Xem lại cách giải thích của R. Stein (1947) và W. Southworth (2001) về nước Lâm Ấp và nước Tây Đồ

 Võ Văn Thắng

Giới thiệu

Thông thường nhiều người nghĩ rằng khu đền tháp ở Mỹ Sơn (Đà Nẵng) là dấu tích của nước Champa xưa, hoặc là nước Chiêm Thành hay Lâm Ấp theo các tên chữ Hán. Nhưng trong giới nghiên cứu, có ý kiến cho rằng các vị vua ghi trên các văn khắc sớm tại Mỹ Sơn là vua của nước Tây Đồ 西屠 (Xitu); sau thế kỷ 6, nước Tây Đồ thôn tính nước Lâm Ấp ở phía bắc mới thành ra nước Campā (Southworth 2001). Ý kiến này được một số học giả ủng hộ (Vickery 2005) và phát triển, minh họa thêm bằng một số hình ảnh, bản đồ (Schweyer 2010), trình bày tại các Hội thảo lớn và in lại trong các sách được nhiều người tham khảo. Ý tưởng về một nước Tây Đồ thôn tính nước Lâm Ấp xuất phát từ một chuyên luận của R.Stein (1947) trên cơ sở  phân tích và suy luận từ các ghi chép trong sử, sách Trung Hoa.

Hiện nay, nhờ các bộ sử của Trung Hoa đã được số hóa,  có thể truy cập để nghiên cứu, chúng tôi đọc lại các cứ liệu của R. Stein và nhận ra rằng ông đã chọn lựa và phân tích tài liệu theo một cách riêng, dẫn đến những suy luận có thể không chính xác. Bài viết này xin phép nêu lại một số tài liệu cơ bản mà R. Stein và những người đi theo ông đã nêu ra; đồng thời đối chiếu một số tài liệu khác để cho thấy nhận định rằng có một nước Tây Đồ ở vùng lưu vực sông Thu Bồn vào thế kỷ 6 là thiếu cơ sở và cần phải xem lại.

  1. Vị trí và phạm vi lãnh thổ của nước Lâm Ấp

Có sự thống nhất giữa nhiều nhà nghiên cứu rằng, nước Lâm Ấp ra đời tại huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam vào cuối thế kỷ 2 sau những cuộc khởi nghĩa của người địa phương chống lại sự cai trị của nhà Hán, Trung Hoa. Vấn đề không thống nhất là xác định vị trí của huyện Tượng Lâm lúc ấy cũng có nghĩa là vị trí khởi đầu của nước Lâm Ấp. Đã có những công trình khảo cứu công phu dẫn đến suy luận khác nhau về ranh giới phía nam của nước Lâm Ấp, hoặc là vượt qua phía nam đèo Hải Vân ( Aurrouseau 1914, Đào Duy Anh 1956) hoặc chỉ ở phía bắc đèo Hải Vân (Stein 1947).

Nhưng dù đặt vị trí ban đầu của Lâm Ấp ở bắc hay nam đèo Hải Vân, thì những ghi chép trong sử Trung Hoa cũng cho thấy phạm vị Lâm Ấp đến giữa thế kỷ 4 đã mở rộng.

Lương Thư chép như sau:[2]

晉成帝咸康三年,逸死,奴文篡立。(…) 及王死無嗣,文偽於鄰國迓王子,置毒於漿中而殺之,遂脅國人自立。舉兵攻旁小國,皆吞滅之,有眾四五萬人.[3]

Năm thứ ba niên hiệu Hàm Khang của vua Tấn Thành Đế (năm 337), Dật chết, một người giúp việc tên là Văn soán ngôi. (…) Đến khi vua chết, Văn giả đến nước láng giềng mời con của vua về, bỏ chất độc vào trong nước để giết, rồi ép người trong nước để tự lập. Dấy binh đánh các nước lân cận, thôn tính tất cả, có bốn, năm vạn người theo.

Tấn Thư cũng chép tương tự Lương Thư, nhưng đoạn sau nói rõ hơn về công trạng của Phạm Văn với một văn phong mạnh mẽ:

於是乃攻大岐界、小岐界、式僕、徐狼、屈都、乾魯、扶單等諸國,并之,有眾四五萬人。遣使通表入貢於帝,其書皆胡字。至永和三年,文率其眾攻陷日南,害太守夏侯覽,殺五六千人,餘奔九真,以覽尸祭天,鏟平西卷縣城,遂據日南。告交州刺史朱蕃,求以日南北鄙橫山為界. [4]

Lúc ấy bèn đánh các nước Đại Kỳ Giới, Tiểu Kỳ Giới, Thức Bộc, Từ Lang, Khuất Đô, Kiền Lỗ, Phù Đan,[5] gộp cả lại, có bốn, năm vạn người theo. Cử sứ dâng biểu vào cống vua (nhà Tấn), viết toàn bằng chữ Hồ.  Đến năm thứ ba niên hiệu Vĩnh Hòa (năm 347), Văn dẫn đầu mọi người đánh hãm Nhật Nam, hại Thái Thú Hạ Hầu Lãm, giết năm, sáu ngàn người, số còn lại chạy về Cửu Chân, lấy xác Lãm tế Trời, san bằng thành huyện Tây Quyển. Báo với Thứ Sử Giao Châu là Chu Phan, xin lấy vùng biên phía bắc của Nhật Nam là Hoành Sơn làm biên giới (giữa Lâm Ấp và Giao Châu).

Như vậy, khoảng năm 347, Phạm Văn đã “san bằng Tây Quyển, chiếm hết cả Nhật Nam”; “đề nghị lấy Hoành Sơn làm ranh giới với Giao Châu”. Phạm Văn cũng đã “công bàng tiểu quốc, giai thôn tính chi”. Tấn Thư nêu rõ tên 7 nước bị Phạm Văn thôn tính, ngày nay không thể xác định ranh giới của các nước đó thế nào, nhưng ắt hẳn không thể về phía biển ở phía đông hay về phía bắc ở Giao Châu, mà phải là về phía nam và tây của Nhật Nam lúc bấy giờ; ít ra là phải đến các tiểu quốc nào đó ở nam đèo Hải Vân, và các tiểu quốc ở rừng núi Trường Sơn hoặc tây Trường Sơn. 

Việc Phạm Văn thôn tính các tiểu quốc lân cận cho thấy khả năng Lâm Ấp xây dựng kinh thành chính ở vùng nam đèo Hải Vân từ giữa thế kỷ 4 là bình thường.

  1. Nước Tây Đồ và trụ đồng thời Mã Viện

Để bảo vệ cho lập luận rằng nước Lâm Ấp chỉ ở phía bắc đèo Hải Vân, R. Stein đã dẫn ra các ghi chép của thư tịch Trung Hoa về một số nước có thể ở vị trí phía nam của nước Lâm Ấp lúc bấy giờ. Thử đọc lại một số tài liệu mà R. Stein đã dùng làm căn cứ.

            Sách Thông Điển, ở mục Lâm Ấp, viết như sau:

林邑国,秦象郡林邑县地。汉为象林县,属日南郡,古越裳之界也,在交趾南,海行三千里。其地纵广可六百里,去日南界四百馀里。其南,水步道二百馀里,有西屠夷,亦称王焉,马援所植两铜柱,表汉界处也。马援北还,留十馀户于铜柱处。至隋有三百馀户,悉姓马,土人以为流寓,号曰“马流人”。铜柱寻没,马流人常识其处。林邑国记:“马援树两铜柱于象林南界,与西屠国分汉之南境。”又云:“铜柱山周十里,形如倚盖,西跨重岩,东临大海。”屈璆道里记又云:“林邑大浦口有五铜柱焉。[6]

Nước Lâm Ấp, thời Tấn là đất huyện Lâm Ấp, Tượng quận. Thời Hán là huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam, là biên giới Việt Thường xưa, ở nam Giao Châu, đi đường biển 3000 lý. Đất ngang dọc chừng 600 dặm, cách biên giới Nhật Nam hơn 400 dặm, Về phía nam, đi đường thủy hoặc bộ  hơn 200 dặm, có người man di Tây Đồ,  cũng xưng vương. Mã Viện trồng ở đó hai trụ đồng, chỉ ranh giới xứ Hán. Mã Viện về bắc, để lại hơn 10 gia đình ở xứ trụ đồng. Đến đời Tùy có hơn 300 gia đình, đều họ Mã, người địa phương xem họ là người lưu lạc ngụ cư, gọi là “Mã lưu nhân”. Trụ đồng dần hủy hoại, người Mã lưu luôn biết xứ sở của họ. Sách Lâm Ấp quốc ký chép: ” Mã Viện trồng hai trụ đồng ở biên giới phía namTượng Lâm, phân biên giới giữa Hán và nước Tây Đồ. Lại viết ” Núi Đồng Trụ chu vi mười dặm, hình dáng như lọng che, phía tây vắt qua nhiều vách núi, đông nhìn biển lớn”. Sách Đạo lý ký của Khuất Cầu viết: ” Ở cửa sông lớn của Lâm Ấp có 5 trụ đồng”.

Sách Thái Bình Ngự Lãm, quyển Tây Di bộ 11, phần Nam Man 6, có chép nước Tây Đồ và một số nước ở phía nam Tây Đồ.

西屠國:《異物志》曰:西屠國在海外,以草漆齒,用白作黑,一染則歷年不復。一號黑齒。《交州以南外國傳》曰:有銅柱表,為漢之南極界,左右十餘小國,悉屬西屠。有夷民,所在二千餘家。[7]

Nước Tây Đồ: Sách Di Vật Chí viết: Nước Tây Đồ ở ngoài biển, lấy cỏ nhuộm răng, chuyển trắng thành đen, một lần nhuộm cả năm không đổi. Gọi là răng đen. Sách Giao Châu Dĩ Nam Ngoại Quốc Truyện viết: Có trụ đồng làm dấu, là ranh giới cực nam của Hán, chung quanh có hơn 10 tiểu quốc, đều lệ thuộc Tây Đồ. Có dân man di, ở đó hơn hai ngàn gia đình.

金鄰國:《異物志》曰:金鄰,一名金陳,去扶南可二千餘里。地出銀,人民多好獵大象,生得乘騎,死則取其牙齒。《外國傳》曰:從扶南西去金陳,二千餘里到金陳。[8]

Nước Kim Lân: Sách Dị Vật Chí viết: Kim Lân, còn có tên là Kim Trần, cách Phù Nam khoảng hai ngàn dặm. Đất sinh bạc, nhân dân rất thích săn voi lớn, sống thì để cưỡi, chết thì lấy ngà. Sách Ngoại Quốc Truyện viết: Từ phía tây Phù Nam đi Kim Trần, hơn 2000 dặm tới Kim Trần.

波遼國:《外國傳》曰:從西圖南去百餘里到波遼,十餘國皆在海邊。[9]

Nước Ba Liêu, Ngoại Quốc Truyện viết: Từ nam Tây Đồ đi hơn 100 dặm tới Ba Liêu, hơn 10 nước đều ở ven biển.

屈都乾國:《外國傳》曰:從波遼國南去,乘船可三千里,到屈都乾國地。有人民可二千餘家,皆曰朱吾縣民,叛居其中。[10]

Nước Khuất Đô Kiền: Ngoại Quốc Truyện viết: Từ nam nước Ba Liêu, đi thuyền chừng 3000 dặm, tới đất nước Khuất Đô Kiền. Có nhân dân khoảng hơn hai ngàn gia đình, đều nói là dân huyện Chu Ngô, làm phản nên ở đây.

波延州:《外國傳》曰:從屈都乾國東去,船行可千餘里,到波延洲。有民人二百餘家,專采金,賣與屈都乾國。[11]

Châu Ba Duyên: Ngoại Quốc Truyện viết: Từ nam nước Khuất Đô Kiền đi về phía đông, đu thuyền chừng hơn 1000 dặm, tới châu Ba Duyên. Có dân hơn 200 gia đình, chuyên nhặt vàng, trao đổi với nước Khuất Đô Kiền.

究原國民:《外國傳》曰:究原有獠民,出錫、鐵、…[12]

Dân nước Cứu Nguyên: Ngoại Quốc Truyện viết: Cứu Nguyên có dân Liêu, sản xuất thiếc, sắt, …

奴后國:《外國傳》曰:從林陽西去二千里,奴后國,可二萬餘戶,與永昌接界 [13]

Nước Nữ Hậu: Ngoại Quốc Truyện viết: Từ phía tây Lâm Dương  đi 2000 lý, nước Nữ Hậu, khoảng hơn hai vạn gia đình, tiếp giáp với Vĩnh Xương.

            Xem lại hai tài liệu có nói đến “Tây Đồ quốc” trên đây, có thể nhận ra rằng đó là những ghi chép tổng hợp từ nhiều tài liệu tản mạn trước đó. Thông Điển thì dẫn lại Lâm Ấp Quốc Ký, Khuất Cầu Đạo Lý Ký. Thái Bình Ngự Lãm thì tổng hợp từ các sách Di Vật Chí, Giao Châu Dĩ Nam Ngoại Quốc Truyện. Thông tin về việc trồng trụ đồng ở ranh giới Tây Đồ thì thuộc về thời kỳ Mã Viện tiến quân đàn áp khởi nghĩa của Trưng Trắc vào năm 42-44, trước khi nước thành lập Lâm Ấp đến gần 2 thế kỷ. Các tên nước Khuất Đô Kiền, Ba Liêu, Kim Lân, Nữ Hậu….cùng với hàng chục tên nước “Nam Man” được tổng hợp trong Thái Bình Ngự Lãm đều không có thông tin để xác định về thời điểm xuất hiện và tiêu vong.

            Các cuốn chính sử của Trung Hoa không nói đến một nước Tây Đồ ở phía nam Lâm Ấp, chỉ có Lương Thư có một câu tương tự như ở Thông Điển, nhưng viết là “Tây Quốc Di” chứ không viết “Tây Đồ Di” hay “Tây Đồ Quốc” như ở Thông Điển:

其南界,水步道二百餘里,有西國夷亦稱王,馬援植兩銅柱表漢界處也. [14]

Về phía nam, đường bộ hoặc đường thủy hơn 200 dặm, có nước của người man di ở phía tây cũng xưng vương. Mã Viện trồng hai trụ đồng để chỉ ranh giới xứ Hán.

  1. Stein (1947: 161) đã tự ý thêm chữ tou đặt trong ngoặc sau chữ Si và dịch thành nước Tây Đồ cho đúng với lập luận của ông: ” A environ 200 li par eau et par terre on trouve les babare du royaume de Si (-t’ou) qui, eux aussi s’arrogant le titre de Roi“.

            Nếu tôn trọng nguyên văn của Lương Thư thì “Tây Quốc Di” chỉ có thể dịch là “nước của người man di ở phía tây” hoặc “nước Tây của người man di”.  Và cho dù Lương Thư chép nhầm “Tây Đồ” ra “Tây Quốc” thì, như đã phân tích ở trên, đây là thông tin về thời điểm cuộc hành quân của Mã Viện vào các năm 43, 44; không thể lấy làm căn cứ để xác định ranh giới của nước Lâm Ấp ở thế kỷ 6, khi mà Phạm Văn, vua của Lâm Ấp, đã thôn tính các tiểu quốc lân cận từ giữa thế kỷ 4.

  1. Giả thuyết về việc Tây Đồ thôn tính Lâm Ấp

            Khi đã cho rằng lãnh thổ của Lâm Ấp ở thế kỷ 5 chỉ ở bắc đèo Hải Vân, lại đồng thời thừa nhận cuộc tấn công của Lưu Phương năm 605 là vào kinh thành của Lâm Ấp ở lưu vực sông Thu Bồn, các học giả tìm cách diễn giải về sự dịch chuyển này. R. Stein (1947: 108) chỉ nêu nghi vấn liệu sự dịch chuyển kinh đô là do kinh thành Lâm Ấp đã bị phá hủy sau cuộc tấn công của Đàn Hòa Chi năm 446. Ông không giải thích thêm mà dành nhiều trang để tập hợp và phân tích các tài liệu Trung Hoa có nói đến tên một số nước ở phía nam Lâm Ấp.

Southworth (2001) đã tập trung vào trường hợp nước Tây Đồ, đưa ra các lập luận để đồng nhất Tây Đồ với chủ nhân của di tích kinh thành tại khu vực Trà Kiệu, Mỹ Sơn. Mặc dù đã nhận ra rằng không thể tìm thấy thông tin gì ở thế kỷ 5, 6 về nước Tây Đồ cũng như về các vương quốc có ghi trong Thái Bình Ngự Lãm; nhưng W. Southworth tự giải thích rằng lúc đó “sự phân biệt trước đó giữa Lâm Ấp và Tây Đồ trong sử Trung Hoa đã dần dần trở nên lộn xộn và các truyền thống lịch sử bị gộp lại”. [15]  Theo W. Southworth, các vị vua có tên trong văn khắc C 96 ở Mỹ Sơn là vua nước Tây Đồ, sử Trung Hoa ghi là vua nước Lâm Ấp . Cho đến năm 543, với cuộc tấn công của vua Rudravarman từ Tây Đồ đánh vào Giao Châu,  dịp này “các vị vua của nước Tây Đồ đã thu phục phần lãnh thổ của Lâm Ấp ở phía bắc đèo Hải Vân, tạo lập một quyền lực chính trị thống nhất gọi là Campā ở phía nam”. [16]

Khi cần chứng minh rằng có một nước Tây Đồ ở phía nam đèo Hải Vân, tồn tại song song với nước Lâm Ấp ở phía bắc Hải Vân, thì S. Stein và W. Southworth gán tính khả tín khá cao cho những ghi chép tản mạn trong các cuốn sách Trung Hoa về các tiểu quốc man di; và khi muốn chứng minh nước Tây Đồ đã thôn tính nước Lâm Ấp tạo lập nước Champa thì lại gán tính lộn xộn, nhầm lẫn cho những ghi chép trong sử Trung Hoa.

Thêm vào đó, để giải thích cho sự lớn mạnh của một nước Tây Đồ ở lưu vực sông Thu Bồn để có thể thôn tính nước Lâm Ấp, W. Southworth cho rằng nước Tây Đồ đã tận dụng được vị trí thuận lợi của cảng sông Thu Bồn để phát triển thương mại với Nam Hải, Quảng Châu cả từ trước và đầu công nguyên; sự bành trướng  nhanh chóng của cảng biển này từ thế kỷ 3 đã dẫn đến ra đời của cấu trúc nhà nước độc lập ở thung lũng Thu Bồn, với tên gọi Tây Đồ, tạo ra bối cảnh cho sự ra đời của Champa, với những truyền thống điêu khắc và văn khắc lớn vào thế kỷ 7 và đầu thế kỷ 8. [17] Nhận định này có vẻ mâu thuẫn với nhận định về sự nhầm lẫn của sử Trung Hoa. Với sự phát triển giao thương giữa vùng lưu vực sông Thu Bồn với Trung Hoa liên tục từ đầu công nguyên cho đến thế kỷ 6 như nhận định trên của W. Southworth thì việc cho rằng Trung Hoa thiếu thông tin đến mức nhầm lẫn giữa nước Tây Đồ và nước Lâm Ấp là một sự giải thích gượng ép.

Trong khi đó những thông tin mang tính ngoại giao giữa Trung Hoa với nước Lâm Ấp và Phù Nam đã được ghi nhận từ thế kỷ 3. Sách Tam Quốc Chí, có truyện về Lữ Đại, được bổ làm Thứ sử Giao Châu năm 220. Ông có cử tòng sự đi về phía nam để giáo hóa các nước, kết quả là các nước Lâm Ấp , Phù Nam đều tiến cống Trung Hoa; nhưng không thấy ghi chép gì về một nước Tây Đồ ở khu vực này.

Truyện về Lữ Đại trong Tam Quốc Chí chép:

又遣從事南宣國化, 曁徼外扶南,林邑,堂明諸王,各遣使奉貢 [18]

Sau đó cử tòng sự đi nam để phổ biến văn hóa của nước (Trung Hoa), các vua Phù Nam, Lâm Ấp, Đường Minh đều sai sứ sang cống.

Trong Tấn Thư, mục Truyện về Đào Hoàng, Thứ sử Giao Châu, năm 280, gửi thư cho vua nhà Tấn, can gián việc giảm lính ở Giao Châu, cũng chỉ nêu các nước Lâm Ấp và Phù Nam:

吳既平,普減州郡兵,璜上言曰:交土荒裔,斗絕一方,或重譯而言,連帶山海。又南郡去州海行千有餘里,外距林邑纔七百里。夷帥范熊 世為逋寇,自稱為王,數攻百姓。且連接扶南,種類猥多, 朋黨相倚 , 負險不賓。[19]

Triều Ngô kết thúc, bình yên, (vua) phổ biến việc giảm binh lính các châu, quận, Hoàng dâng thư nói: ” Giao Châu ở nơi biên giới hoang vắng, riêng biệt một nơi, tiếng nói phải dịch lại, núi biển liền nhau. Từ nam quận đến châu đi biển hơn 1000 dặm, bên ngoài chỉ cách Lâm Ấp 700 dặm.  Thủ lĩnh người man di là Phạm Hùng, quen thói cướp bóc, tự xưng làm vua, nhiều lần tấn công trăm họ. Lại thêm tiếp giáp với Phù Nam, các loại dân hỗn tạp, bè đảng dựa vào nhau, ỷ hiểm không phục (Trung Hoa).

Các thông tin trên cho thấy Trung Hoa có biết về Phù Nam, Lâm Ấp và các tập hợp dân cư ở khu vực này, nhưng xem đó là những thành phần phụ thuộc, liên kết với Phù Nam hoặc Lâm Ấp, chứ không phải nhầm lẫn về một nước Tây Đồ sát phía nam Lâm Ấp. Thêm vào đó, đến trước năm 347, Phạm Văn đã thôn tính, gộp nhiều lãnh địa (hay tiểu quốc) vào Lâm Ấp, trong đó có thể bao gồm tiểu quốc “Tây Đồ” nào đó từ thời Mã Viện.

 Sự có mặt của văn khắc chữ Phạn, có ghi cả tiếng Chăm cổ, ở ven sông Thu Bồn từ thế kỷ 4 (Coedès 1939, Griffiths 2014), phù hợp với Tấn Thư chép rằng vua Phạm Văn của Lâm Ấp, giữa thế kỷ 4, gửi thư cho vua nhà Tấn ” toàn bằng chữ Hồ”. Điều này có nghĩa sự phát triển tại kinh đô vùng Thu Bồn là một quá trình có tính liên tục bắt đầu từ giai đoạn sớm của Lâm Ấp, chứ không thể có một nước Tây Đồ biệt lập, lặng lẽ phát triển ở sát phía nam Lâm Ấp, cho đến thế kỷ 6 bỗng nổi lên thôn tính Lâm Ấp và tiếp tục bang giao với Trung Hoa với cái tên Lâm Ấp.

  1. Không có chứng cứ khảo cổ học về một nước Tây Đồ bị nhầm lẫn

Những dấu vết khai quật ở Gò Cấm, Trà Kiệu cho thấy ở đây đã có sự tiếp xúc với Trung Hoa từ đầu công nguyên 

            Các cuộc khai quật khảo cổ sau 1990 ở lưu vực sông Thu Bồn, gồm địa điểm Hậu Xá, Đồng Nà (Hội An – Quảng Nam) và các địa điểm Gò Cấm, Trà Kiệu (Duy Xuyên – Quảng Nam) cho thấy có sự tiếp xúc của cư dân bản địa với Trung Hoa và các vùng lãnh thổ khác từ những thế kỷ trước công nguyên và liên tục cho đến thế kỷ 6 và 7 sau công nguyên (Southworth và Prior 2010, Yamagata Mariko và Nguyễn Kim Dung 2010 …..). Ở Hậu Xá tìm thấy gốm các đời Hán, Lục Triều, Tùy Đường của Trung Hoa (Lâm Thị Mỹ Dung: 218, 219). Ở Gò Cấm có các hiện vật thời Đông Hán, thường gặp ở các mộ đời Hán ở Trung Hoa, Bắc Việt Nam và Hàn Quốc, như văn in, mũi tên đồng, khuyên tai thủy tinh, mảnh gốm có dấu ấn của đồng tiền Ngũ Thù (五銖銭紋(Yamagata: 94; Dung: 234) . Đặc biệt ở Gò Cấm còn tìm thấy một mảnh vỡ của một loại ấn phù bằng gốm (泥 泥, fengni), còn đọc được một số nét chữ Hán. Các chuyên gia đã khôi phục các chữ là 黄神使者章 (Huangshen shizhe zhang/ Hoàng thần sứ giả chương). Đây là một loại ấn phù tương tự như miêu tả trong sách Bão Phác Tự 抱朴子 (năm 317) của tác giả Cát Hồng 葛洪 đời Đông Tấn, ” Khi leo núi, mang theo cái rìu có khắc chữ 黄神越章 (Huangshen yue zhang/ Hoàng thần việt chương) và in dấu đó chung quanh chỗ ở, cách quãng mỗi 100 bước, để tránh bị hổ, sói xâm hại” (Mariko Yamagata 2010: 94, 101).

            Các chứng cứ khảo cổ nói trên cho thấy lưu vực sông Thu Bồn đã có sự tiếp xúc liên tục của người Trung Hoa, kể cả đã có sự lưu trú của một số người thuộc tầng lớp có học tại đây. Điều này phủ nhận giả thuyết rằng các sử gia Trung Hoa không biết tình hình thực tế và đã có sự lẫn lộn giữa nước Tây Đồ ở lưu vực sông Thu Bồn và nước Lâm Ấp ở bắc Hải Vân vào thế kỷ 5.

Kết luận

            Lập luận cho rằng có một nước Tây Đồ là chủ nhân của các di tích, thành trì, văn khắc tại ở khu vực ven sông Thu Bồn, đã thôn tính nước Lâm Ấp ở phía bắc đèo Hải Vân vào thế kỷ 6, là một giả thuyết mong manh, do sự chọn lọc, giải thích dữ liệu theo tiên định chủ quan của người nghiên cứu.

            Xin đề xuất một giả thuyết có vẻ ngược lại. Đó là có một nước Lâm Ấp xưng vương lập quốc, ngay từ lúc khởi đầu ở vùng lưu vực Thu Bồn. Muộn nhất là đến giữa thế kỷ 4, các vị vua nước Lâm Ấp đã mở rộng phạm vi lãnh thổ ra các vùng lân cận và bắt đầu xây dựng kinh đô tại lưu vực sông Thu Bồn với những dấu ấn ảnh hưởng từ văn minh Ấn Độ và Hindu giáo; đồng thời dựng những dinh trấn ở các lãnh địa phía bắc đèo Hải Vân để đối phó với áp lực của Trung Hoa, thông qua lực lượng ở Giao Châu lúc bấy giờ.

            Giả thuyết này cũng không loại trừ ở vùng giữa Lâm Ấp và Phù Nam vẫn còn có những lãnh địa (có thể tương đương với khái niệm “nước man di” trong sử Trung Hoa) với những thủ lĩnh không phụ thuộc vào Lâm Ấp hoặc Phù Nam, nhưng cũng chưa lớn mạnh đến tầm cử sứ giao thương, triều cống Trung Hoa như Lâm Ấp và Phù Nam.

            Danh xưng “Lâm Ấp quốc” chỉ là cách đặt tên theo truyền thống văn hóa Trung Hoa để chép sử bằng chữ Hán; trong khi đó các vị vua Lâm Ấp, có sự hỗ trợ của các thương nhân, tu sĩ Ấn Độ, đã tự gọi xứ sở của mình theo một tên gọi khác, đó là danh xưng Campā, có nguồn gốc từ truyền thống văn minh Ấn Độ. Danh xưng Campā xuất hiện trên văn khắc một cách rõ ràng từ thế kỷ 7, nhưng cũng có thể đã được sử dụng sớm hơn.  Về từ nguyên và việc sử dụng các danh xưng khác nhau như Lâm Ấp, Campā, Campāpura, Chiêm Thành, Hoàn Vương sẽ được thảo luận trong một bài viết khác.


Tài liệu tham khảo

Aurousseau,  Léonard

1914          “Georges Maspero : Le Royaume de Champa”. Trong: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 14, 1914. tr. 8-43.

Coedès, George

      1939          “La plus Ancient Inscription en langue Cham”, trong: A Volume of Eastern and Indian Studies Presented to Professor F.W. Thomas on his 72nd Birthday, 21, March 1939, tr, 46-49. New Indian Antiquary, extra series 1. Bombay: Karnatak Publishing House.

Đào Duy Anh

      1956          Cổ sử Việt Nam, Hà Nội: Chuyên san Đại học Sư phạm Hà Nội.

Griffiths, Arlo

      2014          “Early Indic Inscriptions of Southeast Asia”, trong: John Guy (ed.), Lost Kingdoms, Hindu – Buddhist Sculpture of Early Southeast Asia, New York: The Metropolitan Museum of Art.

Mariko Yamagata & Nguyễn Kim Dung

     2010           Ancient Roof titles found in Central Vietnam, Trong: Bérénice Bellina et al. (ed.), 50 Years of Archaeology in Southeast Asia, Essays in Honour of Ian Glover, Bangkok: River Books, tr. 195-206.

Schweyer, A, Valerie

2010          “The Birth of Champa”, Trong: Connecting Empires and States:Selected Papers from the 13th International Conference of the European Association of Southeast Asian Archaeologists, Singapore: NUS Press, pp 102-117.

Southworth, William

2001           The Origins of Campā in Central Vietnam, A Preliminary Review, Ph.D, thesis, Archaeology, SOAS, University of London.

Southworth, William & Prior Ruth

    2010            “History and Archaelogy at Tra Kieu”, Trong: Bérénice Bellina et al. (eds), 50 Years of Archaeology in Southeast Asia, Essays in Honour of Ian Glover, Bangkok: River Books, tr. 183-194.

Stein, A. R

1947           “Le Lin-Yi, sa localisation, sa contribution à la formation du Champa et ses liens avec la Chine”, trong Han-Hiue, Bulletin du Centre d’ Etudes Sinologiques de Pekin, Vol. II.

Taylor, K. W  

2021             Review of Champa: Territories and Networks of a Southeast Asian Kingdom, Arlo Griffiths, Andrew Hardy & Geoff Wade (eds) Paris: EFEO, 2019. Journal of Southeast Asian Studies, 52(3), September 2021, 580–584

Vickery, Michael

2005           “Champa Revised”, ARI Working Paper No 36, Asia Research Institute, Singapore.

Chú thích:

[1] Đây là bài viết gọn từ bản tiếng Anh: Võ Văn Thắng. (2021). The origins of Champa: Was there a Kingdom of Xi-Tu (西屠國) in the Thu Bồn valley?. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education,11(2), 27-34. https://doi.org/10.47393/jshe.v11i2.1006

[2] Các đoạn trích từ sử Trung Hoa trong bài viết này sử dụng bản online tại địa chỉ https://ctext.org . Liền sau đoạn chữ Hán là phần dịch nghĩa. Phần phiên âm Hán-Việt nằm ở chú thích cuối trang.

[3] Tấn Thành Đế Hàm Khang tam niên, Dật tử, nô Văn soán lập.(…) Cập vương tử vô tự, Văn ngụy ư lân quốc nhạ vương tử,trí độc ư tương trung nhi sát chi, toại hiếp quốc nhân tự  lập.Hưng binh công bàng tiểu quốc, giai thôn tính chi, hữu chúng tứ ngũ vạn nhân.

[4] Ư thị nãi công Đại Kỳ Giới, Tiểu Kỳ Giới, Thức Bộc, Từ Lang, Khuất Đô, Kiền Lỗ, Phù Đan đẳng chư quốc, tịnh chi, hữu chúng tứ ngũ vạn nhân. Tiến sứ thông biểu nhập cống ư đế, kỳ thư giai hồ tự. Chí Vĩnh Hòa tam niên, Văn suất kỳ chúng công hãm Nhật Nam, hại Thái Thú Hạ Hầu Lãm, sát ngũ lục thiên nhân, dư bôn Cửu Chân, dĩ Lãm thi tế thiên, sản bình Tây Quyển huyện thành, toại cứ Nhật Nam. Cáo Giao Châu Thứ Sử Chu Phan, cầu dĩ Nhật Nam bắc bỉ Hoành Sơn vi giới.

[5] Theo cách tách câu ở đây thì có 7 nước, nhưng R. Stein (sđd, tr 113-114) ngắt câu là “Khuất Đô Kiền, Lỗ Phù Đan” nên còn lại 6 nước.

[6] Lâm ấp quốc, Tần Tượng quận Lâm ấp huyện địa. Hán vi Tượng Lâm huyện, thuộc Nhật Nam quận, cổ Việt Thường chi giới dã, tại Giao Châu nam, hải hành tam thiên lý. Kỳ địa tung quảng khả lục bách lý, khứ Nhật Nam giới tứ bách dư lý. Kỳ nam, thủy bộ đạo nhị bách dư lý, hữu Tây Đồ di, diệc xưng vương diên. Mã Viện sở thực lưỡng đồng trụ, biểu Hán giới xứ dã. Mã Viện bắc hoàn, lưu thập dư hộ vu đồng trụ xứ. Chí Tùy hữu tam bách dư hộ, tất tính Mã, thổ nhân dĩ vi lưu ngụ, hiệu viết “Mã lưu nhân”. Đồng trụ tầm một, Mã lưu nhân thường thức kỳ xứ. Lâm Ấp quốc ký: “Mã Viện thụ lưỡng đồng trụ vu Tượng Lâm nam giới, dữ Tây Đồ quốc phân Hán chi nam cảnh”. Hựu vân: ” Đồng trụ sơn chu thập lý, hình như ỷ cái (hình dáng như lọng che), tây khóa trùng nham, đông lâm đại hải”. Khuất Cầu Đạo lý ký hựu vân: ” Lâm Ấp đại phố khẩu hữu ngũ đồng trụ diên”.

[7] Tây Đồ quốc: Dị Vật Chí viết: Tây Đồ quốc tại hải ngoại, dĩ thảo thế xỉ, dụng bạch tác hắc, nhất nhiễm tắc lịch niên bất phục biến. Nhất hiệu hắc xỉ. ” Giao châu dĩ nam ngoại quốc truyện” viết: Hữu đồng trụ biểu, vi Hán chi nam cực giới, tả hữu thập dư tiểu quốc, tất thuộc Tây Đồ. Hữu di dân, sở tại nhị thiên dư gia.

[8] Kim Lân quốc: “Dị Vật Chí” viết: Kim Lâm, nhất danh Kim Trần, khứ Phù Nam khả nhị thiên dư lý. Địa xuất ngân, nhân dân đa hảo lạp đại tượng, sinh đắc thừa kỵ, tử tắc thủ nha xỉ. “Ngoại Quốc Truyện” viết: Tùng Phù Nam tây khứ Kim Trần, nhị thiên dư lý đáo Kim Trần.

[9] Ba Liêu quốc: “Ngoại Quốc Truyện” viết: Tùng Tây Đồ nam khứ bách dư lý đáo Ba Liêu, thập dư quốc giai tại hải biên.

[10] Khuất Đô Kiền quốc: “Ngoại Quốc Truyện” viết: Tùng Ba Liêu quốc nam, thừa thuyền khả tam thập thiên lý, đáo Khuất Đô Kiền quốc địa. Hữu nhân dân khả nhị thiên dư gia, giai viết Chu Ngô huyện dân, bạn cư kỳ trung.

[11] Ba Duyên châu: “Ngoại Quốc Truyện” viết: Tùng Khuất Đô Kiền quốc đông khứ, thuyền hành khả thiên dư lý, đáo Ba Duyên châu. Hữu nhân dân nhị bách dư gia, chuyên thái kim, mại dữ Khuất Đô Kiền quốc.

[12] Cứu Nguyên quốc dân: Ngoại Quốc Truyện” viết: Cứu Nguyên hữu Liêu dân, xuất tích, thiết, …

[13] Nữ Hậu quốc: Ngoại Quốc Truyện” viết: Tùng Lâm Dương tây khứ nhị thiên lý, Nữ Hậu quốc, khả nhị vạn dư hộ, dữ Vĩnh Xương tiếp giới.

[14] Kỳ nam, thủy bộ đạo nhị bách dư lý, hữu Tây quốc di, diệc xưng vương. Mã Viện thực lưỡng đồng trụ, biểu Hán giới xứ dã.

[15] “during the course of the 5th and 6th centuries A.D. , the earlier distinction between Linyi and Xitu in the Chinese histories gradually becomes confused, and their historical tradition combined” (Southworth 2001: 303)

[16] “The final conquest and absorption by the kings of Xitu in the Thu Bồn valley of the traditional territory of Linyi to the north of the Hai Van pass, and the establishment of the unified political power of Campā to the south” (Southworth 2001: 309)

[17] From the very beginnings of Chinese involvement in the South China Sea trade, during the first centuries B.C and first century A.D., the Thu Bon valley had benefited from its commercial in the direct trade route to Nanhai/Quangzhou. Witt the rapid expansion of this port during the 3 century A.D., this trade had supported the emergence of an independent strcuture in the Thu Bon valley, under the name of Xitu; and when Quangzhou became the unrivalled centre of the South China Sea trade in the 5th and early 6th centuries A.D., the Thu Bon valley itself became the focus of the most powerful polity in central Vietnam, absorbing the former territory, political traditions, and trading of its northern neighbour, Linyi. It was this economic transcendence that provided the final, commercial context for the origins of Campā in central Vietnam, and for the great epigraphic and sculptural traditions of the 7th ans early 8th centruries A.D. (Southworth 2001: 318)

[18] Hựu khiển tòng sự nam tuyên quốc hóa, kỵ kiếu ngoại Phù Nam, Lâm Âp, Đường Minh chư vương, các khiển sử phụng cống

[19] Ngô ký bình, phổ giảm châu quận binh, Hoàng thướng thư viết: ” Giao thượng hoang duệ, đẩu tuyệt nhất phương, hoặc trùng dịch nhi ngôn, liên đái sơn hải. Hựu nam quận khứ châu hải hành thiên hữu dư lý, ngoại cự Lâm Ấp tài thất bách lý. Di soái Phạm Hùng thế vi bô khấu, tự xưng vi vương, số công bách tính. Thả liên tiếp Phù Nam, chúng loại ổi đa, bằng đảng tương kỵ, phụ hiểm bất phục.

Bình luận về bài viết này