Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Hiển Tông [1740-1786]- Bài 4

    Hồ Bạch Thảo

 Tháng 3 năm Bính Dần, Cảnh Hưng thứ 7 [21/4-19/5/1746], (Thanh, năm Càn Long thứ 11); phong Nguyễn Hữu Cầu tước Hương Nghĩa hầu, rồi cho triệu về triều, nhưng Hữu Cầu không đến. Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh dồn, thua luôn, thế lực mòn mỏi. Nhân sai đồ đảng tên là Hựu đem nhiều bạc đút lót cho quyền thần là Đỗ Thế Giai và nội giám Nguyễn Phương Đĩnh, để xin đầu hàng. Trịnh Doanh y cho, hạ lệnh cho Hữu Cầu cùng đồ đảng là bọn Hoàng Phùng Cơ được phép xóa hết tội trước, ban cho hiệu cho Cầu là Ninh Đông tướng quân và phong tước Hương Nghĩa hầu, tướng lãnh của Cầu đều được thăng làm quan, lại ban thưởng rất hậu, rồi hạ lệnh triệu về kinh sư. Nhưng thực ra Hữu Cầu không có ý đầu hàng, thường lấy cớ bị Đình Trọng ngăn đón để tố cáo về triều. Trịnh Doanh sai Thiêm tri Nguyễn Phi Sảng đem lệnh chỉ đến phủ dụ và triệu về, mặt khác dụ bảo Đình Trọng hoãn lại đừng đánh Hữu Cầu. Trước kia, Hữu Cầu nhiều lần bị Đình Trọng đánh bại, bèn đào mả mẹ Đình Trọng quẳng xuống sông, Đình Trọng khóc lóc tố cáo với Trịnh Doanh, thề quyết chí giết Hữu Cầu, Doanh rất khen chí khí Đình Trọng. Nay Phi Sảng đem dụ chỉ đến, Đình Trọng nói:

Người làm tướng ở ngoài chiến trường, có khi không chịu nhận mệnh lệnh của vua. Tôi với Hữu Cầu không cùng đội trời chung, tôi đã từng nói ở trước Chúa thượng. Nay ông tự nhận mệnh lệnh đi chiêu hàng, tôi tự nhận mệnh lệnh đi giết giặc, nếu gặp thế có thể đánh được giặc, thì tôi cũng không vì cớ ông đến chiêu hàng mà ngần ngại“.

Phi Sảng nghe câu nói ấy sợ thất sắc, nhân từ giả ra đi. Phi Sảng đến quân doanh Hữu Cầu, bày tỏ dụ chỉ của chúa Trịnh, lại đem câu nói của Đình Trọng bảo cho Hữu Cầu biết. Câu chuyện chưa nói dứt lời thì Đình Trọng ập đến đánh úp. Hữu Cầu sai người dẫn Phi Sảng theo đường tắt trở về, rồi ra đánh nhau, Đình Trọng đánh cho Hữu Cầu đại bại, Cầu phải bỏ trốn. Trước kia, Đình Trọng nhận mệnh lệnh đi đánh giặc, chiêu mộ các người mạnh khỏe ở Thanh Hà [Hải Dương], Tứ Kỳ [Hải Dương], Vĩnh Lại [huyện Bình Giang, Hải Dương] và Thượng Hồng [huyện Bình Giang] làm nghĩa binh, đặt hiệu riêng là bốn cơ Thanh, Kỳ, Hồng, Vĩnh, mà dùng hai người thủ hạ để quản lãnh. Đến nay, Thế Giai gièm pha nói:

Đình Trọng cầm quân ở ngoài, đặt bộ ngũ riêng, chắc không khỏi có ý khác

Trịnh Doanh biết Đình Trọng nguyện một lòng trung thành, nên bỏ lời Thế Giai đi không hỏi, lại đặc chỉ ban cho bài thơ để yên ủi Đình Trọng.

Tháng 10 [13/11-11/12/1746], định lại thuế ruộng đất ở Thanh Hoa. Từ khi dụng binh đánh dẹp, đồng ruộng ở Thanh Hoa bỏ hoang, thuế tô nộp vào kho phần nhiều ít hơn ngạch cũ. Bèn hạ lệnh cho viên quan cai trị, khám xét sự thực, đánh thuế theo từng hạng khác nhau.

Tại miền Nam, bắt đầu đúc tiền kẽm trắng. Trước kia thời Chúa Nguyễn Phước Chú [1726-1738] sai đúc tiền đồng, sở phí rất nhiều mà dân gian lại nhiều người phá để làm đồ dùng, số tiền đồng ngày thêm hao giảm. Đến đây người nước Thanh là họ Hoàng xin mua kẽm trắng của Tây để đúc tiền cho rộng việc tiêu dùng. Chúa Nguyễn Phúc Khoát nghe lời, mở cục đúc tiền ở Lương Quán [huyện Hương Thủy, Thừa Thiên]. Vành tiền và giữa theo thể thức tiền Tường Phù nhà Tống; lại nghiêm cấm đúc riêng, từ đó tiền của lưu thông, công tư đều tiện.

Người Chàm đất Thuận Thành [Bình Thuận] là Dương Bao Lai và Diệp Mã Lăng nổi loạn. Lưu thủ dinh Trấn Biên [Biên Hòa] là Nguyễn Cương đem quân đi đánh, đắp lũy Cổ Tỉnh để chống giặc, thừa lúc sơ hở đánh úp bắt được Bao Lai và Mã Lăng giết đi.

 Tháng giêng Đinh Mão, năm thứ 8 [9/2-10/3/1747], (Thanh, năm Càn Long thứ 12); Chúa Trịnh cấm dùng thủ đoạn ngang ngược bắt dân phu theo đi đánh giặc. Lúc ấy, tướng sĩ đi đánh giặc, có nhiều người dùng thủ đoạn ngang ngược, để bắt dân phu, gọi là đánh giặc theo nghĩa vụ [nghĩa chiến], gây nhũng nhiễu không kể xiết, cho nên hạ lệnh cấm.

Tháng 6 [8/7-5/8/1747], dân Lào tại Lạc Hòn [Lạc Biên, Lào] tại tây nam Nghệ An lại đến nạp cống. Năm trước, Lạc Hòn cùng Cao Châu [Cam Môn, Cam Cớt; Lào] đến cống, nay lại sai sứ thần đến cống, và xin định 3 năm một lần cống voi khỏe. Ngoài ra, các thổ sản như sừng tê, vải hoa, chiêng đồng, tùy theo có thứ gì cống thứ ấy. Sau đó, lại dâng voi trắng, nhưng triều đình không nhận.

Tháng 9 [4/10-2/11/1747] Chúa Trịnh Doanh chăm về công việc chính trị, hạ lệnh đặt chuông và mõ ở cái điếm tại cửa phía tả phủ đường. Có người nào trình bày công việc hiện thời hoặc có tài nghệ mà tự mình tiến cử, thì đánh chuông; người nào bị bọn quyền quý ức hiếp hoặc có sự oan uổng chưa được bày tỏ, thì đánh mõ. Những người này đều phải làm đủ giấy tờ niêm phong kín. Lại phiên lập tức dâng lên để Chúa biết.

Về phía nhà Thanh, 3 viên Tổng đốc Lưỡng Quảng, Tuần phủ và Đề đốc Quảng Tây cùng tâu về triều sự việc quân An Nam tại huyện biên giới Thượng Lang [huyện Trùng Khánh, Cao Bằng] truy kích giặc vào ban đêm, lỡ giết lầm quân Thanh tại đồn biên giới Ngạnh Hán thuộc châu Qui Thuận [Tĩnh Tây thị, Quảng Tây]:

Ngày 29 Bính Tuất tháng 10 năm Càn Long thứ 12 [1/12/1747]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Sách Lăng, quyền Tuần phủ Quảng Tây Ngạc Xương, Ðề đốc Quảng Tây Ðậu Bân tâu:

Tại đồn Ngạnh Hán châu Qui Thuận, nhân bọn giặc phỉ An Nam cướp phá thôn, quân lính nước này truy bắt trong đêm, xông ngược lên núi. Quân lính nội địa đóng trong đồn, nghe tiếng súng nổ nơi biên giới, tiến lên ngăn chặn; vừa lúc viên Ðầu mục Phiên dẫn quân đến, bắn lên triền núi, vì tối trời không phân biệt được, lỡ giết quân trong đồn. Sau khi nghe các quan văn võ nội địa tra hỏi, bèn đem những tên lính lầm lỗi, lục tục tống tiến. Hiện tại chiếu hội viên quốc vương cho điều tra chánh phạm Phiên mục lỡ giết quân binh, đưa đến biên giới, để được các quan nội địa chứng giám hành quyết.

Chiếu báo đã nhận được.

Tổng đốc Sách Lăng lại mật tâu:

Việc lính đồn Ngạnh Hán bị giết lầm, ngoại trừ 2 viên Tuần phủ và Ðề đốc tâu đầy đủ; thần điều tra đích xác việc gây hấn do An Nam truy đuổi giặc phỉ, trời tối không phân biệt được, nên có đánh giết. Nhưng quan ải nơi biên giới liên quan đến thể thống của Thiên triều, không tiện coi đó là việc lầm lỡ, để buông thả sự đề phòng trong ngoài. Thần đã gửi hịch cho viên Quốc vương, bắt điều tra rõ để liệu biện. Nội dung hịch gửi đi, nói rằng chưa tâu lên triều đình, để viên Quốc vương có thì giờ suy nghĩ, lo lắng hối tội trong lòng. Mong ân tạm hoãn giáng chỉ, đợi viên Quốc vương phúc trình, đến lúc đó thần sẽ phân tích tâu lên.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðã xem.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 301, trang 29-30 )

Tại miền Nam vào tháng giêng [9/2-10/3/1747], khách buôn người Thanh tên là Lý Văn Quang đánh úp dinh Trấn Biên [Đồng Nai]; Cai cơ Tống Phước Đại đánh dẹp được. Văn Quang người Phước Kiến sang ngụ ở bãi Đại Phố [cù lao Phố, Biên Hòa]. Bấy giờ trong nước bình yên đã lâu, ít dùng binh; Văn Quang ngấm ngầm có ý dòm ngó, bèn mưu làm loạn. Hắn tụ đảng hơn 300 người, tự xưng là Đông Phố đại vương, lấy đồng đảng là Hà Huy làm Quân sư, Tạ Tam, Tạ Tứ làm tả hữu Đô đốc, mưu đánh úp dinh Trấn Biên. Sợ Cai bạ Nguyễn Cư Cẩn võ nghệ giỏi nên chúng mưu trừ trước. Bèn nhân tiết Nguyên đán phục quân để đâm; Cư Cẩn bị thương mà còn tự tay đâm chết được 5, 6 người, sau vì vết thương nặng mà chết. Quân dưới quyền nghe tin tới cứu; Văn Quang chạy, chặn cầu để chống. Lưu thủ Nguyễn Cường đem binh của dinh dàn ở bờ phía bắc, gửi hịch báo Cai cơ đạo Hưng Phước là Tống Phước Đại hợp quân đánh dẹp. Bắt được Văn Quang và đồ đảng 57 người. Chúa thấy là người Thanh nên không giết vội, đều bắt hạ ngục.

Tháng 4 [9/5-7/6/1747], Đô đốc trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ, ủy người đi thuyền Long bài, đem dâng ngọc kim cương thủy hỏa, ngọc hạc đính, gà tây, chim vẹt ngũ sắc, chiếu hoa, vải tây. Chúa khen, ban bốn đạo sắc bổ nhiệm Cai đội và Đội trưởng làm việc ở trấn, cùng ban gấm đoạn và đồ dùng, rồi cho về.

Tháng 8 [5/9-3/10/1747], giặc biển tên là Đức cướp bóc miền ngoài biển Long Xuyên [Cà Mâu]. Mạc Thiên Tứ được tin báo, tức thì sai cai đội Từ Hữu Dụng đem 10 chiếc chiến thuyền, bắt được bọn giặc đem giết hết.

Tháng giêng năm Mậu Thìn, Cảnh Hưng thứ 9 [30/1-27/2/1748], (Thanh, năm Càn Long thứ 13). Trước đây, phân phối vệ binh lệ thuộc vào các vệ, người đứng cai quản phần nhiều đem binh lính làm việc riêng, kỷ luật lỏng lẻo, về đường thực dụng không có ích gì. Triều đình bèn hạ lệnh cho vệ binh lệ thuộc vào trấn, chia đặt từng cơ, từng đội, cứ 200 người làm một cơ, cho phép một nữa ở quân ngũ, một nữa về làm ruộng, thay đổi lẫn nhau. Người nào ở quân ngũ thì hàng tháng cấp cho 6 tiền làm lương ăn; do đấy vệ binh bèn bãi bỏ.

Tháng 8 [24/8-22/9/1748], lúc ấy, giặc cỏ Sơn Nam [Thái Bình, Nam Định] chưa dẹp yên, mà bất thần có lúc giặc ở Sơn Tây tràn xuống gần kinh thành. Nhân đấy, hạ lệnh cho bọn Lê Hữu Kiều, Hà Huân, Vũ Khâm Lân và Ngô Đình Oánh chia nhau giữ nơi xung yếu, ngày đêm tuần hành xem xét, dự định mưu kế ngăn ngừa. Bầy tôi trong chính phủ lại dâng kế phòng thủ, đại lược xin trồng tre, trồng cây để hàng rào doanh trại được vững bền; đặt tám cửa thành để xét hỏi người ra vào. Trịnh Doanh theo lời, vì thế chia trong kinh kỳ làm 36 khu, gồm làm 9 điện, mỗi điện 4 khu, đặt một người làm Điện chánh.

Tháng 9 nhuận [22/10-20/11/1748], Nguyễn Hữu Cầu xâm phạm Sơn Nam. Sai Phạm Đình Trọng đi đánh. Hữu Cầu đã xin hàng, nhưng vẫn cướp bóc không thôi. Trịnh Doanh sai Hiệu lý Nguyễn Thế Khải vào trại quân Hữu Cầu dụ bảo triệt bỏ quân lính đi, Hữu Cầu không nhận mệnh lệnh. Sau đó, Hữu Cầu giao thông với giặc là tên Lân, lẻn lút đến Duyên Hà [Thái Bình] đánh úp Sơn Nam, nhưng không thắng được. Đến nay, lại hợp sức với bọn giặc cỏ, tiến quân sát đến Sơn Nam. Trấn tướng Vũ Tá Sắt đánh nhau với bọn Hữu Cầu, không thắng lợi. Trịnh Doanh nhận thấy Hữu Cầu vốn sợ Đình Trọng, nên sai Đình Trọng đi đánh.

Phạm Đình Trọng đuổi đánh, Hữu Cầu thua chạy. Hữu Cầu bị Đình Trọng đánh bại ở Cẩm Giàng [Hải Dương], nhân đấy bàn với đồ đảng rằng:

 “Ta mới bị thua, tin thắng trận đưa về, tất nhiên ở kinh sư không phòng bị, ta đem quân đánh úp thế nào cũng thắng được“.

Cầu bèn nhân ban đêm mang quân đi gấp, hẹn trống canh năm đến bến Bồ Đề [Bắc Ninh], lẻn cho quân sang sông; nhưng khi đến bến, thì trời đã sáng rồi. Trịnh Doanh tự làm tướng, chống cự ở bến sông phía Nam. Đình Trọng được tin, đem hết quân lính đuổi theo, lại đánh thắng được, Hữu Cầu bỏ trốn. Trước kia, năm Canh Thân và Tân Dậu (1740-1741) liền hai năm mất mùa, vùng Hải Dương lại kém đói hơn cả. Hữu Cầu cướp thuyền buôn lấy được thóc gạo, bèn đem chia cho dân; nhờ đấy nhiều người được cứu sống. Hữu Cầu lại đưa đẩy bằng mưu mô xảo quyệt, sai khiến bằng uy quyền võ lực, nhân dân người bị uy hiếp, người bị dụ dỗ, thành ra lâu ngày tự nhiên tín phục, cho nên Hữu Cầu tuy thường bị thua đau, chỉ một thân thoát nạn, những hễ giơ tay hô một tiếng, thì chốc lát quần chúng lại sum hợp như mây, vì thế mà có thể tung hoành ở mặt đông bắc, kiệt hiệt trong một đời.

 Về phía nhà Thanh, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Sách Lăng tiếp tục giải quyết việc đầu mục An Nam đuổi giặc, lỡ giết lầm binh lính Trung Quốc tại đồn biên giới Ngạnh Hán vào năm ngoái. Sách Lăng thi thố 2 biện pháp, bị Vua Càn Long trách rằng chưa thỏa đáng: Khi quan An Nam Hoàng Phương Thụy đến dâng cáo trạng, đáng giữ trong nội địa, để tra hỏi sự thực; nhưng Sách Lăng đã cho trở về nước, như vậy là buông lỏng. Nay trong tờ tâu lại muốn bức bách An Nam, ra kỳ hạn nạp tội phạm, dọa bởi binh uy; Càn Long cho như vậy là quá đáng:

Ngày 24 Mậu Dần tháng 2 năm Càn Long thứ 13 [22/3/1748]. Lại dụ các Quân cơ đại thần:

‘Án tại đồn Ngạnh Hán, tỉnh Quảng Tây, trong đêm tối Ðầu mục Phiên truy đuổi giặc phỉ, giết lầm binh dõng tại đồn. Trước đây Sách Lăng tâu rõ đã cho viên Quốc vương An Nam biết phải đem tên chánh phạm đến biên giới, theo quốc điển xử tử. Nay bọn Sách Lăng lại tâu những lời rằng: Bọn dân Di Hoàng Phương Thụy mang cáo trạng đến, lời lẽ che đậy, cho mang trở về An Nam; lệnh căn cứ hịch đã truyền trước đó để thi hành.

Xét viên Di mục giết quân lính nội địa, không đưa đến trị tội, lại mang cáo trạng lời lẽ che đậy đến, thật thuộc loại giảo hoạt; không thể nhân vì thuộc đất ngoại Di, rồi xét xử cẩu thả, để đó không hỏi tội. Lần này người Di mang cáo trạng đến, đáng giữ lại, cật vấn sự thực, lại cho trở về, chỉ ra lệnh tuân theo hịch dụ trước mà thi hành; xử sự như vậy không khỏi sai vì quá buông lỏng. Sự việc quan hệ đến quốc thể, hãy truyền dụ Sách Lăng lưu tâm lo liệu. Sau khi liệu tính xong, thẩm xét kết cuộc như thế nào, đem tình hình tâu lên đầy đủ.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 309, trang 25-26)

Ngày 29 Nhâm Tý tháng 5 năm Càn Long thứ 13 [24/6/1748]. Dụ Quân cơ đại thần:

Tổng đốc Lưỡng Quảng Sách Lăng lại tâu về vụ án Ðầu mục Phiên trong đêm tối truy đuổi giặc phỉ đã giết lầm binh dõng đồn Ngạnh Hán, xưng rằng ‘Ðịnh hạn trong 2 tháng, phải tống xuất hung phạm; nếu còn kéo dài che đậy, thì đốc suất Trấn tướng mang quân ra lệnh nạp hung phạm.’

Trước đây Sách Lăng biện lý án này, được coi là sai lầm. Khi bọn Hoàng Phương Thụy đến dâng cáo trạng, đáng giữ trong nội địa, để tra hỏi sự thực; nhưng Sách Lăng đã cho nguyên phạm trở về nước, như vậy là buông lỏng làm cho chúng càng thêm giảo hoạt. Nay trong tờ tâu lại muốn bức bách ra kỳ hạn, dọa bởi binh uy; vậy trước đây sai vì khoan, nay lại quá đáng vì nghiêm vậy.

An Nam vốn là nước cung thuận, đất đai lại ngoài xa biên giới; nếu chỉ vì việc vụn vặt, mang quân đi hỏi tội, một khi gây hấn hiềm khích, đưa đến chỗ lỡ việc sinh mối hận, mầm loạn không dứt. Há lại dựa Thiên triều to lớn, để làm khó các nước nhỏ nơi hoang dã? Vả lại vụ án đối với viên Phiên mục thuộc loại giết lầm binh nội địa, xét về tình có thể châm chước, mà viên Quốc vương phúc đáp cũng khiêm tốn thuận tòng, nên chưa thể cử sự khinh suất. Hãy truyền dụ bọn Sách Lăng lượng sự thế rõ ràng, đừng để mất quốc thể, nhưng cũng nhắm yên tĩnh biên cương không nhân đó mà gây hấn, nhắm vẹn toàn cả hai. Cũng không vì chiếu chỉ này của Trẫm mà làm quá điều phải, coi nhẹ nước Di xa xôi.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 315, trang 39-40)

Vào cuối năm, sứ bộ An Nam sang tiến cống; nhân viên Bồi thần Nguyễn Thế Lập mất, nhà Thanh cho làm lễ tế:

Ngày 18 tháng 12 năm Càn Long thứ 13 [6/2/1749]. Nước An Nam tiến cống, Bồi thần Nguyễn Thế Lập mất. Theo lệ, sai quan đến tế.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 331, trang 27)

Tại miền Nam vào tháng giêng [30/1-27/2/1748] Chúa Nguyễn sai Điều khiển Nguyễn Hữu Doãn đi đánh Chân Lạp, dẹp yên. Trước kia Nặc Tha nước Chân Lạp lên ngôi Vua. Nặc Thâm từ nước Xiêm về, Tha không chịu nhận. Thâm cử binh đánh, Tha chạy sang Gia Định; Thâm liền chiếm lấy đất. Đến khi Thâm chết, con là Đôn, Hiên, Yếm tranh nhau làm vua. Bề tôi là Sô Liên Tốc nhân nổi lên cướp phá Mỹ Tho. Hữu Doãn đem quân tiến đánh, Sô Liên Tốc thua to. Hữu Doãn đốt hết chiến thuyền, thừa thắng đến thẳng Nam Vang. Đôn, Hiên và Yếm đều trốn chạy. Hữu Doãn báo tin thắng trận; rồi đưa Nặc Tha về nước.

Vào tháng 6 [26/6-24/7/1748], Nặc Nguyên, con thứ hai Nặc Thâm, cùng Cao La Hâm và ốc Đột Lục Mân cầu viện quân Xiêm về đánh Nặc Tha.Tha lại chạy sang Gia Định, rồi bị bệnh chết; Nặc Nguyên bèn làm Vua nước Chân Lạp

Tháng 10 [21/11-19/12/1748] bắt đầu đặt đường trạm ở Gia Định. Đất Gia Định nhiều nơi lầy lội; khi mới mở mang, đường bộ chưa thông, hành khách đi lại vất vả, việc báo cáo về biên cương cũng không tiện. Chúa sai Hữu Doãn ngắm đo địa thế, chăng dây lấy thẳng bắt đầu từ phía bắc Tất Kiều [cầu Sơn, huyện Bình Dương xưa, nay thuộc Sài Gòn] Gia Định, đến địa phận Hưng Phước [huyện Phước An xưa, tức huyện Xuân Lộc, Đồng Nai], tùy chỗ mà đặt trạm, gọi là đường thiên lý. Hễ gặp sông to thì sai dân sở tại đặt bến đò, cho miễn dao dịch.

Tháng 3 năm Kỷ Tỵ, Cảnh Hưng thứ 10 (17/4-15/5/1749), (Thanh, năm Càn Long thứ 14). Có thủy tai lớn gần kinh thành; nước tràn ngập, đê bị vỡ. Triều đình hạ lệnh tạm bắt dân phu bồi đắp, hoãn thu tô.

 Lê Duy Mật đem quân đến huyện Hoài An [huyện Chương Mỹ, Hà Tây], Trịnh Doanh thấy gần với khu vực kinh kỳ, bèn sai bọn đô đốc Văn Đình Ức và hiệu điểm Mai Thế Chuẩn chia quân chiểu theo địa thế phòng ngự, ngăn chặn quân Lê Duy Mật.

Tháng 6 [14/7-12/8/1749], bấy giờ vì có việc đánh dẹp, nên các quan bàn định bắt thêm lính để tăng thêm thế lực quân đội. Bèn hạ lệnh cho bọn Vũ Tá Quán tuyển lấy đinh tráng ở các huyện Nam Xang [huyện Lý Nhân, Hà Nam], Phú Xuyên [Hà Tây] và Thượng Phúc [huyện Thường Tín, Hà Tây] sung vào quân ngũ, miễn cho thuế đinh, bắt phải tự sắm lấy khí giới để thao luyện diễn tập, hẹn khi nào dẹp yên được giặc sẽ tha cho về.

Tháng 7 [13/8-11/9/1749], sửa đắp thành bằng đất ở kinh đô. Chúa Trịnh Doanh hạ lệnh xem xét địa thế trong kinh kỳ, liệu lượng công trình đắp đất, số dân phu phải làm; rồi bắt dân các huyện chung quanh góp sức sửa đắp. Khi đắp xong, mở tám cửa, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, phân phối binh lính canh giữ để phòng.

Tháng 10 [10/11-9/12/1749], Trịnh Doanh hội hợp quan quân ba đạo ở bờ phía bắc sông Bồ Đề [Bắc Ninh], hạ lệnh cho Hoàng Ngũ Phúc vẫn kiêm chức Thống lãnh, Phạm Đình Trọng vẫn giữ chức Hiệp thống lãnh đem quân đi đánh Nguyễn Hữu Cầu. Bọn Ngũ Phúc đã từng nhiều năm đi đánh dẹp, biết rõ được địa thế, địch tình, đến nay họ xem xét thời cơ chặn đánh, nhiều lần thắng trận, đồ đảng của Hữu Cầu phần nhiều đến cửa quân đầu hàng, nên dần dần chuyển sang cái thế có thể dẹp yên được.

Về phía nhà Thanh tiếp tục giải quyết việc quân An Nam giết lầm tại đồn Ngạnh Hán. Lúc này An Nam bằng lòng áp giải phạm nhân đến để thẩm vấn; Vua Càn Long nhân đó dùng biện Pháp “dơ cao, đánh sẽ”, cho thuộc hạ nghiêm khắc chấp pháp, sau đó nhà Vua sẽ mở đường khoan hồng:

Ngày 27 Ðinh Sửu tháng 11 năm Càn Long thứ 13 [15/1/1749].Lại dụ các Quân cơ đại thần:

Thư Lộ tâu những lời rằng: Lính đồn Ngạnh Hán bị giết, do quân An Nam truy đuổi giặc phỉ, vì trời tối không phân biệt được. Nhưng viên Quốc vương vốn xưng cung thuận, nay lại tuân lệnh áp giải phạm nhân đến để thẩm vấn; tuy vẫn sai vì mấy lần cầu xin tha, tuy nhiên xin chuẩn theo lời xin tỏ thêm sự khoan hồng.

 Bọn Di bên ngoài giết hại lính đóng đồn của Trung Quốc, tội không tha được, quan Ðại thần coi đất nơi biên giới đáng chấp pháp định đoạt. Trẫm có nghĩ đến viên Quốc vương vốn cung thuận, cuối cùng sẽ giảm nhẹ để làm rõ ơn nhu viễn (1) . Hãy truyền dụ Thư Lộ, cứ theo luật mà kết tội, rồi nghe tiếp chỉ dụ.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 329, trang 34-35)               

Viên Tuần phủ Quảng Tây Thư Lộ thi hành đúng theo vai trò của mình; khi An Nam đưa phạm nhân đến bèn xin đưa ra nơi biên giới chém đầu:

Ngày 28 Ðinh Sửu tháng giêng năm Càn Long thứ 14 [16/3/1749]. Tuần phủ Quảng Tây Thư Lộ tâu:

Trấn Mục An Nam Vũ Ðình Dung áp giải bọn Hoàng Phúc Vệ phạm tội giết lính đồn [Ngạnh Hán] vào biên cảnh. Trình bày nước họ đội ơn sâu, cung thuận cẩn trọng, trời đất soi xét. Vào trước giờ ngọ [ 12 giờ trưa] hôm đó, người dân Phiên truy đuổi giặc phỉ, rồi đến tối thì lầm mà phạm phải; nhân phụng theo hịch dụ, áp giải đến để được thẩm xét. Thần nghĩ người xa tuân hịch giải phạm nhân đến, thưởng cho trâu rượu; rồi lập tức theo phép nước, sai quan nghiêm minh tra xét, thấy được vì trời tối giết lầm. Thấy bất tiện chiếu theo luật xử người bình thường, xin đưa ra nơi biên giới chém đầu chính pháp.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðã hiểu.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 333, trang 38-39)

Cuối cùng Vua Càn Long thể theo chính sách nhu viễn, khoan miễn tội chết cho 2 phạm nhân Hoàng Phúc Vệ, Lý Phúc Trị; giao cho viên Quốc vương tùy nghi xử trị:

Ngày20  Ðinh Mão tháng 5 năm Càn Long thứ 14 [4/7/1749]. Nha môn bộ Hình phúc tấu:

Tổng đốc Lưỡng Quảng Thạc Sắc tâu: Ðịa phương đồn Ngạnh Hán châu Qui Thuận tiếp giáp An Nam, đã xây tường đặt binh để phòng ngự. Nhân bọn giặc phỉ họ Mạc An Nam cướp phá thôn xóm, Phiên mục mang quân đuổi bắt đến giới hạn bờ tường; binh phòng thủ trong đồn cũng đồng thời truy đuổi, trong lúc tối trời không thể biện biệt, nên 2 binh dõng bị giết, lại bị bắt đi 2 tên. Sau khi nội địa điều tra, lại căn cứ vào viên Quốc vương Lê Duy Vĩ xưng: Nước tôi cung thuận Thiên triều, án này do Thổ binh Hoàng Phúc Vệ, Lý Phúc Trị cùng với viên Thổ mục Lê Hữu Qui trong đêm tối đuổi giặc phỉ, gây nên việc giết lầm. Ðã đem viên Thổ mục cách chức trị tội, lại giải hung phạm đến để thẩm vấn, xin phân biệt cố tình hay giết lầm.

 Ðáng đem Thổ binh Hoàng Phúc Vệ, Lý Phúc Trị chiếu theo lệ quân binh xuất chinh phạm pháp loạn kỹ luật, xử chém. Lại ra lệnh quan địa phương và Phiên mục nước này cùng chứng kiến phạm nhân bị chính pháp tại biên giới. Thổ mục Nùng Công Phái, chiếu theo luật tự tàn hủy thân xác, bị đánh trượng phạt lưu đày. Phiên mục Lê Hữu Qui đích thân chỉ huy Phiên binh, gây nên việc đánh giết, cần ra lệnh viên Quốc vương trị tội nặng.

 Ðáng theo lời đề nghị của viên Tổng đốc.

Nhận được chiếu chỉ:

Hoàng Phúc Vệ, Lý Phúc Trị giết hại lính nội địa, đáng chịu án xử chém. Nhưng Trẫm duyệt kỹ sự tình vụ án, những phạm nhân này cùng binh lính nội địa truy đuổi bọn giặc phỉ họ Mạc, nhân tối trời không biện biệt được, nên gây giết lầm. Như vậy bọn Hoàng Phúc Vệ vốn vô tâm, vả lại viên Quốc vương nhận được văn thư từ Tổng đốc, Tuần phủ, tức đem hung phạm hiến, không một chút bao che, thấy được tấm lòng hằng cung kính. Nay khoan miễn tội chết cho Hoàng Phúc Vệ, Lý Phúc Trị; giao cho viên Quốc vương xử trị; các điều khác y theo lời xin.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 341, trang 10-11)

Tháng 11 năm Canh Ngọ, Cảnh Hưng thứ 11 [29/11-28/12/1750], (Thanh, năm Càn Long thứ 15); bắt đầu thu tiền Thông kinh (2). Vì phải dùng quân đánh dẹp, chi phí rất nhiều, tài dụng trong nước không đủ; nên năm này gặp khoa thi hương, hạ lệnh cho mỗi người nộp ba quan tiền, sẽ miễn phải khảo hạch và đều cho đi thi, gọi là tiền Thông kinh. Do đấy, người làm ruộng, buôn bán, đồ tể, đều hớn hở nộp quyển đi thi. Ngày vào trường thi, học trò giày xéo lẫn lên nhau đến nỗi có người chết. Trong trường thi thì kẻ mang sách, kẻ mướn người làm dùm, quan trường cùng người gian trá, làm như họp chợ; phép thi hết sức thối nát.

Tháng 12 [29/12/1750-26/1/1751]. Trịnh Doanh tự đốc suất đại quân đi đánh Nguyễn Danh Phương. Khoảng đầu năm Vĩnh Hựu [1740], giặc ở Sơn Tây là Tế và Bồng nổi loạn, khi Tế và Bồng bị bại, Danh Phương tập hợp quân chúng còn sót lại được vài vạn người, chiếm cứ núi Độc Tôn thuộc huyện Tam Dương [Vĩnh Phúc]. Sau khi thua trận ở Bạch Hạc [huyện Việt Trì, Phú Thọ], Danh Phương chỉ dựa vào nơi hiểm trở đế cướp bóc vặt, không dám khinh thường đem quân ra. Đến lúc Hoàng Phùng Cơ đầu hàng, được triều đình sẵn lòng vỗ về yên ủi, Danh Phương thấy thế, cũng có ý muốn xin hàng. Y bèn dùng lễ vật rất hậu bí mật đút lót cho vợ chúa Trịnh là Nguyễn Thị và hoạn quan Đàm Xuân Vực; Xuân Vực giúp dâng tờ hiểu đầu hàng, Trịnh Doanh y cho. Nhưng khi triệu vào triều thì Danh Phương không nhận mệnh, lại làm phản, chiếm cứ núi Ngọc Bội [huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc] làm sào huyệt gọi là đại đồn, sau đến đồn Hương Canh [huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc] gọi là trung đồn, Úc Kỳ [huyện Phú Bình, Thái Nguyên] gọi là ngoại đồn; còn các đồn lẽ khác lại nhiều gấp hai. Quân đóng ở đâu đều làm ruộng, chứa thóc, làm kế giữ lâu. Lại tự tiện giữ mối lợi về chè, sơn, tre, gỗ ở miền thượng du và xưởng mõ ở Tuyên Quang, do đó mà thóc gạo của báu chứa cao như núi. Danh Phương chia quân chặn giữ nơi hiểm yếu, để kháng cự với quan quân; triều đình nhiều lần sai quân đi đánh, thì y lại cho chở của đút lót cho quan quân. Các tướng ham lợi, cứ dung túng cho giặc để bảo toàn lấy thân. Vì thế nên thế lực ngày càng vững vàng, hơn 10 năm trời. Các huyện thuộc Tam Đái [Vĩnh Phúc], Lâm Thao [Phú Thọ]                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                     và Đà Dương [huyện Yên Bình, Yên Bái] đều bị Danh Phương chiếm cứ. Đến nay Trịnh Doanh tự đốc suất đại binh đi đánh, bèn chia binh làm bốn đạo quân, bổ dụng Hoàng Ngũ Phúc trông coi việc quân. Nguyễn Nghiễm làm Tán lý, Đoàn Chú làm Hiệp đồng, hẹn ngày xuất phát.

Trịnh Doanh đi đường Thái Nguyên, thừa lúc không ngờ, đương đêm, đánh úp đồn Ức Kỳ, phá vỡ được, lại tiến quân sát đến đồn Hương Canh. Danh Phương đem hết quân ra chống cự, đạn bay như mưa;                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                       quan quân không sao tiến lên được. Lúc ấy trong hàng các tướng, chỉ có Nguyễn Phan, vốn gọi là một viên tướng vô địch. Trịnh Doanh đem thanh kiếm trao cho Phan nói:

 “Nếu không phá được đồn này, lập tức phải xử theo quân pháp“.

Phan đem quân tiến lên, cỡi chiến bào, nhảy xuống ngựa, đánh nhau dưới đất. Phan ngoảnh lại bảo thủ hạ rằng:

Các quân sĩ đã ghi tên trong sổ quân lệnh, tự phải giữ phép quân. Bọn người đều là tôi tớ của ta, nay chính là lúc ta bỏ mình đền ơn nước, mà cũng chính là ngày các ngươi đền ơn ta. Vậy những ai có cha mẹ già, con bé, không nở dứt mối tình riêng, thì đều cho lui ra, còn thì đều nên cùng ta quyết liều chết để báo ơn nước, không nên sống uổng cái thân mày râu!”.

Mọi người nghe lời Phan nói, không ai chịu lùi. Phan tự xông lên trước quân sĩ, cố sức đánh, phá tan được. Danh Phương thu nhặt số quân còn sót lại giữ đại đồn Ngọc Bội. Đồn Ngọc Bội là sào huyệt của giặc, thế núi cao vót hiểm trở, giặc đã lấp cửa ngõ các đường tắt từ trước, bố trí một loạt súng ở trên núi để cố thủ.

Vào tháng 2 năm Cảnh Hưng thứ 12 [26/2-26/3/1751] Trịnh Doanh lại sai Phan tiến đánh. Phan sai mọi người đều cầm gươm mác, hễ nghe tiếng súng thì nằm phục xuống, bằng không thì trèo đá mà vượt lên. Phan tiến lên trước, tam quân kế tiếp theo sau, quân sĩ tiến lên núi trông như đàn kiến. Quân giặc đỗ vỡ tan tành, Danh Phương lủi vào núi Độc Tôn [huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc]. Quan quân lại đuổi theo đánh phá tan vỡ. Danh Phương cùng đồ đảng đốt doanh lũy, rồi nhân đêm chạy trốn. Quan quân đuổi theo, bắt được Danh Phương ở xã Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch [Vĩnh Phúc].

Về phía nhà Thanh, viên Tuần phủ Quảng Tây tâu rằng sứ bộ An Nam  triều cống vào tháng 12 năm Càn Long thứ 13 [6/2/1749], bấy giờ trên đường trở về nước, nhưng vẫn chưa tới được trấn Nam Quan. Chắc rằng biên giới có loạn, cống sứ phải đi đường vòng, bèn nghiêm sức quan quân tại biên giới nghiêm mật tuần phòng:

Ngày 29 Nhâm Thân tháng 3 năm Càn Long thứ 15 [5/5/1750]. Tuần phủ Quảng Tây Thư Lộ tâu:

‘Cống sứ An Nam trở về nước, vẫn chưa tới trấn Nam Quan. Cứ viên Di mục Văn Uyên [Lạng Sơn] báo rằng có bọn giặc phỉ Triều Hiểu dày xéo, có thề vòng qua đường đến quan ải. Ðiều tra biết Triều Hiểu trước đây theo giặc họ Mạc, từng gây hấn với An Nam; sau đó họ Mạc thua chạy, Triều Hiểu cũng ẩn tích, nay lại xuất hiện gây loạn. Ðất An Nam một dãi tiếp biên giới, quan ải cần nghiêm cẩn; thông sức binh lính tuần phòng, không vì đất An Nam có việc, rồi quấy nhiễu thêm. Hiện đã nghiêm sức quân lính các doanh tại biên giới ra sức phòng thủ, không được vượt biên gây sự.’

Mệnh tấu báo để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 361, trang 24 )

Ngoài ra tại Quảng Tây lại xãy thêm sự cố khác; đó là việc viên Thổ châu Phú Châu (3) tỉnh Vân Nam lén vượt núi Pha Lợi [châu Tiểu Trấn An, Quảng Tây] để sang An Nam bắt người, nhưng bị đốt chết tại núi này:

Ngày 26 Mậu tuất tháng 4 năm Càn Long thứ 15 [31/5/1750]

Lại dụ các Quân cơ đại thần:

‘Cứ Tuần phủ Thư Lộ tỉnh Quảng Tây tâu: Thổ châu Phú Châu tỉnh Vân Nam sai bọn Thổ mục Lý Thế Xương đến Giao Chỉ, tầm nã bọn trộm cướp; lén vượt sau sườn núi Pha Lợi , bị đốt lửa chết 5 người. Xem thư sớ, cùng hỏi han các quan văn võ được biết viên Thổ mục đến Giao Chỉ bắt hung phạm, vượt qua ải Vĩnh Lịch 2 lần vào tháng 7 và tháng 9 năm ngoái, đều bị các viên Châu tại đây cản trở đuổi về; nên bọn Thổ mục lén vượt tại núi đất, rồi xẩy ra trọng án chết người.’….

Lại tâu: Ba phủ Nam Ninh, Thái Bình, Trấn An tại tỉnh Quảng Tây đều tiếp giáp với An Nam, đặt tất cả 3 cửa quan (4), 100 ải, lại đặt hơn 120 đồn, bình thời đều ngăn cấm; ải Vinh Lịch tại châu Qui Thuận đều nằm trong sự cấm đoán đó. Rồi vào hai tháng 7 và 9 năm ngoái, Phú Châu, Vân Nam sai Thổ mục Lý Thế Xương muốn từ ải này đến đất Giao Chỉ bắt tội phạm; đều bị các viên Châu biện đuổi về. Duy chưa bẩm báo, lại không tuần phòng cẩn thận, đến nỗi Thổ mục ngầm vượt tại sau núi Pha Lợi, thực lỗi lầm không chối được. Còn núi Pha Lợi từ trước tới nay chưa lập đồn ải, nhưng cách ải Bình Mãnh không quá 5 lý [2.9 km], quân lính tại ải này không đến nơi để tuần phòng, cũng là điều sơ hốt. Hiện đã sai bắt thủ phạm Hỷ Thường Liệu và 5 tên đốt lửa, lại thông sức điều tra bắt thêm. Cách phối trí tuần phòng binh dõng tại các đồn, ải sẽ xin bàn kỹ sau.’

Nhận được chiếu chỉ:

Từ nay trở về sau hãy lưu tâm sửa đổi sai lầm; mọi việc đã nhận rõ sự thực, cũng có thể chấp nhận được.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 363, trang 22-24)

Thực hiện lời hứa cho phối trí tuần phòng, viên Tuần phủ Quảng Tây xin cho đặt thêm đồn tại núi Pha Lợi; ngoài ra quân lính mỗi ngày đi tuần sang đến đồn bên cạnh, phải ghi tên đăng ký, nhắm kiểm soát việc tuần phòng liên tục:

Ngày 30 Kỷ Tỵ tháng 9 năm Càn Long thứ 15 [29/10/1750]. Tuần phủ Quảng Tây Thư Lộ tâu:

Phía sau núi Pha Lợi, phủ Trấn An tiếp giáp với thôn Hồng Hoàng, Di Giao Chỉ; trước đây chưa đặt đồn tuần phòng, nên vào năm ngoái viên Sai mục Phú Châu, Vân Nam ngầm đi qua, gây thành vụ trọng án chết người. Ðiều tra xứ này tuy cách xa ải Bình Mãnh chỉ 5 lý, bình dõng không cho là đường quan trọng, nên mỗi lần đi tuần không vòng qua để tra xét. Trước đây đất Giao Chỉ có nội loạn, từng lập trại đào hào tại đây, nhưng thời gian qua lâu nên đã phế mục. Nay đáng chọn chỗ cao, bằng, đặt thêm một đồn; rút quân 2 tên từ đồn trấn, 4 Thổ dõng đến trú đóng phòng thủ; tu chỉnh thêm hàng rào cũ, đào hào rộng và sâu thêm.

Ngoài ra các ải tại biên giới, mỗi nơi làm 1 cây cờ đi tuần, 1 quyển sổ hiệu; lệnh binh dõng trong ải mỗi ngày cầm cờ, mang khí giới đi tuần đến đồn bên cạnh; đến nơi ghi tên vào sổ hiệu, duyên do đăng ký. Suốt ngày đi tuần; nếu tuần tiễu không đến nơi, ải bên cạnh trình lên, không trình sẽ chịu tội; đêm tối đánh mõ, cẩn thận đề phòng. Ngoài các quân nhóm 5, hoặc 10 người lo tuần tiễu; chỉ huy các đồn ải bất thường qua lại tra xét; các chức Quản, Ðô mỗi tháng thanh tra 1, 2  lần; nếu quân lính trốn việc, đồn trấn lười biếng , trình rõ để cách chức.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðúng, hãy thực hiện đi. ” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 373, trang 19-20)

Viên Tuần phủ Quảng Tây còn tâu lên Vua Càn Long về thực trạng dân Trung Quốc vào sinh sống trong lãnh thổ An Nam cách quan ải sâu đến 2,3 chục lý [10-15 km]. Với tham vọng bành trướng, y khẳng định đó là đất nội địa; Càn Long cũng hùa theo, sai điều tra mật tình hình ngoài ải, rồi sẽ trù tính:

Ngày 29 Kỷ Hợi tháng 8 năm Càn Long thứ 15 [29/9/1750]

Tuần phủ Quảng Tây Thư Lộ tâu:

Tra các châu, huyện thuộc 3 phủ Nam Ninh, Thái Bình, Trấn An có hơn 2000 lý tiếp giáp với An Nam. Trong đó đặt 3 cửa quan, 100 ải, trên 120 đồn, tùy đất mà bố trí phòng thủ; khác với biên giới miền tây bắc, có phân định rõ ràng trong ngoài. Có chỗ tuy ở ngoài ải nhưng vẫn là đất nội địa; cách đất Di xa thì 2,3 chục lý; gần thời vài lý không chừng. Từ trước tới nay những dân nghèo không có nghề ở trong nội địa đến đó làm nhà tranh, lấy đất cày cấy. Hiện nay An Nam thần phục, không có mầm mống gây hấn. Nhưng những loại dân nghèo này, đã sống ngoài ải; phía ngoài không có người câu thúc ngăn trở, trong nội địa thì không có nhân viên kê tra;  không thể đoan chắc rằng bọn chúng không chứa chấp dân gian tại nội địa, dẫn dân phỉ bên ngoài đến đất Giao  gây hấn. Vì bọn chúng canh tác nơi này đã lâu, không tiện đuổi về sinh thất nghiệp. Còn việc ruộng đất canh tác được bao nhiêu mẫu? Thôn xóm chổ nào? Cách biên giới Di bao xa? Ðều nên lần lượt tra rõ. Từ trước đến nay không có viên chức đến ngoài ải, nếu hốt nhiên sai người đến tra khám, dễ sinh kinh nghi. Hiện ban dụ ra lệnh 3 Tri phủ Nam Ninh, Thái Bình, Trấn An, mỗi viên mật tra tình hình ngoài ải; không được để lộ ra chút nào; đến lúc đó sẽ trù tính kỹ rồi tâu riêng.

Chiếu ban đã nghe qua.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 371, trang 18-19)           

Tại miền Nam vào tháng 2 năm Canh ngọ [8/3-6/4/1750], Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư Trinh làm Tuần phủ Quảng Ngãi, ban sắc giao cho trọng trách như sau:

Thuộc lại gian tham ngươi phải xét trị; hào cường lấn cướp ngươi phải ngăn trừ; án giam không quyết ngươi phải xét cho ra lẽ; hộ khẩu không đông người phải làm cho phồn thịnh; nhân dân ương ngạnh ngươi phải giáo hóa; kẻ gian trộm cắp ngươi phải bắt vào khuôn phép. Nhất thiết tình trạng của quân, nỗi khổ của dân, cho ngươi được tùy nghi làm việc, chỉ cần thành công, chớ có sợ nhọc”.

Bấy giờ bộ lạc Chiêm Thành tại Thuận Thành [Bình Thuận] có nhiều người xiêu dạt sang ở đất Chân Lạp, gọi là Côn Man. Nặc Nguyên nước Chân Lạp xâm lấn người Côn Man. Chúa Nguyễn cùng bầy tôi bàn đi đánh; nhưng e rằng Nặc Nguyên sẽ chạy sang nương nhờ Xiêm La [Thái Lan], nên sai sứ đưa thư sang cho nước Xiêm ngăn chặn trước:

Đấng vương giả dùng binh là để dẹp loạn giết bạo, cho nên vua Văn vương giận [rợ Sùng Mật] bất kính, vua Tuyên vương đánh [rợ Hiểm Doãn] chiếm đất, đó là việc bất đắc dĩ chứ không phải ưa thích chiến tranh. Nước Chân Lạp bé nhỏ kia là phiên thần của nước ta, mà dám tụ họp côn đồ, dựa thế lấn nơi biên giới. Việc làm như thế, dẫu nước Xiêm cũng phải ghét vậy. Nay sai quan võ đem quân hỏi tội, chúng tất ngóng gió mà tan chạy, gián hoặc chúng có chạy sang nước Xiêm, tức thì nên bắt giao cho quân thứ, đừng để cho kẻ bề tôi phản nghịch trốn khỏi búa rìu”.


Chú thích:  

1.Nhu viễn: chính sách mềm dẽo với các nước thuộc quốc xa xôi.

2.Thông kinh: nguyên là Minh Kinh, nhưng vì kỵ húy tước của Trịnh Doanh là Minh vương nên đổi là Thông Kinh, nghĩa là thông hiểu kinh điển.

3.Thổ châu Phú Châu thuộc phủ Quảng Nam, tỉnh Vân Nam; phủ này giáp giới tỉnh Quảng Tây.

4.Ba quan ải gồm: Trấn Nam quan, Bình Nhi, Thủy Khẩu.

Bình luận về bài viết này