Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 8

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Nhâm Ngọ, Cảnh Hưng năm thứ 23 [25/1-23/2/1762]. (Thanh, Càn Long thứ 27); đặt chức Giám đốc trường đúc tiền ở phường Nhật Chiêu [Hà Nội], ô Cầu Giền [Hà Nội] và các trường đúc ở Sơn Tây, Thái Nguyên. Bắt các trường đúc ghi dấu khác nhau, để đề phòng việc đúc tiền quá lạm hoặc mỏng.

Tháng 4 [24/4-23/5/1762], khí trời nóng nực dữ dội, nhân dân nhiều người bị bệnh dịch; triều đình hạ lệnh cho quan tại các lộ lập đàn cầu đảo.

Tháng 5 [22/6-20/7/1762], thi viết chữ và tính toán; định thể thức thường hành 12 năm thi một lần. Khoa thi này, về thi viết chữ lấy 978 người trúng cách; về thi tính toán lấy 120 người trúng cách. Lại hạ lệnh thải bớt hạng thư lại thừa ở các nha môn trong kinh, ngoài trấn; để nha môn nhiều việc và nha môn ít việc có số lượng nhân viên hợp lý.

Tháng 6 [21/7-18/8/1762], định rõ thuế muối ở Sơn Nam. Hạ lệnh cho ti Trấn thủ xét thực số ruộng muối ở bãi biển để đánh thuế, cứ 50 mẫu làm một bếp, thuế đồng niên mỗi bếp 30 quan tiền.

Tháng 7 [9/8-17/9/1762], hạ lệnh cho các trấn Sơn Tây, Thái Nguyên và Hưng Hóa khai các mỏ bạc, mỏ đồng, mỏ gang và mỏ diêm tiêu ở xã Thượng Dã [Thái Nguyên], xã Tiên Nông [huyện Tam Nông, Phú Thọ] và động Trình Lạn [Lào Cai]; đều định hạn ba năm sẽ đánh thuế.

Tháng 10 [16/11-14/12/1762], đặt Bí thư các; bổ dụng Nguyễn Bá Lân và Lê Quý Đôn sung làm Học sĩ trong Bí thư các, để duyệt sách vở; chọn người có văn học là bọn Ngô Thì Sĩ sung giữ chức Chính tự trong các.

Vào tháng 11 năm ngoái [26/11-25/12/1761], khi Sứ thần nhà Thanh là Hàn lâm thị độc Đức Bảo và Đại lý thiếu khanh Cố Nhữ Tu đến An Nam ban sắc phong, có xãy ra cuộc tranh luận về lễ nghi. Vua Hiển Tông nước ta đề xuất chỉ làm lễ khấu đầu vái thôi; nhưng Sứ thần nhà Thanh đòi hỏi phải theo lễ nghi thời Hàng Dịch Lộc sang trả đất vào năm Ung Chính thứ 6 [1728], quì 3 lần, khấu đầu 9 lần. Cuối cùng thì triều đình nước ta chấp nhận; nhưng lúc trở về đến quan ải Nam Quan, Phó sứ Cố Nhữ Tu còn gửi văn thư nhắc lại, trách cứ Quốc vương An Nam. Viên Tuần phủ Quảng Tây bèn đem sự việc tâu lên; khiến Vua Càn Long giận dữ, cho rằng Cố Nhữ Tu là người không thông đạt, có thái độ thô bỉ:

Ngày 6 tháng 3 năm Càn Long thứ 27 [30/3/1762]. Dụ:

Cứ Hùng Học Bằng tâu trình đầy đủ văn thư qua lại An Nam của Chánh Phó Sứ thần đến An Nam là Ðức Bảo và Cố Nhữ Tu; trong đó có văn thư của Cố Nhữ Tu gửi trách Quốc vương An Nam, nên sao lục văn bản này trình lên để xem. Viên Tuần phủ nhân bọn Ðức Bảo đi sứ trở về, bèn đem tất cả các văn thư lưu tâm xem xét, rồi cứ sự thực tâu lên, đáng tư cách là viên quan Ðại thần được phong đất.

Triều đình sai mang cờ tiết sách phong, biểu thị chính sách nhu viễn và làm sáng tỏ uy tín. Nếu như viên Quốc vương về nghi thức có chút sai lầm nhỏ, thì căn cứ vào lễ tiết trước mặt nói cho biết; để tuân theo làm đúng không được giả dối. Nếu đã cung thuận thi hành, thì những gì không liên quan đến thể thức, không nên để ý đến. Thế mà khi ở trong biên cảnh của  [viên Quốc vương] thì ẩn nhẫn, chờ khi ra khỏi thì viết thư trách; điều đó xét tổng quát thấy vẻ nhỏ nhen khiếp nhược, không đáng phó thác để không nhục mệnh vua. Nước này đời đời dốc lòng thành phụng sự bề trên, lại ở nơi hải ngoại xa xôi; không nói sự trọng khinh, không biết Cố Nhữ Tu nêu lên sự trách cứ để làm gì? Thật là thô bỉ. Cố Nhữ Tu vốn là người không thông đạt, huống khi đi sứ nước ngoài, lại không bàn bạc với Chánh sứ, tự tiện gửi thư trách; nhưng việc hỏi trách lại không hợp đại thể; nay giao cho bộ hãy nghiêm khắc bàn xử. Riêng Ðức Bảo là Chánh sứ, cớ sao không biết ngăn cản, lại cho văn thư được gửi đi? Bắt phải tâu minh bạch, những văn bản của Hùng Học Bằng tấu sao cũng được gửi đi kèm.”

Dụ các Quân Cơ đại thần:

An Nam đời đời là thuộc quốc của triều đình, phàm Sứ thần của triều đình đến nước này sách phong, đáng phải tuân theo lễ quì 3 lần, khấu đầu 9 lần. Nhưng viên Quốc vương này quen theo hủ tục của nước nhỏ, gặp sứ triều đình bàn luận chỉ khấu đầu vái thôi, việc này cũng do không hiểu biết mà thôi. Sau khi Ðức Bảo và Cố Nhữ Tu viện dẫn chỉ thị của Sứ thần Hàng Dịch Lộc (1) đã trở thành lệ, thì kính cẩn tuân theo. Nước nhỏ không tuân theo thể chế, Bồi thần cần bảo cho biết [để sửa chữa]. Nay truyền cho bộ Lễ ghi nhớ, từ nay trở về sau nếu gặp việc sách phong An Nam, phải theo điển lệ năm Ung Chính thứ 6 và lần này để tuân hành lễ 3 lần quì, 9 lần khấu đầu. Hãy thông báo cho Chánh, Phó sứ, lệnh phải vĩnh viễn tuân theo, không làm sai nghi lễ.(THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC, quyển 656, trang 7-9)

Bộ Lại tâu rằng hành động của Phó sứ Cố Nhữ Tu trái với thể chế, đề nghị xin cách chức; được Vua Càn Long chấp thuận:

Ngày 8 Tân Mùi tháng 4 năm Càn Long thứ 27 [1/5/1762]. Bộ lại bàn và tâu:

Ðại lý tự thiếu khanh Cố Nhữ Tu đi sứ An Nam, sau khi ra khỏi biên cảnh nước này tự tiện gửi thư trách hỏi viên Quốc vương, thực trái với thể chế, đáng theo lệ cách chức.

Nhận được chiếu chỉ:

Lệnh cách chức Cố Nhữ Tu.” ( CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 658, trang 14)

Viên Chánh sứ Đức Bảo cũng bị giáng 3 cấp, vì bị qui lỗi không ngăn cản nỗi Cố Nhữ Tu gửi thư cho An Nam:

Ngày 21 Giáp Thân tháng 4 năm Càn Long thứ 27 [14/5/1762]. Dụ rằng:

Ðức Bảo, Cố Nhữ Tu đi sứ An Nam; Cố Nhữ Tu  đã rời khỏi nước này, rồi tự viết thư trách, thật hẹp hòi sai quấy. Ðức Bảo tuy nói rằng đã từng ngăn trở nhưng Nhữ Tu không theo; nhưng Ðức Bảo là Chánh sứ, như vậy đã làm tròn trách nhiệm chưa? Vả lại không đưa sự việc để hạch tấu. Nay nhận mệnh đến hành tại (2), Ðức Bảo gốc Mãn Châu, giữ chức Hàn lâm, tại sao đến trễ đứng sau Cố Nhữ Tu? Tuy khai rằng đã đến Linh Nham trước để viết tờ tâu, nhưng khi Trẫm đến Linh Nham thì y chưa quì dâng, đến chiều mới nạp tờ tâu, tên này lời lẽ xảo trá thiếu khả năng, rõ ràng không đợi phải nói. Cố Nhữ Tu đã bị cách chức, nay giao Ðức Bảo cho bộ xem xét rồi tâu lên.

Bộ bàn rồi tâu:

 Ðức Bảo phạm tội che dấu, xin giáng 3 cấp điều dùng, không chuẩn khoan thứ

Thiên tử phán:

Chấp nhận theo” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 659, trang 8 )

Sự việc chưa chấm dứt, sau khi Cố Nhữ Tu soạn bản cảo về hành trình đến An Nam sắp in thành sách; y bèn dâng bản cảo lên Vua Càn Long. Nhà Vua ban dụ cùng lời châu phê chê nội dung sách nhàm lời, nhắc đến lễ tiết mà Quốc vương An Nam đã tuân theo. Ngoài ra sách chép những sự kiện như An Nam trưng bày nhiều binh khí tại công quán, cho 3 con voi đứng tại nơi giao lộ, giăng cờ xí dọc đường; cho rằng có mưu thuật tinh vi muốn gia hại Sứ thần. Vua Càn Long có cái nhìn khác, cho rằng nước nhỏ lo hoàn bị cơ ngơi vật chất, cùng nghi thức nhắm kính phụng Sứ tiết; ngoài ra nhà Vua bắt buộc Cố Nhữ Tu phải sao lục đầy đủ đạo dụ này cùng lời châu phê để in kèm, nếu không tuân sẽ bị tội:

Ngày 27 Canh Dần tháng 4 năm Càn Long thứ 27 [20/5/1762]. Dụ rằng:

Cố Nhữ Tu phụng sứ sách phong An Nam, trên đường trở về bèn tự tiện riêng viết văn thư trách hỏi Quốc vương An Nam, thật rất hẹp hòi sai quấy. Duyệt bản cảo sách của y, thấy sự thô lậu đáng cười, không phải chỉ có một chỗ. Như mở đầu chương tặng lúc lâm biệt, thấy lời lẽ tầm thường như trò chuyện giữa bạn bè, không phải cách Sứ triều đình đối với ngoại Phiên, thật không đúng thể thức lập ngôn; những điều khác càng đáng chỉ trích. Lại nói đến chỗ kém cõi nhỏ nhen của Cố Nhữ Tu, tự hứa là không nhục mệnh vua, nhưng tập hợp những điều khoe khoang đưa vào trong bản cảo, thì không thể để yên mà không hỏi đến. An Nam là một phiên bang nhỏ bé, đời đời triều cống, nay xin sứ thần đến phong cho người nối dõi, sự cung thuận không cần nói cũng thấy. Nhân lúc triệu đến gặp mặt đầu tiên, bàn về nghi tiết, xin dùng lễ nước này kính trời 5 vái; bị Chánh sứ Ðức Bảo cùng Cố Nhữ Tu gửi văn thư trách; viên Quốc vương bèn kính cẩn tuân 3 lần quì, 9 lần khấu đầu, như vậy là công việc xong, lễ đã thành.

Còn như việc nước này xây công quán nơi khoáng dã, trong đó trưng bày nhiều binh khí, dụng ý che sự sáng suốt, ngăn sự thông minh, khiến con người gần với sự nóng nảy tối tăm; y nói những lời gì như vậy? Hạ quốc lo hoàn bị cơ ngơi vật chất, cùng nghi thức để để kính phụng Sứ tiết; lại cho rằng có mưu thuật tinh vi muốn gia hại! Việc nước này tiếp đãi Sứ thần, không có một mưu thuật nào thi thố trong đó; nếu như họ muốn gia hại, thử hỏi 2 người này [Chánh sứ và Phó sứ] vốn cho là yếu đuối, thì dễ dàng chẳng khác gì trói con gà! Vả lại An Nam gia hại 2 người này để làm gì? Là một nước nhỏ, ở nơi xa xôi không ai hỏi đến, 2 người này có thông minh nào mà bị che chắn đi?

Thậm chí đến việc cho 3 con voi đứng tại nơi giao lộ, giăng cờ xí dọc đường, khiến trong lòng y sợ hãi kinh nghi; sự khiếp nhược cho dù một đứa trẻ nít cũng không đến nỗi như vậy. Trẫm nghĩ rằng một viên Sứ thần không thông sự lý, không khỏi gây trò cười nơi chốn xa xôi; hoặc có thể làm cho người Giao đâm nghi hoặc, hiểu sai ý Trẫm rồi sinh gây hấn nơi biên giới, thì đó là điều sai lớn.

Triều đình coi trong ngoài như một nhà, nơi biên thùy phía tây mấy vạn lý, cách thức mở mang chốn biên cương, ai làm chủ, ai làm tôi; kẻ mạnh, yếu, to, nhỏ, so với An Nam như thế nào? Cố Nhữ Tu không đoái hoài suy nghĩ điều đó, lại gửi hịch quở trách; nên Trẫm phải nói rõ ràng để khỏi sinh ra sự cố. Còn về việc không nhục mệnh vua, tùy cơ mà hành động không bàn ở đây; chỉ riêng nói về điều đáng chê cười hủ lậu của Nhữ Tu, phân tích cặn kẻ sự sai trái, không hợp nhân tình để chỉ thị rõ.

Nếu Nhữ Tu đem bản cảo ra in thành sách, phải sao lục đầy đủ đạo dụ này cùng lời châu phê để in kèm; để mọi người xem phân biệt được minh bạch. Nếu tự ý in khắc, sau này phát giác Trẫm sẽ trị tội nặng; để làm răn việc trộm danh lừa đời. Bản cảo lời châu phê cùng được phát ra.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 659, trang 14-16)

Sứ bộ nhà Thanh đến, được triều đình An Nam tặng quà cho cả quân lính và đám tùy tùng; lúc trở về đến Quảng Tây, viên Tuần phủ xin truy thu trả lại cho An Nam. Triều đình nhà Thanh quyết định trường hợp sai sứ đi; ngoại trừ Chánh, Phó sứ không được nhận quà biếu, còn các tùy tòng thì không cấm:

Ngày 7 Ðinh Mão tháng 7 năm Càn Long thứ 27 [25/8/1762]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Hùng Học Bằng tâu về việc trước đây quân lính và những người phục dịch theo các Sứ thần Ðức Bảo, Cố Nhữ Tu đến An Nam, nhận được từ nước này tiền biếu về cuộc hành trình, nay xin truy thu để trả lại; lời xin không khỏi quá đáng. Trẫm trước đây đã giáng chỉ lệnh đem tiền biếu của nước này trả lại, sau đó theo lệ vĩnh viễn thi hành, đó là muốn tôn sùng chế độ của triều đình và chỉ thị cho người phương xa hiểu rõ; lệnh này chỉ liên quan đến Sứ thần mà thôi. Nay truyền lệnh đối với những tùy tòng cấp thấp, được nước này theo tiền lệ khao thưởng, không quá quan hệ đến đại thể, không thể so với những Sứ thần cầm cờ tiết; nếu cứ tiếp tục suy diễn không dừng, thì đâm ra vụn vặt. Nay ra lệnh cho viên Tuần phủ [Hùng Học Bằng], lần này càng đáng bỏ qua không hỏi, không nên truy thu cho quá khứ, khiến gây phiền nhiễu. Tương lai gặp trường hợp sai sứ đi, thì ngoại trừ Chánh, Phó sứ, còn các tùy tòng không cấm [nhận quà biếu]; nhưng không được bày cách đòi hỏi quá đáng; khiến cho sự lý có phân biệt cân nhắc nặng nhẹ, không vô tình gồm vào một mối. Hãy dụ một cách rõ ràng để mọi người hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 666, trang 7-8)

Tại miền Nam vào ngày Kỷ Dậu tháng giêng [8/2/1762], cháu ruột Chúa Nguyễn Phúc Khoát tức Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long sinh; ngài là con bà họ Nguyễn, vợ chánh của Hoàng tử thứ hai.

Tháng giêng năm Quý Mùi Cảnh Hưng thứ 24 [13/2-14/3/1763], (Thanh Càn Long thứ 28); Chúa Trịnh Doanh từ kinh thành trở về Thanh Hóa, để lo sửa sang tô điểm các thắng cảnh tại Ninh Bình, như núi Dục Thúy [thành phố Ninh Bình] và động Bích Đào [huyện Yên Mô], nên dân phải phục dịch khó nhọc. Bèn hạ lệnh tha một năm thuế cho 6 huyện: Gia Viễn [Ninh Bình], Yên Mô [Ninh Bình], Yên Khang [huyện Yên Khánh, Ninh Bình], Tống Sơn [huyện Hà Trung, Thanh Hóa], Nga Sơn [Thanh Hóa] và Thuần Lộc [huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa].

Tháng 5 [11/6-10/7/1763] Đốc suất trấn Nghệ An Văn Đình Ức can tội, bị bãi chức; bổ dụng Bùi Thế Đạt tạm giữ công việc trấn Nghệ An. Bấy giờ Lê Duy Mật đánh úp phủ Trấn Ninh [Lào], Trịnh Cao [Lào], Tù trưởng Trấn Ninh Lưu Cầm cho người báo cáo tình hình nguy cấp; Đình Ức bắt giữ sứ giả của Lưu Cầm, mà không đem việc ấy tâu ngay cho triều đình biết. Đến lúc Duy Mật chia đường cướp phủ Quỳ [Nghệ An] và phủ Trà Long [Nghệ An], lòng dân xôn xao lo sợ. Viên Án trấn Vũ Tá Đoan nhiều lần xin triều đình chọn viên tướng khác giữ nơi biên khổn. Vì thế, Đình Ức phạm tội dối trên lừa dưới, phải luận vào tử hình, nhưng Trịnh Doanh lấy cớ rằng Đình Ức là người có công, nên chỉ lột hết quan chức, cho về làm dân; rồi bổ dụng Bùi Thế Đạt tạm giữ công việc trong trấn, sau hạ lệnh cho kiêm giữ chức Đốc suất, được tùy tiện xếp đặt công việc.

 Tháng 6 [11/7-8/8/1763], dùng lại Đỗ Thế Giai chức điều hành phủ Chúa. Thế Giai muốn ức chế bọn quyền thần để lấy lại uy thế, bèn tra ra việc ghi chép và truyền lệnh trái lệ, xử bọn Nội giám [Hoạn quan] Lê Đình Viên vào tội tử hình, nhưng Trịnh Doanh tha cho và bắt trở về làm dân. Nguyên do trong phủ Trịnh Sâm [con trưởng Trịnh Doanh] bấy giờ có hai phi tần tên gần giống nhau; một là Ngọc Khoan và người kia là Ngọc Hoan. Một hôm, Sâm sai Nội giám Lê Đình Viên truyền lệnh triệu Ngọc Khoan, nhưng Nội giám cố ý làm sai lạc đi mà truyền lệnh cho Ngọc Hoan. Khi Sâm thấy Ngọc Hoan, có ý không bằng lòng, nhưng đã triệu đến cũng gượng chung chăn gối, sau Ngọc Hoan sinh con là Trịnh Tông, tức Đoan Nam Vương sau này. Bọn Nội giám Lê Đình Viên đã ghi chép và truyền lệnh về việc trong cung cấm trái thể lệ như thế, nên Thế Giai mới tra ra mà luận vào tội tử hình.

Tháng giêng năm Giáp Thân, Cảnh Hưng thứ 25 [2/2-2/3/1764), (Thanh Càn Long thứ 29); Vua Hiển Tông lập con là Duy Vĩ làm Hoàng thái tử. Duy Vĩ, con trưởng của nhà vua, sáng suốt, chăm học; Trịnh Doanh rất kính trọng; đến nay lập làm Thái tử.

Tháng 7 [29/7-26/8/1764], giặc tên là Thai tụ họp nổi loạn tại các trấn Sơn Tây và Hưng Hóa. Triều đình sai các quan trấn phối hợp đánh dẹp. Bắt được tên Thai và đồ đảng 159 người, đều luận tội tử hình; Trịnh Doanh thương tình, sai xét lại, nhiều người được khoan hồng tha cho.

 Lại hạ lệnh cấm khách buôn Trung Quốc không được ở lẫn với dân. Trước đây, khách buôn phương Bắc đến buôn bán, chỉ cho trú ngụ ở châu Vân Đồn, Vạn Ninh thuộc Yên Quảng [Quảng Ninh] và xã Cần Hải [huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An], Hội Thống [huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh], Triều Khẩu [huyện Hưng Nguyên, Nghệ An], không được ở lẫn với dân. Lúc này dân ở châu Vạn Ninh nhiều người phiêu tán, nên cũng có khách buôn nhân tiện chiếm ở, trú ngụ ngay chỗ đất bỏ không, lại có nhiều người mở phố xá ở Vĩnh Đại [huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh] và Triều Khẩu. Vì thế, mới hạ lệnh cho quan ở trấn sức sở tại dẫn đưa ra ngoài, xếp đặt cho họ ở riêng ra như trước.

Bổ dụng Hoạn quan Đàm Xuân Vực giữ chức Thống suất Thanh và Nghệ. Trước đây, Duy Mật chạy trốn ra ngoài, xưng là theo mệnh lệnh vua Ý Tông, chế tạo riêng ấn tỉ và cờ, kiếm, chiêu dụ các tù trưởng ở Thanh Hóa giúp cho lính, lén lút chiếm cứ miền thượng du; truyền hịch kể tội ác họ Trịnh. Trịnh Doanh sai quân đi đánh, mấy năm chưa dẹp yên được. Đến nay, Duy Mật đánh úp Trấn Ninh [Lào], bắt giam Xà Bồn [Tù trưởng] Lư Cầm Hương. Tại động Trình Quang thuộc Trấn Ninh, Duy Mật đặt làm nội phủ và ngoại phủ, bốn mặt ngoại phủ chia  đặt 16 đồn ải, có lũy vững, hào sâu, có nơi đứng cao để nhòm ngó, có điếm canh từ phía xa, phòng bị cẩn thận, chặt chẽ. Duy Mật đem quân đánh chiếm những kẻ không thần phục, khống chế các người Lào, cả đến các động ven biên giới Hưng Hóa; phía đông từ Lạc Hòn [Lào], Trịnh Cao [Lào], phía bắc đến 7 tổng phủ Quỳ [Nghệ An], phủ Trà Long [Nghệ An], đều bị Duy Mật thống thuộc sai khiến. Nhân đấy, Duy Mật chia quân tràn xuống địa đầu Thanh Hoa, vì thế, dân nơi biên giới náo động. Triều đình bèn hạ lệnh cho Đàm Xuân Vực làm Thống suất hai xứ, phàm cơ mưu đánh dẹp, tiễu nã, và việc thưởng công, phạt tội, phong quan, bãi chức; Xuân Vực đều được tùy tiện xử trí.

Tháng 12 [23/12/1764-20/1/1765], lại thu nửa tiền thuế gia tô [tô thuế thu thêm]. Lúc ấy vì Duy Mật chiếm cứ Trấn Ninh lâu ngày, phải dùng quân đánh dẹp, bèn hạ lệnh thu một nửa thuế gia tô theo ngạch cũ. Lệnh rằng: “Có ruộng thì có tô, là lẽ thường xưa nay. Nhà nước thu lấy của dân, đều có ngạch thuế nhất định. Trước kia, nơi biên giới, nên ngoài số thuế chính ngạch, quyền tạm bổ riêng thuế gia tô, để giúp chi dùng vào việc binh. Từ khi việc binh tạm thư, đã nhiều lần rộng tha cho; nay có việc điều khiển lính đi đánh dẹp, chi dùng khá nhiều, cần phải liệu lượng thu một nửa và nộp cả vào mùa xuân để tiện cho việc thu nộp“.

Phía nhà Thanh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Tô Xương tâu trình về việc bọn cướp người An Nam cướp bóc thuyền đánh cá Trung Quốc, đã gửi văn thư cho Vua Lê yêu cầu bắt gấp:

Ngày 9 tháng 12 năm Càn Long thứ 28 [11/1/1764]. Dụ các Quân cơ đại thần:

‘Tô Xương dâng bản tâu về việc bọn giặc tại An Nam cướp bóc dân Liêu đánh cá. Ðất châu Khâm tiếp giáp với An Nam, bọn giặc người Di cướp phá, đáng bắt điều tra để trừng trị. Trong tờ tâu viên Tổng đốc cho biết đã gửi văn thư cho viên Quốc vương yêu cầu bắt gấp bọn phỉ, đáng làm như vậy. Còn dân nội địa, đã có lệ không được vượt cảnh đánh bắt; nay bọn Trần Quốc Giám đáp thuyền dân Liêu bắt cá, nên bị giặc cướp đoạt; như vậy quan địa phương thường ngày đã quản lý được việc gì? Khi án này phát giác, viên Tổng đốc sao không nhân đó mà đàn hạch ước thúc các quan lại quản lý địa phương. Nay truyền lệnh Tô Xương thi hành, rồi đem sự thực tâu lên.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC  quyển 700, trang 9)

Sau khi triều đình ta giải giao tội phạm; Viên Tổng đốc xin Vua Càn Long cho hành quyết tại biên giới:

Ngày 24 tháng 3 năm Càn Long thứ 29 [24/4/1764]. Lại dụ rằng:

Tô Xương tâu ‘Án về giặc tại An Nam cướp thuyền, hiện tại đã bắt giải thẩm vấn tra tấn xong, bọn giặc người Di  bị bắt nhiều; nếu sau khi tâu lên lại chờ phúc nghị, thì phải câu lưu nơi quan ải quá lâu, sợ bị lỡ lầm để trốn thoát. Xin sau khi thẩm định được sự thực, cho hành quyết trước khi phúc tấu.’

“ Việc xử các án thuộc dân Di nước ngoài, cách thức làm việc không giống với thủ tục trong nước. Viên Tổng đốc tâu giặc Di nhiều, câu lưu lâu ngày sợ bị sơ hốt; nên chấp nhận theo lời xin, sau khi kết án xong, thì một mặt cho hành quyết, một mặt tâu lên.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 707, trang 15-16)

Lại một trường hợp phạm tội khác, lần này dân Trung Quốc tại huyện Tĩnh Tây vào An Nam cướp phá; nhà Thanh quyết định xử như trường hợp trước, bắt hành quyết tại biên giới:

Ngày 16 tháng 7 năm Càn Long thứ 29 [13/8/1764]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Tô Xương tâu rằng người tại châu Qui Thuận [huyện Tĩnh Tây, Quảng Tây] là bọn Dương Á Ðạo cướp phá đất biên giới tại An Nam, xin xử vào tội chết. Bọn phạm tội là dân nội địa, cướp bóc tại đất Di, tội không thể tránh được. Nhưng nếu chỉ xét theo luật trị tội tại nội địa, mà không xử tử ngay tại nơi cướp phá để cho dân Di cùng biết, việc làm như vậy chưa được thỏa mãn đôi bên. Ðáng như trong tờ tấu của viên Tổng đốc nhắc nhở ‘ bọn Di phỉ cướp phá dân ta, bị nước này tầm nã, bèn cho hành quyết tại biên giới’; còn về án này dân tại nước ngoài phải chịu đựng, vậy sau khi thẩm vấn minh bạch cần thông tri cho nước này, tập trung dân chúng, cho hành quyết tại xứ sở của họ; như vậy không những pháp luật quốc gia được thi hành, mà lòng người Di cũng khâm phục. Ngoài ra sau này khi nhận được hịch văn truy tầm giặc cướp, nước này biết rằng triều đình Trung Quốc chấp pháp công minh, ân uy rõ ràng, nên sẽ không lần lữa nhìn ngó nữa. Án này truyền dụ cho bộ liên hệ, chờ đề bản gửi đến, bàn một cách thỏa đáng để kết thúc; cùng đem việc này dụ rõ ràng cho Tô Xương hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 715, trang 2)

Tại miền Nam vào năm Giáp Thân [2/2/1764-20/1/1765], Hoàng tử Lê Duy Mật sai người đến dinh Ai Lao đưa thư cầu viện. Chúa Nguyễn Phúc Khoát không muốn gây hiềm khích nơi biên giới với họ Trịnh, nên hậu đãi người đưa thư, rồi cho về.

Tháng 2 năm Ất Dậu, Cảnh Hưng thứ 26 [21/3-19/4/1765], (Thanh, năm Càn Long thứ 30); thay đổi phép thi Hương, lại thu tiền thông kinh. Trước đây, Đỗ Thế Giai giữ công việc trong phủ Chúa, lấy cớ rằng dùng quân đánh dẹp, chi phí mất nhiều, phàm gặp khoa thi Hương, hạ lệnh cho nộp tiền thông kinh, sẽ được miễn khảo hạch; rồi đến lúc Nguyễn Công Thái giữ việc trong phủ Chúa, xin bãi bỏ thể lệ này. Đến nay, Thế Giai lại được phục chức; bèn thay đổi, cho phép huyện lớn lấy 70 người, huyện vừa 50 người, huyện nhỏ 40 người; người nào khảo hạch không trúng, theo thể lệ nộp tiền thông kinh, cũng được vào thi.

Tháng 6 [18/7-15/6/1765], Lê Quý Đôn, giữ chức Tham chính Hải Dương xin bãi chức. Từ khi sang sứ nhà Thanh trở về nước, rồi được bổ làm Tham chính Hải Dương; Quý Đôn không vừa ý, nên tự giải bày chín tội và xin bãi chức. Trong lời giải bày có đoạn nói: “Tôi đem cái thân sống sót ở muôn dặm trở về nước, mà nay xiêu giạt nơi giang hồ, xin cho tôi được về quê quán“. Trịnh Doanh tuy không bằng lòng, nhưng vẫn y cho.

Tháng 7 [16/8-14/9/1765], bổ dụng Nguyễn Đình Huấn, Hoạn quan, giữ chức Tham đốc (3). Đình Huấn làm Đề lãnh bốn cửa thành, trong kinh kỳ được nghiêm chỉnh yên tĩnh. Trịnh Doanh nhận thấy là người có tài, nên trao cho giữ chức này.

Tháng 10 [13/11-11/12/1765], bấy giờ bọn quý tộc cậy thế, phần nhiều lộng quyền trái luật; thiện tiện đánh thuế tuần ti, thuế xưởng mỏ và thuế thổ sản ở ngoại trấn, đi đến đâu cũng nhũng nhiễu, làm khổ cho dân. Triều đình hạ lệnh cho ti Trấn thủ tra bắt, người nào không có giấy tờ quan cấp sẽ trị tội.

Tại miền Nam vào ngày Giáp Ngọ tháng 5 [7/7/1765] Chúa Nguyễn Phúc Khoát mất, ở ngôi 27 năm, thọ 52 tuổi. Bầy tôi dâng thụy là Kiền Cương Uy Đoán Thần Nghị Thánh Du Nhân Từ Duệ Trí Hiếu Vũ vương, táng ở núi La Khê.

Bấy giờ Hoàng tử cả là Chương đã mất; Hoàng tử thứ chín là Hiệu được yêu quý nên được lập làm Thế tử cũng mất, Hoàng tôn là Dương còn thơ ấu. Hoàng tử thứ hai [Hưng tổ Hiếu khang hoàng đế, thân phụ Vua Gia Long] khi nhỏ khôi ngô khác thường, theo vai vế thì đáng được lập; Chúa sai Nội hữu Trương Văn Hạnh làm thầy, muốn để cho nối ngôi, bắt đầu cho chức Chưởng cơ, thường được tham dự triều chính. Riêng Hoàng tử thứ 16, Nguyễn Phước Thuần, mới 12 tuổi; quyền thần Trương Phúc Loan (con Trương Phúc Phan) lợi dụng Hoàng tử còn trẻ tuổi dễ bề lung lạc, bèn mật cùng Thái giám Chử Đức và Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thông đổi di mệnh lập lên ngôi Chúa. Mẹ là Nguyễn thị, nhân cuộc biến năm Giáp ngọ [1774] đi tu, năm Gia Long thứ 3 [1804], ban hiệu là Tuệ tĩnh thánh mẫu nguyên sư.

 Hoàng tử thứ hai [Hưng tổ] bị Trương Phúc Loan ghét, bắt giam vào lãnh thất. Nội hữu Trương Văn Hạnh, Thị giảng Lê Cao Kỷ đều bị Loan giết. Hưng tổ lo buồn sinh ốm, vào ngày Quý Mùi tháng 9 [24/10/1765], về phủ đệ thì băng, thọ 33 tuổi; táng tại xã Cư Chính [thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên].

Chúa lên ngôi, thăng Trương Phúc Loan làm Quốc phó, giữ bộ Hộ, quản cơ Trung tượng, kiêm Tàu vụ, cho thu thuế sản vật nguồn vàng Thu Bồn và các nguồn Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân làm ngụ lộc. Loan sai người riêng trưng thu, hằng năm được số vàng vô số mà nộp thuế cho nhà nước chỉ 1, 2 phần 10. Các thứ thuế nguồn về ngà voi, sáp ong, mật ong, mỗi năm thu bạc đến hơn 200 lạng. Của báu chất như núi. Con là Thặng và Nhạc đều lấy Công chúa; Thặng lấy công chúa Ngọc Nguyện, Nhạc lấy công chúa Ngọc Đảo, làm quan đến Chưởng dinh cai cơ. Cả nhà Loan đều quyền thế, át cả trong ngoài.

Tháng 6 [18/7-15/8/1765], triệu Tham mưu dinh Điều khiển Gia Định là Nguyễn Cư Trinh về, thăng làm Lại bộ, khởi phục Nguyễn Quang Tiền làm Hàn lâm viện. Bấy giờ Trương Phúc Loan chuyên nắm quyền bính, sợ dư luận không ưa, nên cất nhắc hai người có danh vọng đương thời, Chúa theo lời, nên có mệnh ấy. Lấy Thị giảng Nguyễn Hữu Tôn làm Binh bộ, vẫn kiêm chức Thị giảng.

 Tháng 5 năm Bính Tuất, Cảnh Hưng thứ 27 [7/6-6/7/1766], (Thanh Càn Long thứ 31); hạt Kinh Bắc [Bắc Ninh] nước sông dâng lên, vỡ đê, ruộng nương nhà cửa bị ngập lụt. Triều đình hạ lệnh cho quan trong kinh thành đi hộ đê; nơi bị đê vỡ làm tổn hại đều được liệu lượng phát chẩn.

Tháng 10 [2/11-11/12/1766], giặc ở thượng du vùng Sơn Tây tự xưng hiệu là Thuận Nghĩa, tụ hợp dân chúng đi cướp bóc. Triều đình hạ lệnh cho bọn trấn tướng là Nguyễn Địch Bàn và Hoàng Phùng Cơ phối hợp đi đánh bắt, phá tan được bọn giặc này.

Về phía nhà Thanh, quyền Tổng đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây đều tâu có những người Trung Quốc vào đất An Nam phụ họa với giặc gây loạn, đến lúc thua bại lại chạy về nội địa; Vua Càn Long chấp thuận cho bắt bọn này đem đến biên giới hành quyết:

Ngày 30 tháng 3 năm Càn Long thứ 31 [8/5/1766]. Quyền Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ðình Chương, Tuần phủ Quảng Tây Tống Bang Tuy tâu:

Sa phỉ từ lâu vốn là mối hoạn biên giới tại Giao Chỉ, tàn dư không dẹp yên; trong đó có những người dân gốc Vân Nam, dại dột nghe lời mê hoặc, trốn vào đất Giao, phụ hoạ với giặc đất này cướp phá; nếu bại thì trốn vào nội địa để mong sống còn, bọn chúng là giặc tai hại nơi biên giới. An Nam là nước cung thuận, nhiều năm nội phụ, đáng trị những bọn cướp để tỏ lòng thể tuất. Xin thẩm xét rõ ràng minh định tội trạng, rồi xin chiếu chỉ đem bọn phạm nhân áp giải đến cửa ải, cùng thông báo cho viên Quốc vương phái các Di mục đến nơi để cùng mắt thấy việc hành quyết, nhắm làm rõ ràng uy đức.

Chiếu chỉ phê:

Phải.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC, quyển 757, trang 25)

Tại miền Nam vào tháng 8 [4/9-3/10/1766],thám tử của Hà Tiên từ Xiêm La trở về báo vua Phung Xiêm La (vua Xiêm có bệnh hủi, nên gọi là vua Phung) đã sửa soạn chiến thuyền định ngày sang đánh Hà Tiên. Tổng binh Mạc Thiên Tứ lấy làm lo, phi báo về dinh Điều khiển Gia Định xin quân tiếp viện.

Tháng 10 [2/11-11/12/1766], Thống suất Nguyễn Cửu Khôi  và Tham mưu Nguyễn Thừa Mân  sai bọn Cai đội Nguyễn Cửu Siêu, Nguyễn Cửu Tự đem 3 chiếc thuyền đi biển, 20 chiếc thuyền sai và 1.000 tinh binh đóng giữ Hà Tiên để phòng ngừa giặc Xiêm.


Chú thích:

1.Vào năm Ung Chính thứ 6 [1728] Sứ thần Hàng Dịch Lộc sang nước ta để trả lại đất; xin xem văn bản tại Thanh Thực Lục năm Ung chính thứ 6.

  1. Hành tại: nơi vua ở ngoài cung điện chính thức.

3.Tham đốc: Theo “Chức quan chí” trong Lịch Triều Hiến Chương của Phan Huy Chú, thì Tham đốc thuộc về hàng võ, trật chánh nhị phẩm.

Bình luận về bài viết này