tiếp. Có điều hình như site này không có cơ chế tự động gửi mail báo khi có người reply bình luận. Vậy xin nhớ báo cho tôi tại luubqu@gmail.com nhé.

    Thích

Bình luận về bài viết này