Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử (Bài 9)

NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Joseph Cummins

 Trần Quang Nghĩa dịch

16 CÁC CUỘC CHIẾN TRANH CỦA NAPOLEON 1803-1815

SAU MỘT KHOẢNG THỜI GIAN ĐÌNH CHIẾN, CHÂU ÂU LẠI LÚN SÂU VÀO CHIẾN TRANH, KHI LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG PHÁP GIỜ BỊ THAM VỌNG CHINH PHỤC CỦA NAPOLEON BONAPARTE NUỐT CHỬNG

TỔNG QUAN: NAPOLEON TIẾP TỤC XÂM CHIẾM CHÂU ÂU ĐỂ GIẢI THOÁT CƠN KHÁT CHINH PHỤC VÔ ĐỘ CỦA MÌNH

Sau khi Napoleon Bonaparte được bổ nhiệm làm Tổng tài Thứ Nhất, rồi hoàng đế vào năm 1804, sự kiện từng là Chiến tranh Cách mạng Pháp đã thoái hóa thành một trận thư hùng giữa khát vọng chinh phục châu Âu của riêng mình với nỗ lực ngăn chặn ông của châu Âu.

Sau Hiệp ước Amiens (1802), người Pháp tiếp tục chiếm giữ lãnh thổ bao gồm một số vùng của Piedmont, Ý; Thụy Sĩ; và Hà Lan, khiến người Anh tức giận, họ từ chối trao trả Malta theo yêu cầu của hiệp ước và thay vào đó tuyên chiến vào năm 1803. Kế hoạch xâm lược nước Anh của Napoleon đã thất bại vì sức mạnh của Hải quân Hoàng gia Anh. Hạm đội của Pháp chủ yếu bị Đô đốc Horatio Nelson tiêu diệt trong Trận Trafalgar, ngoài khơi Tây Ban Nha, vào năm 1805. Nhưng làm chủ châu Âu lại thuộc về Đại Quân tuyệt vời của Napoleon. Napoleon đã thực hiện một loạt các chiến thắng đáng kinh ngạc, đánh bại quân đội Áo tại Ulm, Austerlitz và Jena sau khi Liên minh đầu tiên  trong số năm Liên minh được thành lập trong chiến tranh với Napoleon.

Khi hải quân Anh phong tỏa nước Pháp và chiếm giữ lãnh thổ của Pháp ở Tây Ấn, Napoleon xâm lược Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha; lập họ hàng làm vua bù nhìn ở Tây Ban Nha, Ý và Hà Lan; và đánh bại quân đội Liên minh này đến quân đội Liên minh khác. Năm 1808, ông đưa quân đội Pháp đến Tây Ban Nha và buộc quân đội Anh phải sơ tán mà thậm chí không cần phải chiến đấu trong một trận chiến lớn. Tuy nhiên, năm sau, ông đã phải chịu thất bại đầu tiên trong cuộc chiến, trước tay người Áo tại Aspern-Essling. Ông đã giành chiến thắng trong trận chiến tiếp theo (tại Wagram, vào tháng 7) nhưng chỉ với cái giá gần như thảm bại là 34.000 thương vong của quân Pháp.

Mặc dù có chế độ nghĩa vụ quân sự hàng loạt – Pháp có dân số 27 triệu người vào thời điểm đó, so với 11 triệu người của Anh, khiến việc tuyển mộ dễ dàng hơn – Đại Quân của Napoleon dần cạn kiệt quân số để bổ sung cho hàng ngũ của mình. Mặc dù Napoleon đã sở hữu toàn bộ Tây Âu vào năm 1810, ông đã dại dột quyết định xâm lược Nga vào năm 1812, với kết quả thảm khốc đầy tai tiếng .

Vào tháng 12 năm đó, Napoleon, đối mặt với tình hình bất ổn trong nước, đã buộc phải từ bỏ quân đội của mình, có lẽ đã chịu 400.000 thương vong trong chiến dịch. Mặc dù ông đã có thể tập hợp một đội quân lớn để chiến đấu vào năm sau, nhưng hào quang bất khả chiến bại của ông đã bị phá vỡ và lực lượng Liên minh mới đầy tự tin đã tiến vào để tiêu diệt: Tướng Arthur Wellesley, Công tước Wellington đã giành được những chiến thắng vang dội ở Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha và tiến vào Pháp, trong khi Napoleon thua trận chiến lớn nhất của cuộc chiến tại Leipzig vào tháng 10 năm 1813.

Napoleon bại trận đã thoái vị vào tháng 4 năm 1814 và bị lưu đày trên đảo Elba, Ý, nhưng, phẫn nộ vì bị bắt làm tù binh, ông đã trốn thoát vào đầu năm 1815, nhanh chóng thành lập một đạo quân và tiến về Paris, nơi ông buộc Vua Louis XVIII mới lên ngôi phải chạy trốn. Liên minh thứ bảy và cũng là cuối cùng của các cuộc chiến tranh Napoleon được thành lập, và Công tước Wellington, với một chút viện trợ từ Thống chế Blücher và quân Phổ, đã tiêu diệt kẻ thù của châu Âu một lần và mãi mãi trong Trận Waterloo. Napoleon một lần nữa bị buộc phải lưu vong lần này đến hòn đảo xa xôi ở Nam Đại Tây Dương là St. Helena – nơi ông qua đời vào năm 1822.

Tác động của các cuộc chiến tranh Napoleon lan rộng. Một bầu không khí phản động đã xảy ra, với việc Triều đại Bourbon được đưa trở lại ngai vàng của Pháp, mặc dù, trớ trêu thay, những lời kêu gọi được soạn thảo cẩn thận của Napoleon đối với chủ nghĩa dân tộc của người dân Pháp đã có tác động đến các quốc gia từng là kẻ thù của người Pháp. Các phong trào giành độc lập bắt đầu ở Nga, Đức và những nơi khác, bao gồm Nam Mỹ (sau khi Tây Ban Nha sụp đổ như một đế chế) và Hy Lạp. Những phong trào dân tộc chủ nghĩa này cuối cùng đã thành công và thay đổi cán cân quyền lực ở châu Âu và thế giới vào thế kỷ XX.

CUỘC XÂM LƯỢC ĐÃ PHÁ HỦY ĐẠI QUÂN CỦA NAPOLEON

Cuộc xâm lược nước Nga: 1812

Trong khoảng một năm, bắt đầu từ năm 1810, những người thân cận Hoàng đế Napoleon đã thấy ông biểu lộ một sự mệt mỏi không bình thường. Người đàn ông nhỏ bé đầy kịch tính, mâu thuẫn, không thể đoán trước, luôn giơ nắm đấm, đe dọa và hét lên khi mọi thứ không diễn ra theo ý mình đã được thay thế bằng một người cha mới khá dễ tính và hiện khá thừa cân của một cậu con trai nhỏ sau cuộc hôn nhân của ông với Marie-Louise, Nữ công tước Áo, người phụ nữ ông kết hôn sau khi ly hôn với người vợ đầu tiên, Josephine.  Napoleon rất cưng chiều con trai mình. Khi cậu bé chào đời, ông đã bế cậu bé lên và “trong cơn sốt vui sướng” đã trình diện cậu bé với các cận thần của mình, tuyên bố, “Bây giờ bắt đầu thời kỳ tốt đẹp nhất của triều đại ta.”

Tuy nhiên, đến cuối năm 1811, mọi người bắt đầu thắc mắc. Napoleon đã không quay trở lại Tây Ban Nha để nắm quyền chỉ huy, mặc dù thực tế là cuộc chiến đẫm máu ở đó đã chống lại người Pháp. Phải chăng Napoleon vĩ đại đã chán chiến tranh và – một số người đã dám hy vọng – sẵn sàng muốn thấy hòa bình ở châu Âu?

Đây thực sự là những hy vọng tốt đẹp. Napoleon, luôn buồn bã, chỉ đơn giản là mệt mỏi vì cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kéo dài và đang chờ đợi một thế giới mới để chinh phục. Và ông đã tìm thấy một thế giới mới. Vào năm 1812, Napoleon đã rũ bỏ sự buồn chán và trở nên tràn đầy năng lượng như bất kỳ ai từng thấy – đi kiểm tra các công sự của Pháp, ra lệnh thành lập các quân đoàn mới và yêu cầu xây dựng các kho đạn dược lớn ở Ba Lan và Đức. Đối với những ai biết rõ Napoleon, giai đoạn hưng cảm này có nghĩa là ông sẽ phát động chiến tranh, một cuộc chiến chỉ có thể là với Nga.

Ngươi mong đợi có thể ngăn cản ta bằng cách nào?”

Nước Nga dưới thời Sa hoàng Alexander I là đồng minh miễn cưỡng của Napoleon kể từ khi hai nước ký kết hòa bình năm năm trước tại Tilsit vào năm 1807 sau chiến thắng của Napoleon trước một đội quân lớn của Nga tại Trận Friedland vào tháng 6 năm đó. Nhưng tình hữu nghị với Napoleon gần như là điều không thể đối với Alexander. Hệ thống Lục địa [lệnh cấm vận quy mô lớn đối với nước Anh] của Napoleon, vốn từ chối cho phép trao đổi hàng hóa với Vương quốc Anh, đã gây tổn hại nghiêm trọng đến thương mại của Nga. Trong khi đó, cuộc xâm lược của Pháp ở Ba Lan, miền đông nước Đức và vùng Balkan đã đe dọa đến an ninh của Nga.

Năm 1811, Sa hoàng Alexander từ chối tuân thủ Hệ thống Lục địa và bắt đầu đưa ra lời đề nghị hòa bình với các nước láng giềng khác, chẳng hạn như Thụy Điển và Đế chế Ottoman. Khi Napoleon nhận ra điều này, ông biết rằng chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra. Và, theo thông lệ, ông quyết định tấn công trước. Giai đoạn điên cuồng mà nhiều cố vấn của ông chứng kiến ​​vào năm 1812 là một Napoleon trong trạng thái gần như phấn khích tột độ khi chuẩn bị cho cuộc xâm lược lớn nhất mà thế giới từng biết đến kể từ khi các đoàn quân Mông Cổ di chuyển theo hướng ngược lại vào thế kỷ thứ 14. Napoleon đã tập hợp 190.000 con ngựa, xe ngựa có thể chở 7.000 tấn hàng tiếp tế mỗi ngày và một lực lượng khổng lồ gồm 614.000 người, so với có lẽ là 220.000 lính Nga. Ông nói với cấp dưới của mình, “Mục tiêu của tất cả các động thái của ta là tập trung một quân đoàn gồm 400.000 người tại một điểm duy nhất”, phá vỡ các tuyến phòng thủ của Nga, chiếm Moscow và buộc Alexander ở Saint Petersburg phải cầu hòa.

Vào ngày 24 tháng 6 năm 1812, Napoleon, chỉ huy một đạo quân gồm 225.000 lính Pháp, đã vượt sông Nieman và tiến vào Ba Lan thuộc Nga. Khi Alexander I nghe tin này, ông đã viết một công văn cho Napoleon bắt đầu như sau: “Người anh em của ta, hôm qua ta được biết rằng, mặc dù ta đã thể hiện lòng trung thành trong việc duy trì các cam kết của mình với ngài, quân đội của ngài đã vượt qua biên giới Nga.”

CÁC CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH Ở CHÂU ÂU TRONG GIAI ĐOẠN 1788-1815 ĐƯỢC MÔ TẢ TRONG BẢN ĐỒ NÀY. PHẦN ĐƯỢC GHÉP BÊN PHẢI, NƠI QUÂN ĐỘI NGA, THỜI TIẾT NGA KHÔNG THỂ DỰ ĐOÁN,  ĐÓI KHÁT VÀ KIỆT QUỆ SẼ HỦY DIỆT ĐẠI QUÂN  CỦA ÔNG

Alexander tiếp tục khẩn khoản Napoleon xem xét lại cuộc xâm lược của mình. Napoleon trả lời: “Ta đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, và lực lượng của ta lớn gấp ba lần lực lượng của ngươi… Ngươi mong đợi có thể ngăn cản ta bằng cách nào?”

 

Ngựa Chết

Câu trả lời cho câu hỏi đó gần như ngay lập tức trở nên rõ ràng khi Napoleon tiến vào vùng đồng bằng rộng lớn của Nga. Quân đội Nga không ra sức ngăn cản ông, mà thực tế là đã rút lui trước ông như đã làm với người Thụy Điển trong Đại chiến Bắc Âu, như đã làm 140 năm sau với người Đức trong Thế chiến II. Mặc dù Napoleon đáng lẽ phải lường trước được điều này, nhưng ông đã không làm vậy, và ông thấy mình bị cướp mất trận chiến nhanh chóng và chiến thắng mà ông mong muốn.

Càng tiến sâu vào nước Nga, người Nga càng rút lui tránh xa các mũi nhọn của các nhóm quân hùng mạnh của ông, và dần dần sự mệt mỏi và đói khát bắt đầu hành hạ quân lính Napoleon. Tuyến tiếp tế của họ trải dài hàng trăm dặm và dễ dàng bị kỵ binh Cossack đột kích. Đại quân cũng bắt đầu gánh chịu những thiệt hại gây ra bởi thời tiết khó lường của Nga. Những trận mưa như trút nước, tạo nên lớp bùn ngập đến đùi, tiếp theo là những ngày nắng nóng thiêu đốt tạo thành những ổ gà sâu trên những con đường thô sơ đang được sử dụng.

Ngựa là loài đầu tiên bị tiêu diệt, ruột của chúng thực sự vỡ ra vì ăn ngô xanh hoặc rơm rạ kéo từ mái nhà của nông dân. Đối với nhiều binh lính trong Đại  Quân, ký ức về thời kỳ đó là mùi hôi thối của hàng chục nghìn con ngựa chết và những đám bụi bốc lên từ những đồng bằng bất tận. Chẳng mấy chốc, chính những binh sĩ bắt đầu chết, vì bệnh kiết lỵ, sốt phát ban, đói khát hoặc đơn giản là kiệt sức. Khi, vào ngày 28 tháng 7, Napoleon cuối cùng đã vượt qua Sông Vilna và tiến vào thành phố Vitebsk, với hy vọng bắt kịp được đoàn quân của Tướng Nga Mikhail Barclay de Tolly, nhưng một lần nữa Barclay lại rút lui cùng với lực lượng của mình. Napoleon nổi giận với các cố vấn: “Alexander có thể thấy rõ các vị tướng của mình bất tài như thế nào, và kết quả là ông ta đang mất đất nước.”

Nhưng trên thực tế, các tướng lĩnh của Alexander đang giành chiến thắng cho ông trong cuộc chiến. Napoleon bắt đầu gửi những lời đề nghị hòa bình đến Sa hoàng – được viết bằng một giọng điệu khác xa với thông điệp ngạo mạn của ông vào đầu chiến dịch nhưng Alexander chỉ đơn giản là không trả lời. Trong khi đó, cuộc rút lui của Nga tiếp tục trong suốt tháng tám, và bây giờ tháng chín đến.

 

Trận chiến ở Borodino

Vào ngày 7 tháng 9, Napoleon cuối cùng đã bắt kịp quân đội của Tướng Mikhail Kutuzov, người đã thay thế Barclay, gần thị trấn nhỏ Borodino, cách Moscow khoảng 75 dặm về phía tây nam. Kutuzov có khoảng 106.000 người cố thủ ở các vị trí vững chắc giữa những ngọn đồi và vách đá dựng đứng của khu vực, và chỉ huy của Napoleon, Thống chế Louis-Nicolas Davout, đề xuất một hoạt động đánh thọc sườn bên trái của họ. Sau khi vượt qua được những khẩu súng đáng gờm của Nga, ông nói với Napoleon rằng mình có thể xoay người và tấn công vào sườn của kẻ thù. Nhưng Napoleon – như báo trước những gì sẽ xảy ra ba năm sau tại Waterloo – ra lệnh tấn công trực diện. Đây là động thái của một chỉ huy kiệt sức (và có thể đang bệnh), bởi vì mặc dù quân Pháp vẫn đông hơn quân Nga, nhưng họ đã mất hàng nghìn người kể từ khi xâm lược và cách quê nhà hàng trăm dặm.

Mặc dù vậy, theo lệnh của Hoàng đế, cuộc tấn công bắt đầu, với việc Napoleon điều 100.000 quân của mình xông thẳng vào các tuyến do Thống chế Peter Bagration, một trong những chỉ huy tài giỏi nhất của Nga, trấn giữ. “Phòng tuyến khổng lồ của Nga đã phun ra một địa ngục thực sự vào trung tâm của chúng tôi”, một người Pháp chứng kiến ​​đã viết. Nhiều người lính trung thành của Napoleon chỉ đơn giản là biến mất, bị thổi bay thành từng mảnh. Nhưng sau nhiều giờ chiến đấu, bao gồm cả một cuộc pháo kích dữ dội của 300 đại pháo, quân Nga, với tổn thất nặng nề, bao gồm cả mạng sống của Tướng Peter Bagration, đã buộc phải rút lui. Tuy nhiên, Napoleon đã từ chối cho phép lực lượng dự bị Cận vệ Cũ của mình tiếp tục truy kích, và quân đội Nga đã sống sót để chiến đấu vào một ngày khác.

Đó là chiến thắng của Pháp, nhưng là chiến thắng thảm hại, với tổn thất của Napoleon lên tới con số đáng kinh ngạc là 40.000 người chết và bị thương. Người Nga mất 50.000 người, nhưng, vì gần nhà, họ có thể bù đắp những tổn thất này. Bây giờ, ngay cả sự tự tin của Hoàng đế dường như cũng bị lung lay. “Bọn Nga này để mình bị giết như thể họ không phải là người, mà chỉ là những cỗ máy”, ông nói với một cố vấn, không thể hiểu được lòng yêu nước của những kẻ đối địch với mình.

Sự im lặng ma quái của Moscow

Tuy nhiên, con đường đến Moscow hiện đã mở ra, nơi Napoleon tiến vào với tư cách là người thống lĩnh quân đội vào ngày 15 tháng 9. Ông đã mong đợi một cuộc diễu hành chiến thắng qua đám thị dân khúm núm  và bị giam cầm; thay vào đó, như một nhà sử học đã viết, “không có sự sống nào được nhìn thấy ở bất cứ đâu, không một khuôn mặt nào qua khung cửa sổ, không một đứa trẻ nào trong vườn, không một con ngựa, hay cỗ xe ngựa nào trên phố.” Người Nga đã hoàn toàn di tản khỏi Moscow, để lại thành phố xinh đẹp, với 1.200 tháp chuông, tháp canh, đồng hồ và mái vòm “có vẻ ngoài giống châu Á hơn là châu Âu”, một sĩ quan Pháp đã viết – hoàn toàn vắng tanh. Bối rối, Napoleon đi đến Điện Kremlin, nơi mà tất cả những gì có thể nghe thấy chỉ là tiếng chuông đồng hồ. Đêm đó, khi quân đội đào hào quanh Moscow, những đám cháy bắt đầu, đầu tiên là ở khu phố người Hoa, nhưng sau đó lan nhanh khắp thành phố.

Người ta sớm nhận ra rằng người Nga đã để lại một đội đốt phá ẩn núp, nhiệm vụ của họ là đốt cháy Moscow. Napoleon, buộc phải chạy trốn khỏi thành phố trong ba ngày trong khi ngọn lửa hoành hành, đơn giản là không thể tin rằng người Nga sẽ phá hủy thủ đô xinh đẹp của chính họ không nộp nó cho người Pháp. Ông đã viết một bức thư cho Sa hoàng Alexander ở Saint Petersburg cho thấy Hoàng đế đã trở nên xa rời với thực tế như thế nào. “Ta đã tiến hành chiến tranh với Bệ hạ mà không có sự thù địch cá nhân”, Napoleon viết. “Thành phố Moscow xinh đẹp, tươi tắn không còn tồn tại nữa vì các chỉ huy của ngài đã đốt cháy nó. Một lá thư đầu hàng từ ngài trước hoặc sau trận chiến Borodino có thể đã ngăn chặn cuộc hành quân của ta”.

Alexander không trả lời. Thay vào đó, khi mùa thu nước Nga bắt đầu khởi sự, ông ra lệnh cho các chỉ huy của mình tiến gần và bao vây quân Pháp trong thành phố Moscow đang bị đốt cháy.

Tháng ba chết chóc

Các chỉ huy của Napoleon mong đợi ông sẽ di tản khỏi Moscow. Đó là động thái duy nhất còn lại cho ông nếu ông muốn cứu quân đội của mình, nhưng ông đã từ chối, thay vào đó tuyên bố rằng “Khó có nơi nào phù hợp hơn nơi ta đang ở hiện giờ, tại Moscow, cho qua mùa đông”.

Có lẽ Napoleon đã bị đánh lừa bởi thời tiết mùa thu ấm áp bất thường vì tháng mười đã đến và nhiệt độ thực tế là ấm áp. Nhưng tin đồn bắt đầu lan truyền trong hàng ngũ Pháp, không phải lần đầu tiên, rằng Hoàng đế đã mất trí. Ông dành phần lớn thời gian ẩn náu trong các bức tường của Điện Kremlin, ăn một mình, giữ kín những ý định của riêng mình. Khi Napoleon nhìn thấy các sĩ quan tham mưu, ông dường như bị ám ảnh bởi Sa hoàng. “Alexander sẽ không bao giờ có cơ hội nào tốt cho một nền hòa bình thuận lợi hơn là ở đây!” ông hét lên một đêm, và những người nghe thấy ông nghĩ rằng ông thực sự đã mất trí.

CẢNH TRONG CUỘC RÚT LUI KHỎI NGA, 1835, QUÂN NAPOLEON TRỞ THÀNH NẠN NHÂN CỦA MÙA ĐÔNG KHỦNG KHIẾP Ở NGA.

Tranh của Boissard de Beisdenier, Joseph Fernand

 

Nhưng Napoleon là một người sống sót vĩ đại, và ông có bản năng của một người sống sót. Ngay cả khi tất cả đang phản đối ông, ông vẫn bí mật lên kế hoạch sơ tán khỏi thủ đô Nga, mặc dù một phần là để đối phó với tin tức đến từ Paris rằng quân đội Anh của Wellington đang tiến vào Tây Ban Nha. Vào buổi trưa ngày 19 tháng 10, Napoleon cưỡi ngựa ra khỏi cổng thành Moscow, hướng về phía tây nam, dẫn đầu một đoàn quân dài mang theo chiến lợi phẩm từ thành phố, bao gồm các bức tượng, tranh và thảm Ba Tư. Ông đã tấn công Nga bằng 612.000 quân, trong đó có 450.000 lính chiến đấu tích cực. Bây giờ ông rời đi với 102.000 người. Trong số 1.300 khẩu pháo ban đầu, giờ ông còn lại 533 khẩu. Ông để lại khoảng 15.000 người bị thương, cũng như một đội bảo vệ phía sau gồm 7.000 người được lệnh cho nổ tung Điện Kremlin, một nhiệm vụ chỉ được thực hiện một cách chiếu lệ trước khi đội quân này cũng vội vã rút lui, để lại cung điện lớn còn nguyên vẹn.

Cuộc rút lui trở về Pháp đã trở thành huyền thoại. Đợt sương giá nghiêm trọng đầu tiên xảy ra vào cuối tháng 10 và trận tuyết đầu tiên rơi vào ngày 4 tháng 11. Đến tháng 12, nhiệt độ đã giảm xuống -29°F (-34°C). Bị quân Nga buộc phải sử dụng cùng một tuyến đường mà họ đã đi vào Moscow, Đại Quân không thấy gì ngoài đất cháy xém và xác chết trên đường đi của họ. Kỵ binh Cossack của Nga đã truy đuổi họ bằng các cuộc đột kích kiểu du kích, tìm cách cô lập và tàn sát các đơn vị lạc lõng phía sau. Những binh lính bị đóng băng và chết đứng. Những bầy sói săn mồi tấn công binh sĩ, và một số người quá yếu để tự vệ, đã bị xé xác thành từng mảnh. Một người lính nhớ lại tình trạng binh sĩ nhiều năm sau đó: “Nhiều người trong số họ đi bộ, dựa vào gậy, râu và tóc của họ như một khối băng… Một số ngã xuống cầu xin sự giúp đỡ nhưng, tôi sợ rằng, đã không được lắng nghe.”

TRONG CUỘC RÚT LUI KHỎI MOSCOW, MỘT NHÓM NGƯỜI DƯỚI SỰ CHỈ HUY CỦA THỐNG CHẾ MICHEL NEY BỖNG BỊ TÁCH KHỎI HÀNG NGŨ CHÍNH VÀ LÀM MỒI CHO CUỘC TẤN CÔNG. HỌ NẰM TRONG SỐ ÍT NGƯỜI SỐNG SÓT SAU CUỘC TẬP KÍCH CỦA QUÂN NGA.

Napoleon, sau khi nghe tin về một cuộc đảo chính bất thành ở Paris của Tướng Claude-Francois de Malet, đã bỏ lại quân lính của mình tại làng Smorgoni, ở Lithuania. Với một đội cận vệ gồm 200 người, ông đã lao đến Paris trên xe trượt tuyết và xe ngựa, cuối cùng đã đến nơi vào một đêm muộn trong tháng 12, “đi qua với tốc độ phi nước đại bên dưới Khải Hoàn Môn đang xây dựng một nửa”, để đến cung điện của mình vào khoảng nửa đêm, khiến một người lính gác buồn ngủ phải kinh ngạc khi trả lời tiếng gõ cửa đầy uy quyền của Hoàng đế trong khi vẫn mặc áo ngủ.

Mặc dù quân đội vẫn tiếp tục loạng choạng và chết trong vùng đất hoang lạnh giá ở phía đông, chiến dịch chinh phục nước Nga đã kết thúc. Trong số 612.000 binh lính Pháp và đồng minh của họ, 400.000 người đã chết và 100.000 người đã bị bắt làm tù binh. Ngay cả khi Napoleon lên kế hoạch trỗi dậy một lần nữa để tiêu diệt quân đội Liên minh và nước Nga và ông đã tập hợp một đội quân gồm 300.000 người vào năm sau, một bước ngoặt quyết định đã đạt được trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Napoleon sẽ không bao giờ được coi là bất khả chiến bại nữa. Từ thời điểm này trở đi, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi lực lượng Liên minh, tràn đầy hy vọng mới, sẽ tiêu diệt Hoàng đế Pháp, một lần và mãi mãi.

ARTHUR WELLESLEY, CÔNG TƯỚC WELLINGTON, NGƯỜI CHIẾN BINH VĨ ĐẠI ĐÃ ĐÁNH BẠI NAPOLEON

Arthur Wesley – gia đình chỉ sau này mới đổi thành Wellesley, một cái tên quý tộc hơn và cũng tránh nhầm lẫn với John Wesley, một nhà thuyết giáo nóng tính cùng tên – sinh ra trong một gia đình quý tộc Anh-Ireland ở Quận Meath, Ireland, vào năm 1769. Cha mẹ ông, theo lời một anh em của ông sau này nói, là “những con người phù phiếm và vô tâm” không mấy quan tâm đến Arthur khi còn trẻ, chỉ gửi ông đến những trường công lập tốt rồi bỏ mặc ông. Nhưng câu chuyện nổi tiếng là khi Wellesley tròn 18 tuổi, mẹ ông tình cờ nhìn thấy ông, vào một đêm ở London, đang đứng bên kia đường cạnh một nhà hát đông đúc: “Tôi tin đó là cậu con trai xấu xí của tôi, Arthur”, bà thốt lên. “Tôi có thể làm gì với nó?”

Câu trả lời là bà chạy cho ông một nhiệm vụ trong quân đội Anh. Sau khi Wellesley phục vụ ngắn ngủi ở Ireland, ông đã đến Ấn Độ vào năm 1796. Khi đến đất nước đó, Wellesley – vốn thực sự là một “cậu bé xấu xí”, cao và vụng về, với chiếc mũi khoằm đến nỗi sau này quân lính của ông gọi ông là “Beaky” – đã nổi bật trong các trận chiến chống lại các thế lực địa phương của người Ấn ở tỉnh Mysore và trở về nhà, vào năm 1803, với tư cách là một thiếu tướng và tước hiệu hiệp sĩ đồng hành của Hội Bath.

Năm 1809, Wellesley được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh các lực lượng Anh chiến đấu trong Chiến tranh Bán đảo và lần đầu tiên chiến đấu chống lại quân đội  Napoleon (mặc dù lúc ấy không có mặt Napoleon, người đã rời Tây Ban Nha để chiến đấu với quân Áo). Ở đó, thiên tài chỉ huy của ông đã được bộc lộ rõ. Ông chủ yếu là một chuyên gia phòng thủ, một lý do khiến Napoleon khinh thường ông, ông không thích gì hơn là tìm một vị trí phòng thủ tốt, neo chặt hai bên sườn của mình vào một con sông hoặc một số điểm cao trên đất liền, đặt quân đội của mình trên sườn đồi hoặc sườn núi phía sau, và đợi kẻ thù đến giao chiến, nếu chúng có thể.

ARTHUR WELLESLEY, CÔNG TƯỚC WELLINGTON, CÓ CUỘC ĐỜI GẦN NHƯ SONG SONG VỚI NAPOLEON BONAPARTE. CẢ HAI ĐỀU CHỨNG MINH THIÊN TÀI CỦA MÌNH NGAY TỪ ĐẦU: HỌ CÓ CÁI TÔI XỨNG TẦM VỚI NHAU. ĐIỀU ĐÓ KHIẾN HỌ TRỞ THÀNH ĐỐI THỦ HOÀN HẢO.

Những chiến thuật này cũng như việc sử dụng khôn ngoan các cuộc tấn công táo bạo đã giành chiến thắng tại Wellesley, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha và cho phép ông xâm lược Pháp, qua đó góp phần chấm dứt triều đại của Napoleon vào năm 1814. Khi Napoleon trốn thoát khỏi Elba vào năm sau, chính Công tước Wellington lúc bấy giờ là người chỉ huy quân đội Liên minh đối đầu với ông ở Bỉ, tại Waterloo. Đây là chuyên gia phòng thủ đối đầu với thiên tài tấn công. Đây là hai chỉ huy khinh thường nhau – Wellington sau này sẽ nói rằng “toàn bộ cuộc đời của Bonaparte, dân sự, chính trị, quân sự, đều là một trò lừa đảo” – chỉ huy trong một trận chiến quyết định số phận của châu Âu.

Mặc dù Wellington gọi Waterloo là “trận chiến ngang tài ngang sức”, Napoleon mệt mỏi mà ông phải đối mặt không phải là Napoleon của ngày xưa, và các chiến lược phòng thủ của Wellington đã chiến thắng. Trong khi Napoleon chết sớm, Wellington đã trở thành thủ tướng Anh, một trong những nhân vật định hình châu Âu sau chiến tranh.

Cũng kiêu ngạo như Napoleon, theo cách riêng của mình, ông đã từng nói, “Tôi bắt đầu cảm thấy rằng Chúa quan phòng đang ở trên tôi”, ông không bao giờ cho phép cái tôi của mình can thiệp vào lẽ thường, và do đó cuối cùng đã chiến thắng Napoleon thông minh, nhiệt huyết nhưng cuối cùng lại quá nóng nảy.

CHIẾN TRANH BÁN ĐẢO: CUỘC CHIẾN DU KÍCH  BẨN THỈU MÀ PHÁP KHÔNG THỂ NGĂN CHẶN

Bức tranh nổi tiếng (hình trên) Cuộc Hành Quyết những Người Bảo Vệ Madrid) của Francisco de Goya, ngày 3 tháng 5 năm 1808, đã lột tả toàn bộ nỗi kinh hoàng, máu me và khốc liệt của Chiến tranh Bán đảo: Bao quanh bởi xác chết, đối mặt với đội hành quyết Pháp, người đàn ông Tây Ban Nha ở trung tâm bức tranh, mặc chiếc áo sơ mi trắng của người tử vì đạo, dang rộng hai tay như thể muốn hỏi Tại sao? trước khi những viên đạn xuyên vào cơ thể anh ta.

Trong khoảng thời gian chỉ hơn một thập kỷ, người Pháp, những người tự xưng là cách mạng đã giải phóng ách thống trị bạo ngược, giờ đây lại trở thành một lực lượng đàn áp. Và không nơi nào cảm thấy sự đàn áp nhiều hơn là ở Bán đảo Iberia, trong cái được gọi là Chiến tranh Bán đảo.

Chiến tranh Bán đảo bắt đầu vào năm 1807 khi Napoleon quyết định tấn công Bồ Đào Nha vì từ chối tham gia Hệ thống Lục địa của mình, di chuyển hàng ngàn quân vào Tây Ban Nha với cái cớ ủng hộ cuộc xâm lược này. Sau đó, Napoleon đã lừa nhà vua Tây Ban Nha “khá ngu ngốc” Charles IV thoái vị và đưa chính em trai mình là Joseph lên ngôi. Nhân dân Tây Ban Nha nổi dậy ở Madrid vào ngày 2 tháng 5 năm 1808, cuộc nổi dậy bị chỉ huy trưởng của Napoleon, Thống chế Joachim Murat, đàn áp một cách tàn bạo. Hàng trăm người Tây Ban Nha đã bị bắt giữ và hành quyết tại nhiều địa điểm khác nhau quanh thành phố, một vụ thảm sát được tưởng niệm trong các bức tranh nổi tiếng của de Goya, bao gồm Cuộc bạo loạn chống lại lính đánh thuê Mameluke, Ngày 2 tháng 5 năm 1808.

Những cuộc trả thù đẫm máu như vậy đã tạo ra cơn phẫn nộ của dân chúng đối với người Pháp, và một cuộc nổi dậy ở cả Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã diễn ra sau đó, được Anh hậu thuẫn, Anh sau đó đã đổ bộ một lực lượng viễn chinh vào tháng 8 năm 1808 do Trung tướng Sir Arthur Wellesley chỉ huy, tại thời điểm đó, một trận chiến giằng vì Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bắt đầu. Wellesley đã đẩy lui quân đội Pháp dưới quyền Tướng Jean Junot của Napoleon ra khỏi Bồ Đào Nha. Wellesley đã rời đi, nhưng sau đó chính Napoleon đã trở lại Bán đảo với tư cách là người đứng đầu 200.000 quân Pháp kỳ cựu và đẩy quân đội Anh ra khỏi Bồ Đào Nha vào đầu năm 1809, gần như đã phá hủy nó.

Wellesley trở lại vào mùa hè năm đó (sau khi Napoleon rời đi để chiến đấu ở nơi khác tại châu Âu) và bắt đầu một chiến dịch kéo dài, khó khăn, gian khổ để đánh đuổi người Pháp khỏi Bán đảo Iberia. Chiến dịch này diễn ra rất ác liệt, với hàng trăm ngàn người chết và số thương vong dân sự cao. Từ “du kích” được đặt ra để chỉ hành động của những chiến binh không chính quy Tây Ban Nha chống lại người Pháp, vì người Tây Ban Nha gọi Chiến tranh Bán đảo là Guerra de Guerrillas, hay “cuộc chiến của những trận đánh nhỏ”.

Những du kích Tây Ban Nha, yêu quý  đất nước mình, phẫn nộ trước những hành động tàn bạo chống lại dân thường (bao gồm cả các nữ tu, tu sĩ và linh mục) đã tấn công dữ dội vào binh lính Pháp trong các cuộc tấn công chớp nhoáng. Khi Wellesley cuối cùng đã thành công trong việc đẩy quân Pháp ra khỏi Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, điều đó phần lớn là do công lớn của những du kích Tây Ban Nha đã gieo rắc nỗi kinh hoàng trong hàng ngũ quân đội Pháp ở đó. Trớ trêu thay, chính tấm gương về các chiến binh du kích Tây Ban Nha ở Bán đảo sau này sẽ khuyến khích các chiến binh du kích khác nổi dậy chống lại chính sự cai trị của Tây Ban Nha ở Nam Mỹ.

ĐƯỢC PHÁT TRIỂN BỞI SIR WILLIAM CONGREVE, TÊN LỬA CONGREVE LÀ SỰ KHỞI ĐẦU CỦA KỸ THUẬT TÊN LỬA TRONG CHIẾN TRANH CHÂU ÂU,

 

TÊN LỬA CONGREVE: KHÔNG CHÍNH XÁC NHƯNG LÀ VŨ KHÍ KHỦNG BỐ MẠNH MẼ

Những cuộc pháo kích trong Chiến tranh Napoleon đã đủ đáng sợ, đặc biệt nếu bạn là một người lính đứng trên một cánh đồng trống nhìn bầu trời trước mặt bạn đầy những chấm đen bay theo đường vòng cung, chỉ trong vài giây, sẽ biến thành những quả đạn đại bác, bất kỳ quả nào trong số đó cũng có thể moi ruột bạn và mười đồng đội của bạn. Nhưng tên lửa do Sir William Congreve phát triển và lần đầu tiên được sử dụng chống lại người Pháp trong Chiến tranh Napoleon thực sự là một loại tên lửa rất khác.

Congreve, con trai của người kiểm soát Kho vũ khí Hoàng gia Anh, đã rất ấn tượng trước cách một số ông hoàng Ấn Độ sử dụng tên lửa (bản thân chúng được mượn từ người Trung Quốc) trong các cuộc chiến tranh Mysore diễn ra ở Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ mười tám. Và vì vậy Congreve đã bắt tay vào phát triển một loại tên lửa có thể thích ứng với chiến trường châu Âu. Ông đã nghĩ ra thứ được gọi là Tên lửa Congreve, một ống sắt chắc chắn chứa đầy thuốc nổ và được bịt kín bằng một chóp mũi hình nón, toàn bộ thứ này nặng khoảng 30 pound (13,5 kg). Các ống được đặt trên các tấm đế kim loại, chứa đầy thuốc súng đen và gắn vào các cột dẫn hướng bằng gỗ. Sau đó, một ngòi nổ được đốt cháy để kích hoạt hỗn hợp nhiên liệu đẩy. Các tên lửa cất cánh trong một vụ nổ bốc lửa và thực sự có tầm bắn khoảng 2 dặm (3 km).

Tên lửa Congreve không phải là vũ khí chính xác, nhưng tiếng rít của nó khi lao vút qua không trung, đặc biệt là khi kết hợp với các loại đạn pháo khác, đủ để khiến những cựu chiến binh gan dạ nhất phải bỏ chạy. Người Anh đã sử dụng nó khá hiệu quả sau khi nó đi vào hoạt động vào năm 1804. Boulogne, Pháp, đã bị Congreves pháo kích vào năm 1806 và phải hứng chịu một trận hỏa hoạn thiêu rụi hàng mẫu Anh thành phố và gây ra thương vong nghiêm trọng, còn Copenhagen và Danzig đều phải chịu sự tàn phá nghiêm trọng từ hàng trăm quả tên lửa do các pháo thủ Anh phóng đi. Những người theo chủ nghĩa thuần túy như Công tước Wellington không thích loại vũ khí này (“Tôi không muốn đốt cháy bất kỳ thị trấn nào”, ông từng nói về Congreves), nhưng tên lửa có tác dụng mạnh mẽ.

Tên lửa Congreve được người Anh sử dụng cho đến những năm 1850, khi công nghệ tên lửa tinh vi hơn xuất hiện, nhưng chúng còn có mục đích sử dụng thứ hai là phát tín hiệu cấp cứu cho tàu thuyền trên biển, mục đích này kéo dài đến đầu thế kỷ XX.

17 Loạn Thái Bình Thiên Quốc 1851-1864

CUỘC NỘI CHIẾN VÀO GIỮA THẾ KỶ XIX Ở TRUNG QUỐC ĐÃ GIẾT NHIỀU NGƯỜI HƠN BẤT KỲ CUỘC CHIẾN NÀO KHÁC TRONG LỊCH SỬ NGOẠI TRỪ THẾ CHIẾN  II VÀ KÍCH ĐỘNG CUỘC NỔI DẬY CỦA MAO TRẠCH ĐÔNG MỘT THẾ KỶ SAU.

TỔNG QUAN: Một cuộc nổi dậy mang tính thời đại của Trung Quốc do một nhà lãnh đạo ảo tưởng thúc đẩy đã lấy đi hàng triệu sinh mạng

Đến những năm 1830, nhà Thanh đã cai trị Trung Quốc trong 200 năm, kể từ khi người Mãn Châu chinh phục đất nước vào thế kỷ XVII. Triều đình ở Bắc Kinh rất tinh tế và có học thức, các xúc tu của bộ máy quan liêu khổng lồ của nó lan rộng khắp vùng nông thôn, nhưng hầu hết nông dân và công nhân Trung Quốc sống trong cảnh nghèo đói cùng cực. Sau thất bại nhục nhã của Trung Quốc trước Anh trong Chiến tranh Nha phiến thứ nhất năm 1842, ngày cả người dân bị áp bức này cũng bắt đầu coi những quan cai trị nhà Thanh là tham nhũng và hèn yếu. Khi sông Hoàng Hà và sông Dương Tử dâng tràn bờ vào thập niên 1840, gây ra ngập lụt tràn lần và những năm đói kém, đất nước đã chín muồi cho cuộc nổi dậy.

Nguồn gốc của Loạn Thái Bình Thiên Quốc thật khó có thể xảy ra- một viên chức thất bại bị ảo tưởng tên là Hồng Tú Toàn. Sinh ra là một Khách Gia (còn gọi là người Hẹ) ở tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, Hồng đã trượt kỳ thi vào quan trường hai lần. Có lẽ bị mất phương hướng vì nỗi sỉ nhục này và bị ảnh hưởng bởi các nhà truyền giáo Cơ đốc lúc bấy giờ đang rao giảng đạo trong nước, Hồng đã nuôi dưỡng ảo tưởng rằng mình là con trai thứ hai của Chúa Trời, em trai của Jesus Christ – người con trai Trung Quốc của Ngài. Năm 1844, bị chính quyền Khổng giáo của làng mình trục xuất, Hồng lên đường rao giảng lời của Thái Bình Thiên quốc.

Khi Hồng lang thang khắp tỉnh và miền núi nghèo khó, thông điệp của ông trở nên có mùi chính trị hơn. Ông được Chúa phái đến để tiêu diệt “bọn quỷ dữ” cai trị Trung Quốc, cũng như tạo ra một lối sống mới, một “Hội đoàn nhân loại” trong đó nam và nữ bình đẳng, và của cải sẽ được chia sẻ.

Nông dân dần dần bắt đầu đổ xô đến Hồng, và đến năm 1850, ông đã tập hợp được một đội quân gồm 40.000 người gần Núi Thistle ở Tỉnh Quảng Tây. Cuối cùng, hoảng sợ, quan lại cai trị nhà Thanh đã phái một đội quân tấn công Hồng ở đó, nhưng đội quân được huấn luyện bài bản và các cán bộ kỷ cương của ông đã đánh bại họ một cách dễ dàng vào tháng 1 năm 1851. Sau chiến thắng này, nhiều nông dân hơn đã gia nhập Hồng cho đến khi quân đội của ông lên đến hàng trăm ngàn người.

Tiến xuống từ dãy núi Quảng Tây, Hồng và quân lính của ông đã càn quét về phía đông bắc qua Thung lũng sông Dương Tử với thành phố Nam Kinh và cảng Thượng Hải là mục tiêu của họ. Họ đã đánh bại quân Thanh tại Vĩnh An và Tuyền Châu và cuối cùng đã chiếm được Nam Kinh với một đội quân hùng mạnh gồm 500.000 người vào tháng 3 năm 1853. Đổi tên Nam Kinh thành “Thiên đô”, Hồng hiện đã chiêu mộ được một đội quân thường trực gồm hơn 1.000.000 nam nữ.

Quân Thái Bình đã chiếm giữ Nam Kinh trong 11 năm, nhưng không thể tận dụng chiến thắng của mình, chủ yếu là vì sự thần bí, phóng túng và hoang tưởng ngày càng tăng của Hồng Tú Toàn. Khi quân Thái Bình và quân Thanh giao chiến ác liệt ở miền trung Trung Quốc, dịch bệnh và nạn đói đã tràn vào đất nước, gây ra đau khổ không kể xiết. Sau khi thất bại trong nỗ lực chiếm Thượng Hải, quân Thái Bình đã bị đẩy lui, một phần là nhờ vào nỗ lực của Charles “Chinese” Gordon, vị chỉ huy người Anh đầy sức lôi cuốn của lực lượng gọi là “Đội quân Vĩnh Thắng”, ông ta đã sử dụng chiến thuật hiện đại và hỏa lực mạnh để đánh bại quân Thái Bình trong từng trận chiến. Vào tháng 5 năm 1864, quân Thái Bình bị lực lượng triều đình bao vây tại thủ đô Nam Kinh của họ. Hồng Tú Toàn qua đời vì bệnh (hoặc có thể là tự tử) vào ngày 1 tháng 6 và thành phố này sụp đổ một tháng sau đó.

Nhà Thanh đã được cứu, nhưng đã bị suy yếu một cách thảm hại. Bị tổn hại bởi sự viện trợ mà họ đã tranh thủ từ các chính phủ nước ngoài, họ đã sụp đổ hoàn toàn vào năm 1911. Trong khi đó, ước tính có khoảng 20 đến 40 triệu người đã chết, khiến cho cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc trở thành cuộc chiến tranh thương vong nhất trong lịch sử thế giới, ngoại trừ Thế chiến II. Và trong sự điên rồ của Hồng đã ẩn chứa những hạt giống sẽ trở thành cuộc cách mạng thành công của Mao Trạch Đông vào giữa thế kỷ XX.

LỰC LƯỢNG THÁI BÌNH CHIẾN THẮNG QUÂN ĐỘI NHÀ THANH CHIẾM ĐƯỢC NAM KINH ĐƯỢC MÔ TẢ Ở ĐÂY. BINH SĨ, THÁI BÌNH KHÔNG NGỪNG RÈN LUYỆN VÀ TRỞ THÀNH NHỮNG CHIẾN BINH HUNG HĂNG

HỎA LỰC HIỆN ĐẠI VÀ CHIẾN THUẬT TẬP TRUNG ĐÃ TIÊU DIỆT LOẠN THÁI BÌNH

Cuộc vây hãm Nam Kinh: Tháng 10 năm 1863-Tháng 7 năm 1864

Chậm rãi nhưng chắc chắn, lực lượng Thái Bình dần bị đẩy lui. Tướng Lý Tú Thành, chỉ huy quân nổi dậy đã cố gắng nhưng thất bại trong việc chiếm Thượng Hải vào năm 1862, đã thấy màn lưới đang dần khép lại xung quanh Thiên Đô Nam Kinh khi 80.000 quân Thanh, được lính đánh thuê nước ngoài hỗ trợ và được vận chuyển bằng tàu hơi nước có mớn nước nông do Pháp và Anh sở hữu, chiếm từng thị trấn một của Thái Bình, luôn đưa ra hứa hẹn sẽ rũ lòng thương xót nếu quân Thái Bình đầu hàng, nhưng sau đó lại xuống tay tàn sát họ – đàn ông, phụ nữ và trẻ em – trong những cuộc truy hoan bằng đâm chém, bắn giết và chặt đầu.

BẢN ĐỒ NÀY MÔ TẢ CHI TIẾT VỀ BỐI CẢNH CỦA CUỘC NỔI LOẠN THÁI BÌNH.

Chỉ huy nhà Thanh, tướng Tăng Quốc Toàn, là anh trai thứ chín của chiến lược gia nhà Thanh Tăng Quốc Phàm, người đã lên

kế hoạch tấn công vào thành phố quan trọng Nam Kinh và được quân đội Thái Bình gọi với nỗi kinh hoàng là “Tướng số 9”. Một người đàn ông lùn thấp, đầy sẹo, ông không nhượng bộ và không mong đợi điều gì. Vào tháng 10, quân đội của ông cuối cùng đã xuất hiện và bắt đầu hình thành một vòng vây xung quanh Nam Kinh. Họ xây một con hào dài 10 dặm (16 km) quanh vòng vây phía nam, bắt đầu từ sông Dương Tử, trên thực tế buộc bất kỳ sự cứu viện nào cho thành phố đến từ hướng nào cũng đều bị chặn bởi một lượng lớn quân Thanh.

Vào giữa tháng 12, Tăng đã cử người của mình tấn công lần đầu tiên vào những bức tường thành đồ sộ của Nam Kinh. Họ đào hầm bên dưới, lấp đầy các đường hầm bằng thuốc súng và cho nổ tung, khiến một số đoạn tường thành sụp đổ. Nhưng quân Thái Bình đã chiến đấu anh dũng, đẩy lùi quân Thanh và sửa chữa thiệt hại.

Lúc này, Lý Tú Thành lấy hết can đảm đi gặp Hồng Tú Toàn, Thiên Đế, để báo cho ông ta một tin không hay.

Tại sao ta phải sợ Quỷ Tăng?”

Nhiều người đã bị chặt đầu chỉ vì hắt hơi trước mặt gã đàn ông này, và Lý rất lo lắng khi bước vào Thiên Cung, được canh gác bởi một đội lính đánh thuê nước ngoài, và thấy Hồng, một gã đàn ông nhợt nhạt, nguy hiểm, đang được bao quanh bởi các phi tần.

Cúi đầu trước Hồng, Lý nói với ông rằng hy vọng sống sót duy nhất của họ là đào tẩu. “Các tuyến đường tiếp tế đã bị cắt và các cổng thành đã bị chặn”, ông nói với Hồng đang lắng nghe một cách vô cảm. “Tinh thần quân dân không ổn định. Kinh thành không sao  bảo vệ được. Chúng ta nên rời bỏ kinh thành và đi nơi khác.”

Hồng nhìn chằm chằm vào y và trả lời một cách lạnh lùng: “Ta đã nhận được mệnh lệnh thiêng liêng của Chúa, mệnh lệnh thiêng liêng của Thiên huynh Jesus, để xuống thế gian này trở thành Đấng Tối cao chân chính duy nhất của muôn vàn quốc gia dưới Thiên Đàng. Tại sao ta phải sợ Quỷ Tăng?”

Lý vẫn còn tin rằng Hồng thực sự là con trai của Chúa, nhưng y biết rằng câu trả lời này đã định đoạt số phận của y và số phận của hàng ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em trong kinh thành. Hồng đã mất liên lạc với thực tế, không đủ khả năng chỉ huy một đội quân, và đã như vậy trong một thời gian. Khi kinh thành bị chiếm và đổi tên thành Thiên Đô khoảng 11 năm trước, Hồng đã ở đỉnh cao quyền lực và đã tiến vào Nam Kinh trong chiến thắng khải hoàn, mặc áo choàng vàng và mang giày vàng, màu sắc của hoàng gia Trung Quốc. Nhưng kể từ đó, Hồng đã dần suy yếu.

Trong khi quân binh của Hồng đánh những trận chiến vô ích chống lại quân Thanh, những trận chiến làm suy yếu sức mạnh và tinh thần mà không đạt được mục tiêu rõ ràng, ông vẫn ở lại Nam Kinh. Mặc dù ban hành các sắc lệnh sống đời phẩm hạnh và nghèo khó cho người dân mình, ông lại dành phần lớn thời gian với hậu cung 88 phi tần, trong một cung điện được bảo vệ bởi lính đánh thuê người Ireland và Anh, được coi là biểu tượng địa vị của Hồng. Hồng dành nhiều thời gian cho thi ca huyền bí và viết ra các chỉ dẫn cho 2.000 phụ nữ tận tụy dọn dẹp cung điện, nấu ăn, tắm rửa và mặc quần áo cho ông.

Không có gì ngạc nhiên khi thực tế tình hình bên ngoài thành Nam Kinh – điều mà một nhà sử học gọi là “nỗi kinh hoàng đẫm máu” của cuộc nội chiến đang hoành hành – lại không ảnh hưởng gì đến Thiên tử.

 

Cuộc chiến ngầm khốc liệt

Khi năm 1864 bắt đầu, Lý Tú Thành cố gắng tích trữ ngũ cốc, ra ngoài thành phố để cố gắng chiếm lấy nguồn cung cấp, nhưng không mấy thành công. Đến tháng 2, nguồn cung cấp ngũ cốc cuối cùng bên ngoài thành phố đã bị quân của Tăng chiếm giữ, khiến thị trấn chỉ còn phụ thuộc vào lượng gạo đang cạn kiệt nhanh chóng trong các kho thóc bên trong Nam Kinh. Tình trạng tham nhũng của những họ hàng của Hồng, những người mà ông đưa lên nắm những vị trí quyền lực, giờ đây họ đòi dân chúng đút lót để được cấp ngũ cốc, đã gây ra nạn đói trong số thường dân của thành phố bắt đầu từ đầu mùa xuân.

Bị bất lực hoàn toàn, Tướng Lý Tú Thành chỉ biết theo dõi quân Thanh lần lượt chiếm được mọi ngọn đồi, bao vây kinh  thành bằng một tuyến hào và công sự cách nhau 300 yard (275 m), và dựng các pháo đài nhỏ cách nhau một phần tư đến nửa dặm (400 đến 800 m), tổng cộng 120 pháo đài, mỗi pháo đài có một nhóm quân Thanh đồn trú. Khi người dân bắt đầu chết đói, quân Thanh đã bắn tin đến thành phố rằng bất kỳ ai đào ngũ sang phe Thanh sẽ được cho ăn uống và đối xử tử tế. Mọi người liều mạng trốn thoát khỏi Nam Kinh, nhưng khi đến được phòng tuyến của quân Thanh, nhiều người đã bị hành quyết. Theo Charles Gordon, một quan sát viên người Anh về cuộc bao vây sau khi ông giải tán Quân đội Vĩnh Thắng của mình, những phụ nữ trốn thoát được đã bị nhốt vào các nhà kho, cho “bọn nông dân … có thể lấy bất kỳ ai họ muốn để làm vợ”.

Người Thanh bắt đầu xây dựng các bãi mìn, đào đường hầm ngày càng gần tường thành, trong khi quân Thái Bình đào các đường hầm chặn lại. Một cuộc chiến ngầm tàn khốc nổ ra ở vùng đất bằng phẳng gần tường thành, với quân Thái Bình đột nhập vào các đường hầm của kẻ thù hoặc lấp đầy chúng bằng nước hoặc chất thải của con người hoặc chiến đấu tay đôi, kiếm và giáo lóe sáng trong các hang động và hốc tối. Một chiến thuật của người Thanh là để quân Thái Bình vào đường hầm của họ, sau đó thổi khói độc bằng ống thổi, khiến quân nổi dậy ngạt thở và chết ngạt.

Lương thực Trời Cho

Vào mùa xuân năm 1864, quân Thanh đã di chuyển công sự của họ đến cách tường thành 100 yard (91 m). Những người bảo vệ, thiếu đạn dược, không thể làm gì nhiều ngoài việc quan sát. Cuối cùng, Lý đã đến gặp Hồng lần nữa, nói với ông: “Cả thành phố không có thức ăn, và nhiều  đàn ông và phụ nữ đang chết đói. Thần xin một chỉ thị về việc nên làm gì để mọi người an tâm.”

Hồng, vẫn được bao quanh bởi các phụ nữ và giấy mực bút lông, nhưng trong chiếc áo choàng màu vàng đã trở nên bẩn thỉu và rách rưới, trả lời ông ta một cách cao thượng như trước. Lấy gợi ý từ sách Xuất hành trong Kinh thánh, trong đó Chúa cung cấp manna (thức ăn từ thiên đường) cho dân Israel đang chạy trốn, Hồng nói với Lý Tú Thành: “Mọi người trong thành phố nên ăn manna. Điều đó sẽ giữ cho họ sống sót.”

Sau đó, ông ra lệnh: “Mang một ít lại đây cho ta, sau khi chế biến xong, ta sẽ dùng một ít trước.”

Trong phòng bỗng im lặng chết chóc. Thị tỳ và cận thần của Lý và Hồng không biết phản ứng như thế nào với một mệnh lệnh kỳ lạ như vậy. Hồng sốt ruột bước xuống ngai vàng và đi vào sân giữa của cung điện, nơi ông ta hái một ít cỏ dại, vo thành một cục, rồi đưa cho Lý, nói rằng: “Mọi người nên ăn theo và mọi người sẽ có đủ thức ăn.”

Khi Lý nhìn chằm chằm vào ông ta, Thiên Tử đã bỏ một mớ cỏ dại nhỏ vào miệng  và bắt đầu nhai nhóp nhép.

Trong tháng tiếp theo, khi các trận chiến bên trong và bên ngoài thành phố ngày càng trở nên khốc liệt hơn, Hồng, với chế độ ăn cỏ dại của mình, ngày càng yếu đi. Một số nhà sử học cho rằng cỏ dại có độc, những người khác cho rằng ông chỉ đơn giản là chết đói, những người khác nữa cho rằng ông có thể đã tự tử. Trong mọi trường hợp, Thiên tử đã “băng hà” vào ngày 1 tháng 6, một ngày sau khi cung điện ban hành một sắc lệnh cho dân chúng Nam Kinh hốc hác và đói khát rằng Hồng đã quyết định đến thăm thiên đường và cầu xin Chúa và Jesus gửi một đội thiên binh xuống để đánh bại lực lượng của Tướng số 9.

Lý nhìn Hồng được chôn cất trong khuôn viên cung điện, không có quan tài. Suy cho cùng, vì ông ấy sẽ sớm trở về, tại sao ông ấy lại cần một chiếc quan tài?

“Bởi vì tôi không hiểu”

Đúng trưa ngày 19 tháng 7, Tăng Quốc Toàn ra hiệu, một vụ nổ lớn đã phá đổ một phần lớn tường thành dọc theo phía đông Nam Kinh. Lửa và khói bốc lên trời khi quân Thanh tràn vào. Quân Thái Bình chỉ có thể ngăn chặn họ trong chốc lát, rồi quay đầu bỏ chạy.

Trận chiến không còn là trận chiến nữa, mà là một cuộc tàn sát. Quân Thanh hoành hành khắp thành phố, hãm hiếp và giết chóc, trong khi các thành viên trong gia đình Hồng tìm cách trốn thoát. Thường thì, vì phải mang nặng của cải đánh cắp từ kho bạc, họ chậm chân nên bị bắt và bị xử tử. Con trai và người thừa kế của Hồng, Quân vương trẻ tuổi, đã tìm cách thoát khỏi thành phố bằng cách cải trang thành một tên lính nhà Thanh, nhưng cậu ta đã bị bắt vào những tuần sau đó và bị xử tử.

Nhưng ngoài gia đình tham nhũng của Hồng, không thành viên Thái Bình nào còn lại trong thành phố đầu hàng. Một cuộc thảm sát với quy mô hoành tráng đã diễn ra, với quân Thanh giết chết khoảng 80.000 đến 100.000 đàn ông, phụ nữ và trẻ em trong khi Tướng Số 9 và các sĩ quan của y phi ngựa qua những con phố thực sự ngập máu. Mặc dù quân đội Thái Bình còn tồn tại bên ngoài thành phố, nhưng hậu phương của lực lượng nổi dậy đã bị phá hủy, và cuộc chiến đã sớm kết thúc.

Còn tướng Lý thì sao? Sau khi chiến đấu cả ngày, ông tìm đường đến một cung điện trên đỉnh đồi ở Nam Kinh, nơi ông ngủ thiếp đi. Ông đã bị cướp vào ban đêm. Sáng hôm sau, một toán tuần tra nhà Thanh đã bắt được ông, và ông bị đưa đến sở chỉ huy nhà Thanh, tại đó ông thú tội, bao gồm cả việc kể lại những cuộc trò chuyện của ông với Thiên tử. Ông nói với những kẻ bắt giữ mình rằng, khi Hồng ra đi, cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc đã kết thúc. Ông cầu xin họ thương xót, một cách vô ích, không phải cho bản thân mình, mà cho nhiều người mà tiếng la hét vẫn vang vọng khắp thành phố. Sau đó, như thể vừa thức dậy từ một cơn ác mộng để bước vào một cơn ác mộng mới hơn, đen tối hơn, ông suy ngẫm về lý do tại sao ông không bao giờ tìm cách ngăn cản Hồng: “Thật ra là vì tôi không hiểu. Nếu tôi đã hiểu….”

Câu nói của ông bỏ dở giữa chừng, và lời thú tội của ông ta kết thúc ở đó. Đêm đó, ông ta bị đưa đến một sân nhỏ trong cung điện cũ của Thiên tử và bị trảm thủ.

HỒNG TÚ TOÀN: NGƯỜI CON THỨ HAI CỦA CHÚA TRỜI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CƠN LỐC CÁCH MẠNG BẠO LỰC

Hồng Hổ Hưu sinh ra tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc vào năm 1814. Gia đình ông là những người nông dân và người Khách Gia – những người đã di cư đến Trung Quốc nhiều thế kỷ trước, nhưng nói một phương ngữ khác. Những người Trung Quốc khác coi thường người Khách Gia và từ chối kết hôn với họ. Lớn lên thành một chàng trai trẻ thông minh và lanh lợi, Hồng đã vượt qua một kỳ thi ở làng để trở thành một công bộc triều đình và sau đó được cử đến thành phố Quảng Châu vào năm 1836 để tham gia kỳ thi hương.

Trước sự tủi hổ của Hồng và toàn bộ gia đình cùng dân làng, chàng trai 22 tuổi đã trượt kỳ thi. Năm sau, anh lại trượt. Lần trượt thứ hai khiến anh phải nằm dài vì xấu hổ và thực sự mê sảng. Trong trạng thái hưng phấn như vậy, anh mơ thấy mình là con trai của Chúa Kitô mà anh đã nghe nói đến và Cha anh đã giao cho anh nhiệm vụ giải thoát Trung Quốc khỏi “bọn quỷ dữ” đang đàn áp người dân. Chúa nói với anh rằng tên mới của anh sẽ là Hồng Tú Toàn, có nghĩa là “Con của Thiên đường”.

Khi Hồng tỉnh dậy, ông khăng khăng muốn được gọi bằng cái tên này, nhưng phải mất bảy năm sau ông mới bắt đầu cuộc nổi loạn của mình. Trong thời gian đó, ông kết hôn và hai lần nữa không đỗ kỳ thi vào quan trường. Cuối cùng, theo sự thúc giục của người bạn Lý Tĩnh Phương, Hồng phủi sạch bụi một tờ rơi mà một nhà truyền giáo Cơ đốc đã đưa cho ông khi ở Quảng Châu và bắt đầu nghiền ngẫm đọc. Dưới ảnh hưởng của những lời dạy này, Hồng tin rằng giấc mơ trước đây của ông có nghĩa là ông đích thực là con trai thứ hai của Chúa Trời – em trai của Jesus Christ.

Thành lập một nhóm nhỏ những người trung thành tự trang bị cho mình những thanh kiếm dài 20 bộ (6 m) để chống lại ma quỷ – Hồng rời khỏi làng dưới áp lực của chính quyền Khổng giáo, tìm đường đến tỉnh miền núi Quảng Tây và dần dần tập hợp một đội quân nông dân Khách Gia. Bọn đàn ông và phụ nữ này, tin rằng ông sẽ giải thoát họ khỏi những kẻ áp bức Mãn Châu, đã hăng hái đóng góp tài sản của mình, tập luyện với kỷ luật nghiêm ngặt và tin vào Thái Bình Thiên Quốc của Hồng.

Đến năm 1851, quân số tăng lên khoảng 40.000 người, quân Thái Bình, như họ được gọi, đã tiêu diệt một đội quân do triều đình nhà Thanh hoảng sợ phái đến để đánh dẹp họ. Sau chiến thắng này, Hồng đã phái quân đội của mình càn quét khắp Trung Quốc, hướng đến Nam Kinh. Lực lượng Thái Bình sẽ đạt đến con số gần như không thể tưởng tượng được là 1.000.000 quân và chiếm được Nam Kinh, nhưng thủ lĩnh của họ ngày càng trở nên bất ổn, cực kỳ sống thanh đạm và hoang tưởng tự đại.

Bên ngoài Nam Kinh, cuộc nội chiến không thể kiểm soát đã lan rộng khắp vùng nông thôn. Bên trong, Hồng, hoang tưởng và ẩn dật, đã bổ nhiệm cậu con trai 13 tuổi của mình làm giám trưởng, cho rằng mình nhìn thấy hồn ma và tuyên bố mình bị linh hồn của một nhà tiên tri trong Kinh thánh ám ảnh. Khi quân Triều đình bao vây Nam Kinh vào mùa xuân năm 1864, người dân của Hồng đã quay sang ông, cầu xin thức ăn. Ông nói với họ: “Mọi người trong thành phố nên ăn manna (lương thực của Chúa, từng ban cho người Do Thái trong Kinh thánh). Điều đó sẽ giúp họ sống sót.” Bản thân ông bắt đầu ăn cỏ dại và qua đời vào ngày 1 tháng 6. Có tin đồn rằng Hồng đã tự tử, nhưng gần như chắc chắn là ông đã chết vì đói và bệnh tật.

TRONG ẢNH: THI THỂ TẠI PHÁO ĐÀI TAKU TRONG CUỘC NỔI DẬY THÁI BÌNH.

 

TỔN THẤT CHIẾN TRANH: KHI HÀNG TRIỆU NGƯỜI CHẾT, CÁI CHẾT TRỞ THÀNH MỘT PHẦN CỦA CẢNH QUAN

Lúc đầu, hầu hết thế giới phương Tây không biết gì về quy mô cuộc tàn sát trong vụ nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc, nhưng đến đầu những năm 1860, các báo cáo bắt đầu lan truyền. Những báo cáo này chủ yếu được truyền tải qua các lá thư do các sĩ quan quân đội nước ngoài hoặc các nhà truyền giáo viết, hoặc do các nhà báo đến thăm đất nước này.

Những báo cáo này mô tả cái chết ở quy mô thậm chí còn lớn hơn cả việc giết chóc diễn ra trên các chiến trường của Nội chiến Hoa Kỳ, được coi là cơn hỗn loạn theo kiểu mới và hiện đại. Các nhà truyền giáo đã mô tả việc chèo thuyền xuôi dòng sông Dương Tử chậm chạp và vất vả thế nào vì hàng nghìn xác chết va đập đơn điệu vào thân tàu. Một sĩ quan quân đội đã viết về những chồng xác chết trên một chiến trường gần đây, nghĩa đen là “những bức tường thi thể cao 10 bộ (3 m)” mà sĩ quan phải đi qua. Các chiến trường cũ hơn đã chứng kiến ​​”bãi xương người trắng bệch giữa những viên đạn đại bác”.

Ở những ngôi làng bị dịch bệnh và nạn đói hoành hành, “những ngôi nhà đổ nát; đường phố đầy rác rưởi; xác người bị bỏ mặc cho mục nát ở những nơi công cộng hoặc bị ném xuống ao hồ và các bể chứa nước, và để mặc tình thối rữa”, một nhà truyền giáo người Anh đã viết. Một nhà báo người Mỹ đã chứng kiến ​​lễ mừng năm mới diễn ra, pháo nổ và cờ đuôi nheo giữa những xác chết chất đống, như thể người chết giờ đây cũng là một phần của cảnh quan.

Những du khách gần Thượng Hải và Nam Kinh, những khu vực giao tranh chính, thấy hầu hết nhà cửa bị phá hủy; mọi người ngủ trên chiếu ngoài trời hoặc trong đống đổ nát. Trẻ em chết đói. Người nam còn trẻ bị quân đội Thái Bình hoặc Thanh ép vào lính, và phụ nữ trẻ thì bị bắt cóc và bán làm vợ lẽ. Chỉ còn lại những người già, “với vẻ mặt đau khổ và tuyệt vọng”, theo lời nhà báo người Mỹ. Những nhóm người tị nạn đông đảo lang thang khắp vùng nông thôn, kẹt giữa các đội quân đang giao tranh, và tìm đường vào Thượng Hải, nơi chưa rơi vào tay quân Thái Bình. Thượng Hải là nơi sinh sống của một nhóm người nước ngoài đông đảo, những người sớm chứng kiến ​​những chú chó cưng của họ biến mất, từng con một, làm thức ăn cho những người Trung Quốc đang chết đói.

FREDERICK TOWNSEND WARD: NGƯỜI MỸ ĐÃ TẠO NÊN ĐỘI QUÂN VĨNH THẮNG

Frederick Townsend Ward, người đã thành lập và huấn luyện Đội Quân Vĩnh Thắng, không có duyên được nổi tiếng như Charles Gordon, người đã dẫn dắt đội quân này đến những chiến thắng vĩ đại nhất, nhưng nếu không có Ward, Triều đình nhà Thanh sẽ khó có thể giành chiến thắng trong cuộc chiến chống lại quân Thái Bình Thiên Quốc.

Ward, một người Mỹ sinh ra tại Salem, Massachusetts, vào năm 1831, là một tên cướp bóc  – một kẻ phiêu lưu quân sự  tìm cách lật đổ các quốc gia nước ngoài, hoặc ít nhất là kiếm lợi từ đánh thuê trong các cuộc chiến tranh của họ. Đẹp trai, liều lĩnh và thích phiêu lưu, Ward đã đi đến Trung Quốc nhiều lần trên các tàu buồm, chiến đấu cùng lực lượng cướp biển William Walker trong cuộc xâm lược Mexico của tên này vào năm 1853, tìm đường đến các chiến trường Crimea vài năm sau đó, và cuối cùng đến Trung Quốc vào khoảng năm 1860, làm nghề buôn bán cho một doanh nghiệp gia đình.

Nhưng chẳng bao lâu sau, “Cục Trấn áp Hải tặc” của Trung Quốc đã giao cho Ward quyền chỉ huy một tàu hơi nước có vũ trang mang tên “Khổng Tử”, với nó Ward đã làm một công việc đáng ngưỡng mộ là bảo vệ các chuyến hàng trên sông Dương Tử khỏi bọn cướp Thái Bình. Sau đó, các viên chức Trung Quốc ở Thượng Hải cho phép ông chỉ huy một nhóm nhỏ lính đánh thuê nước ngoài được trang bị súng lục và súng trường Colt hiện đại, vũ khí vượt trội hơn nhiều so với súng hỏa mai lỗi thời của Thái Bình. Ward đã chỉ huy “Quân đoàn Vũ trang Nước ngoài Thượng Hải” này trong một cuộc tấn công thắng lợi vào một thị trấn kiên cố của Thái Bình vào năm 1860. Mặc dù Ward bị thương nặng trong một hoạt động sau đó, ông đã quay trở lại chiến đấu và bắt đầu tuyển dụng người Trung Quốc làm lính – với sự khác biệt là ông huấn luyện họ theo chiến thuật phương Tây.

Năm 1862, Đội quân Vĩnh Thắng, có lẽ gồm 1.500 người, đã sẵn sàng ra trận. Dưới một lá cờ có khắc tên Ward được viết bằng tiếng Trung, Ward đã chỉ huy họ trong một loạt các chiến dịch chống lại lực lượng Thái Bình lớn hơn nhiều. Nhờ chiến thuật và vũ khí vượt trội của đơn vị Ward, họ đã giành được chiến thắng. Lực lượng của Ward tăng lên 5.000 người, ông đã tấn công thị trấn kiên cố Từ Khê vào tháng 9 năm 1862, nhưng ông bị thương nặng gần tường thành của thị trấn. Sau khi Ward qua đời, quyền chỉ huy quân đội của ông được chuyển cho Charles Gordon, người sẽ trở nên nổi tiếng hơn nhiều. Nhưng chính Ward là người cuối cùng đã khám phá ra chìa khóa để đánh bại quân Thái Bình.

FREDERICK TOWNSEND WARD BẮT ĐẦU HUẤN LUYỆN CÁC LỰC LƯỢNG TRUNG QUỐC THEO CHIẾN THUẬT TÂY PHƯƠNG VÀ GIÀNH ĐƯỢC MỘT LOẠT CHIẾN THẮNG

Bình luận về bài viết này