
Hồ Bạch Thảo
Tháng giêng năm Canh Dần, Cảnh Hưng thứ 31 [27/1-24/2/1770], (Thanh Càn Long thứ 35); Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan tiến quân đánh phá được Lê Duy Mật ở thành Trình Quang [Trấn Ninh; Xiêng Khoáng, Lào]. Duy Mật giữ lấy chỗ gò cao thành Trình Quang, dựa vào hang hốc núi non làm kiên cố. Được tin quân Trịnh ba đạo kéo vào, Duy Mật quyết tử thủ giữ vững lấy thành, rồi cho toán quân lưu động lẻn ra đón đường chặn đánh làm cho quan quân mỏi mệt. Thế Đạt và Nguyễn Phan đốc suất quân hai đạo Thanh, Nghệ, bám sát sườn núi tiến vào, nhân đấy tiến sát đến ngoài gò cao thành Trình Quang, chia ra đặt doanh trại. Duy Mật cho quân đóng yên một nơi không hành động, hai viên tướng chưa biết thực hư thế nào không dám cho quân tiến thẳng vào. Gặp lúc ấy, Hoàng Ngũ Phúc chiêu dụ được mẹ tên Lại Thế Thiều, viên tướng và cũng là rễ của Duy Mật; Ngũ Phúc sai bà này viết thư dụ dỗ Thế Thiều để làm nội ứng. Thế Thiều nhận được thư của mẹ, bèn phản Duy Mật, hắn ngầm khuyên đồ đảng là Lê Văn Bản mở cửa thành ngoài cho quan quân tiến vào. Khi quan quân đã vào, bèn bắc thang trèo lên bắn vào trong thành, tiếng súng suốt ngày đêm không ngớt. Duy Mật tự biết rằng vỡ lỡ ngay từ trong nội bộ, liền tụ tập vợ con, tung lửa đốt để tự thiêu. Bọn Thế Đạt vào thành, thu thập được khí giới, ngựa, voi, và vàng lụa kể cả hàng vạn. Dùng Thổ tù là Lư Cầm Uẩn, Lư Cầm Khâm làm chánh xà và phó xà (1) để giữ đất ấy; toàn bộ vùng Trấn Ninh đều bình được. Sau bàn luận công đánh dẹp, Trịnh Sâm gia phong Bùi Thế Đạt làm Đại tư đồ, Nguyễn Phan làm Thái tể, Hoàng Đình Thể làm Thiếu bảo; còn Tán lý, Tham mưu, Giám quân và tướng hiệu đều thăng thưởng từng cấp bậc khác nhau.
Tháng 3 [27/3-23/4/1770], vì đã bình định được Trấn Ninh, nên bãi binh cho lính bốn trấn trở về làm ruộng.
Tháng 12 [16/1-14/2/1771], định phép đánh thuế tơ và muối. Thuế tơ thì tính theo số dật, mỗi dật 24 lạng; tơ trắng mỗi dật nộp thuế 5 tiền; tơ vàng mỗi dật nộp thuế 3 tiền 20 đồng. Thuế muối thì căn cứ vào số ruộng hiện làm muối để thu thuế; ruộng muối công mỗi mẫu nộp thuế 8 tiền, ruộng muối ở ngoại đê mỗi mẫu nộp kém đi 2 tiền, ruộng muối tư mỗi mẫu nộp 3 tiền.
Về phía nhà Thanh, vào năm trước Vua Càn Long theo lời khuyên của viên cận thần Phó Hằng, quyết định không báo cho An Nam biết sự kiện Hoàng Công Toản chạy sang nương náu tại Trung Quốc. Nhưng rồi chính triều đình An Nam đã gửi văn thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu đòi hỏi nhà Thanh trả Hoàng Công Toản về nước:
“Ngày 10 Nhâm Ngọ tháng 10 năm Càn Long thứ 35 [26/11/1770]. Quân cơ đại thần bàn rồi tâu:
‘ Cứ theo lời tấu của bọn Phó tướng quân A Quế rằng tiếp nhận di văn của Quốc vương An Nam, nhân đó tra biết rằng năm ngoái bọn Hoàng Công Toản mang quyến thuộc đến nội phụ, được ban dụ cho an trí ngoài biên giới. Viên Quốc vương cho biết viên Di mục Hưng Hóa, trong địa phương có trại Mãnh Lại giáp giới với trại Mãnh Thiên thuộc châu Kiến Thủy [Trung Quốc], đem sự việc trình báo; nên mới nêu ra.
“ Nhưng Hoàng Công Toản khốn cùng đến xin qui phụ, đã được an sáp, viên Quốc vương sao lại được tự tiện hướng về nội địa đòi hỏi. Vả lại nếu bảo bọn Hoàng Công Toản đã mang tội với người nước này; nếu biết rằng đã trốn vào nội địa, sao không sớm báo cho quan tại biên giới xin nhờ tầm nã; cớ sao khi nghe tin nội địa an sáp, mới gửi văn thư xin bắt trở về? Xin ra lệnh bọn A Quế, lập tức gửi văn thư bác trách, mới đúng cách.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Y theo lời bàn thi hành gấp.” (THANH THỰC LỤC, Cao Tông Thực Lục quyển 870, trang 24-25)
Vì lúc Hoàng Công Toản thua chạy đã bí mật nộp đất cho nhà Thanh; nên Vua Càn Long ra sức bao che, sợ nếu cho Hoàng Công Toản về nước, âm mưu đen tối sẽ bị tiết lộ. Bèn sai Quân cơ đại thần cẩn thận soạn thư nhân danh Tổng đốc Lý Thị Nghiêu gửi sang An Nam, mượn cớ khéo léo từ chối trả Công Toản về nước:
“Ngày 13 tháng 2 năm Càn Long thứ 36 [28/3/1771]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Lý Thị Nghiêu tâu rằng Quốc vương An Nam gửi văn kiện liên quan đến văn thư phúc đáp của Chương Bảo bác việc đòi hỏi Hoàng Công Toản trở về; thanh ngôn rằng sẽ sai Ủy viên dâng bản tâu lên. Hiện đã gửi thư cho tỉnh Vân Nam liệu biện để đợi Chương Bảo [ quyền Tổng đốc Vân Quí] phúc đáp; hoặc dùng ý kiến mình [Lý thị Nghiêu] gửi hịch văn bác bỏ; hoặc gửi dùm viên Quốc vương bản tâu lên. Nay xin được chiếu chỉ cho biết để tuân hành.”
“ Viên Quốc vương đã gửi thư, đáng phải truyền hịch phúc đáp, cũng không cần phải chờ Chương Bảo liệu biện. Nay đã ra lệnh Quân cơ đại thần thay mặt Lý Thị Nghiêu soạn bản cảo (2) tờ hịch, để gửi cho Quốc vương nước này biết. Lý Thị Nghiêu nhận được, hãy cấp tốc chiếu theo lệ gửi đi. Trước đây Lý Thị Nghiêu từng xin đến kinh đô bệ kiến, đã được chấp thuận; nếu viên Tổng đốc lúc này đã khởi hành, giữa đường nhận được chiếu chỉ, thì hãy giao cho Ðức Bảo [ Tuần phủ Quảng Tây] liệu biện ỗn thỏa; nội dung văn bản vẫn do viên Tổng đốc đứng tên. Hãy gửi dụ này để hay biết, ngoài ra cũng gửi kèm bản cảo tờ hịch do Quân cơ đại thần thay mặt nghĩ dùm như sau:
“ Hịch dụ để Quốc vương An Nam hiểu rõ: Tiếp văn thư gửi đến cho biết việc Hoàng Công Toản xin đầu thuận nội địa, Quốc vương đã đòi lấy, nhưng chưa được đem trở về, và muốn Bản bộ viện (3) thay mặc chuyển đạt. Nhân tra án này liên quan đến Ðốc bộ viện (3) Vân Quí lo liệu; đầu đuôi vụ án đều xẩy ra tại tỉnh Vân Nam, Bản bộ viện không thể phân tích sâu đầu đuôi, và cớ sao phải làm phiền Thiên tử nghe. Nhưng đọc kỹ văn thư gửi đến, thấy rằng nước ngươi lo liệu việc này đầu đuôi không được thỏa đáng. Nếu như người này thuộc loại trốn tránh, thì lúc mới trốn đáng thông tư ngay cho Ðốc bộ viện Vân Quí để ngăn việc lén xâm nhập; thì Hoàng Công Toản không thể mượn cớ xin tá túc, và Ðốc bộ viện Vân Quí không thể cho lưu giữ và sẽ giúp các ngươi bắt giữ khi bọn chúng còn ẩn nặc nơi hoang dã. Ðến khi bọn Hoàng Công Toản đã đầu thuận, Ðốc bộ viện Vân Quí cho rằng nước các ngươi thần phục đã lâu, vốn rất cung thuận; lê dân (4) khốn cùng của nước ngươi cũng là con đỏ (4) của Thiên triều, nên thương sự lưu ly mà an sáp; đó là ngưỡng theo ơn sâu chiếu cố người xa xôi của Thiên tử, giúp nước các ngươi chiêu tập người cùng khổ.
Ðến khi viên Quốc vương biết được đã trốn vào nội địa và đã được an sáp, thì chỉ nên trình bày đầu đuôi việc cha con Hoàng Công Thư đắc tội và yêu cầu Ðốc bộ viện Vân Quí điều tra liệu biện; thì tỉnh Vân Nam sẽ điều tra rõ ràng, há lại dung người mang tội tại thuộc quốc. Ngươi trước đây đòi hỏi Ðốc bộ viện Vân Quí để mang bọn chúng về xử trị, sự đòi hỏi thẳng thừng đòi cho được như vậy, nên không lạ trong đó có những lời trách. Rồi ngươi nhận được tư văn của Ðốc bộ viện Vân Quí, lại có lời phẫn hận, càng không thận trọng đúng cách. Còn việc bảo sẽ viết bản tâu, rồi sai Ủy viên đệ tấu; nay tra về lệ qui định cho các ngoại Phiên, thì chỉ có kỳ đi cống mới có bản tâu dâng lên trước, mà bản tâu này phải chờ bộ phúc chuẩn mới được đưa lên; ngoài ra các văn án khác đều thuộc loại thông tư mà thôi. Nếu như viên Quốc vương muốn chờ đến lúc cống, dâng văn bản phụ với tấu triệp, Bản bộ đường khó mà ngăn cản; Ðại hoàng đế xem qua rồi sẽ giao cho bộ bàn, bộ sẽ không chấp thuận thi hành [như lời xin]. Nếu không theo thủ tục mà gửi tấu triệp đến biên giới, Bản bộ viện cũng không dám làm trái lệ, để tấu thay. Nhưng Quốc vương nghĩ đến Bản bộ viện là Ðại thần nơi biên giới, đã đem những lời thỉnh cầu, thì không thể không thực tình báo cho biết. Quốc vương từ trước tới nay giữ lễ, đại Hoàng đế quyến luyến gia ơn, nay lại vì thiên kiến, dùng lời quá khích, thấy được thiếu thận trọng. Thảng hoặc điều này Thiên tử nghe được, thì không khỏi bị khiển trách. Còn về nội dung vụ án này, Bản bộ viện cần gửi cho Ðốc bộ viện Vân Quí lo liệu, ngoài ra phúc đáp trước cho Quốc vương để châm chước liệu biện ỗn thỏa, để không phụ lời khuyên giải của Ðốc bộ viện.’
Lại dụ:
‘Cứ theo lời tâu của Lý Thị Nghiêu, Quốc vương An Nam gửi văn thư về việc Hoàng Công Toản, muốn được dâng tấu triệp lên; đã thay thế Lý Thị Nghiêu soạn bản thảo tờ hịch để gửi đi. Viên Quốc vương trước đây đòi hỏi Hoàng Công Toản từ nội địa, việc làm này không đúng; lần này lời lẽ văn từ không khỏi quá khích, càng sai với lễ. Nhưng Hoàng Công Toản là người nước này bỏ trốn, nếu như về sau viên Quốc vương gửi văn thư dùng lời cung thuận, thì không ngại có thể châm chước liệu biện cho trở về cũng không quan ngại; nhưng cần bố trí hợp cách, không để sơ hở và làm cho xong chuyện. Hãy đem việc này truyền báo cho Chương Bảo biết về lời dụ Lý Thị Nghiêu, cùng bản cảo viết thay tờ hịch ; lại đợi khi Chương Bảo đến kinh đô sẽ đích thân dụ một cách rõ ràng.” ( THANH THỰC LỤC, Cao Tông Thực Lục, quyển 878, trang 19-22)
Nhà Thanh duyệt văn thư của An Nam đòi hỏi trả Hoàng Công Toản; trong văn thư có các chi tiết như viên Tri châu Kiến Thủy thuộc phủ Lâm An, Vân Nam, dò hỏi lý lịch Hoàng Công Thư; sau đó từ chối rằng không có Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam. Vua Càn Long cho rằng trả lời như vậy là không hợp cách; đòi mang viên Tri châu đến kinh đô để Quân cơ đại thần hạch hỏi:
“Ngày 14 tháng 2 năm Càn Long thứ 36 [29/3/1771]. Lại dụ:
‘Mới đây Lý Thị Nghiêu tâu An Nam nhân việc tỉnh Vân Nam an sáp Hoàng Công Toản nên đã gửi thư cho viên Tổng đốc; bèn truyền dụ cho Chương Bảo tra xét liệu biện cho ỗn thỏa. Nhưng duyệt nguyên văn thư của viên Quốc vương rằng ‘ Vào tháng 10 năm Càn Long thứ 34 [29/10-27/11/1769] tiếp tờ tra trong văn bài của Ninh châu Chánh đường tên là Thượng Hiến, thuộc châu Kiến Thủy, quyền Tri phủ Lâm An; trong đó hỏi viên coi trại Mãnh Thiên [Điện Biên] tiếp giáp biên giới rằng Hoàng Công Thư thuộc họ Mạc hay họ Hoàng. Rồi Trấn mục Hưng Hóa Hoàng Ðình Thể (5) đem đầu đuôi việc cha con Hoàng Công Thư làm giặc ra phúc trình, thì nhận được di văn của châu Kiến Thủy cho biết trong biên cảnh nội địa không có người nào mang tên Hoàng Công Toản; như vậy nội dung văn thư đem so với văn bài gửi trước thì không đúng.’
Lúc bấy giờ người nào coi châu Kiến Thủy? Kẻ tra hỏi lần trước thuộc loại lắm chuyện, lần sau phúc đáp lại không hợp cách. Bảo rằng Thượng Hiến tra hỏi, điều này có liên quan đến viên nào? Ðốc, Tuần, Ðề, Trấn hay bởi Ðại thần Tướng quân coi về việc binh? Văn thư phúc đáp là do ý kiến riêng của viên này, hoặc đã thính thị qua cấp trên; lệnh theo đó để triệt để điều tra. Lúc bấy giờ Tri châu Kiến Thủy tên gì, hiện nay còn giữ chức hay không và 2 lần hành văn là do ý kiến của ai; tất cả phải điều tra rõ ràng chi tiết, rồi cứ sự thực phúc tấu. Nếu như viên Châu mục vẫn còn làm việc trong tỉnh Vân Nam, thì lúc Chương Bảo khởi hành đến triều đình bệ kiến, thì mang y đến kinh đô để cùng Quân cơ đại thần hạch hỏi. Còn như việc viên Quốc vương đòi đem Hoàng Công Toản về, thì mới đây đã dụ Chương Bảo rằng nếu tương lai y dùng lời cung thuận, thì cho trở về cũng không sao; nay suy nghĩ kỹ việc này rất quan hệ, không thể không thận trọng thêm. Xem ra ý viên Quốc vương chỉ nghĩ về có thuyết cho rằng Hoàng Công Toản là con cháu nhà Mạc, mà nơi y bị an sáp gần biên giới An Nam sợ y mưu đồ khôi phục và cũng sợ Trung Quốc trợ giúp binh lực. Di nước ngoài ý kiến hẹp hòi tất lo đến việc đó và cho rằng y trú gần biên giới sẽ là đầu mối sinh sự. Lại có thể bọn họ biết mấy năm gần đây nước ta có mối lo về bọn giặc Miến Ðiện, nên dám dùng lời một cách quá khích; nhưng nước này thần phục đã lâu, vốn xưng cung thuận, nên không đáng nhân đó mà trách cứ. Nếu viên Quốc vương không tiếp tục gửi thư trình bày, thì để đó không hỏi đến. Nếu còn đệ trình văn thư, hoặc lộ vẻ ý đề phòng họ Mạc, thì nên nghiêm cách phúc đáp. Còn nơi Hoàng Công Toản hiện trú ngụ có gần biên giới An Nam không, bọn chúng hiện đang làm gỉ, không thể không điều tra xem xét. Lúc này nên đem bọn chúng đến nội địa nơi gần tỉnh, thu xếp cung đốn như thế nào, lệnh Chương Bảo lo liệu rồi gửi tấu văn lên. Trong tương lai trù biện đại cục, đợi Chương Bảo đến kinh đô sẽ đích thân truyền bảo. Ðưa dụ này truyền ra để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 878, trang 24-26)
Viên Tổng đốc Vân Quí trình bày sự kiện cũng qui lỗi cho viên Châu mục Kiến Thủy Trương Nhan Liệt và cho biết dự định an sáp bọn Hoàng Công Toản tại Côn Minh, Vân Nam:
“Ngày 14 tháng 3 năm Càn Long thứ 36 [28/4/1771]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Cứ theo Chương Bảo điều tra rồi tâu về việc bọn Di mục An Nam Hoàng Công Toản đầu tiên khẩn xin đầu thuận, liên quan đến Tướng quân Vĩnh Thụy báo tin cho Tuần phủ Các Ninh A, viên này thông tri cho quyền Tri phủ Lâm An Trương Nhược Ðình, để chuyển sức cho Tri châu Kiến Thủy Trương Nhan Liệt điều tra phúc trình; sự sai lầm bắt đầu từ Vĩnh Thụy. Tuy nhiên từ lúc tên Di này nội phụ đến nay, các quan địa phương lo liệu việc tra hạch lý lịch, thì không có gì sai lớn. Ðợi đến lúc viên Di mục An Nam gửi văn thư cho cho Trương Nhan Liệt châu Kiến Thủy, đòi lấy Hoàng Công Toản về để xử trị; viên Châu mục không bẩm báo với cấp trên, rồi viết văn thư phúc đáp rằng trong xứ không có người tên là Hoàng Công Toản; lỗi này không thể tha thứ được. Chương Bảo đã tra rõ, thì cứ sự thực mà tham hặc. Việc này trước đây không làm đến nơi, đợi đến khi Quân cơ đại thần ra lệnh từ từ tra xét, chứ không phải bỏ đó không xét; nhưng viên Tổng đốc vẫn dửng dưng không hỏi đến, điều này không thể tránh được lỗi. Nay truyền dụ Chương Bảo theo sự thực tâu lại minh bạch; kỳ dư đợi viên Tổng đốc đến kinh đô sẽ trực tiếp ra chỉ dụ.
Quyền Tổng đốc Vân Quí Chương Bảo tâu trước đây an sáp viên Di mục An Nam tại địa phương Khả Hà Lạc, sảnh Tư Mao, huyện Phổ Nhĩ; nay vẫn còn 126 người. Ðất này tuy không quá gần biên giới An Nam, nhưng hoang vu; tra thấy huyện Côn Minh vẫn còn đất trống, nên đưa đến tỉnh; hàng ngày cấp tiền gạo tiêu dùng. Báo đã nghe biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 880, trang 17-18)
Tổng đốc Vân Quí tâu thêm rằng qua cuộc điều tra biết được viên quyền Tri phủ Lâm An Trương Nhược Đình đã sai Tri châu Kiến Thủy Trương Nhan Liệt báo tin dối cho An Nam rằng không có tên Hoàng Công Toản tại Trung Quốc; Vua Càn Long bèn ra lệnh đưa Trương Nhược Đình đến kinh đô để điều tra:
“Ngày 6 Bính Tý tháng 4 năm Càn Long thứ 36 [19/5/1771]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Chương Bảo tâu nội dung về văn thư phúc đáp An Nam đòi đưa Hoàng Công Toản trở về. Cứ theo lời bẩm của Trương Nhược Ðình, lúc bấy giờ giữ chức quyền Tri phủ Lâm An cho biết viên quyền Tri châu Kiến Thủy Trương Nhan Liệt trình diện, đưa một văn thư của viên Trấn thủ Hưng Hóa, An Nam, tập nã Hoàng Công Toản. Y cùng viên quyền Tri châu bàn nên phúc đáp những lời rằng trong lãnh thổ nội địa không có tên đó. Ðây là việc lừa ngoại Di, tuy rằng do Trương Nhan Liệt viết, nhưng chủ kiến do Trương Nhược Ðình, nên sự lầm lỗi lại nặng hơn Trương Nhan Liệt. Còn cái điều khai rằng đã bẩm qua quan Kinh lược, thì thật hoang đường! Năm ngoái khi Ðại học sĩ Phó Hằng trở về bộ binh thì bị bệnh nặng, như vậy Trương Nhược Ðình làm sao có dịp bẩm rõ điều này. Nếu như Trương Nhược Ðình quả đã đem sự việc bẩm Phó Hằng, thì sao phải ra lệnh [ cho Nhan Liệt] tạo lời để che đậy, rồi bảo rằng đã liệu biện ỗn thỏa; chuyện này không tin được, hãy tra hỏi một lần thì mọi việc sẽ rõ ràng, như chuyện nước rút thì đá phải nhô lên. Nay Trương Nhan Liệt đã đến kinh đô để tra hỏi, lệnh giải chức Trương Nhược Ðình để đến kinh đô, giao Quân cơ đại thần hạch hỏi. Nếu như hiện nay Trương Nhược Ðình bàn giao chưa xong, vẫn ở Vân Nam, Ðức Bảo hãy ra lệnh khởi hành đến kinh đô. Nếu như viên này đã đến nhiệm sở mới đạo Kiến Xương, thì A Nhĩ Thái hãy tuân chỉ báo cho biết. Hãy đưa chỉ dụ này truyền cho Ðức Bảo, A Nhĩ Thái hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 882, trang 9-10)
Sau khi viên quyền Tri phủ Lâm An Trương Nhược Đình đến triều đình nhận lỗi; Vua Càn Long biết được Nhược Đình là con của Ðại học sĩ Trương Ðình Ngọc, bèn tha cho:
“Ngày 9 Ðinh Mùi tháng 7 năm Càn Long thứ 36 [18/8/1771]. Dụ rằng:
‘Nguyên giữ chức coi đạo Kiến Xương là Trương Nhược Ðình, liệu biện về việc Hoàng Công Toản, đã không bẩm trình với cấp trên rõ ràng, rồi sai viên Tri châu phúc đáp với An Nam rằng trong châu không có người tên Hoàng Công Toản; thực thất tín với ngoại Di, đáng bị phạt tội. Nhưng nghĩ rằng y là con của Ðại học sĩ Trương Ðình Ngọc, hiện nay con cháu của Trương Ðình Ngọc không có ai ra làm quan, cũng đáng thương. Nay Trương Nhược Ðình được ban ơn miễn tội, cho dùng tại kinh với chức tứ phẩm.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 888, trang 19)
Ngoài ra để tránh An Nam đòi hỏi, Vua Thanh ra lệnh an sáp Hoàng Công Toản và đồng bọn tại Ô Lỗ Mộc Tề thuộc tỉnh Tân Cương; trên đường đi xa xôi vạn dặm, nếu có kẻ thừa dịp bỏ trốn, sẽ bị bắt hành quyết ngay bên đường. Đây là bài học đắt giá, cho những kẻ phản quốc, mong nương dựa vào Trung Quốc:
“Ngày 6 Bính Ngọ năm Càn Long thứ 36 [18/6/1771]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Trước đây người dân An Nam là Hoàng Công Toản mang quyến thuộc đến nội phụ, được Tổng đốc Chương Bảo thu xếp, xin đem bọn Hoàng Công Toản cùng quyến thuộc hơn 100 người di chuyển đến Ô Lỗ Mộc Tề an sáp. Ai có phận sự lo việc áp tống, giao Chương Bảo sắp xếp nhân số, cắt đặt lo liệu ỗn thỏa; các tỉnh đi qua đều cần lưu tâm giúp đỡ việc áp giải. Nay truyền lệnh các viên Tổng đốc, Tuần phủ, trong tương lai tỉnh Vân Nam giải tống bọn Hoàng Công Toản qua cảnh, cần phái các quan binh văn võ thích hợp nhiệm vụ, lo bố trí dọc đường để giúp việc áp giải, đừng để sơ hốt. Nếu có kẻ thừa dịp bỏ trốn, tức tốc tầm nã ngay; rồi cho hành quyết ngay tại địa phương. Khi đã đến tỉnh Cam Túc, các viên Tổng đốc, Tuần phủ dự liệu báo cho quan Ðại thần biện sự tại Ô Lỗ Mộc Tề để ước lượng cấp phát đất đai phòng ốc, lệnh cho họ cày cấy tự túc. Cách an sáp quản lý như thế nào, lệnh cho viên Ðại thần cùng viên Tổng đốc bàn bạc ỗn thỏa rồi tâu lên. Ðể cho các Tổng đốc, Tuần phủ tiện việc tâu bày; nên truyền dụ này trước để hay biết.
Sau đó Văn Thụ tâu rằng:
“ Thần hiện truyền hịch đến các châu huyện dọc đường thuộc Thiểm Tây, Cam Túc, đợi lúc Hoàng Công Toản được giải đến thì lưu tâm giúp việc áp giải; lại truyền hịch cho Ðại thần biện sự tại Ô Lỗ Mộc Tề ước lượng cấp đất cùng phòng ốc để cho yên nghiệp.”
Nhận được chiếu chỉ cho biết đã xem.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 884, trang 16-17)
Vào tháng 9, áp giải bọn Hoàng Công Toản đến Tân Cương, đồng bọn được cấp ruộng đất nông cụ, giao cho Bả tổng đồn Thành Đầu quản chế:
“Ngày 30 Ðinh Mão tháng 9 năm Càn Long thứ 36 [6/11/1771]
Lại tâu ‘ Bọn dân An Nam Hoàng Công Toản được đưa đến Ô Lỗ Mộc Tề để an sáp quản lý. Tra địa phương Thổ Ðôn Tử thuộc thành Ðịch Hóa đất tốt, nước đủ, có thể sinh sống được; nên cho làm đất khai khẩn tại Ô Lỗ Mộc Tề. Mỗi hộ được ban cấp 30 mẫu; cho mượn nông cụ, đồ dùng trồng lúa, ngựa và nhà ở; giao cho Bả tổng đồn Thành Ðầu chế phục.’
Nhận được chiếu chỉ:
Cho thi hành theo lời bàn.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 893, trang 27-28).
Nhắm trả lời thư thứ hai từ An Nam, Vua Càn Long lại sai Quân cơ đại thần soạn sẵn văn thư nhân danh Tổng đốc Vân Nam Quí Châu, Chương Bảo trả lời. Nội dung thư trách trước đây lúc Hoàng Công Toản mới chạy sang Vân Nam, An Nam đã không trình báo; chờ đến khi bọn Công Toản đã đầu thuận nội địa và được an sáp lại muốn đòi về. Nhà Thanh cố tình che dấu việc cướp đất; còn kể công rằng đã an sáp tại Ô Lỗ Mộc Tề thuộc đất Tân Cương xa xôi, khiến Hoàng Công Toản không còn khả năng trở về quấy phá An Nam nữa:
“Ngày 5 Quí Mão tháng 7 năm Càn Long thứ 36 [14/8/1771]. Lại dụ:
‘Cứ Lý Thị Nghiêu [Tổng đốc Lưỡng Quảng] tâu đã tiếp nhận tờ tư của Quốc vương An Nam về việc xin đưa Hoàng Công Toản về, lời lẽ so với trước cung thuận hơn, nên cũng không cần trách cứ thêm. Nhưng bọn Hoàng Công Toản đã được phân biệt an sáp miền cực bắc, cách tỉnh Vân Nam rất xa; chi bằng cho họ biết để ngoại Di không còn có mối lo sợ sai lầm. Nhân sai Quân cơ đại thần, thay soạn bản thảo; khi viên Tổng đốc Vân Quí nhận được, chép lại tươm tất rồi gửi ngay đi. Đem dụ này báo cho Chương Bảo [Tổng đốc Vân Quí] hay; ngoài ra gửi Quân cơ đại thần thay mặt soạn đạo hịch dụ:
“ Hịch dụ Quốc vương An Nam hiểu rõ: Trước đây cứ văn thư của nước ngươi, nhân bọn Hoàng Công Toản đầu thuận nội địa, bèn hướng Bản bộ viện [Tổng đốc Vân Quí] đòi bắt trở về để xử trị. Bọn chúng nguyên bị bức bách cùng cực đến qui thuận, Bản bộ viện ngưỡng trông lòng nhân của Thiên Tử, chọn đất an sáp; chúng như được sống lại, há lại nghe lời về nước ngươi để chịu chết. Huống lúc sự việc xãy ra trước đây nước các ngươi không trình báo, đến lúc nghe tin đã đầu thuận nội địa và được an sáp lại muốn đòi về, xét về tình lý không hợp. Vả lại văn thư của ngươi trước đây, dùng lời lẽ không hợp; nên đã thông sức cho biết; đó là do nước ngươi làm để chịu lời trách, không phải do Bản bộ viện bài xích quá đáng. Mới đây Ðốc bộ viện Lưỡng Quảng gửi văn thư cho biết việc nước ngươi muốn liệu biện đầu đuôi vụ Hoàng Công Toản, vì vụ án không xẩy ra tại Lưỡng Quảng, nên phải gửi văn thư đến Bản bộ viện điều tra và phúc trình. Nay nhận được thư của Lưỡng Quảng Ðốc bộ viện mới gửi tới bảo nước ngươi mới gửi văn thư đến; duyệt bản văn lần này biết được nặng nhẹ phân lượng, hợp với đại thể ngoại Phiên cung thuận, nên những lời trước kia không cần đem ra trách cứ.
“ Còn bọn Hoàng Công Toản lúc mới đến, nhân thương vì cùng khốn nên cho an sáp; đến khi xem kỹ tính tình không phải là người ưa yên tĩnh. Từ khi trú tại biên cảnh có lúc tranh chấp với Thổ ty, nên cho dời vào nội địa; rồi cũng không giữ pháp độ. Hiện được Bản bộ viện tâu lên đại Hoàng đế đem bọn Hoàng Công Toản giải đến các xứ vùng cực bắc Hắc Long Giang, Ô Lỗ Mộc Tề để phân tán an sáp; đất này cách tỉnh Vân Nam đến mấy vạn lý. Trong việc thành toàn này cũng ngụ ý ban ơn, để cho nước ngươi thấy rằng đại Hoàng đế thi hành trọn vẹn nhân nghĩa và việc làm của Trung Quốc quang minh chính đại, không để cho các ngươi lo bọn chúng cậy vào việc an sáp để có dịp mưu đồ báo thù sau này. Nay soạn văn thư này để Quốc vương biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 888, trang 5-7)
Viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu lo rằng trong dịp cống sắp tới, Sứ thần An Nam sẽ gửi văn bản tâu về vụ Hoàng Công Toản; nếu trường hợp này xãy ra, thì sẽ gửi trả lại. Khác ý một chút, Vua Càn Long lại sai Quân cơ đại thần soạn sẵn văn thư cho Tổng đốc Lưỡng Quảng để gửi cho An Nam, nội dung cho biết nước này dâng tấu triệp phụ vào việc cống, thì không tiện ngăn trở; nhưng nếu lại cử riêng người để tâu bày thì bác bỏ cho trở về:
“Ngày 6 Giáp Thìn tháng 7 năm Càn Long thứ 36 [15/8/1771]. Lại dụ rằng:
‘Lý Thị Nghiêu tâu về văn thư của Quốc vương An Nam gửi đến xin tỉnh Vân Nam điều tra lại và phúc đáp về việc liên quan đến Hoàng Công Toản. Lời thư có phần cung thuận, đã báo cho Chương Bảo [Tổng đốc Vân Quí ] hay; lại sai Quân cơ đại thần soạn hịch để đưa đến nơi gần biên giới phúc đáp. Còn việc viên Tổng đốc xưng rằng khi viên Quốc vương tiến cống, nếu như có văn bản phụ tâu về việc này, thì sẽ gửi trả lại; sự liệu biện chưa được thỏa đáng. Nước này dâng tấu triệp phụ vào việc cống, không tiện ngăn trở; nhưng nếu lại cử riêng người để tâu, thì bác bỏ cho trở về. Lại cũng sai Quân cơ đại thần thay mặt thảo một tờ hịch gửi đến, khi viên Tổng đốc nhận được thì theo lệ chép lại tươm tất rồi gửi đi ngay; nay truyền dụ để hay biết.’
Ngoài ra gửi kèm hịch dụ do Quân cơ đại thần thay mặt soạn:
‘Hịch dụ Quốc vương An Nam hiểu rõ: Trước đây căn cứ vào văn thư gửi đến, đã chuyển cho Ðốc bộ viện Vân Quí tra xét. Bản bộ viện nghĩ rằng nước ngươi gần biên cảnh, vốn giữ lễ giáo; không nên vì một lần dùng từ không đúng đắn, làm phiền Thiên tử nghe, khiến phải chịu tội. Nay tiếp được thư đến, dùng từ đắc thể hơn trước; như vậy ngươi đã rõ được họa phúc, giữ được sự an toàn vĩnh viễn. Ngươi Quốc vương, đời đời được phong làm Phiên quốc, biểu dương cung thuận; ngưỡng nhờ đại Hoàng đế gia ơn, ngươi vốn hiểu sâu lẽ đó. Về vụ án Hoàng Công Toản, Ðốc bộ viện tại Vân Nam Quí Châu ắt phải có sự phân xử, nay chuyển văn thư của ngươi tới tỉnh Vân Nam, họ sẽ gửi phúc đáp đến nơi gần biên giới. Còn như trong thư gửi đến nói rằng mong sớm được phúc đáp, miễn phải phiền tâu trình trong kỳ cống; lời nói này không hợp lý. Ngoại Phiên dâng biểu tiến cống, đã có định chế, ngoài nội dung việc cống ra không được trình bày gì khác. Nếu muốn dâng tấu triệp trình bày điều gì, lệnh Sứ thần kèm với tờ cống dâng lên; Bản bộ viện không tiện coi thường mà kiểm duyệt, ngăn trở lời nghe của Thiên tử; đáng sẽ cùng với tờ tâu về việc cống, trình lên một lần. Khi tấu triệp của ngươi đến, tất sẽ giao cho bộ bàn bạc chấp thuận hay không, bộ sẽ theo lệ khảo xét rồi chờ đại Hoàng đế định đoạt; như vậy không phải tấu triệp dâng lên đều được như sự mong muốn. Nếu sau khi Cống sứ đã khởi hành, lại sai người tiến dâng tấu triệp; thì ngoại Phiên không có lệ gửi Sứ thần mang công hàm riêng biệt (6), nên Bản bộ viện nghiêm cẩn tuân theo định chế, không dám cho vào, nên sẽ bác và giao cho Sứ thần mang về. Bản bộ viện cứ lý mà xét, rồi phúc đáp tường tất; mong Quốc vương hiểu kỹ khỏi phụ tấm lòng canh cánh thành thực phúc đáp.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 888, trang 9-11)
Văn thư do Quân cơ đại thần soạn cho Tổng đốc Lưỡng Quảng để gửi An Nam, chưa kịp gửi đi, thì Sứ thần An Nam đến; làm đúng thủ tục đem vụ án Hoàng Công Toản phụ tâu lúc nạp cống, nên phía Thanh đuối lý không ngăn cản được, cuối cùng đành phải bác đi. Trong bản phu tâu, An Nam đả kích nặng nề, có những từ như “nhược bất vấn nghĩa lý chi thị phi” [nếu không đếm xỉa đến nghĩa lý phải trái], khiến tình hình trở nên căng thẳng; triều Thanh bèn ra lệnh cho Tổng đốc Lý Thị Nghiêu lưu tâm tra xét biên giới, nghiêm mật đề phòng các quan ải:
“Ngày 13 Mậu Thân tháng 3 năm Càn Long thứ 37 [15/4/1772]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Cứ theo lời tâu của Lý Quốc vương An Nam cố chấp mê muội đem vụ án Hoàng Công Toản phụ tâu lúc nạp cống, nên không cần phải Thị Nghiêu ‘gửi văn thư phúc đáp.’ Viên Quốc vương cố chấp ý kiến mình, nhất định muốn trình tâu, viên Tổng đốc cho rằng không cần gửi văn thư phúc đáp là đúng. Ðợi tấu triệp của y tới nơi, giao cho bộ bác bỏ; viên Tổng đốc lúc này cũng không cần tranh luận với họ.
Riêng duyệt văn thư của viên Quốc vương, trong đó có những cụm từ như “ tề chính tu giáo, chính nghị minh đạo” [sửa dạy theo đường chính, bàn lẽ phải làm sáng đạo] , hoặc như “ nhược bất vấn nghĩa lý chi thị phi” [nếu không đếm xỉa đến nghĩa lý phải trái] vv…đều thuộc loại cũ kỹ vu khoát không hợp thời, chuyên dùng nhai văn nhả chữ, chắc từ tay tên Hán gian nào đó viết. Biên giới An Nam tiếp giáp với Quảng Tây, dân nội địa qua lại rất tiện; sợ quân gian không tuân pháp luật trốn vào nước này, việc này rất quan hệ. Nay truyền lệnh cho Lý Thị Nghiêu lưu tâm tra xét, thông sức các cửa quan ải, nghiêm mật xét hỏi, nếu gặp người phạm vào việc cấm đoán ra vào, thì tra xét kỹ trị năng tội này.’
Ðem dụ này truyền để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 904, trang 32-33)
Tại miền Nam, vào tháng 3 [27/3-23/4/1770], cho làm sổ ruộng các huyện tại Thuận Hóa. Chúa Nguyễn cho rằng xứ Thuận Hóa khẩn ruộng ngày một nhiều, mà sổ sách lâu năm hư hỏng, sai chiếu số ruộng các xã thôn phường thuộc các huyện, làm sổ thành tập. Huyện Hương Trà [Thừa Thiên] 10 tổng, 222 xã, thôn, phường, ruộng quy thành 8 tập; Quảng Điền [Thừa Thiên] 8 tổng, 137 xã, thôn, phường, quy thành 4 tập; Phú Vang [Thừa Thiên] 6 tổng, 352 xã, thôn, phường, quy thành 15 tập; Đăng Xương [huyện Triệu Phong, Quảng Trị] 5 tổng, 188 xã, thôn, phường, quy thành 5 tập; Khang Lộc [huyện Quảng Ninh, Quảng Bình] 6 tổng, 83 xã, thôn, phường, quy thành 6 tập; Lệ Thủy [Quảng Bình] 5 tổng, 73 xã, thôn, phường, quy thành 4 tập; Nam Bố Chính [nam Quảng Bình] 2 tổng, 54 xã, thôn, phường, quy thành 1 tập. Duy còn 1 huyện Hải Lăng [Quảng Trị], nay không khảo được.
Chúa thấy địa thế văn miếu ở xã Triều Sơn [tổng Hương Cần, huyện Hương Trà, Thừa Thiên] ẩm thấp, nên sai dời đến xã Long Hồ [tổng Long Hồ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên].
Chưởng tại bộ Hình là Tôn Thất Dục bị bãi. Dục học rộng, có tài lược, triều đình xem là trọng thần. Bấy giờ Trương Phúc Loan chuyên quyền, thấy Dục là bầy tôi Tôn thất có tiếng đương thời, muốn kéo bè giúp mình, bèn đem con gái gả cho. Dục không vì thế mà chịu khuất, giữ ngay thẳng, không a dua. Loan ghét, ngầm sai người vu cho Dục mưu phản. Tra xét mãi không có chứng cớ gì, đến đấy bãi về. Dục đã về nhà, tuyệt nhiên không nói gì đến việc nước nữa, chỉ ngày cùng các khách ngâm vịnh. Dục hiếu học, giỏi thơ, càng tinh về thuật số và âm nhạc, tục truyền đàn Nam Cầm [một loại đàn bầu] là do Dục chế ra.
Tháng 7 [21/8-18/9/1770], lính trốn ở Hà Tiên là Phạm Lam họp đảng ở Hương Úc và Cần Vọt [Hà Tiên] cùng với người Chà Và là Vang Ly Ma Lư và người Chân Lạp là Ốc Nha Kê hợp quân hơn 800 người và 15 chiếc thuyền, chia đường thủy bộ đánh úp trấn Hà Tiên. Vừa tới ngoài lũy, Mạc Thiên Tứ đem quân chống cự, đánh tan được, đâm chết Phạm Lam ở giữa sông, bắt được Lư và Kê đem chém. Bấy giờ Hà Tiên luôn gặp binh hỏa, quân lương hao tổn, lòng dân dao động, Thiên Tứ dâng sớ tự trách. Chúa ban thư tỏ lòng khoan hồng và yên ủi; lại sắc cho Điều khiển Gia Định rằng hễ Hà Tiên có tin báo động thì phải tiếp ứng mau.
Kẻ sĩ ẩn dật ở Thuận Hóa là Ngô Thế Lân dâng thư bàn về tiền tệ, đại lược như sau:
“Trộm nghe, khi tiên chúa mở mang, đất còn hẹp, dân còn thưa, phía nam chưa có đất Gia Định màu mỡ (Gia Định là đất tốt bậc nhất, rất hợp trồng lúa, rồi đến trồng cau. Phương ngôn có câu “Nhất thóc nhì cau”); phương Bắc còn có việc phòng giữ ở Hoành Sơn, liền năm chinh chiến, mà dân không đói kém, nhà nước thừa tiêu. Ngày nay thiên hạ bình tĩnh đã lâu, đất rộng dân đông, những đất trồng lúa đã khai khẩn hết, những nguồn lợi núi chằm đã khai thác hết. Hơn nữa, ruộng ở Phiên Trấn [Gia Định] và Long Hồ [Vĩnh Long] lại không bị hạn lụt bao giờ. Thế mà từ năm Mậu Tý [1768] tới nay, giá thóc cao vọt, nhân dân đói kém, là cớ làm sao? Không phải là thiếu thóc mà chính vì đồng tiền kẽm gây nên vậy. Nhân tình ai cũng ưa cái bền chắc, ghét cái chóng hư. Nay lấy đồng tiền kẽm chóng hư mà thay đồng tiền đồng bền chắc, cho nên dân đua nhau chứa thóc mà không chịu chứa tiền. Tuy nhiên, cái tệ tiền kẽm đã lâu rồi, nay muốn đổi đi, thế rất là khó, mà nạn đói của dân thế lại rất gấp. Thần trộm nghĩ phương kế ngày nay, không gì bằng phỏng theo phép nhà Hán, mỗi phủ đặt một kho Thường bình, đặt quan phụ trách, định giá thường bình, rồi hễ thóc rẻ thì theo giá mà đong vào, thóc đắt thì theo giá mà bán ra. Như thế thì giá thóc không đến nỗi rẻ quá để hại cho nhà nông, mà cũng không đến nỗi đắt quá để lợi cho bọn phú thương, rồi sau sẽ dần dần sửa đổi cái tệ tiền kẽm, thế là vật giá sẽ được bình ổn”.
Sớ dâng lên, không thấy trả lời; sau Lân theo Tây Sơn.
Chú thích:
1.Chánh xà, Phó xà: dân Lào gọi người Tù trưởng là xà.
2.Bản cảo: bản nháp. Bản này do Quân cơ đại thần soạn sẵn để Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu chép lại rồi gửi sang An Nam.
3.Bản bộ viện: lời tự xưng của vị quan lớn đứng đầu một cơ quan. Ðốc bộ viện: chỉ viên Tổng đốc và cơ quan dưới quyền.
4.Lê dân: dân đen, con đỏ tức xích tử; hai từ này đều chỉ dân thường.
5.Hoàng Ðình Thể: người xã Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa; từng giữ chức Ðốc lãnh Hưng Hóa.
6.Nguyên văn dùng chữ “chuyên hàm”, ý chỉ công hàm riêng biệt, không liên quan đến việc triều cống.