Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 7

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Đinh Sửu, Cảnh Hưng thứ 18 [18/2-19/3/1757], (Thanh Càn Long thứ 22); ra lệnh cấm cờ bạc. Trịnh Doanh hạ lệnh rằng: “Dân có nghề nghiệp nhất định, thì sự vật lạ không thể cám dỗ thay đổi được ý chí; trong nước không có người dân phóng túng chơi bời, thì phong tục tự nhiên thuần hậu. Vậy nếu xét thấy có người nào không theo về nghề nghiệp tứ dân [sĩ, nông,công, thương] , tính tình hung hãn, chơi bời cờ bạc, thì quan sở tại trình bày đàn hặc để trị tội.”

 Tháng 2 [20/3-17/4/1757], thi hội các Cống sĩ, cho bọn Bùi Đình Dự đỗ Tiến sĩ xuất thân và Đồng tiến sĩ xuất thân, cao thấp khác nhau. Từ khoa Quý Hợi (1623) trở về sau, Cống sĩ vào thi đình không ai bị đánh hỏng. Khoa này thi hội này, có Nguyễn Khiêm Hanh, người thôn Nhân Nội, huyện Thọ Xương [Hà Nội], được dự hạng trúng cách, đến khi thi đình, can tội mang sách vào trường thi nên bị đánh hỏng.

Tháng 10 [12/11-10/12/1757], các huyện thuộc Sơn Tây bị đói to, phát sinh chứng dịch, dân cư mười phần chỉ còn một hai phần.

Tháng 12 [10/1-7/2/1758], quả núi ở châu Bạch Thông [Bắc Kạn] bị lở hơn 20 chỗ, nước dâng lên làm ngập lụt, người, súc vật, và thóc lúa phần nhiều tổn hại.

Về phía nhà Thanh, thuộc hạ tại vùng biển tâu trình đã tịch thu khí giới trong thuyền An Nam bị nạn. Việc này bị Vua Càn Long khiển trách, cho rằng trái với thể thống, không đáng làm như vậy:

Ngày mồng 1 Tân Dậu tháng 6 năm Càn Long thứ 22 [16/7/1757]. Lại dụ:

Theo lời tâu của Mã Phụ Thư:Thuyền của An Nam phiêu dạt đến đồn trấn Vĩnh Ninh, hiện giao cho binh lính canh giữ, lại sai quan địa phương đưa khí giới trong thuyền tạm tàng trử tại kho huyện, đợi lúc khởi hành trở về sẽ trả lại.

Thuyền của ngoại Phiên đi lại ngoài biển, mang khí giới để đề phòng, việc đó không có gì lạ. Khi phiêu bạt đến cửa khẩu, cho quân lính xem xét, sự lý đáng làm như vậy; còn việc mang khí giới thu trử vào kho chỉ sợ khỏi sinh sự mà thôi. Không biết rằng nếu chúng định sinh sự, thì đã xẩy ra trước khi xét thu rồi! Ðây là ý kiến của con nít, đàn bà, noi theo lệ cũ, thực là vô sỉ; chứng tỏ sự khiếp nhược khiến thiên hạ cho rằng sự hiểu biết của Trung Quốc nhỏ hẹp, làm trò cười cho dân Phiên, thực trái với thể thống. Từ nay trở về sau hãy đình chỉ việc tra thu, cùng truyền dụ cho Tổng đốc, Tuần phủ, Ðề, Trấn tại các tỉnh duyên hải hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 540, trang 1-2)

Tại miền Nam vào năm Đinh Sửu [1757], Vua nước Chân Lạp, Nặc Nguyên, chết. Người chú họ là Nặc Nhuận tạm coi việc nước; các quan tại nơi biên cương tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ sự ân nghĩa. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc [Ba Xắc, Sóc Trăng], rồi sau mới y cho. Khi ấy xãy việc con rể Nặc Nhuận là Nặc Hinh giết Nặc Nhuận để cướp ngôi, con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên. Thống suất Trương Phước Du thừa thế tiến đánh; Nặc Hinh chạy đến Tầm Phong Xuy, bị viên quan Chân Lạp là Ốc Nha Uông giết chết. Bấy giờ Mạc Thiên Tứ cũng tâu giúp cho Nặc Tôn; Chúa bèn sắc phong cho Nặc Tôn làm vua nước Chân Lạp, sai Thiên Tứ cùng với tướng sĩ năm dinh hộ tống về nước. Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long [An Giang]. Phước Du và Cư Trinh tâu xin dời dinh Long Hồ đến xứ Tầm Bào (nay là thôn Long Hồ, tức tỉnh lỵ Vĩnh Long). Lại đặt đạo Đông Khẩu ở xứ Sa Đéc [Đồng Tháp], đạo Tân Châu [An Giang] ở Tiền Giang, đạo Châu Đốc [An Giang] ở Hậu Giang, lấy quân dinh Long Hồ để trấn áp. Bấy giờ Nặc Tôn lại cắt năm phủ Hương úc, Cần Vọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho triều đình. Chúa cho lệ năm phủ ấy vào quản hạt Hà Tiên, Thiên Tứ lại xin đặt Giá Khê làm đạo Kiên Giang, Cà Mâu làm đạo Long Xuyên, đều đặt quan lại, chiêu tập dân cư, lập thôn ấp, làm cho địa giới Hà Tiên ngày càng thêm rộng.

 Tháng 2 năm Mậu Dần, Cảnh Hưng thứ 19 [9/3-7/4/1758]. (Thanh, Càn Long thứ 23); định rõ thể lệ khiếu nại về việc kiện tụng. Theo thể lệ cũ, các việc kiện tụng lên đến lục bộ (1) và Ngự sử đài xét xử là kết thúc, họa hoặn nếu người nào còn oan uổng, mới được làm tờ khải lên phủ Chúa, kêu xin xét lại. Nhưng có nhiều người làm trái thể lệ, tố cáo vượt cả thứ tự, nên định rõ thể lệ khiếu nại.

Tháng 10 [1/11-30/11/1758], Trịnh Doanh phong cho con là Sâm làm Tiết chế thủy bộ chư quân, chức Thái úy, tước Tĩnh quốc công.

Sau khi Sâm được tiến phong, mở phủ Lượng Quốc, hết thảy công việc nhà nước đều giao cho Sâm quyết định. Nguyễn Hoàn, viên quan giữ việc giảng nghĩa sách cho Sâm, làm 10 bài châm dâng lên, Sâm đều thu nạp:

  1. Bụng nghĩ phải ngay thẳng;
  2. Học hỏi phải rộng khắp;

 3.Tề chỉnh việc chính trị trong nước;

  1. Phòng ngừa việc đối với người thân cận;

5.Thống nhất căn bản chính sự;

6.Cẩn thận việc sai phái, cất nhắc;

7.Mở rộng việc thu nhận những lời khuyên can;

8.Giữ phép tắc đã sẵn có;

  1. Hiệu lệnh phải cho tin thực;

10.Việc nào đáng rộng rãi hay đáng nghiêm ngặt, nên suy xét kỹ càng.

Về phía nhà Thanh, nhân việc An Nam báo tin sẽ cho áp giải những người Trung Quốc phạm pháp đến biên giới để nhà Thanh phân xử, Vua Càn Long ban lệnh cho Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu cho xử tử 2 tên đứng đầu ngay tại biên giới, số còn lại đem an trí tại vùng Tân Cương:

Ngày 26 tháng 7 năm Càn Long thứ 23 [29/8/1758]. Dụ các Quân cơ đại thần:

‘Cứ theo lời tâu của Lý Thị Nghiêu: Chấp thuận theo lời báo của An Nam, có người nội địa tên Trương Phủ Năng, Vương Bố Ðốc đến nước này làm giặc, quấy nhiễu các địa phương; hiện đã bắt được, xin áp giải đến nội địa, để theo pháp luật trị tội. Lại còn bọn phạm nhân 30 tên, cũng từ nội địa đến, thẩm vấn thuộc loại tòng phạm, đã cảnh cáo nhẹ rồi thả trở về.

Hai phạm nhân vốn là dân nội địa, ngầm trốn ra khỏi biên giới, mê hoặc nhân dân làm việc trái pháp luật, là loại cực sâu mọt tại biên giới. Viên Quốc vương không lập tức xử trí, áp giải đến nội địa để được xử theo quốc pháp, cung thuận đáng khen. Nay truyền dụ cho Lý Thị Nghiêu, đợi khi 2 phạm nhân được giải tới, thẩm vấn xác minh; rồi trước mặt ủy viên cùng nhân viên áp giải của nước này, cho hành quyết ngay tại biên giới. Còn bọn tòng phạm 30 tên, tuy theo lời viên Quốc vương đã cho trừng trị nhẹ rồi tha về; tuy nhiên chúng là bọn giặc, không yên phận, không tiện lưu tại quê quán; khi nước này trục xuất giải đến Lưỡng Quảng, hãy tra xét nghiêm rồi theo lệ mới phát vãng đến xứ Ba Lý Khôn (2). Vẫn nghiêm sức các quan địa phương, bất thường tìm cách tra khám, cẩn thận biên phòng, không để cho bọn phỉ ra nước ngoài sinh chuyện.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 567, trang 17-18)                

Tại miền Nam vào tháng 4 năm Mậu Dần [7/5-5/61758], Chúa Nguyễn sai Nguyễn Khoa Trực làm Tuần phủ Phú Yên, đốc thu các thứ thuế sai dư và thường tân. Lúc mới mở nước, Phú Yên là đất mới khai thác, tuy đã đặt quan lại cai trị, nhưng thuế má vẫn còn rộng rãi đơn giản, so với các phủ tại miền bắc có phần nhẹ hơn. Đến khi các phủ Bình Khang [Khánh Hòa], Diên Khánh [nam Khánh Hòa], Bình Thuận, Gia Định dần dần mở mang, thì lệ thuế cũng như tỉnh Phú Yên. Đến đây các loại thuế sai dư và thường tân của Phú Yên còn thiếu nhiều cho nên sai quan đi đốc thu.

 Tháng 2 năm Kỷ Mão Cảnh Hưng thứ 20 [27/2-27/3/1759]; (Thanh, Càn Long thứ 24); Thanh Hóa và huyện Đông Thành [huyện Yên Thành], huyện Quỳnh Lưu thuộc Nghệ An bị đói to. Hạ lệnh cho Hà Huân đi ngay đến nơi thăm hỏi xem xét, hiệp đồng với viên quan ở trấn, tùy phương tiện phát chẩn cho dân. Còn dân phiêu tán ở hai xứ này nếu có người nào đến kiếm ăn tại các trấn khác, sẽ đem tiền gạo chẩn cấp cho. 

Tháng 6 [25/6-23/7/1759] hạn hán, ban bố cách thức chế xe nước, bắt dân y theo để chế tạo, để lấy nước tưới vào ruộng; lại phát thóc công chẩn cấp cho dân.

Tháng 6 nhuận [24/7-22/8/1759]. Thượng hoàng Lê Ý Tông mất, táng ở lăng Phù Lê (3). Sau khi đã truyền ngôi, thượng hoàng ở điện Kiền Thọ, đến nay mất, dâng tôn thụy là Huy Hoàng đế; Thượng hoàng ở ngôi 6 năm, nhường ngôi 20 năm, hưởng thọ 41 tuổi.

Tháng 2 năm Canh Thìn, Cảnh Hưng thứ 21 [17/3-15/4/1760], (Thanh, Càn Long thứ 25); miễn thuế diêm tiêu [dùng làm thuốc súng] cho hai trấn Tuyên Quang và Hưng Hóa.

Tháng 7 [11/8-8/9/1760], năm ấy tương đối được mùa, triều đình hạ lệnh: người nào có thể nộp thóc được 6 vạn bát quan, hứa sẽ trao cho chức Tri phủ ở phủ đông người nhiều việc (4) , người nào nộp được 4 vạn bát quan, sẽ trao cho chức tri huyện ở huyện đông người nhiều việc (4). Vua Tự Đức đọc sử đến chỗ này, có lời phê như sau:

Phủ huyện là người tiêu biểu của dân, triều đình giao phó cho cai trị hàng trăm dặm đất, trách nhiệm không nhỏ. Thế mà lại cho người nộp của để làm quan ở phủ huyện, vậy thì coi việc vui mừng việc đau khổ của dân, quá khinh thường lắm ru?”

Về phía nhà Thanh, nhân Sa phỉ từ An Nam sang các trại biên giới tại Vân Nam quấy phá, viên Tổng đốc Viên Tất Đạt cho truy đuổi đến biên giới, rồi thông báo cho An Nam đánh bắt tiếp. Chủ trương không vượt biên truy đuổi, bị Vua Càn Long chê là thiếu cương quyết:

Ngày 24 Kỷ Tỵ tháng 3 năm Càn Long thứ 25 [9/5/1760]. Lại dụ rằng:

Bọn Viên Tất Ðạt tâu: Sa phỉ Quận Tầm bị Giao mục Tô Do gây khó khăn, bèn xâm nhập vùng duyên biên 2 trại Mạn Trác, Mã Lộc, cướp đoạt gây sự. Ðồn trấn dùng binh truy đuổi, bèn chạy trở về. Hiện đang gửi văn thư thông sức cho viên Quốc vương An Nam bắt gấp giải đến để cứu xét; nếu vượt biên giới truy đuổi, thì không khỏi gây sự nghi ngờ sợ sệt.

Làm việc này thật không đúng. Tỉnh của y tiếp giáp với An Nam, giữ biên giới không phải không nghiêm, nhưng chỉ hiệu quả lúc dân Di bên ngoài cung thuận giữ pháp luật mà thôi. Nay bọn Sa phỉ nhân Giao mục mà tự tiện quấy nhiễu các trại, rõ ràng chúng là bọn giặc, thì lại không giữ được biên giới! Phàm bọn xâm nhập, dám vượt biên giới của Thiên triều, mà kẻ truy đuổi không dám xông vào biên cảnh của ngoại Di, chỉ án binh tại biên giới, rồi gửi văn thư đòi bắt, kéo dài năm tháng, coi như vậy là xong chuyện; việc làm như vậy thuộc thể chế nào? Vả lại quan binh ra khỏi quan ải truy đuổi giặc, chỉ muốn bắt bọn Sa phỉ mà thôi, đâu có gây khó khăn cho dân lương thiện, vậy không đáng gọi là quấy nhiễu; nhưng lại mượn việc làm của những tên lính hư hỏng để nêu lên ý kiến rằng vượt cảnh có thề gây nghi sợ. Việc này bắt chước đời Minh trở về trước, người Hán quen thói sợ sệt sai lầm, lại nói rằng không muốn gây hấn biên giới; không biết rằng nhân việc này ngoại Di thấy được hư thực, khinh thị triều đình Trung Quốc, mối tệ đời đời tri qua có thể thấy được…..” (THANH THỰC LỤC, Cao Tông Thực Lục quyển 609, trang 16-17)

Nhân Tổng đốc Vân Nam đưa công văn sang nước ta yêu cầu hội quân để đánh bắt; vào ngày mồng một tháng 5 [13/6/1760], triều đình bèn hạ lệnh cho ĐinhVăn Thản giữ chức Trấn thủ Hưng Hóa, hẹn ngày phối hợp với quân Thanh.

Tại miền Nam vào tháng 2 [17/3-15/4/1760], Thế tử Hiệu mất, tặng Thái bảo quận công, cấm hát xướng trong trăm ngày; Thế tử là người hiền hiếu, nhân từ, thông minh, ai cũng tiếc. Con thứ hai [tức là Hưng tổ Hiếu khang hoàng đế, thân phụ Vua Gia Long] 28 tuổi, khôn ngoan, thông tuệ, sáng suốt, quả quyết, Chúa muốn lập làm Thế tử. Sai Nội hữu cai cơ Trương Văn Hạnh làm thầy, Nho học huấn đạo Lê Cao Kỷ làm thị giảng; cho cùng với các quan đại thần dự bàn việc quân, việc nước.

Tháng 2 năm Tân Tỵ, Cảnh Hưng thứ 22 [7/3-4/4/1761], (Thanh, Càn Long thứ 26); dân tộc thiểu số (không rõ tên ) xin phụ thuộc vào nước ta, triều đình hạ lệnh đặt sở Tuy Viễn ở Sơn Nam, lấy đất bãi xã Yên Lệnh [huyện Phú Xuyên, Hà Tây] và Nễ Độ [huyện Lý Nhân, Hà Nam] cấp cho cày cấy, cư trú; giao cho viên quan ở trấn thu nhận và chăm sóc họ.

Tháng 3 [5/4-4/5/1761], Trịnh Doanh nghĩ đến công lao bầy tôi giúp đỡ phò lập lên ngôi Chúa, bèn phong thêm thái ấp cho họ, người nhiều người ít khác nhau. Số được phong gồm 10 người: Trịnh Đạc, Vũ Tất Thận, Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Đình Hoàn, Giáp Nguyễn Khoa, Vũ Đình Trác, Trương Khuông, Trịnh Trụ, Đinh Văn Giai và Nguyễn Công Thái. Trong đó có Đạc và Trụ là thân thuộc họ Trịnh; Giáp Nguyễn Khoa, Vũ Đình Trác đều là Hoạn quan.

Năm trước [13/6/1760] triều đình hạ lệnh cho Trấn thủ Đinh Văn Thản phối hợp với nhà Thanh đem quân đánh bắt tên Thành, mà phía nhà Thanh gọi là quận Tầm. Nhưng Thản nuông giặc không đánh, lại giam hãm quân sĩ ở nơi nước độc, nhiều người nhiễm chướng khí, sốt rét rồi chết; Thản bị triều đình vặn hỏi quở trách nhiều lần, vì thế y lo sợ mà chết. Nhắm trừng phạt, triều đình hạ chiếu truy lột hết quan tước và đánh vào áo quan. Vào tháng 5 [3/6-1/7/1761] hạ lệnh cho Đốc chiến Lê Đình Châu và Tham mưu Nguyễn Quốc Khê hội đồng với Đốc đồng Tuyên Quang Phan Cảnh, đi đánh phá. Nhân lúc ấy nước to, tên Thành xông ra vòng vây để chạy, bị bắt đưa về kinh sư chém chết. Riêng Hoàng Công Chất tại Thanh Hóa, từng liên kết với tên Thành cũng bị truy đuổi, phải chạy đến động Mãnh Thiên [tỉnh Điện Biên]; từ đấy trấn Hưng Hóa được bình định.

Phía nhà Thanh, viên Tổng đốc Vân Quí cho biết đã điều binh phối hợp với Đinh Văn Thản, nhưng cũng chưa lập được thành tích rõ ràng:

Ngày 29 tháng 2 năm Càn Long thứ 26 [4/4/1761]. Tổng đốc Vân Nam và Quí Châu Viên Tất Ðạt tâu:

Sa phỉ An Nam quận Tầm, tức Cổn Tầm xâm nhập nội địa quấy nhiễu, trước đây đã báo cho Quốc vương An Nam cấp tốc sai Trấn mục Hưng Hóa Ðinh Văn Thản điều binh vây bắt, một mặt truyền hịch cho phủ Khai Hóa, cùng quân lính tiếp giáp đất Giao tại 2 phủ Lâm An và Quảng Nam đến biên giới Bá Sái tuần tra chống cự; cùng giao cho Ủy viên chuẩn bị trâu, dê để khao thưởng. Ðiều tra biết quận Tầm tụ tập dân chúng miền thượng du, liên kết đảng giặc, xây thành chắc dày, tại các con đường đều lập pháo đài, lại xây thủy thành, xung quanh đào hào sâu. Bị Ðinh Văn Thản dùng xe chứa lửa, thiêu hủy thủy thành. Hiện đang tập hợp các lộ tiên phong đánh phá các đồn, rồi lập tức tiến chiếm thành.

Báo đã nghe.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 631, trang 29)

Đến tháng 9, nhà Thanh nhận được lời báo từ An Nam cho biết đã bắt được quận Tầm, tức tên Thành. Viên Tổng đốc Vân Quí yêu cầu áp giải đến Trung Quốc, nhưng sử nước ta ghi rằng “đưa về kinh sư chém chết”, như vậy việc xin áp giải đã không thực hiện:

Ngày 30 tháng 9 năm Càn Long thứ 26 [27/10/1761]. Tổng đốc Vân Quí Ngô Ðạt Thiện, Tuần phủ Vân Nam Lưu Tảo tâu:

Sa phỉ An Nam bọn quận Tầm trốn vào nội địa, đốt phá thôn trại, mấy lần bị viên Quốc vương mang quân hợp lực đánh. Nay theo lời báo đầy đủ của viên Quốc vương, vào ngày 5 tháng 9 đã bắt được quận Tầm tại vùng Thanh Ba [Phú Thọ]; lập tức thông sức áp giải đến nội địa để thẩm vấn và liệu biện.

Nhận chiếu chỉ ghi:

Ðược.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 645, trang 25)

Vào tháng 2, sứ bộ Đại Việt gồm Chánh sứ Trần Huy Mật, Phó sứ Lê Quí Ðôn, Trịnh Xuân Chú đến triều Thanh cáo ai, xin phong và dâng cống. Trước đó Vua Lê Ý Tông lên làm Vua từ năm 1735 đến năm 1740; rồi nhường ngôi cho Vua Lê Hiển Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Việc nhường ngôi không báo cho nhà Thanh biết, năm Kỷ Mão [1759] Vua Ý Tông mất, bèn cử sứ bộ sang tâu báo; nên nhà Thanh sai Sứ thần sang điếu tế và phong tước:

Ngày 15 tháng 2 năm Càn Long thứ 26 [ 21/3/1761]. Quốc vương An Nam Lê Duy Vĩ (5) [Ý Tông] mất, người nối dõi là Lê Duy Diêu [Hiển Tông] sai bọn Bồi thần Trần Huy Mật, Lê Quí Ðôn, Trịnh Xuân Chú dâng bản cáo ai, phụ cống sản vật địa phương; gửi xuống bộ để hay biết.

Phong Lê Duy Diêu, cháu cố Quốc vương An Nam Lê Duy Vĩ làm Quốc vương An Nam; bèn sai Hàn lâm viện thị độc Ðức Bảo, Ðại lý tự thiếu khanh Cố Nhữ Tu đến phong, và tế cố An Nam Quốc vương Lê Duy Vĩ.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 630, trang 23)

Tháng 11 [26/11-25/12/1761] Sứ thần nhà Thanh là Hàn lâm thị độc Đức Bảo, và Đại lý thiếu khanh Cố Nhữ Tu, đưa sách văn phong Vua Hiển Tông làm An Nam quốc vương và dụ ban lễ tế Vua Ý Tông. Lúc ấy, nhân trong nước thái bình, Trịnh Doanh muốn phô trương nhân tài nước ta đông đúc, bèn sai bầy tôi văn học như bọn Ngô Thì Sĩ giao thiệp ứng đối. Bọn Thì Sĩ là người học hỏi sâu rộng, nên sứ thần nhà Thanh rất ngợi khen kính trọng.

Tháng 12 [26/12/1761-24/1/1762] Trịnh Giang mất. Giang trước đây giữ ngôi Chúa, khiến đất nước chôn vùi trong loạn lạc, nên phải nhường chính quyền cho Doanh. Đến nay mất, hưởng thọ 51 tuổi, truy tôn là Thuận Vương.

Về phía nhà Thanh, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu rằng biên giới châu Khâm và xứ Móng Cái nước ta chỉ cách nhau một con sông nhỏ, nên bọn cướp thường qua lại quấy nhiễu; xin cho tăng binh phòng thủ:

Ngày 30 tháng giêng năm Càn Long thứ 26 [6/3/1761]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu tâu:

Vùng nhai Ðông Hưng thuộc châu Khâm tỉnh Quảng Ðông tiếp giáp với Móng Cái, An Nam; cách nhau một con sông. Năm ngoái tháng 11, có bọn Di phỉ khoảng một, hai trăm tên đến Móng Cái cướp của đốt nhà. Tuy đã tra rõ không có Hán gian tham gia vào việc này; nhưng con sông này là nhánh chảy ra biển, khoảng cách không lớn, khi nước thủy triều lên phải qua đò, khi thủy triều xuống có thể lội qua được; đây là nơi biên giới quan trọng, việc canh giữ cần nghiêm nhặt.

Tra cứu vào năm Càn Long thứ 5 [1740] , nhân trong nước Di nội loạn, từng điều bát binh từ hiệp Long Môn đến Ðông Hưng phòng giữ, nay cũng xin điều 50 tên binh từ hiệp này đến tăng phòng. Còn đồn trấn Tư Lặc [trấn Giang Bình, Quảng Tây] cũng là cũng là khu vực quan yếu nơi ra vào cửa biển, cũng nên điều bát binh phòng thủ. Chờ khi quan sát tình hình cho phép, lại cho triệt hồi.

Báo để hay biết.” ( CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 620, trang 21-22)

Tại miền Nam vào tháng 2 [7/3-4/4/1761], nước Vạn Tượng đến cống. Vị trí Vạn Tượng ở giữa Ai Lao và Lục Hoàn; thời nhà Nguyễn mới mở nước, Vạn Tượng cùng với dân tộc thiểu số tại Cam Lộ [Quảng Trị] qua lại buôn bán, nên thường sai sứ đến thông hiếu. Nay lại đến cống voi đực, sáp ong, sừng tê, khăn đỏ; khi sứ về Chúa gửi cho tù trưởng gấm, vóc, lụa.


Chú thích:

1.Lục bộ:  bộ trong triều, gồm: bộ Lại, bộ Hình, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Hộ, bộ Công.

  1. Ba Lý Khôn: tên hồ, tại phía tây bắc huyện Trấn Tây, thuộc tỉnh Tân Cương.

3.Lăng Phù Lê: Ở xã Phù Lê, huyện Thụy Nguyên, Thanh Hóa.

4.Đông người nhiều việc: do nguyên văn chữ “phiền”. Thời xưa chia các địa phương hành chánh thành 4 loại: xung, phiền, bì, nan. Xung là đất kinh kỳ đô hội, phiền là nơi đất rộng người nhiều, bì là nơi cằn cỗi, nan là chỗ nhiều dân du thủ du thực khó cai trị.

  1. Lê Duy Vĩ tức vua Lê Ý Tông; Cương Mục chép là Lê Ý Tông làm Vua từ năm 1735-1740, rồi nhường ngôi cho Lê Duy Diêu tức Vua Lê Hiển Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Việc nhường ngôi không báo cho nhà Thanh biết, năm Kỷ Mão [1759] mất, năm Tân Tị [1761] báo tang cho nhà Thanh.

Bình luận về bài viết này