
Hồ Bạch Thảo
Tháng 2 năm Giáp Tý, Cảnh Hưng thứ 5 [14/3-12/4/1744], (Thanh, năm Càn Long thứ 9); có con cá lớn vào sông Cái. Con cá đầu như đầu voi, mình dài hơn 4 trượng [16 mét] , từ cửa biển Thần Đầu [huyện Yên Mô, Ninh Bình] vào cửa sông, rồi theo sông Châu Kiều [sông Châu Giang, Hà Nam] ngược dòng bơi lên, đến miếu thờ tại khúc sông Thuần Lương [xã Hương Lâm, huyện Phú Xuyên, Hà Tây] ở đấy 3 ngày, rồi lại bơi ra biển.
Tháng 3 [13/4-11/5/1744], bổ dụng hoạn quan Hoàng Công Kỳ giữ chức Trấn thủ Sơn Nam, kiêm thống lãnh mặt đông nam; triệu Nguyễn Công Thái về, lại vào phủ Chúa giữ chức Tham tụng. Trước đây Công Thái ra trấn thủ Sơn Nam, có tài về việc vỗ về dân, chống giặc cướp, vì thế mà bọn giặc cỏ Hoàng Công Chất không dám quá hung ngược, dân địa phương tạm được yên ổn. Trịnh Doanh nghĩ công lao của Công Thái, cho triệu về kinh, bổ dụng Công Kỳ đến thay.
Bắt đầu cấp thái ấp cho bầy tôi trong chính phủ. Cấp thái ấp cho Tham tụng Đào Hoàng Thực và Nguyễn Công Thái, mỗi người 2 xã, gọi là ngụ lộc; việc này sau trở thành lệ.
Tháng 5 [11/6-9/7/1744], bổ dụng Mai Thế Chuẩn làm Đốc trấn Cao Bằng. Trước kia, họ Mạc bị quan quân tiến đánh, dắt díu gia quyến chạy sang trú ngụ ở phủ Tứ Thành [Bách Sắc thị] Quảng Tây. Đến nay, mầm mống còn sót lại, nhân thấy trong nước có việc nguy cấp, bèn tụ họp xâm phạm biên giới. Triều đình đã mấy lần sai quân đi đánh dẹp, bọn Đặng Công Diễn và Nguyễn Đình Bá cũng có phen đánh được, nhưng vì làm trái phương pháp vỗ yên dân, chống cự giặc, nên dân man sau lại hưởng ứng với giặc, thế giặc lại mạnh to lên. Chúng hoạt động vùng Hưng Hóa, Thái Nguyên, Cao Bằng, Tuyên Quang làm lòng người náo động. Lê Hữu Kiều xin chọn bầy tôi Nho học đi yên ủi vỗ về dân chúng. Vì thế, bèn cho Thế Chuẩn, Tiến sĩ xuất thân, đi giữ chức này.
Trước kia, Hoàng Ngũ Phúc đánh Nguyễn Hữu Cầu ở Đồ Sơn [Hải Phòng], không thắng nổi, tì tướng là Trịnh Bá Khâm bị chết tại trận. Đến nay Ngũ Phúc lại tiến quân bao vây, Hữu Cầu phá vòng vây để ra, đi gấp đường đến Kinh Bắc, chiếm cứ sông Thọ Xương [thị xã Bắc Giang] đắp lũy ở hai bên bờ sông để giữ, từ Quế Nham [Bắc Giang] đến Khê Kiều [Bắc Giang] đều cắm kè bằng gỗ, bày la liệt hơn vài trăm thuyền chiến, đồn lũy liên lạc. Trấn thủ Trần Đình Cẩm tiến quân từ Thiết Sơn [huyện Yên Dũng, Bắc Giang] đến Trai Thị, bị giặc đánh bại, tất cả quân lính tan vỡ. Đình Cẩm lưu giữ Thị Cầu [Bắc Ninh], giặc nhân thế thắng đuổi đánh, Đình Cẩm lại bị thua, giặc đuổi theo, bèn chiếm được trấn thành Kinh Bắc, tung lửa đốt doanh trại, Đình Cẩm cùng đốc đồng Vũ Phương Đề bỏ ấn tín chạy. Nửa đêm tin báo đến kinh, trong kinh thành nhốn nháo kinh sợ. Triều đình sai vệ binh chia nhau đóng ở trường tập bắn và xã Vân Canh [huyện Từ Liêm, Hà Nội], xã Nhân Mục [huyện Thanh Trì, Hà Nội], cầu Yên Quyết [Cầu Giấy] để phòng bị. Ngũ Phúc được tin Kinh Bắc thất thủ, bèn dẫn quân tiến đến đóng ở Võ Giàng [huyện Từ Sơn, Bắc Ninh]; Chúa Trịnh Doanh sai người quở trách rằng:
“Bọn ngươi đi đánh dẹp hơn một năm, tiến sát đến Đồ Sơn đã năm sáu tháng mà phòng bị sơ hở, để giặc hung hãn rời khỏi được sào huyệt; rồi lại đến 7, 8 ngày sau mới đuổi theo, để cho đồ đảng của giặc xâm phạm một cách đột ngột, làm kinh sợ náo động cả lòng người. Như thế có xứng đáng với phận sự người tướng giữ ngoài biên trấn không? Nhà ngươi phải cố nghĩ tự mình hết sức để chuộc tội lỗi “.
Ngũ Phúc dâng tờ khải nói:
“Hữu Cầu sau khi bị thua, phải trốn tránh, quân đã ít mà lại phân tán, thì cái thế đánh phá được chúng tưởng cùng dễ dàng. Nếu được quân sử dụng bằng voi giúp uy thế, tôi sẽ ngầm lùa voi xông ra đánh trận, làm cho chúng mặt trước mặt sau không cứu ứng lẫn được nhau, thì có thể bảo đảm được tất thắng. Vả lại, ý định của chúng chẳng qua chỉ muốn liên kết với bọn giặc cỏ, tiến quân quấy rối sông Nhị mà thôi. Nay tôi đóng ở Võ Giàng, nếu chúng muốn đem hết quân tiến lên mặt trước, lại sợ tôi đánh chặn ở mặt sau, cho nên chẳng qua chỉ liều chết cố thủ, không làm gì được“.
Trịnh Doanh nhận được báo cáo của Ngũ Phúc, mừng lắm, lập tức sai Cổn quận công Trương Khuông cùng Ngũ Phúc chia làm 5 đạo đuổi đánh; Trương Khuông theo đường Yên Dũng đánh mặt trước, Nguyễn Trọng Thân đánh phía tả mặt trước, Vũ Tá Liễn đánh phía hữu mặt sau, Lê Lệ đánh phía tả mặt sau, Hoàng Ngũ Phúc chặn ngang dòng sông để phòng bị giặc chạy trốn. Tháng 7 [8/8-5/9/1744], Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông thu phục được thành Kinh Bắc.
Tháng 8 [6/9-5/10/1744], dân chúng ở Hải Dương đến kinh khuyết xin triều đình xuất quân tiễu trừ giặc, nhưng không được trả lời. Lúc ấy giặc cỏ ở Hải Dương thấy triều đình đương bận việc đánh dẹp mặt bắc, nhân cơ hội sơ hở, bèn quấy rối cướp bóc các lộ Hồng Châu, Khoái Châu, đi đến đâu vơ vét đến đấy. Bắt được nhân dân, chúng đặt ra từng hạng để sách nhiễu phải chuộc, chúng treo người lên cần tre, đổ nước vào mũi, làm đủ mọi sự ác ngược, hoặc bỏ hạt thóc vào trong mắt rồi khâu lại, hoặc đưa vào nhà giam có rắn, rết và đỉa để làm cho người ta phải khổ sở, thậm chí lấy giáo xiên trẻ con, dùng lửa thiêu phụ nữ, rất là thảm khốc. Dân sở tại kéo đến cửa khuyết kêu về việc nguy cấp, xin triều đình sai tướng đem quân đến để cứu vớt lấy dân. Các quan trong triều lấy cớ rằng giặc ở mặt bắc đương kịch liệt, chưa có thì giờ ngó tới mặt đông được, rồi bỏ ỉm tờ sớ ấy đi, không trả lời cho dân biết.
Tháng 10 [4/11-3/12/1744], tướng giặc tên Tương, cướp huyện Yên Sơn [huyện Quốc Oai, Hà Tây]; Thống lãnh Đặng Đình Quỳnh bỏ binh lính, chạy trốn. Triều đình sai Trịnh Đạc tiến đánh, phá được.
Trước đây, tên Tương chiếm cứ xã Vĩnh Đồng, huyện Mĩ Lương [huyện Quốc Oai, Hà Tây], Trịnh Doanh sai Tổng binh đồng tri Đặng Đình Quỳnh làm Thống lãnh, Hiệu thư Phạm Gia Ninh làm Tán lý, đem quân đi đánh. Đình Quỳnh không biết mưu mô làm tướng, vì lấy Quận chúa [con gái chúa Trịnh] nên được lên chức. Khi phụng mạng đi đánh giặc, Quỳnh dắt cả quận chúa cùng đi, đóng ở xã Sơn Lộ huyện Yên Sơn [huyện Quốc Oai, Hà Tây], dùng chợ làm đồn đóng quân, không xếp đặt điểm canh phòng; Gia Ninh cũng vào trú ở nhà dân. Khi giặc kéo đến xã Tiên Lữ [huyện Quốc Oai, Hà Tây], Gia Ninh được tin, đến chỗ Đình Quỳnh, thì Quỳnh đã dắt quận chúa trốn đi từ trước rồi. Giặc ập đến bao vây, Gia Ninh sa vào tay giặc, bị chết. Trịnh Doanh lại sai đại tư đồ Doãn trung công Trịnh Đạc làm thống lãnh đi đánh, Tương bỏ trốn. Vì cớ lấy quận chúa, nên Đình Quỳnh chỉ bãi chức; việc này khiến tướng sĩ bực tức.
Tháng 11 [4/12/1744-2/1/1745] Trương Khuông, Hoàng Ngũ Phúc, Vũ Tá Liễn hẹn nhau cùng đánh kẹp Nguyễn Hữu Cầu tại Ngọc Lâm [huyện Yên Dũng, Bắc Giang]. Khuông tự đem quân bản bộ đánh mặt trước, dùng bộ thuộc là Trịnh Phương, làm tiên phong. Hữu Cầu giữ nơi hiểm trở, đặt quân mai phục, bề ngoài phô trương quân gầy còm để làm ra sức yếu. Trương Khuông nhân thế sắc bén liều lĩnh tiến quân. Hữu Cầu giả vờ thua, bỏ đồn chạy, dữ quân Trương Khuông vào trong chỗ hiểm trở; tướng sĩ của Khuông bám nhau theo đội hình hàng dọc như xâu cá để tiến quân. Thình lình quân mai phục nỗi dậy, Hữu Cầu thống suất sĩ tốt liều chết ùa ra đánh, quân của Khuông thua to. Quan quân ở bốn đạo không đánh mà tự vỡ, thế giặc lại lớn lên, đài phong hỏa đốt lửa báo động báo thông về. Trịnh Doanh viết thư nghiêm khắc quở trách Trương Khuông và triệu về, bèn bổ dụng Đinh Văn Giai làm Thống lãnh thượng tướng quân, kiêm đốc suất quân bốn đạo, bồi tụng Ngô Đình Oánh làm tán lý, đem quân đi đánh. Khi Văn Giai đã đến nơi, đóng quân lại, không tiến lên, nhiều người lấy làm nghi ngờ. Nhân đấy Hữu Cầu đặt mưu kế, nói dối bọn thủ hạ rằng:
“Văn Giai đã ước hẹn xin hàng, nhưng nếu đến đầu hàng một cách rõ ràng, sợ liên lụy đến gia quyến, nên bí mật hẹn khi ra trận bị bắt, để che lấp miệng người ngoài. Nay mai giao chiến, các ngươi cứ theo hướng chỉ huy của ta mà bắt lấy hắn, thì lo gì không bình định được thiên hạ“.
Đồ đảng của Hữu Cầu tin lời. Kịp khi giao chiến, quân giặc tranh nhau nhằm chỗ voi có hiệu cờ của Văn Giai mà xông pha tiến vào, hăng hái một người địch nổi trăm người. Toán quân của Văn Giai đỗ ngã, giặc xúm quanh chân voi leo lên như đàn kiến. Văn Giai khí sắc không thay đổi, dùng phi thương chém bên tả, chém bên hữu, giết được giặc rất nhiều. Hai con hắn ở mặt trận sau la thét to mà tiến lên, quân giặc hơi lùi, bèn thu thập sĩ tốt còn sót lại kéo về doanh trại. Được tin báo, Trịnh Doanh giận lắm, nghiêm khắc quở trách. Sau đó, giặc vây doanh trại Thi Cầu, Ngũ Phúc chia ra ba cánh để tiến quân: Ngũ Phúc tự mình đem quân bản bộ đánh mặt trước, Đàm Xuân Vực đánh mặt tả, Nguyễn Danh Lệ đánh mặt hữu. Hữu Cầu bị thua, qua sông để chạy, bèn giải được vây. Trịnh Doanh lại triệu văn Giai về, bổ dụng Ngũ Phúc làm Thống lãnh đạo Kinh Bắc, lại kiêm Trấn thủ Hải Dương và cho Phạm Đình Trọng làm Hiệp trấn Hải Dương. Còn Đinh Văn Giai và Ngô Đình Oánh khi về đến triều, đều bị giáng xuống ba trật.
Tại vùng Sơn Tây,Nguyễn Danh Phương thúc giục dân chúng nổi dậy, số quân có hơn vạn, chiếm cứ Việt Trì [Phú Thọ], rồi cướp phá Bạch Hạc. Viên Đốc suất Sơn Tây Văn Đình Ức, đem vệ binh đến bao vây, bọn hào mục bản thổ đem quân đến họp hàng vài vạn người, thanh thế quân lính rất hùng mạnh. Sau đó, Đình Ức lại ra đóng ở xã Nghĩa Yên [huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc], Danh Phương bèn nhân ban đêm vượt vòng vây ra, lui về xã Thanh Lãnh [huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc].
Về phía nhà Thanh viên quyền Tuần phủ Quảng Tây tâu xin ngăn bớt dân chúng hai nước vượt biên giới buôn lậu bằng cách chính thức mở cửa khẩu Do Thôn gần phố thị tại Lạng Sơn, cho qua lại buôn bán:
“Ngày 29 Ất Hợi tháng 6 năm Càn Long thứ 9 [7/8/1744]. Quyền Tuần phủ Quảng Tây Thác Dung lại tâu:
“ Ba phủ Nam Ninh, Thái Bình, Trấn An tiếp giáp với Di Giao Chỉ; trước đây đã đặt 3 cửa quan, 100 cửa ải. Qua viên Tuần phủ trước đây là Kim Hồng qui định: hai cửa quan Bình Nhi và Thủy Khẩu, cho phép dân buôn ra vào, trấn Nam Quan là đường đi cống của nước này; còn lại 100 ải đều bị ngăn cấm. Tuy nhiên trong vòng 3 cửa quan, 100 cửa ải đều có đường nhỏ, nhiều lam chướng độc hại, vết chân người ít khi gặp; nhưng dân Mèo sinh sống tại nơi này, quen việc vượt núi qua lãnh; nếu việc tuần tra lỡ bị sơ hốt, bọn gian sẽ lén vượt.
Mấy năm gần đây, trong nước An Nam có loạn, viên Tổng đốc tiền nhiệm Sách Lăng tâu xin nghiêm cấm Hán gian ra vào, không cho dân buôn đến nước Di giao dịch, ở lâu tại đất Phiên rồi lấy phụ nữ Phiên. Sau khi thần đến nhậm chức, duyệt đọc án từ, gặp các viên ty, đạo để tìm hiểu, rồi cho lấy gạch gỗ ngăn chặn các cửa ải, lập bảo giáp [nhân dân tự vệ]; lại xin đem ải Do Thôn (1), thuộc phủ Thái Bình, do Ðồng tri Minh Giang quản lý, được mở cửa ra vào, để tiện cho dân buôn qua lại. Lại cứ theo lời bẩm, dọc theo biên giới một dãy Thập Vạn Sơn kéo dài hơn một ngàn lý, người có thể vin leo mà qua, thực khó cấm chỉ. Thần trước sau lưu tâm hỏi han được biết ải Do Thôn cách châu Ninh Minh 110 lý, dân buôn tại Ninh Minh muốn qua ải này để buôn bán. Nhân vì ải Do Thôn thông với các xứ Lộc Bình, Văn Uyên, Kỳ Lừa [đều thuộc Lạng Sơn] thuộc Giao Chỉ, các nơi này là chỗ hàng hóa tụ tập đông; nếu ra vào tại các cửa quan Bình Nhi (2), Thủy Khẩu (3) phải qua đường vòng mấy trăm lý, hành trình hơn 10 ngày, không bằng đi đường tắt qua Do Thôn cho tiện. Tuy Do Thôn trước đây nghiêm cấm, dân vẫn trèo vượt không thể chấm dứt được. Vả lại Minh Giang có 53 trại thổ dân, nguyên do Thổ phủ Tư Minh quản hạt; dân ngang ngạnh lờn pháp luật, Thổ phủ Hoàng Quan Châu không quản thúc được, bèn chia đất cho các quan lưu động đến cai quản. Vào năm Ung Chính thứ 10, nhập vào châu Ninh Minh quản hạt. Bọn Thổ dân này đều dựa vào gánh hàng hóa sinh sống, nếu ngăn cấm ải Do Thôn, sợ chúng thất nghiệp tụ tập thành thổ phỉ, tìm mọi cách ôm hàng hóa trốn vượt, việc biên phòng trở nên vô ích. Lại hỏi ra vùng ven biển Giao Chỉ, sản xuất muối rất nhiều, không cấm tư nhân làm muối, cho dân phơi ruộng lấy muối rồi bán. Bọn buôn muối nạp 20 đồng tiền, có được một gánh nặng; khi gánh được đến nội địa 1 cân có thể bán được từ 1,2 đến 5,6 phân bạc. Dân tại biên giới tham lợi đi buôn, nếu gặp quân lính, thì dựa vào đám đông mà cự lại. Hiện tại thông sức các ty, đạo tìm cách cấm đoán; một mặt cho dân buôn sự tiện lợi, để không sinh ra chuyện.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Lưu tâm như vậy, cứ thực tâu bày, thực đáng khen. Vẫn cần thực tâm liệu biện ỗn thõa, nhắm gần với dân tình và bỏ được mối tệ, chiết trung hành động là được.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 219, trang 22-24)
Viên Tổng binh trấn Tả Giang báo cáo tình hình an ninh tại An Nam, con cháu họ Mạc vẫn còn tụ tập tại châu Bảo Lạc, Cao Bằng:
“Ngày 30 Giáp Tuất tháng 8 năm Càn Long thứ 9 [5/10/1744]. Tổng binh trấn Tả Giang tỉnh Quảng Tây Dương Cương tâu:
‘Các châu như Quy Thuận thuộc phủ Trấn An tỉnh Quảng Tây tiếp giáp với châu Bảo Lạc [Cao Bằng], Giao Chỉ; hiện bọn phỉ Mạc Bảo có thù với nhà Lê, tụ tập đảng nơi đây để báo phục. Các quan Ðốc, Trấn mang binh giữ chắc, ước lượng bọn phỉ không dám trốn vào nội địa.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Hãy làm vững nơi phòng ngự, khiến bọn chúng không dám quấy nhiễu mới được. Há lại dự liệu chúng không quấy nhiễu, rồi buông lỏng sự phòng thủ ư!”
Lại tâu:
‘Hiện nay vùng Bảo Lạc duyên biên Giao Chỉ, bị bọn phỉ chiếm cứ, tình hình không yên ỗn. Bảo Lạc cách phủ biên giới Trấn An không xa, đáng phối hợp với viên Tri đạo trạm dịch muối là Vương Hà cùng khám xét. Tái bút: Ðang lưu tâm bắt bọn giặc phỉ Lý Tiệp Tam, Liêu Sĩ Mỹ; lần này chắc bắt được.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Tra xét việc biên ải thực rất quan hệ, đừng dối trá ẩn dấu, làm việc thận trọng chu đáo. Bọn phạm nhân Lý Tiệp Tam 2 tên, rất cần tầm nã bắt để làm yên nhân tâm địa phương.” (Cao Tông Thực Lục quyển 223, trang 34-35)
Viên Tổng đốc Lưỡng Quảng chủ trương phân loại dân qua lại bất hợp pháp để trị tội; riêng dân An Nam đến biên giới xin ăn thì giao cho quan nhà Lê đưa về:
“Ngày 30 Quí Mão tháng 11 năm Càn Long thứ 9 [2/1/1745]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Na Tô Ðồ lại tâu:
‘Ba phủ Nam Ninh, Thái Bình, Trấn An tiếp giáp với An Nam. Mới đây nhân bọn gian phỉ dấy lên, dân Di bỏ việc cày ruộng, buôn bán đình trệ, hiện tại giá gạo lên cao, sợ sinh sự quấy nhiễu, cần nên đề phòng. Nghĩ nên lập tức phân loại tra bắt bọn dân gian Hán, Thổ cùng giặc phỉ An Nam ngầm đến quan ải để cướp đoạt lương thực. Còn các dân Di lương thiện đến biên giới xin ăn, thì báo cho quan Di họ Lê đem về an sáp. Như vậy kẻ gian người ngay không đến nỗi hỗn tạp, chính sách nhu viễn cũng nằm trong sự phòng ngự vậy.’
Nhận được chiếu chỉ:
“ Lời tâu đã hiểu rõ.” (Cao Tông Thực Lục quyển 229, trang 21)
Tại miền Nam vào ngày Kỷ Mùi tháng 4 [23/5/1744] Chúa Nguyễn Phước Khoát lên ngôi Vương tại chính dinh Phú Xuân, bắt đầu gọi dinh này là đô thành.
Bấy giờ hạt Trấn Biên [tỉnh Đồng Nai] nước lụt, bãi Ngô Châu và bãi Tân Trào tách ra làm hai. Bãi Ngô Châu và bãi Tân Trào đều ở phía bắc sông Phước Giang [sông Đồng Nai]. Trước hai bãi liền nhau, đến đây mới tách làm hai, ở giữa là một giải sông con, phía đông là Ngô Châu, phía tây là Tân Trào [khoảng 4 km. phía bắc tỉnh lỵ Biên Hòa], dân ở phía bãi Tân Trào trồng nhiều vườn trầu không, rất thơm ngon, người ta gọi là trầu Tân Trào.
Tháng giêng năm Ất Sửu, Cảnh Hưng thứ 6 [1/2-2/3/1745]. (Thanh, năm Càn Long thứ 10); quân họ Mạc đánh chiếm Thái Nguyên, Lưu thủ Văn Đình Ức cùng Thống lãnh Hoàng Ngũ Phúc đem quân tiến đánh, phá được giặc thu phục lại thành. Trước kia, mầm mống họ Mạc nhân trong nước xảy ra việc nguy cấp, chúng tự Long Châu [Quảng Tây] lẻn về, họp tập bè đảng, quấy rối cướp bóc. Lê Hữu Kiều Trấn thủ Vũ Nhai [Thái Nguyên], vì có bệnh xin về, Thái Nguyên bèn bị giặc Mạc đánh chiếm. Trịnh Doanh bổ Đình Ức làm Trấn thủ để thay Hữu Kiều. Đình Ức hội hợp với quân của Hoàng Ngũ Phúc, rồi theo đường xã Úc Kỳ [huyện Phú Bình, Thái Nguyên] đến thẳng Thái Nguyên đánh phá, mầm mống họ Mạc bỏ trốn, bèn khôi phục được trấn thành. Đình Ức là con Văn Đình Dận, gia đình 3 đời làm tướng; người xã Lạc Phố [xã Sơn Châu] huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh; là một người trẻ tuổi nhất trong các hàng tướng tá, đã có sức mạnh, lại nhiều trí mưu, cho nên đi đánh giặc nhiều lần lập được chiến công.
Phía bắc Thái Nguyên, trước đây họ Mạc vây Cao Bằng hơn hai tháng. Trong thành hết lương, đốc đồng Trần Danh Lâm vỗ về sĩ tốt, hết sức chống giữ, lại tùy tiện trích bạc công mộ người đưa thư đến các thổ quan ở phủ Trấn An, Long Châu và Bằng Tường nhà Thanh, dùng đồ thưởng trọng hậu đút cho bọn này, hẹn ứng phó giúp đỡ. Quân Mạc thấy thế, sợ hãi, phải rút lui; Danh Lâm lại đuổi đánh, phá tan được. Bốn châu Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang thảy đều bình định, lại chiêu tập an ủi dân phiêu tán, cho họ trở về yên nghiệp làm ăn. Tin thắng trận tâu về triều, Danh Lâm được thăng chức hai bậc, phong tước hầu.
Tháng 4 [2/5-30/5/1745], ChúaTrịnh Doanh cho con trưởng là Trịnh Sâm giữ ngôi Thế tử, bèn bổ dụng Phủ doãn Dương Công Chú và Cấp sự trung Nguyễn Hoàn đều là Tiến sĩ xuất thân giữ chức Tả hữu tư giảng [thầy dạy] cho Thế tử.
Tháng 8 [27/8-25/9/1745] Nguyễn Hữu Cầu bị bọn Ngũ Phúc đánh bại tại Xương Giang [Bắc Giang], nhân đêm chạy trốn, sai đồ đảng là tên Thông đem thuyền nhanh nhẹ chở các đồ quý trọng, thuận theo dòng nước để về vùng phía đông; quan quân lại đón đánh, bắt được rất nhiều; tên Thông bỏ thuyền chạy. Hữu Cầu lại ra Yên Quảng, chiếm cứ Hạc Động [huyện Vân Đồn, Quảng Ninh], nhờ vào biển để cố giữ, thường dùng hạng thuyền nhanh nhẹ cướp bóc vùng đông nam. Đình Trọng cùng Ngũ Phúc đem các tướng đi đánh, chém được bọn tên Thông hơn 10 người, quân nhu và ngựa chiến hết thảy đều bị quan quân bắt được. Thông là người nhanh nhẹn, mạnh khỏe, có trí mưu, Hữu Cầu dựa vào Thông như là người ruột thịt, nay Thông bị chết, thế lực Hữu Cầu thành ra cô đơn, chạy trốn lẫn lút, chỗ ở không nhất định, những người phục tòng cũng tan tác dần.
Tháng 12 [23/12/1745-21/1/1746], Hoàng Công Kỳ do hoạn quan xuất thân, nhưng cũng có chút tài cán mưu mô, đã mấy lần lập được chiến công, các quân sĩ đều nương dựa vào. Khi trấn thủ Sơn Nam, Công Kỳ tiễu trừ được giặc cỏ, nên dân nhờ đấy được yên ổn. Nhưng Kỳ vốn có tính khinh địch; lúc ấy doanh lũy mới xây đắp, Kỳ cưỡi voi đi xem xét, trù tính, lính theo hầu có độ vài mươi người. Quân mai phục của bọn Hoàng Công Chất, ở Khoái Châu [Hưng Yên] kéo đến đánh úp, bắt được; Công Kỳ không chịu khuất phục nên bị chết.
Về phía nhà Thanh, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng sợ dân Quảng Tây ham lợi mang gạo đổi muối cho An Nam, nên cho tăng cường tuần phòng các con đường nhỏ dọc theo biên giới, lại xin mang đủ muối đến bán cho dân:
“Ngày 30 Nhâm Thân tháng 2 năm Càn Long thứ 10 [1/4/1745]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Na Tô Ðồ tâu:
‘Tại nước Di đánh nhau, giá gạo nơi này tất cao, sợ dân nội địa vượt biên giới mua muối, không thể không đưa gạo ra, sinh nhiễu loạn gây hấn nơi biên giới. Cần thông sức các quan văn võ quân lính, tại những nơi đồn trấn, cùng đường nhỏ hiểm trở nơi núi rừng, phải đặt quân tuần phòng. Riêng một phủ Trấn An từ trước đến nay dùng muối của Di, nếu nay ngăn đường không cho đến, phủ này cần được cung cấp mỗi tháng hơn 1000 bao muối, quan phụ trách về muối phải chu cấp đủ số. Còn một số ít nơi khác dọc biên giới thiếu muối, cần bổ sung, sẽ tiếp tục lo liệu.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Hãy lo châm chước cho ỗn thỏa.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 235, trang 21)
Ngoài ra viên Tổng đốc này lại xin đặt thêm đồn ải, gia tăng tuần phòng, ngăn cấm di chuyển lương thực sang An Nam:
“Ngày 30 Nhâm Dần tháng 3 năm Càn Long thứ 10 [1/5/1745]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Na Tô Ðồ tâu:
‘Dân Di có nội loạn, đáng phải quan tâm phòng thủ biên giới. Tra 3 phủ Thái Bình, Nam Ninh, Trấn An thuộc tỉnh Quảng Tây, quan ải trải rộng, có nhiều đường riêng đến đất Việt, thực không thể chặn tắc ngay được. Xin chọn những nơi hiểm yếu đặt đồn hai chỗ, phân ra làm thế ỷ dốc; loại thứ yếu đặt một đồn, cửa ải nghiêm khóa chặt; hoặc sai phái binh biền, đề phòng cẩn mật. Tái bút: Dân biên giới ham lợi, không thể không mang lương thực từ nội địa đến đổi muối của dân Di. Tuy đã đặt bảo giáp để biên tra, lại nghe có nơi đặt Ðầu mục chuyên quản lý; nhưng cũng có những thôn trại bị bỏ sót chưa biên tra; cần ra lệnh cho các quan Hán, Thổ ra sức tra khám.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Lời tâu hiểu rõ.”… (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 237, trang 20-21)
Quân cơ đại thần nhà Thanh bác lời đề nghị của Tổng đốc Lưỡng Quảng xin triệu vua Lê Hiển Tông và Mạc Khang Vũ đến trấn Nam Quan tuyên dụ bỏ việc binh đao; cho rằng đề nghi này không hiệu quả:
“Ngày 22 Giáp Ngọ tháng 3 năm Càn Long thứ 10 [23/4/1745]. Quân cơ đại thần bàn rồi phúc tấu:
‘Tổng đốc Lưỡng Quảng Na Tô Ðồ tâu rằng : Tên rể họ Mạc, Giao Chỉ là Sầm Kính Khang đổi tên là Mạc Khang Vũ mạo xưng là con của Mạc Kính Quang, ngầm vào biên cảnh Giao Chỉ, chống lại quan người Di, chiếm cứ các xứ Thái Bình [thuộc Lạng Sơn], Cao Nguyên; từng gây can qua với quan của họ Lê người Di. Xin tuyển chọn một viên quan lớn, triệu Lê Duy Vĩ [vua Lê Hiển Tông] và Mạc Khang Vũ đến trấn Nam Quan tuyên dụ, ra lệnh bỏ việc binh đao.
Trộm nghĩ việc Lê, Mạc gây hấn, xét theo sự thể nếu sai Sứ gỉả đến nơi đó, vị tất gọi một lần mà đến ngay. Nếu hôm nay sợ uy mà đến, thì sau khi nhận mệnh trở về, dân Di giảo hoạt không tránh khỏi buổi sáng minh ước, mà buổi chiều chống lại. Xưa dưới thời Hán Vũ đế, Ðông Việt đánh lẫn nhau, sai Cấp Ảm đến dụ, nhưng đến đất Ngô rồi trở về và tâu rằng ‘ Dân Việt vốn có tục đánh lẫn nhau, không nên để nhục mệnh Thiên tử cử Sứ giả đi.’ Lời nói này rất hợp sự thể, điều xin đưa Sứ giả đến dụ, không thể thi hành được. Nên ra lệnh viên Tổng đốc Na Tô Ðồ cần tuân chiếu chỉ trước, thông sức các quan văn vũ quân lính chiếu theo hình thế của địa phương gia ý phòng bị, không được để xâm nhiễu biên giới.’
Chiếu chỉ ban:
‘Có thể chấp thuận được.” (Cao Tông Thực Lục quyển 237, trang 8)
Theo sử Việt, vào tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 6 [1/2-2/3/1745] quân triều đình đánh tan quân nhà Mạc tại các tỉnh Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn; nhưng phía nhà Thanh nhận tin tức trễ và thiếu chính xác; nên đến tháng 12 viên Tổng đốc Lưỡng Quảng vẫn tâu trình rằng Mạc Khang Vũ mang quân chiếm cứ nhiều nơi:
“Ngày 30 Ðinh Mão tháng 12 năm Càn Long thứ 10 [21/1/1746]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Sách Lăng tâu:
‘Bọn Di phỉ An Nam Mạc Khang Vũ trước đây chỉ chiếm cứ các xứ như Văn Lan, Kỳ Lừa [Lạng Sơn]. Nay cứ theo lời bẩm báo từ biên giới những lời như: Các quận tại các xứ Ðông, Nam, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Yên Quảng, Thái Nguyên đều do Mạc Khang Vũ chiếm. Lấy danh nghĩa trả thù cho con cháu Mạc Ðăng Dung, đến chỗ nào cũng không chém giết. Khi bắt được Di mục, cho được chiêu an dân dưới quyền; lúc truy đuổi, nếu gần biên giới nội địa, có đặt văn bản chỉ dẫn, đều tuân pháp độ của Thiên triều. An Nam chỉ còn các xứ như Tây, Bắc, dần dần chống không nỗi.
Tra việc An Nam suốt năm này đến năm khác binh đao không ngớt, tại nội địa duy chỉ biên phòng nghiêm cẩn để được trấn tĩnh; lại thông sức gia tăng đề phòng, thêm quân cho các ải. Tóm lại để cho bọn phỉ bên ngoài và quân gian bên trong không được ngầm ra lén vào, thóc gạo cùng các hành cấm đoán, kê tra kỹ.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Ðiều thấy được, đúng. Ðã hiểu.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 255, trang 35)
Nhưng rồi đến tháng 5 năm sau, chính viên Tổng đốc này xác nhận An Nam đánh bại quân Mạc, đám tàn dư chạy đến biên giới:
“Ngày 29 Giáp Tý tháng 5 năm Càn Long thứ 11 [17/7/1746].Tổng đốc Lưỡng Quảng Sách Lăng tâu:
‘Bọn giặc phỉ An Nam Mạc Khang Vũ bị quân An Nam đánh bại, mang đàn ông đàn bà mấy ngàn người đến châu Thất Nguyên [huyện Thất Khê, Lạng Sơn] cư trú, hàng ngày cướp phá. Thần hiện thông sức lực lượng biên giới ra sức phòng thủ, nghiêm cấm xuất khẩu gạo lương…’
Nhận được chỉ dụ:
‘Nhận rõ được như vậy, thật hợp Trẫm ý.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 267, trang 30 )
Chú thích:
1.Do Thôn: thời nhà Thanh ải Do thuộc châu Thượng Thạch Tây, hiện nay thuộc Bằng Tường thị.
2.Bình Nhi: quan ải Bình Nhi tại nơi sông Kỳ Cùng chảy qua biên giới.
3.Thủy Khẩu: quan ải Thủy Khẩu tại nơi sông Bằng chảy qua biên giới.