
Hồ Bạch Thảo
Tháng giêng năm Đinh Hợi, Cảnh Hưng thứ 28 [30/1-27/2/1767], (Thanh Càn Long thứ 32); sai bọn Nguyễn Đình Huấn và Ngô Thì Sĩ đi xếp đặt công việc, chuẩn bị hồi hương phu mỏ Trung Quốc ở Thái Nguyên. Trước đây, các xưởng mỏ ở thượng du và vỏ quế ở núi rừng đều giao cho người Nùng ở Hóa Vi nước ta khai khẩn và bóc lấy; từ khi xưởng mỏ mở ra nhiều, viên quan Giám đương phần nhiều tập hợp người Thanh khai thác. Do đấy, người làm thuê trong mỗi xưởng kể đến hàng vạn, phu mỏ, nhà lò tụ tập thành từng đàn, trong số ấy phần nhiều là người Triều Châu [Quảng Đông, Trung Quốc], tính tình hung hãn, hay đánh nhau; mỗi khi tranh nhau cửa lò, liền nổi quân để đánh lẫn nhau, người nào chết thì vứt xuống hố. Triều đình coi họ là hạng người ngoài vòng giáo hóa, nên chỉ cốt thu đủ thuế mà thôi, ngoài ra không hỏi gì đến cả. Ngô Thì Sĩ giữ chức Đốc đồng ở Thái Nguyên, nêu lên 3 điều không nên:
“Thổ sản ở núi rừng, để giúp cho việc cần dùng trong nước, thế mà nộp vào thuế khóa nhà nước, mười phần không được một phần. Vả lại, những nơi hiểm yếu ở hang động, núi khe trong nước, hết thảy bị người nước ngoài thông tỏ và nương náu. Đấy là một điều không nên. Địa mạch nước ta, Thái Nguyên ở về mạn thượng du, bọn kia cứ thấy chỗ nào có khí sắc loài kim là họ khai quật, chở đất ra ngoài cửa lò, chứa thành trăm ngàn đống ở nơi đất bằng, trong lò có thể chứa được hàng trăm người, như thế thì thương tổn địa mạch biết là chừng nào! Đấy là hai điều không nên. Người nhà Thanh lấy được bạc, liền đem về nước họ, thì của ấy không phải là của nước ta nữa; đấy là ba điều không nên. “
Rồi đề ra biện pháp xua đuổi người Trung Quốc về nước:
“Tôi thấy nhà Thanh có định thể lệ: “Nhân dân ở nội địa Trung Quốc, nếu người nào không có giấy ‘thân chiếu’ do quan cấp, không được đi ra nước ngoài”. Vậy xin đưa công văn sang cho quan chức hai tỉnh Quảng, tra xét xem người nào không có giấy cấp ‘thân chiếu’ thì nhất luật bắt phải về nước. Còn những hộ chịu thuế ở trường xưởng thì vẫn lấy người Nùng Hóa Vi nước ta sung vào. Nếu người nhà Thanh người nào không có giấy cấp ‘thân chiếu’ mà tình nguyện ở lại, thì cho phép để tóc và thay đổi y phục, biên tên vào sổ hộ nước ta, để cắt đứt mối tranh giành“.
Trịnh Doanh y theo lời. Sau tiếp được công văn của Lưỡng Quảng xác nhận không cấp giấy cho người nào cả. Vì thế, triều đình hạ lệnh cho Thì Sĩ và Đình Huấn đem binh lính 17 cơ đội đến ngay xưởng Tống Tinh [huyện Bạch Thông, Bắc Kạn], tùy tiện yên ủi hoặc tiễu nã. Bọn Thì Sĩ đi đến Dã Giang [huyện Sóc Sơn, Hà Nội], gặp lúc Trịnh Doanh mất, nên trở về, thành ra việc này bèn thôi.
Sử nước ta, Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép rằng vì chúa Trịnh Doanh mất, việc đuổi phu mỏ người Hoa bị bãi bỏ. Sự thực hoàn toàn không đúng như vậy, qua nhiều văn bản trong Thanh Thực Lục xác nhận vào năm Càn Long thứ 40 [1775] phu mỏ người Hoa tại xưởng Tống Tinh, vũ trang chia phe đánh lẫn nhau; bị quan binh An Nam đánh dẹp, bắt đuổi về nước, qua 3 đợt, đến hơn 3.500 tên (1).
Trịnh Doanh mất lúc 48 tuổi, truy tôn là Ân vương. Trịnh Sâm nối ngôi, tiến phong làm Nguyên soái Tĩnh Đô vương; mẹ đẻ là Nguyễn thị Hoa Dung được phong làm Thái phi.
Tháng 4 [28/4-27/5/1767], Lê Duy Mật chiếm cứ Trấn Ninh [Xiêng Khoáng, Lào]; hay tin Trịnh Doanh mất, bèn sai đồ đảng đem lính và voi tràn xuống địa phận huyện Hương Sơn [Hà Tĩnh] và Thanh Chương [Nghệ An]; dân ở biên giới nôn nao rối loạn. Viên đồn thủ là Hà Lãm đem quân đi đánh, bị thua. Tin báo về triều, Trịnh Sâm sai Nguyễn Nghiễm làm Hiệp đốc cùng Bùi Thế Đạt đem quân đi đánh, Duy Mật rút quân.
Trịnh Sâm nhận thấy rằng, nếu không diệt trừ được Duy Mật, chung quy vùng Thanh Hóa, Nghệ An bị ngăn trở; bèn dụ hỏi Thế Đạt về hình thế đóng quân của Duy Mật và kế hoạch tiến quân, tải lương. Thế Đạt đem hết tình trạng Duy Mật bày tỏ ở triều đình:
“Có 2 con đường có thể tiến quân vào Trấn Ninh được; đường chính là con đường Trà Lân, có đường thủy [sông Lam], có thể vận lương, quân đi được yên ổn thuận tiện“.
Trịnh Sâm bèn hạ lệnh lấy thuyền đi biển của Thanh và Nghệ, dự tải thóc công chứa ở kho Vĩnh Doanh [Vinh, Nghệ An] và Sa Nam [Nam Đàn, Nghệ An], để phòng bị cấp phát cho quân. Một mặt, sai Lê Đình Châu thống suất bọn Trịnh Phương, Nguyễn Trọng Điển và Nguyễn Đình Đống đem 5 ngàn quân, lệ thuộc quyền chỉ huy của Thế Đạt để chuẩn bị đi đánh. Trịnh Sâm lại lấy cớ là xứ Thanh Hóa gần liền phủ Trấn Ninh, bèn hạ lệnh cho lưu thủ Nguyễn Đình Diễn chia quân đóng đồn phòng ngự, chặn giữ nơi xung yếu.
Tháng 7 [26/7-23/8/1767], mấy tuần không có mưa, Trịnh Sâm thân hành cầu đảo ở lầu Kính Thiên, hạ lệnh các quan trong kinh ngoài trấn dâng tờ khải trình bày việc nên làm. Nguyễn Bá Lân dâng tờ rằng:
“Chính sự vua chúa, thông cảm với trời. Nay vương thượng mới cầm quyền, nên chuộng điều khoan hậu, vậy xin: Lục dụng Lê Quý Đôn và Phan Cẩn để nâng đỡ người bị oan ức lâu ngày; rộng gia ơn về việc chuộc tội, cứu vớt dân phiêu tán, để dân khỏi đau khổ. Như thế, may ra có thể thu phục được lòng người, và báo đáp được tội lỗi mà trời quở trách“.
Trịnh Sâm cho là phải, bèn khởi phục Lê Quý Đôn giữ chức Thị thư (Chánh lục phẩm), Phan Cẩn giữ chức Cấp sự trung (Tòng bát phẩm). Một mặt liệu lượng tha thuế tô cho những nơi bị thiệt hại từ bốn phần trở lên; ngoài ra những thuế thiếu từ năm Kỷ Mão [1759] trở về trước, đều được tha cả.
Tháng 9 [23/9-22/10/1767] định lại thể lệ khám đê điều và cửa cống ở các lộ. Mỗi năm cứ đến tháng 8 âm lịch viên quan ở huyện đi khám lần đầu, rồi đem tình hình trình lên ti Thừa chính ở trấn; tháng 9 âm lịch ti Thừa chính ở trấn đi khám, trình lên quan Chính đường; tháng 11 âm lịch các quan chia nhau đi khám lại, rồi sẽ khởi công xây đắp sửa chữa.
Tháng 9 nhuận [23/10-21/11/1767], em của Trịnh Sâm là Lệ định mưu giết Sâm. Việc bại lộ, Lệ bị bắt giam vào ngục; giết đồ đảng là Phạm Huy Cơ. Lệ là người có cơ mưu, lúc Trịnh Doanh còn sống, Lệ đã có ý cướp ngôi con trưởng. Trước kia theo học Huy Cơ; Huy Cơ vì có tội phải giam, mang lòng oán hận, bèn ngầm xui Lệ làm sự trái phép, dựng bè đảng vây cánh, dắt Dương Trọng Khiêm và Nguyễn Huy Bá làm gia khách, bí mật hẹn nhau, định đến ngày 24 tháng này sẽ khởi sự. Nhưng bọn Trọng Khiêm lại sợ rằng việc không thành, sẽ bị vạ lây, bèn lén lút đem âm mưu tố cáo với Nội giám Phạm Huy Đĩnh, Huy Đĩnh đem báo cáo với Sâm. Sâm lập tức hạ lệnh cho bầy tôi hội hợp điều tra; Huy Cơ tự biết không thể nào thoát nạn, tự ra nhận tội, phải luận vào tội xử trảm, còn Lệ thì bị bắt giam vào ngục.
Trịnh Sâm lấy cớ rằng nhân dân trong nước điêu tàn, nếu đặt nhiều quan chức chỉ phiền nhiễu cho dân, bèn thay đổi bằng cách cho hợp lại để bỏ bớt 4 phủ, 29 châu huyện. Những phủ và châu huyện này đều cho phủ huyện kế cận, tùy tiện kiêm lý.
Hạ lệnh cho Nguyễn Nghiễm giữ công việc Quốc Tử giám, Vũ Miên kiêm giữ chức Tế tửu. Lê Quý Đôn và Phan Lê Phiên giữ chức Tư nghiệp. Trịnh Sâm bảo bầy tôi rằng:
“Trường học là nơi giáo dục nhân tài. Đế vương đời xưa không ai không cho việc học là việc trước nhất. Nước nhà ta, các bậc thánh vương nối tiếp trị vì, phép giáo dục đầy đủ, chọn người hiền, dùng người đức hạnh, thu được khá nhiều nhân tài. Ít lâu nay, thể văn dần dần biến đổi, học trò đục gọt tô điểm câu văn đã thành thói quen. Nay cần nghĩ cách thay đổi tệ cũ, khen thưởng bồi dưỡng cho học trò trở thành người giỏi, để thu lấy công hiệu được nhiều người có tài“.
Sâm bèn hạ lệnh cho Tế tửu và Tư nghiệp, hàng ngày đến nhà Thái Học, hội họp học trò giảng bàn Kinh, Sử; mỗi tháng cứ ngày mồng một và ngày rằm tập văn; mỗi năm cứ 4 tháng trọng (2) thi khảo xét duyệt, nhất nhất theo như phép thi. Trong số học trò có người nào học hỏi trội hơn, văn chương sâu rộng quán xuyến, thì kê tên tâu lên triều đình biết, để cất nhắc trao cho quan chức. Ở ngoài các trấn thì do viên Đề đốc học chính trong ti Thừa chính và Hiệu quan [viên quan giữ chức dạy học ở phủ] cứ 4 tháng trọng, thi khảo học trò, theo như phép thi khảo ở trường Quốc Học.
Tháng 10 [21/11-20/12/1767], Hoàng Công Chất đem quân hai vạn quấy nhiễu cướp bóc các châu Mai [Hòa Bình], châu Mộc [Sơn La] thuộc Hưng Hóa; sau đó chia quân đi cướp các động, các sách Quan Gia, Cổ Lũng, Thiết Úng, Ái Chữ và Bất Mộc thuộc Thanh Hóa; rồi lại lập mưu đánh úp huyện Phụng Hóa [huyện Nho Quan, Ninh Bình], định nhân đấy chiếm cứ châu Lang Chánh [Thanh Hóa]. Văn thư cáo cấp, Trịnh Sâm bèn hạ lệnh cho Thiếu phó Phương Nghĩa hầu Trịnh Phương đem binh lính bản bộ đến Hưng Hóa, Điển Vũ hầu Nguyễn Trọng Điển đem binh lính bản bộ đến Thanh Hóa, dưới quyền viên Trấn thủ Nguyễn Đình Diễn, hội hợp quân sĩ tiến đánh; Công Chất bèn chạy trốn.
Tháng 3 tại miền Nam [30/3-27/4/1767], Diến Điện cử binh đánh phá Xiêm La, bắt được vua Xiêm [Vua Phung tức Vua bị bệnh hủi] và con là Chiêu Đốc Đa, lùa mấy vạn dân đem về. Con thứ vua Xiêm là Chiêu Xỉ Xoang chạy sang Chân Lạp, Chiêu Thúy chạy sang Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đem việc ấy báo lên, lại gửi thư cho bọn Điều khiển Nguyễn Cửu Khôi triệt quân viện về để khỏi khó nhọc. Thiên Tứ lại sợ quân Diến Điện thừa thế đến lấn, bèn sai thuộc tướng là Cai đội đội Thắng Thủy, Trần Đại Lực, đem binh thuyền đi trấn giữ đất Chân Bôn (địa đầu Xiêm La); lại sai quân đi tuần xét các hải đảo Cổ Công, Cổ Cốt [Kokut, Campuchia], và Dần Khảm. Bấy giờ có người Triều Châu [Quảng Đông] nước Thanh là Hoắc Nhiên rủ nhau họp đảng, thấy đảo Cổ Công là nơi hiểm trở hẻo lánh, dùng làm sào huyệt, thường ẩn hiện ở vùng duyên hải đón cướp thuyền buôn, vây cánh ngày một nhiều, có ý ngầm nhòm ngó Hà Tiên. Quân đi tuần thám biết tình hình; Thiên Tứ mật sai quân tinh nhuệ ngầm đến vây bắt, Hoắc Nhiên bị giết chết, dư đảng đều tan.
Tháng 5 [28/5-25/6/1767], Lại bộ Nguyễn Cư Trinh chết, Cư Trinh là người có cơ trí mưu lược, giỏi quyết đoán, phàm có kiến nghị tâu bày đều nói ngay bàn thẳng. Trong khi tham dự việc quân ở miền Nam, 11 năm mở mang đất đai, giữ yên biên giới, công lao danh vọng rỡ ràng. Lại giỏi văn chương, ưa ngâm vịnh; khi ở Gia Định, cùng với Tổng binh Hà Tiên Mạc Thiên Tứ thường lấy thơ văn tặng nhau, có tập Hà Tiên thập vịnh lưu hành. Lại làm truyện Sãi Vãi vấn đáp, tôn sùng chính học, bài bác mê hoặc, dùng lối văn biền ngẫu quốc âm, người đều truyền tụng. Khi chết, tặng Tá lý công thần chính trị thượng khanh, thụy là Văn Định.
Tháng giêng năm Mậu Tý, Cảnh Hưng thứ 29 [18/2-17/3/1768], (Thanh Càn Long thứ 33); sai Hoạn quan Nguyễn Đình Huấn làm Thống lãnh các đạo Thanh Hóa, Sơn Tây và Hưng Hóa, đem quân đi đánh Hoàng Công Chất. Công Chất lén lút chiếm cứ động Mãnh Thiên [Điện Biên], nhân địa thế hiểm trở để cướp bóc, chiếm lấy đất 10 châu thuộc phủ An Tây (3). Lúc ấy triều đình cũng chán về việc dụng binh, không để ý đến. Văn Chất bèn cướp Hưng Hóa, sau lại cướp Thanh Hóa; quan quân chia đường tiến đánh, phải rút lui. Đến nay Trịnh Sâm bổ dụng Phạm Ngô Cầu, Trấn thủ Hải Dương, sung làm Hiệp thống lãnh, Phan Lê Phiên làm Tán lý, Nguyễn Xuân Huyên làm Hiệp đồng, Đoàn Nguyễn Thục làm Giám quân, cùng với Chánh thống lãnh Nguyễn Đình Huấn hội quân các đạo để tiến đánh.
Tháng 3 [17/4-15/5/1768], hạ chiếu tìm bộ Thiên Nam Dư Hạ Lục. Trước kia, vào niên hiệu Hồng Đức năm thứ 14 [1483] Vua Thánh Tông hạ lệnh cho danh Nho bầy tôi là bọn Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận soạn định các tập Chức Quan Chế Bản Triều (triều Lê) và Điều Lệ, Điển Chương, gồm 100 quyển, đặt tên sách là Thiên Nam Dư Hạ Lục. Đến nay, sách ấy tan tác mất nhiều, nên hạ chiếu tìm kiếm. Lúc ấy Ngô Thì Sĩ, Hiến sát sứ Thanh Hóa, đem dâng sách ấy, triều đình hạ lệnh thưởng cho 30 lạng bạc.
Tháng 5 [15/6-13/7/1768], hạn hán, dân bị đói to. Nghệ An và các trấn Kinh Bắc, Sơn Tây, Sơn Nam giá gạo cao vọt, nhân dân đói khổ; một trăm đồng tiền không đủ một bữa ăn no. Trịnh Sâm lấy làm lo, triệu bầy tôi bàn định chính sách cứu đói: hạ lệnh cho quan trấn Nghệ An hiểu dụ dân trong hạt, ai nộp thóc sẽ được trao cho quan chức, để lấy số thóc ấy phát chẩn cho dân nghèo. Ty Hiến sát các trấn dò hỏi sự đau khổ ở dân gian, cấm các tuần ti và bến đò đánh thuế ngang trái; do đấy việc buôn bán trao đổi không đình trệ, giá gạo dần dần giảm xuống. Lại hạ lệnh cho nhà giàu Thanh Hóa nộp thóc, đem chứa ở kho Nghệ An, sẽ liệu lượng phong cho quan chức từng cấp bậc.
Tháng 6 [14/7-11/8/1768], các động ở Cao Châu [Trình Cao, Lào] bị Lê Duy Mật khống chế, dân địa phương phải phiêu tán đi nơi khác, rồi đem nhau quy phụ với triều đình. Bèn hạ chiếu đem ruộng bỏ hoang ở Hương Sơn [Hà Tĩnh] cấp cho họ cày cấy.
Tháng 8 [11/9-10/10/1768], người đất Triều Châu, [Quảng Đông] là Trịnh Quốc Anh tự lập làm Vua Xiêm La. Cha Quốc Anh là Yển lưu ngụ ở Xiêm La, làm trưởng đất Mường Tát. Yển chết, Quốc Anh nối chức, xưng là Phi Nhã Tân (tên quan nước Xiêm), thừa lúc nước Xiêm trống trải suy yếu, bèn dấy quân đánh úp lấy đất, tự xưng làm Quốc vương, đòi nước Chân Lạp tiến cống. Vua Chân Lạp là Nặc Tôn cho rằng Quốc Anh không phải dòng dõi Xiêm La, cự tuyệt không nhận.
Tháng giêng năm Kỷ Sửu, Cảnh Hưng thứ 30 [7/2-7/3/1769], (Thanh Càn Long thứ 34); Thống lãnh Đoàn Nguyễn Thục kéo quân vào An Tây, đánh đuổi bọn Hoàng Công Toản, con Hoàng Công Chất tại động Mãnh Thiên [Điện Biên]. Trước đây, Nguyễn Đình Huấn vâng lệnh đi đánh Hoàng Công Chất, khi kéo quân đến Cổ Pháp [huyện Ba Vì, Hà Tây], chần chừ không tiến, nhiều lần Trịnh Sâm sai người thúc giục, Đình Huấn bèn đóng quân ở Việt Sơn, bắt dân cung cấp lương thực, dân đều trốn tránh, lùng bắt không được người nào, ngờ có quân mai phục, trong bụng càng sợ hãi, bèn bàn kế rút quân về. Bọn Phạm Ngô Cầu cũng phụ họa với lời bàn của Đình Huấn, chỉ có giám quân Đoàn Nguyễn Thục cố tranh cải, cho là không nên rút quân. Bọn Đình Huấn liền cho người phi ngựa đệ tờ khải cho Chúa Trịnh Sâm rằng:
“Trong quân lương ăn không được kế tiếp, tiến thoái đều khó. Vả lại quân sĩ nhiều người mắc bệnh, xin cho thuốc thang cứu chữa“.
Lúc ấy, Đoàn Nguyễn Thục cũng làm tờ khải trình bày, nói rõ là Đình Huấn hiệu lệnh không thống nhất; khinh rẽ lấn át tướng tá, buông lỏng cho quân lính đi cướp bóc; chần chừ không chịu tiến quân; tất cả mười việc. Đương đêm, Trịnh Sâm nhận được tờ khải của Đình Huấn, đã có ý không bằng lòng, cho triệu các quan trong chính phủ vào bàn định, nghiêm khắc quở trách Đình Huấn. Tiếp đó lại thấy tờ khải của Nguyễn Thục, Trịnh Sâm nổi giận nói:
“Ta vẫn biết Đình Huấn không thể dùng được, nay quả nhiên như thế“.
Lập tức hạ lệnh triệu Đình Huấn về, mà bổ Đoàn Nguyễn Thục kiêm giữ chức thống lãnh các đạo Sơn Tây, cầm quân thay Đình Huấn, lại đổi bổ Vũ Huy Đĩnh giữ chức Giám quân, Nguyễn Trọng Hoành giữ chức tán lý. Lúc ấy, Hoàng Công Chất đã mất, con là Công Toản tự xưng là Quốc công, thống suất đồ đảng vẫn chiếm cứ khu đất này. Nguyễn Thục sau khi đã thay làm tướng, quyết kế tiến đánh, cầm gươm ra lệnh cho tướng sĩ rằng:
“Nếu người nào không theo mệnh lệnh, sẽ trông vào thanh kiếm này“.
Tướng sĩ không ai là không tuân lệnh. Nguyễn Thục bèn tiến quân vào An Tây, quân trẩy đến đâu không tơ hào xâm phạm của dân. Công Toản giữ ở Thẩm Cô để kháng cự lại, các nơi xung yếu đều có đặt quân mai phục. Nguyễn Phục sai toán quân sắc bén tiến lên trước đánh úp, tiếp đó sai toán quân mạnh khỏe theo đường tắt hợp sức cùng đánh, phá tan được quân địch. Công Toản chạy trốn sang Vân Nam, dâng các châu Quảng Lăng và Hoàng Nham. Nguyễn Thục vào chiếm lấy thành, sai quan quân chia đường truy nã, bắt được quân nhu, khí giới và thóc lúa tích trữ nhiều không sao kể xiết, bèn sang phẳng cả thành, rồi kéo quân trở về. Sau triều đình bàn công đánh dẹp: Đoàn Nguyễn Thục tuy có công tiến đánh, nhưng sau khi hạ được thành, không lập tức đuổi theo, để Công Toản chạy thoát được, nên chỉ được thăng hai bậc, trao cho chức Tự khanh; Đình Huấn vì nhút nhát rút lui nên phải giáng chức và tước mất lộc; còn các người khác đều căn cứ vào công hoặc tội, mà cho thăng chức hoặc truất giáng có thứ bậc khác nhau.
Tháng 2 [8/3-6/4/1769], nhân vùng An Tây mới được bình định, Đoàn Nguyễn Thục trình bày cách khu xử khéo léo, để chinh phục lòng dân:
“Dân trong châu sau khi qua loạn lạc, số người xơ xác hao hụt, thị tộc người Man, người Nùng áo xanh phần nhiều nay đây mai đó theo tục di cư của họ, Tù trưởng ở phiên trấn buông lỏng kỷ luật, lúc phụ thuộc vào nhà Thanh, lúc theo về nước Nam Chưởng [Phong sa ly, Sầm Nưa; Lào], không nhất định thuộc về nước nào cả. Vậy xin bàn luận rộng ơn thương dân, định lại điều lệ, để cho dân mười châu được biên tên vào sổ hộ khẩu nước ta mãi mãi“.
Trịnh Sâm hạ lệnh hết thảy các việc đều cho thi hành. Vì thế, hạ chiếu tha thuế tô năm nay cho các châu thuộc Hưng Hóa, cùng người Nùng, các người Man ở sơn trang; lại tha những thuế còn thiếu; cấm hẳn việc thiện tiện mua phẩm vật, tha tội cho các Tù trưởng và vẫn được làm Thổ tù; binh lính bản thổ ở các châu thì liệu lượng quân số, chia thành từng hiệu để tự giữ lấy đất đai. Một mặt, hạ lệnh cho viên quan ở trấn nghiêm cấm Thổ tù không được theo thói cũ đánh cướp lẫn nhau, không được theo ý riêng nối ngôi Tù trưởng, không được thiện tiện giết hại thổ dân trong hạt. Lại cấm dân các châu châu Lai Châu, Luân Châu, Chiêu Tấn và Quỳnh Nhai không được bắt chước mặc kiểu áo người nhà Thanh và nộp tô thuế riêng biệt.
Sự kiện Hoàng Công Toản chạy trốn sang Vân Nam gây rắc rối lớn về mối bang giao Hoa Việt, khiến hai bên phải thư từ trao đổi suốt mấy năm trời. Theo thông lệ ngoại giao lúc bấy giờ, người Việt làm loạn chạy trốn sang nhà Thanh, nước này sẽ bắt, rồi trả về An Nam; nhưng trường hợp Hoàng Công Toản thì nhà Thanh đã tránh không giải quyết như vậy, bởi Công Toản đã bí mật dâng cho nhà Thanh các châu Quảng Lăng và Hoàng Nham, và chỗ y bị nhà Lê nước ta đánh tại trại Mãnh Thiên thuộc tỉnh Điện Biên, thì khai rằng Mãnh Thiên thuộc nước Nam Chưởng kế cận:
“Ngày 4 Ất Dậu tháng 5 năm Càn Long thứ 34 [7/6/1769]. Lại dụ:
‘Cứ theo lời tâu của Vĩnh Thụy ‘ Viên Di mục An Nam Hoàng Công Toản trước đây đóng tại trại Mãnh Thiên [tỉnh Điện Biên] nước Nam Chưởng [Phong Sa Ly, Lào], nay bị Lê Duy Mật [Diêu?] đánh, không chống nỗi, bèn đem dân chúng quyến thuộc hơn 400 người, khẩn cầu nội phụ.’
‘Hoàng Công Toản vốn là dư đảng còn lại của họ Mạc, trốn tránh vào đất Nam Chưởng [Phongxali, Sầm Nưa; Lào]; gần đây bị Lê Duy Mật [Diêu] đánh, quẩn bách bèn xin nội phụ. Nhưng An Nam rõ ràng là nước cung thuận, Hoàng Công Toản là người nước này, theo lý không nên dung nạp; nhưng bọn y hiện cùng quẩn xin quy thuận, nếu như cự tuyệt không cho, thì không đúng với chính sách triều Trung Quốc thi hành chung một lòng nhân. Theo ý Trẫm lúc này nên cử một viên quan lớn hiểu việc tại phủ, hoặc đạo, đến phủ dụ những người đầu thuận cho biết sẽ được đưa đi an trí; không cần nói cho biết đã đem việc này tâu lên triều đình. Nếu như bọn chúng không yên bổn phận, sinh những điều rắc rối, thì đừng ngại hãy đem ra hành quyết để cảnh cáo.
‘Còn bọn Hoàng Công Toản, hoặc bị tội tại An Nam nên chạy trốn ra ngoài; Lê Duy Mật [Diêu], hoặc người của viên Quốc vương này sai bắt, cũng khó mà định rõ. Nay ra lệnh Quân cơ đại thần soạn một văn thư gửi đi, lấy ý làm sáng tỏ đức tốt, hỏi viên Quốc vương An Nam đầu đuôi sự thực như thế nào, chờ phúc đáp mới tìm cách khu xử, để cho công việc thích hợp…..” ( THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 834, trang 6-8)
Vua Càn Long sai viên quan thân cận người Mãn Châu là Phó Hằng đến Vân Nam để giải quyết vấn đề; Phó Hằng sai Tướng quân Vĩnh Thụy đem Hoàng Công Toản đến Ðằng Việt (4), nơi đông bắc tỉnh này để hỏi han, cùng tìm đất cho an trí Toản tại nội địa. Ý Vua Càn Long muốn báo tin cho An Nam hay, nhưng nếu nước này đòi hỏi đưa Hoàng Công Toản trở về thì thì phải bác đi, nên đem sự việc ra hỏi Phó Hằng:
“Ngày 14 Ất Mùi tháng 5 năm Càn Long thứ 34 [17/6/1769]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Trước đây theo tờ tâu của Vĩnh Thụy rằng người cháu dòng dõi họ Mạc là Hoàng Công Toản đưa thuộc hạ đến đầu thuận, từng giáng chỉ tạm thời an sáp những dân Di này, cùng lệnh Quân cơ đại thần nghĩ soạn một bản cảo, rồi sai Minh Ðức gửi cho Quốc vương An Nam. Trong văn thư ra lệnh viên Quốc vương tra rõ tình tiết rồi phúc đáp, lại truyền dụ cho Phó Hằng lưu tâm tra xét, thực hiện ỗn thỏa. Nay cứ theo bọn Phó Hằng tâu đến, hiện đã gửi văn thư cho Vĩnh Thụy đem Hoàng Công Toản đến Ðằng Việt (4) để hỏi han, cùng tìm đất để an sáp cư trú; lời tâu rất hợp, đã có riêng lời phê trong tấu triệp. Qua việc này có thể thấy rằng Phó Hằng căn cứ vào sự việc rồi thực tâm nêu ý kiến xử trí, khác với A Lý Cổn, A Quế thì bỏ đó mà không hỏi.
Còn việc Hoàng Công Toản cùng khốn đến qui phụ, đáng gia ân chiêu phủ dung nạp; nay nếu không cho viên Quốc vương hay, cũng không phải là không được. Nhưng nghĩ rằng Hoàng Công Toản vốn là người thuộc An Nam, mà viên Quốc vương thì cung kính giữ phận Phiên thuộc, vốn xưng cung thuận, nay truyền dụ cho biết tình tiết, càng rõ thể chế quang minh chính đại của triều đình Trung Quốc, đối với sự lý càng thêm chu đáo. Di văn đã soạn ra trong kỳ trước, nên mang đến nơi gần để gửi đi, chắc rằng viên Quốc vương không dám có những lời khác; nếu không biết điều nặng nhẹ, hướng nội địa đòi hỏi người đã qui thuận thì phải bác đi rằng: ‘Nước các ngươi không biết hòa hợp với người dưới, khiến họ phải sống lâu ngoài biên cảnh, áp bức đến cùng nên không có chỗ nương tựa. Nay họ đã có lòng thành nội phụ, lại đem lời hỏi han, cuồng vọng đòi về, thực trái lễ phụng sự Thiên triều. Vả lại nước ngươi vốn là Phiên thần, người thuộc nước ngươi cũng là dân của triều đình, không có gì khác; vậy có phải riêng ngươi làm chủ mà thôi đâu.
Cứ như vậy đả kích sự sai trái, viên Quốc vương càng sợ phục thêm, việc an sáp dân Di càng thêm thỏa hiệp. Ðem dụ này truyền cho Phó Hằng hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 834, trang 26-28)
Viên cận thần Phó Hằng nêu ý kiến sợ nếu gửi thư, An Nam sẽ vin vào đó đòi gấp Hoàng Công Toản trở về; nên Vua Càn Long nghe theo, không gửi nữa:
“Ngày 7 tháng 6 năm Càn Long thứ 34 [9/7/1769]. Lại dụ:
‘Cứ bản tấu của bọn Phó Hằng về điều ‘ xin xem xét việc gửi hịch cho An Nam’; đều thấy được rất đúng. Trước kia nhân Vĩnh Thụy tâu rằng bọn Hoàng Công Toản cùng quẫn xin nội phụ, nên không tiện cự tuyệt; nhưng An Nam là nước vốn xưng cung thuận, người của nước đó đến qui phụ, đáng gửi hịch cho biết để chứng tỏ đại nghĩa, thu phục lòng người. Nay cứ theo lời tâu của bọn Phó Hằng, biên cảnh tỉnh Vân Nam đường sá không thông với An Nam, thư gửi đi không đến nơi. Trường hợp nước này gửi văn thư đến hỏi, thì không ngại cho biết Thiên triều có lòng nhân sâu, không có nơi xa xôi nào không tới; đối với người tại nơi hoang dã cũng đáng thể tuất. Nếu tự gửi thư đến hỏi han, ý làm rõ đức sáng, sợ nước này có những lời quá đáng, cho rằng đó là bọn phản nghịch và xin đem Hoàng Công Toản trở về nước, để vơi lửa giận; lúc bấy giờ hoặc giữ lại, hoặc cho đi khó mà thi thố, điều đó không thể không lo nghĩ tới. Bởi vậy hịch văn trước đây định gửi, không cần phải chuyển đi nữa.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 836, trang 11-12)
Theo lời Phó Hằng, Vua Càn Long cho đình chỉ gửi thư cho An Nam và an trí Hoàng Công Toản tại thổ ty Lục Khổn:
“Ngày 15 Ất Sửu tháng 6 năm Càn Long thứ 34 [17/7/1769]. Lại dụ:
‘Trước đây nhân Hoàng Công Toản có lòng thành đầu thuận, từng sai Quân cơ đại thần soạn bản di văn gửi cho An Nam để làm rõ đức sáng, định giao phái viên đến biên giới chuyển giao; nhưng sau khi nhận được phúc tấu, lại cho đình chỉ việc giao phát. Nay Phó Hằng phúc tấu, lúc này chưa nhận được tin về việc đình chỉ gửi văn thư; xét ra từ Vân Nam đến An Nam đường sá khó thông đạt, bản cảo đã gửi đi lập tức cho chuyển trở lại. Ðợi trong tương lai, nhân dịp có người An Nam đến tỉnh Quảng Ðông, lệnh Lý Thị Nghiêu xem xét gửi cho, thì thuận tiện hơn.
Còn việc người của Hoàng Công Toản hiện được an sáp tại Na Khả Lạc thuộc thổ ty Lục Khổn (六困), được vỗ về yên chỗ, đáng thông sức an tĩnh giữ phận , đừng gây lắm chuyện. Nhưng tương lai khai khẩn đất tại địa phương thành thục, trong vòng 1, 2 năm theo lệ của Thổ ty, ước lượng thâu thuế, để đi vào con đường chịu sự khống trị. Hãy đem đạo dụ này gửi cho Phó Hằng, thông sức thuộc hạ liệu biện, rồi nhân dịp dâng tấu để nghe biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 836, trang 11-12)
Tháng 3 [7/4-5/5/1769], Trịnh Sâm truất ngôi Thái tử Duy Vĩ, rồi bắt giam vào ngục. Thái tử lúc còn nhỏ, thông minh, nhanh nhẹn, xem rộng sách Kinh, Sử, đối với sĩ phu rất lễ độ; Trịnh Doanh rất trọng tài của, nên đem con gái trưởng là Tiên Dung quận chúa gã cho. Trịnh Sâm lúc lớn lên làm Thế tử, đối với Thái tử vẫn ghen ghét về địa vị tài năng. Một hôm, Thái tử và Sâm cùng ở phủ đường, được chúa Trịnh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngồi một mâm, lúc ấy vợ Trịnh Doanh là Nguyễn Thị ngăn đi và nói:
“Thế tử, với Thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi cùng mâm? Nên phân biệt ngồi làm hai chiếu“.
Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng:
“Ta với Duy Vĩ hai người, phải một chết một sống, quyết không song song cùng đứng với nhau được“.
Đến khi Sâm nối ngôi, bàn riêng với Hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đĩnh định mưu truất bãi Thái tử, nhưng không tìm ra tội trạng, bèn vu cho thái tử tư thông với người thiếp của Trịnh Doanh, rồi đem tâu bày với nhà Vua, bắt Thái tử giam vào ngục. Bấy giờ Thái tử trốn ở điện của nhà Vua. Huy Đĩnh trước hết vào tìm khắp trong Đông cung, nhưng không thấy; bèn vào thẳng điện đình kể tội trạng Thái tử và nói với nhà Vua rằng:
“Tôi nghe biết Thái tử ẩn nấp trong điện của bệ hạ, xin bắt giao cho tôi“.
Nhà vua ôm lấy Thái tử, không nỡ ly biệt; Huy Đĩnh cứ quỳ mãi ở dưới sân. Thái tử tự nghĩ không thể nào thoát nạn được, vừa khóc vừa lạy trước mặt nhà Vua, rồi rảo chân bước ra chịu trói. Khi đưa về phủ chúa Trịnh, Huy Đĩnh bắt trút mũ ra để nhận tội, Thái tử không chịu, nói:
“Bỏ vua này, lập vua khác, bạo nghịch giết vua, là việc làm đã quen của nhà bay, chứ ta có tội gì đâu? Việc này đã có sử xanh chép để ngàn đời!”
Sau đó Trịnh Sâm giả thác mệnh lệnh của nhà Vua, truất Thái tử làm thứ nhân, rồi giam vào ngục.
Tháng 8 [31/8-29/9/1769]. Trịnh Sâm lại thác mệnh Vua, tự tiến phong làm Đại nguyên soái tổng quốc chính thượng sư Tĩnh vương. Lập Duy Cận con thứ tư của nhà Vua làm Hoàng thái tử. Sau khi Duy Vĩ đã bị truất, Duy Cận thường ra vào phủ chúa Trịnh, tôn thờ mẹ Trịnh Sâm là Thái phi Nguyễn Thị rất kính cẩn, Sâm tâu nhà Vua xin lập làm Hoàng thái tử.
Trịnh Sâm sai tướng là bọn Bùi Thế Đạt đi đánh Lê Duy Mật tại Trấn Ninh [Xiêng Khoáng, Lào]. Trước kia, Duy Mật thường ra vào vùng Sơn Tây và Thanh Hóa, sau đó chiếm cứ thành Trình Quang tại Trấn ninh, dần dần số người đông, của cải nhiều, kiêm tính các châu Quỳ [Phủ Quì, Nghệ An], châu Trà [Trà Lân, Nghệ An], châu Cao [Trình Cao, Lào], châu Hợp [Qui Hợp, Hương Khê, Hà Tĩnh] bắt phải phục dịch lệ thuộc vào mình, thế lực có phần cường thịnh. Trịnh Doanh nhiều lần sai quân đi đánh, nhưng vì chỗ ấy vừa hiểm trở vừa xa xăm, không thể nào đánh được. Lúc Trịnh Sâm mới lên ngôi, sai Nguyễn Mậu Dĩnh, Tham nghị Nghệ An, đem sắc thư dụ dỗ, nhưng không được vào thành, đành phải trở về; đến nay quyết kế dùng mưu đánh dẹp. Sai Bùi Thế Đạt làm Thống lãnh Nghệ An, Nguyễn Phan làm Chánh đốc lãnh Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm Đốc lãnh Hưng Hóa, điều động binh mã ba đạo đi đánh.
Tại miền Nam vào tháng 2 [8/3-6/4/1769], vua nước Xiêm gọi là Phi Nhã Tân sai tướng là Phi Nhã Sô Sĩ [tên chức quan] Bôn Ma [tên người] đem quân đưa Vua ngụy nước Chân Lạp là Nặc Nộn về nước. Quân Bôn Ma đến Lô Khu, cùng Vua Chân Lạp Nặc Tôn đánh nhau mãi không được, bèn bắt dân đem về. Mạc Thiên Tứ được tin, càng thêm cẩn thận việc biên phòng.
Người Triều Châu [Quảng Đông] là Trần Thái họp đảng ở núi Bạch Mã, mưu đánh úp Hà Tiên, ngầm kết với người họ Mạc là bọn Mạc Sùng, Mạc Khoan làm nội ứng. Mạc Thiên Tứ biết rõ tình hình, liền cho mai phục, bắt được bọn Sùng, Khoan, đuổi đánh đồ đảng ở chùa Hương Sơn; bọn Trần Thái phải chạy sang Xiêm La.
Bấy giờ được bình yên đã lâu, ruộng đất ngày càng thêm mở rộng, hộ khẩu ngày càng tăng nhiều, thuế khóa về đinh điền thu vào chứa đầy kho tàng. Chúa Nguyễn mới lên ngôi, muốn biết rõ số mục các thứ, bèn sai quan sở tại làm bản tổng kết thu thuế khóa đinh điền và những thuế nguồn, cửa quan, bến đò, họp thành sổ tâu lên, thành lệ thường hằng năm:
Tại Thuận Hóa, 2 phủ, 8 huyện, 1 châu, ruộng hơn 153.180 mẫu, đinh hơn 126.850 người. Từ Quảng Nam đến Gia Định, 9 phủ, 25 huyện, 1 châu, ruộng 270.000 mẫu khoảnh (5), đinh hơn 165.060 người. Số thu vào trong một năm thì Thuận Hóa thóc 3.533.356 thăng, gạo 63.655 thăng, tiền 153.600 quan. Quảng Nam đến Gia Định thóc hơn 6.048.500 thăng, gạo hơn 782.000 thăng, tiền hơn 241.900 quan.
Các thứ thuế nguồn, tấn, đầm, ao, tuần ty, chợ, đò, mỗi năm thu vào tiền hơn 76.460 quan, vàng 148 lạng, bạc 1.450 lạng. Từ Quảng Nam trở về Nam chiếm 6 phần, Thuận Hóa chiếm 4 phần. Ngoài ra các loại như lụa, nhiễu, vải trắng, ngà voi, sừng tê, sáp ong, dầu nước, dầu thơm, đường cát, mật mía, mật ong, song, mây nước, đuốc trám, đèn nến thì không ở trong số thuế này.
Bấy giờ Trương Phúc Loan cầm quyền, chính trị tự chuyên. Nội hữu chưởng dinh Tôn Thất Nghiễm, chưởng Thủy cơ Tôn Thất Viên được chúa thân yêu, nhưng chỉ say mê tửu sắc, không để ý đến việc nước. Loan thấy thế bèn không kiêng nể gì, bán quan, buôn tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân đều lấy làm khổ.
Núi Đá Bia thuộc huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên bị sét đánh, đá sắc đen đổi hết thành sắc trắng, đứng xa trông bia đá sừng sững hình như vôi trắng. Trước kia Vua Lê Thánh Tông vào Nam đánh Chiêm Thành, mở đất đến đây. Trên vách đá cheo leo ở đỉnh núi, nhà Vua sai mài sườn núi khắc chữ vào đá để làm chổ chia giới mốc với Chiêm Thành, cho nên gọi tên là núi Đá Bia.
Chú thích:
1.Tư liệu sẽ nêu lên vào năm Ất Vị, Cảnh Hưng thứ 36 [1775]
2.Bốn tháng trọng gồm: trọng xuân, tức tháng 2; trọng hạ, tháng 5; trọng thu, tháng 8; và trọng đông, tháng 11.
3.Mười Châu: thuộc phủ An Tây gồm Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu, Ninh Biên, Quảng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Khiêm Châu và Tuy Phụ. Nay 4 châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai Châu và Luân Châu thuộc Hưng Hóa; 2 châu Quảng Lăng và Hoàng Nham bị mất vào Vân Nam; còn 4 châu Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm Châu không khảo cứu được.
- Ðằng Việt ( 騰越) : tên trấn, tại huyện Ðằng Xung, tỉnh Vân Nam.
- Mẫu khoảnh: ở đây dùng chữ mẫu khoảnh, có lẽ phần lớn là mẫu, còn những nơi mới khai thác chưa đo được chính xác thì tính là khoảnh, cũng đại loại trên dưới một mẫu.