Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 6

    Hồ Bạch Thảo

Tháng giêng năm Giáp Tuất, Cảnh Hưng thứ 15 [23/1-21/2/1754], (Thanh, Càn Long thứ 19); triều Lê Trịnh ban ơn cho tù nhân bị giam. Hạ lệnh cho bọn Vũ Công Trấn và Nguyễn Quai xem xét trong nhà ngục, phát chẩn cho tù bị đói; người nào can tội nhẹ thì xét xử ngay và phân phối đi các nơi.

Phạm Đình Trọng, Thượng thư bộ Binh, tước Hải quận công, giữ chức Đốc suất xứ Nghệ An mất. Đình Trọng có tài cán trí mưu, sau khi thi đỗ, liền tham dự việc binh, vì có công đánh dẹp, nên từ chức Hiệu thảo [Chánh thất phẩm] thăng lên chức Thị lang [Chánh tam phẩm]. Đến nay, giữ địa vị là Thượng thư bộ Binh, mất lúc 40 tuổi, được truy tặng hàm Thái bảo.

Đặt quan khuyến nông ở các lộ. Trước đây, triều đình lấy cớ rằng ruộng ở các lộ phần nhiều bỏ hoang, nên hạ lệnh quan sở tại cho người đầu hàng chia nhau cày cấy. Có nhiều người lĩnh canh khai khần, về sau tranh chấp, xâm chiếm, không thể nào xét rõ được. Đến nay trong nước gần được bình định, dân phiêu tán lần lượt trở về, bèn đem hết ruộng ấy trả lại cho dân, hạ lệnh cho quan đại thần giữ chức khuyến nông, chia nhau đi đốc suất, định lại cột mốc, xét xử kiện tụng. Duy ruộng công cùng ruộng người phạm tội, ruộng thừa đã tịch thu sung công, thì giao cho quan quản lý cày cấy; những người đầu hàng cũng chuẩn cho trở về quê quán, giao trả lại điền sản. Ngoài ra tô thuế ở các đạo còn thiếu chồng chất từ năm Nhâm Tuất [1742] đến năm nay tức 13 năm đều được miễn.

  Dân Cao Bằng bị đói, hạ lệnh xuất 300 lạng bạc trong kho nội phủ phát chẩn cho dân. Nhân đấy, hạ lệnh cho ti Trấn thủ xét đúng sự thật về số dân trong hạt mà thổ tù hiện cai quản và số hộ khẩu bị lưu tán.

Tháng 6 [20/7-17-8/1754], nhà Vua ra sông Nhị Hà duyệt binh. Trịnh Doanh lấy cớ rằng trong nước mới bình yên, cho quân lính phô trương sức mạnh, mời nhà Vua ngự ra xét duyệt, trăm quan làm lễ chầu mừng. Bèn hạ lệnh cho thủy binh bày chiến thuyền ở giữa sông, dung nghi quân sĩ rất tề chỉnh, bơi chèo ngược dòng nước, thuyền phóng đi như bay. Nhà Vua rất bằng lòng, gần tối, xa giá trở về cung.

   Nước sông dâng lên, đê xã Bộ Đầu [huyện Thường Tín, Hà Tây] và Võng Xuyên [huyện Phúc Thọ, Hà Tây] bị vỡ, dân cư và ruộng lúa phần nhiều bị ngập lụt. Triều đình hạ lệnh cho ti Hiến sát khám xét thực trạng tâu lên, để bàn định thi hành phát chẩn cứu đói.

Tháng 9 [16/10-13/11/1754], lại cấm đạo Thiên Chúa. Trước kia, vào khoảng năm Nguyên Hòa [1633-1548] đời Lê Trang Tông, Y-Nê-Xu, người Tây Dương, đem đạo ấy vào vùng ven biển, thuộc các huyện Giao Thủy [Nam Định], Nam Chân [huyện Nam Trực, Trực Ninh; Nam Định], lén lút truyền giáo, gọi là “đạo Thiên Chúa” cũng gọi là “Thập Tự giáo”. Giáo lý này dùng thiên đường địa ngục để phân biệt báo ứng về điều thiện, điều ác, cũng gần giống đạo Phật; có thêm vào thuyết xưng tội, rữa tội nữa. Khoảng năm Cảnh Trị [1663-1671] và Chính Hòa [1680-1704], triều đình đã nhiều lần ra cấm lệnh rõ ràng, nhưng rút cuộc không thay đổi được.

Tháng 12 [12/1-10/2/1755], lại thu các sắc thuế tô, dung và điệu ở các trấn vùng biên giới. Trước đây các trấn vùng biên giới, vì dân bị chiến tranh điêu tàn, nên được miễn đánh thuế; đến nay lại bàn định trưng thu; thể lệ bằng một nữa phần thuế ở bốn trấn tại đồng bằng.

Về phía nhà Thanh, nhân Sa phỉ quấy phá đất Mãnh Thoa tại biên giới Vân Nam rồi rút lui về An Nam; Vua Càn Long ra chỉ dụ chê trách quân địa phương Vân Nam không ra tay truy đánh, phản ứng kịp thời:

Ngày 8 tháng 11 năm Càn Long thứ 19 [21/12/1754]. Dụ các Quân cơ đại thần:

‘Cứ lời bọn Thạc Sắc tâu: Sa phỉ Nguyễn Trọng Trấn đánh chiếm thành trại Mãnh Thoa, lần lượt điều 800 tên Thổ luyện, cùng phái Du kích Mã Bỉnh Tường mang quân lính, tùy cơ mà đánh đuổi. Viên Du kích ra lệnh Thiên tổng, Bả tổng đến thám thính hư thực trước, được biết Sa phỉ di chuyển loanh quanh trong vùng Mạn Mao, hiện sai Thổ luyện đến trước tra thám.

Bọn Sa phỉ đánh lẫn nhau, là việc thường xảy ra. Chỉ cần tùy cơ mà hiểu dụ đàn áp, bất tất phiền đến binh lực nội địa. Viên Tổng đốc đã điều bát Thổ luyện đến 800 tên, làm việc này không trúng cách. Nhưng vốn đã điều binh, mà cứ lời tâu tại Mãnh Sa bọn phỉ không quá 3, 4 chục tên; sao không đánh đuổi được một cách mau chóng? Lại còn Du kích Mã Bỉnh Tường không đích thân đến Mãnh thành, chỉ sai Thiên tổng, Bả tổng khám phá hư thực; khi biết Sa phỉ trốn tại Mạn Mao, đáng mang quân truy đuổi, lại chỉ sai Thổ luyện đi trước tra thám. Sự chậm chạp rụt rè như vậy vốn là tập tục hủ lậu của lính Lục kỳ (1), làm lầm lỡ quân cơ đều do tại đó; viên Tổng đốc đáng nghiêm xét mà trị tội; nếu còn ngoan cố sai trái, thì theo quân pháp mà xử trí. Thạc Sắc, Viên Tất Ðạt làm việc này quá khoan dung, nay ra lệnh chuyển chiếu chỉ này để báo cho biết.” ( THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 476, trang 9-10)

Ngày 11 tháng 12 năm Càn Long thứ 19 [22/1/1755]. Dụ Quân cơ đại thần:

“ Thạc Sắc tâu rằng đã xua đuổi bọn Sa phỉ ra khỏi biên giới đất Mãnh. Việc này viên Ðốc trước đây đã liệu biện một cách thất sách, còn Du kích Mã Bỉnh Tường thì không mang binh truy đuổi ngay; nên đã truyền dụ bọn Tổng đốc, Tuần phủ nghiêm khắc thân sức đàn hạch thuộc cấp. Nay cứ theo lời tâu thì bọn Sa phỉ từ Mạn Mao, Mãnh Lặc trốn vào đất Giao Chỉ; có thể biết được rằng trước đây lúc được sai phái, bọn Mã Bỉnh Tường có thể đến bắt ngay, nào phải đợi đến nửa tháng sau đến nơi thì không thấy đâu, rồi dùng những lời che đậy là chúng đã trốn ra khỏi biên giới! Xem sự việc thấy bọn Sa phỉ không chạy trốn; chỉ do quân lính khiếp nhược trì hoãn, nên bọn chúng cướp đoạt đầy túi, rồi thung dung xuất cảnh. Như vậy trước đây phái binh đinh đi, xét ra có ích gì? Nay ra lệnh viên Tổng đốc rằng lương thực dùng trong cuộc hành quân này không chuẩn cho khai tiêu vào kho công, bắt viên Tổng đốc, Tuần phủ, và tên khiếp nhược Mã Bỉnh Tường phải bồi thường. Vẫn ra lệnh điều tra rõ Mã Bỉnh Tường thường ngày làm việc quân ngũ như thế nào; nếu thuộc loại tầm thường, thì cứ thực đàn hặc nghiêm khắc, để cảnh cáo trừng trị.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 478, trang 15-16)

Nhân Quốc vương An Nam báo tin sai Sứ thần đến cống; Vua Càn Long chấp nhận và cho ban yến tiệc:

Ngày 19 tháng 12 năm Càn Long thứ 19 [30/1/1755]. Quốc vương An Nam Lê Duy Vĩ tâu:

Xin cung tiến biểu văn và sản vật địa phương cho lễ cống vào năm Càn Long thứ 15, và thứ 19; lại nhân 2 vụ án về bọn Phiên Hoàng Phúc Vệ chống cự giặc phỉ, sát thương Binh luyện nội địa; đều được hưởng khoan điển, nên tấu tạ ơn.

Mệnh đưa xuống bộ để hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THƯC LỤC quyển 479, trang 5).

Ngày 29 Quí Mão tháng giêng năm Càn Long thứ 20 [11/3/1755]

Bộ Lễ đề xuất:

Quốc vương An Nam Lê Duy Vĩ sai Bồi thần đến cống sản vật địa phương.

Ban yến tiệc cùng thưởng theo lệ.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 481, trang 29 )

Tại miền Nam vào tháng 3 [22/4-21/5/1754], Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho sửa sang đô ấp; dựng hai điện Kim Hoa, Quang Hoa, ba gác Dao Trì, Triêu Dương, Quang Thiên và các nhà Tựu Lạo, Chính Quan, Trung Hòa, Di Nhiên, cùng đài Sướng Xuân, đình Thụy Vân, hiên Đồng Lạc, am Nội Viện, đình Giáng Hương. Ở thượng lưu sông Hương lại có phủ Dương Xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ; đều chạm vẽ hết sức tinh xảo. Vườn hậu uyển thì có non bộ, đá lạ, hồ vuông, hào cong, cầu vòng, thủy tạ; tường trong, tường ngoài đều xây đắp các hình rồng, hổ, lân, phượng, hoa cỏ. Gác Triêu Dương nhìn xuống dòng sông, quy mô càng rộng rãi sáng sủa. Phía trên phía dưới đô thành đều đặt nhà quân xá và đệ trạch của các công hầu, chia ra từng ô như bàn cờ. Phía ngoài thành thì chợ phố liên tiếp, cây to um tùm, thuyền chài, thuyền buôn đi lại như mắc cửi. Thực là một nơi đô hội lớn, văn vật thanh sắc lừng lẫy, đời trước chưa từng có.

Tháng 6 [20/7-17/8/1754], quan quân chia đường tiến đánh Chân Lạp. Thống suất Thiện Chính tiến theo đường Mỹ Tho; Nguyễn Cư Trinh đem kỳ binh tiến theo đường sông Bát Đông [sông Tiền Giang]. Cư Trinh tới đâu, giặc đều tan chạy. Trinh đem quân qua Tần Lê Bắc ra Đại Giang [sông Mekong], hội với quân Thiện Chính ở đồn Lô Yêm. Bốn phủ Lôi Lạp [Vĩnh Long], Tầm Bồn [Vĩnh Long], Cầu Nam, Nam Vang [Campuchia] đều hàng. Nặc Nguyên chạy đến Tầm Phong Thâu. Cư Trinh bèn sai thuộc tướng đi chiêu dụ người Côn Man [Chiêm Thành] để làm thanh thế, gặp mưa lụt, phải đóng quân lại.

Bấy giờ nghe tin Nặc Nguyên đến cầu viện ở Nghệ An; Chúa Nguyễn lo họ Trịnh nhân việc này động binh, bèn báo cho các Thổ tù Cam Lộ, Tầm Linh [huyện Hướng Hóa, Quảng Trị], phàm các đường núi thông sang nước Chân Lạp đều phải sai dân dò thăm tin tức báo lên.

Tháng 7 [18/8-16/9/1754], dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu [đảo Hải Nam] nhà Thanh. Tổng đốc Thanh cấp cho lương thực, rồi cho đưa về; Chúa sai viết thư cám ơn. Hoàng Sa ở ngoài biển, thuộc huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường, hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là “Vạn lý trường sa”. Trên bãi có giếng nước ngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba v.v… Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh [huyện Lý Sơn, Quảng Ngãi] sung vào, hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ ba đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật, đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn [đảo Côn Lôn], để tìm lượm hóa vật; đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản.

 Tháng 3 năm Ất Hợi, Cảnh Hưng thứ 16 [11/4-10/5/1755], (Thanh, năm Càn Long thứ 20); nhà Vua sai Tham tụng Nguyễn Công Thái đem bảo sách phong cho Trịnh Doanh làm Thượng sư thượng phụ anh đoán văn trị võ công Minh vương.

Tháng 5 [10/6-8/7/1755] Trấn Ninh [Trung Lào] sai sứ giả đến dâng thư và lễ cống. Trong bức thư  Trấn Ninh không xưng họ tên Tù trưởng, xin cho 6 năm một lần dâng lễ cống, và xin cấm chỉ sứ thần Ai Lao không được đi qua cảnh thổ của Trấn Ninh. Triều thần bàn luận, cho rằng phong tục người Man như thế, không nên quở trách quá, vì thế chỉ dặn về bảo cho biết: Từ sau cứ ba năm một lần dâng lễ cống, trong thư dâng lễ cống phải viết đủ họ tên người Tù trưởng; còn đường sứ thần đi nhất định y theo lệ cũ.

Tháng 12 [2/1-30/1/1756]. Trịnh Doanh có ý muốn dời đô, bèn hạ lệnh sửa sang xây dựng cung miếu ở Cổ Bi [huyện Gia Lâm, Bắc Ninh], nhân đấy đích thân đến xem xét.

Về phía nhà Thanh, Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư tâu xin tăng cường canh phòng tại biên giới Quảng Tây, Quảng Đông; sai các tướng đích thân tuần tra, cho tu bổ hàng rào, trồng tre, đào sâu hào, tăng binh lính; lời tâu được Vua Càn Long chấp thuận:

Ngày 29 tháng 5 năm Càn Long thứ 20 [8/7/1755]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư tâu:

Các phủ Thái Bình, Trấn An, cùng động Thiên Long phủ Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây đều giáp giới An Nam; đường biên giới dài 2000 lý, có 3 cửa quan, 100 cửa ải. Chỉ có 2 cửa quan Bình Nhi, Thủy Khẩu, cùng cửa ải Do Thôn thuộc phủ Thái Bình theo lệ cho khách thương qua lại; còn các chỗ khác đều ngăn cấm. Nhưng những nơi bình địa cũng dễ lén vượt, như vào năm Càn Long thứ 6,7 [1741-1742], nước An Nam có nội loạn, bọn gian phỉ thường ngầm ra vào. Qua sự tra khám của viên Tổng đốc tiền nhiệm Mã Nhĩ Thái, xin dùng đá ngăn chặn cửa ải, tại nơi bằng phẳng thì lập hàng rào gỗ cùng phái quân lính đến phòng thủ. Lo rằng sự kiểm tra không chu mật, thời gian lâu sinh buông lỏng, xin từ nay trở về sau vào mùa đông thì sai Tri phủ cùng Tham tướng đích thân tuần tra một lần, cho tu bổ hàng rào, đào sâu hào, kiểm tra binh dõng thiếu đủ; chỉ thị ghi rõ ràng có đóng dấu, để khỏi coi như giấy tờ thông thường.

Nhận được chiếu chỉ:

Phải, cứ như vậy mà thi hành.” ( THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 489, trang 40-41)

Ngày 14 Giáp Dần tháng 10 năm Càn Long thứ 20 [17/11/1755]

Các bộ trong đó có bộ binh bàn về lời tâu của Tổng đốc Lưỡng Quảng Dương Ứng Cư rồi tâu rằng:

Các ải Tùng Bách, gò La Phù thuộc nhai Ðông Hưng, châu Khâm, tỉnh Quảng Ðông tiếp giáp An Nam, trước đây trồng tre làm hàng rào. Ðất tại đây nước thủy triều ngấm, cát vùi; hàng rào tre trở nên khô cằn, tu bổ lại vẫn xác xơ. Xin lập các đồn trấn, mỗi trấn đặt 15 tên lính. Còn đồn trấn Tư Lặc giáp với Giang Bình, An Nam, trước đây đặt 17 tên lính không đủ tra phòng, xin cho thêm 5 tên. Tất cả đều do ngạch binh tại đồn trấn Ðông Hưng lấy ra, vẫn do ngạch binh đồn trấn quản lý.

Ðược chấp thuận.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 498, trang 26)

Tại miền Nam, vào mùa xuân năm Ất Hợi [1755], Thống suất Thiện Chính đem quân từ Nam Vang rút về đồn Mỹ Tho [Tiền Giang] trước; ra lệnh cho người Côn Man [dân Chiêm Thành tại biên giới Việt-Campuchia] bỏ Kha Khâm đem bộ lạc và xe cộ đến đóng ở Bình Thanh. Người Côn Man đi đến Vô Tà Ơn bị quân Chân Lạp hơn vạn người đuổi theo đánh úp; thế bí bèn xếp xe lại làm lũy để chống giữ và cáo cấp; Thiện Chính bị chằm nước ngăn trở không ứng cứu được. Nguyễn Cư Trinh tức thì đem năm đội tùy binh đến cứu, quân Chân Lạp phải rút lui; Cư Trinh bèn hộ vệ hơn 5.000 trai gái Côn Man về đóng ở chân núi Bà Đinh [núi Bà Đen, Tây Ninh]; rồi hặc tâu Thiện Chính về tội bỏ lỡ cơ hội và bỏ rơi dân mới quy phụ; Chúa giận, triệu Thiện Chính về, giáng xuống làm Cai đội. Sai Cai đội Trương Phước Du thống suất quân đội, dùng người Côn Man làm hướng đạo, sang đánh Cầu Nam, Nam Vang [Campuchia]. Nặc Nguyên chạy về Hà Tiên, nương dựa Đô đốc Mạc Thiên Tứ.

Tháng 4 [11/5-9/6/1755], nước Xiêm sai bầy tôi là Lãng Phi Văn Khôn và Khu Sai Lũ Reo đem thư trình bày rằng nước ấy thường sai người đi thuyền sang Hạ Môn [Phúc Kiến], Ninh Ba [Chiết Giang] và Quảng Đông mua sắm hóa vật, có khi vì bão phải ghé vào cửa biển nước ta, bị hữu ty đánh thuế đến nỗi lấy mất cả hàng hóa. Vậy xin chiếu tính số bạc trả lại, và xin cấp cho 10 tấm long bài kiểm điểm nhân khẩu làm bằng, khiến khi thuyền công của hai nước ghé vào cửa biển nào đều được miễn thuế. Chúa bảo các quan rằng :

Việc đánh thuế thuyền buôn buổi quốc sơ đã có định ngạch, quan sở tại chẳng qua chiếu lệ mà thu, có lẽ nào lấy cả hóa vật. Người Xiêm nói thế chỉ là muốn miễn đánh thuế mà thôi, đâu dám đòi ta phải trả lại bạc. Duy việc xin long bài thì cấp cho họ cũng không hại gì, nhưng cho một tấm cũng đủ rồi, chứ lấy nhiều làm gì”.

 Bèn sai gửi cho một tấm long bài và viết thư trả lời.

Về thuế thuyền buôn buổi mới mở nước, vì xứ Thuận Hóa Quảng Nam bờ biển kéo dài, người các nước đến buôn nhiều, nên đặt quan cai trị để đánh thuế. Thể lệ như sau : Thuyền Thượng Hải mới đến nộp 3.000  quan, khi về nộp 300 quan; thuyền Quảng Đông mới đến nộp 3.000 quan, khi về 300 quan; thuyền Phúc Kiến mới đến nộp 2.000 quan, khi về 200 quan; thuyền Hải Đông mới đến 500 quan, khi về 50 quan; thuyền Tây Dương [các nước Âu Châu] mới đến 8.000 quan, khi về 800 quan; thuyền Ma Cao [Quảng Đông], Nhật Bản mới đến 4.000 quan, khi về 400 quan; thuyền Xiêm La, Lữ Tống [Philippines] mới đến 2.000 quan, khi về 200 quan. Thuyền nào giấu giếm hàng hóa thì có tội, tịch thu thuyền và hàng hóa sung công; thuyền không có hàng hóa thì không vào cửa biển. Đại ước hằng năm số tiền thu thuế, ít là không dưới một vạn quan, nhiều là hơn ba vạn quan, chia làm 10 thành, lấy 6 thành nộp kho, còn 4 thành cấp phát cho quan lại và quân nhân.

Nước Xiêm giao trả cho ta 50 người quân và dân bị bão. Trước đây tuần biển ở Gia Định và thuyền dân đi biển bị bão dạt vào hải phận Lục Khôn, đều bị người Xiêm giữ cả. Biên thần Gia Định gửi thư trách về sự giam giữ ấy; người Xiêm được thư, bèn cho đưa trả về.

 Tháng giêng năm Bính Tý, Cảnh Hưng thứ 17 [31/1-29/2/1756], (Thanh, Càn Long thứ 21); nước Ai Lao đến nạp cống nhà Lê. Trước kia, đường đi cống của Ai Lao qua Trấn Ninh, đi suốt đến Nghệ An, dân Trấn Ninh thường bị sứ thần Ai Lao hà hiếp quấy nhiễu. Đến nay, Tù trưởng Trấn Ninh sai người cáo tố với triều đình, xin phái quan quân hộ tống, kiềm chế sứ thần Ai Lao, để khỏi bị họ làm khổ. Trịnh Doanh chuẩn y, cho rút bớt số phu trạm đệ, và răn bảo sứ thần Ai Lao không được quấy rối Trấn Ninh.

Tháng 4 [29/4-28/5/1756], sai bọn Lê Quý Đôn (2) đi dò la xét hỏi quan lại các lộ miền tây nam. Quý Đôn dâng lời: các quan ở phủ huyện, có bọn Nguyễn Duy Thuần thanh liêm, cần mẫn; bọn Trịnh Thụ tham nhũng, thối nát; xin thăng và truất 13 người.

 Chúa Trịnh Doanh bắt đầu ra lệnh cho dẫn người được tuyển bổ vào yết kiến trong phủ. Hạ lệnh cho bộ Lại, khi tuyển bổ cất nhắc người nào phải dẫn người được tuyển vào phủ đường yết kiến, để trực tiếp hỏi về công việc chính trị, người nào có tài năng mới trao cho quan chức. Việc này định thành lệ tiếp tục thi hành.

 Chúa Trịnh lại thân hành thi cống sĩ ở phủ đình, lấy đỗ bọn Ngô Thì Sĩ (3) 48 người. Trong số ấy, sau này có 12 người đỗ tiến sĩ và 3 người đỗ khoa thi Hoành từ. Người ta khen khoa ấy tuyển được nhân tài xứng đáng.

Bấy giờ chính quyền nhà Thanh có việc xãy ra liên quan đến chúa Nguyễn tại miền Nam. Do thuyền của viên Thiên tổng Mân Chiết [Phước Kiến và Chiết Giang] Lê Huy Đức, bị bão trôi dạt vào hải phận nước ta. Chúa hậu đãi rồi cho về, nhân tiện cho đưa về Phước Kiến những người Thanh bị bắt là bọn Lý Văn Quang 16 người. Vào tháng 7 [27/7-25/8/1756] Chúa sai Hàn lâm viện Nguyễn Quang Tiền viết thư cho nhà Thanh,  xưng là An Nam quốc vương. Quang Tiền cố chấp cho là không thể viết như thế, Chúa giận bãi chức. Sau rồi Chúa nghĩ ra, bèn cho viết bức thư với tư cách Trấn thủ mà gửi đi.

Sau khi biết sự việc, Vua Càn Long răn dạy thuộc hạ khi cho người xuất cảnh phải tra xét kỹ, hiểu dụ rõ ràng phải yên phận buôn bán, không được quấy nhiễu tại nước ngoài, rồi sinh sự gây hấn:

Ngày 23 tháng 8 năm Càn Long thứ 21 [17/9/1756]. Dụ các Quân cơ đại thần:

‘Căn cứ vào lời tâu của Khách Nhĩ Cát Thiện về việc An Nam đuổi bọn Lý Văn Quang, 16 người gốc Quảng Ðông trở về. Việc này nguyên do từ hơn 10 năm về trước, huống hồ bọn Lý Văn Quang tại An Nam buôn bán không chịu yên bổn phận đã sai người tranh dành giết nhau; không bàn đến chuyện gian ngay như thế nào, nhưng chúng không phải là dân lành thì có thể thấy được. Nay đã đem bọn Văn Quang trở về, lời cung khai chỉ có một bên mà thôi, xa cách trùng dương, không thể cật vấn. Nếu truy cứu thêm về tội tự tiện giết người, giấy tờ đi về, rất ư phiền nhiễu. Vả lại nếu mà người trong nước sai, rồi tìm cách che chở giúp đỡ, thì trái với sự minh bạch công chính; bởi vậy việc này nên theo lệ mà kết thúc.

Từ nay trở về sau đáng nghiêm sức các quan địa phương khi cho người xuất cảnh phải tra xét kỹ, hiểu dụ rõ ràng phải yên phận buôn bán, không được quấy nhiễu nơi nước ngoài, sinh sự gây hấn. Hãy đem dụ này truyền Khách Nhĩ Cát Thiện, để Tổng đốc, Tuần phủ tại Lưỡng Quảng truyền hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 519, trang 11-12)

Lại nhân viên Bả tổng trong đám thuyền bị bão tâu rằng các đạo Quỳnh Châu và Lôi Châu thuộc Quảng Đông từng đưa thuyền đến miền Nam An Nam, nên Vua Càn Long ra lệnh điều tra:

Ngày 10 tháng 9 nhuần năm Càn Long thứ 21 [2/11/1756]. Dụ các Quân cơ đại thần:

Viên Bả tổng Phúc Kiến Thẩm Thần Lang được ủy ra ngoài, thuyền gặp bão phiêu dạt đến An Nam, rồi lúc trở về chở bọn Lý Văn Quang; lại cung khai rằng các đạo Quỳnh Châu và Lôi Châu lệnh thuyền đưa người đến xứ này. Nay bọn Dương Ứng Cư [Tổng đốc Lưỡng Quảng] tâu rằng ‘Tra rõ tại Quảng Ðông không có việc 2 đạo Quỳnh Châu và Lôi Châu sai chở người đến An Nam; chỉ có người được đi ra ngoài là Lê Ðức Huy phiêu dạt đến An Nam, hiện chưa về.’

Như vậy những lời của Thẩm Thần Lang tâu trước đây thuộc loại tạo dựng ra; còn có chỗ nào nên tra hỏi Lê Ðức Huy, đợi khi y trở về quân doanh thì Tổng đốc, Tuần phủ ra lệnh điều tra. Án này cung từ khai trước sau không phù hợp; các Tổng đốc, Tuần phủ tại Phúc Kiến, Quảng Ðông cần làm việc này. Ai có tội trưng ra rõ ràng để trừng trị. để ngăn chặn sự gian dối. Hãy ra lệnh thi hành rồi tâu đầy đủ minh bạch. Có thể truyền dụ để hay biết.” (THANH THỰC LỤC, CAO TÔNG THỰC LỤC quyển 522, trang 11-12)

Tại miền Nam vào năm Bính tý[1756], Nặc Nguyên nước Chân Lạp trình bày rằng việc đánh cướp Côn Man vào năm trước là do tướng Chiêu Chùy Ếch gây ra, nay xin hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp [Vĩnh Long] và nộp bù lễ cống còn thiếu về ba năm trước để chuộc tội. Mạc Thiên Tứ đem việc tâu lên. Chúa cùng các quan bàn, ra lệnh hãy bắt Chiêu Chùy Ếch đem nộp. Nặc Nguyên trả lời rằng Ếch đã bị xử tử rồi. Bèn sai bắt vợ con, Nguyên lại kiếm cớ xin tha. Chúa biết là nói dối, không y lời xin; nhưng Nguyễn Cư Trinh tâu rằng :

Từ xưa việc dụng binh chẳng qua là để trừ diệt bọn đầu sỏ và mở mang thêm đất đai. Nặc Nguyên nay đã biết ăn năn xin hàng nộp đất, nếu truy mãi lời nói dối ấy thì nó tất chạy trốn. Nhưng từ đồn dinh Gia Định đến La Bích [Longvek, Campuchia], đường sá xa xôi, nghìn rừng muôn suối, không tiện đuổi đến cùng. Muốn mở mang đất đai cũng nên lấy hai phủ này trước để củng cố mặt sau của hai dinh. Nếu bỏ gần cầu xa, e rằng hình thế cách trở, binh dân không liên tiếp, lấy được tuy dễ, mà giữ thực là khó. Khi xưa mở mang phủ Gia Định tất phải trước mở đất Hưng Phước [huyện Xuyên Mộc, Bà Rịa], rồi đến đất Đồng Nai, khiến cho quân dân đông đủ, rồi sau mới mở đến Sài Gòn. Đó là cái kế tằm ăn dần. Nay đất cũ từ Hưng Phước đến Sài Gòn chỉ hai ngày đường, dân cư còn chưa yên ổn, quân giữ cũng chưa đủ. Huống từ Sài Gòn đến Lâm Bôn, xa sáu ngày đường, địa thế rộng rãi, dân số đến vạn người, quân chính quy đóng giữ thực sợ chẳng đủ. Thần xem người Côn Man giỏi nghề bộ chiến, người Chân Lạp cũng đã sợ lắm. Nếu cho họ đất ấy khiến họ chống giữ, “lấy người Man đánh người Man”, cũng là đắc sách. Vậy xin cho Chân Lạp chuộc tội, lấy đất hai phủ ấy, ủy cho thần xem xét hình thế, đặt lũy đóng quân, chia cấp ruộng đất cho quân và dân, vạch rõ địa giới, cho lệ vào châu Đinh Viễn, để thu lấy toàn khu”.

Chúa bèn  chấp thuận.


Chú thích:

1.Thời nhà Thanh các đạo quân chia ra từng sắc cờ, quân người Hán mang cờ xanh biếc, gọi là Lục kỳ.

2.Lê Quý Đôn: Người xã Duyên Hà, huyện Duyên Hà [huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình] , Quý Đôn lúc còn bé có tiếng là thần đồng, đỗ Bảng nhãn khoa Nhâm Thân [1752].

  1. Ngô Thì Sĩ: Người làng Tả Thanh Oai [xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội] , huyện Thanh Oai, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766).

Bình luận về bài viết này