
Hồ Bạch Thảo
Tháng 5 năm Canh Thân, Cảnh Hưng thứ nhất [25/5-23/6/1740], (Thanh Càn Long năm thứ 5); Chúa Trịnh Doanh yêu cầu Vua Ý Tông truyền ngôi cho Thái tử Lê Duy Diêu (tức Hiển Tông), con trưởng của Thuần Tông; tôn Vua làm thái thượng hoàng. Duy Diêu, râu rồng, mắt phượng, là con trưởng Vua Thuần Tông, cháu Vua Ý Tông. Duy Diêu ở địa vị người con trưởng, đáng được lập làm vua từ trước; nhưng vì chú ruột là Duy Mật dấy quân, nên Trịnh Giang truất đi, từ lâu vẫn bị giam cấm. Trịnh Doanh mật sai người dời Duy Diêu đến ở nhà Bính quận công Vũ Tất Thận. Doanh muốn nhờ vào phúc đức Duy Diêu, mới cùng các đại thần bàn định tôn lập làm Vua và xin nhà Vua Ý Tông nhường ngôi cho Duy Diêu. Trong tờ chiếu nhường ngôi có lời rằng:
“Nghĩ bọn ngoan ngu quấy rối chốn biên cương, nên muốn cho kinh kỳ được yên, bốn biển được tĩnh; theo lẽ chính đáng nên suy tôn người đích trưởng, cốt là để kính trọng tông thống, thuận theo lòng dân“.
Tờ chiếu ban ra, lòng người vui vẻ; Thượng hoàng Ý Tông sau khi nhường ngôi, ở điện Kiền Thọ.
Tháng này, Nguyễn Đăng Hiển, viên tướng chỉ huy đạo quân thủy, đánh bại được Nguyễn Tuyển ở huyện Phú Xuyên [Hà Tây] và Thượng Phúc [huyện Thường Tín, Hà Tây]. Nguyễn Tuyển đem quân qua sông Hồng, xâm phạm các huyện Phú Xuyên và Thượng Phúc. Đăng Hiển đem quân tiến đánh, Tuyển thua, bỏ chạy.
Hạ lưu vùng đông nam, có nhiều giặc ở sông biển. Bèn hạ lệnh chọn thêm lính ở các huyện ven sông thuộc Sơn Nam, Sơn Tây và Kinh Bắc, cứ 5 suất đinh lấy một người, phân phối cho lệ thuộc vào đội ngũ lính thủy. Cấp cho thuyền công, mỗi thuyền 10 người, lại cho ưu binh Thanh, Nghệ xen lẫn vào, để thao diễn luyện tập, chuẩn bị khi cần điều động.
Lúc ấy, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ dấy quân lâu ngày, thanh thế trở nên lừng lẫy. Cừ chiếm cứ Đỗ Lâm thuộc Gia Phúc [Hải Dương], Tuyển chiếm cứ Phao Sơn thuộc Chí Linh [Hải Dương], đồn lũy liên tiếp nhau, mỗi người đều có vài vạn quân; nhiều lần các tướng đánh phá càn quét, nhưng không thắng được. Trịnh Doanh muốn thuyết phục hiểu dụ để chia rẽ đảng của họ; bèn hạ lệnh rằng: ” Nếu biết bỏ đường nghịch, theo đường thuận, vứt kinh khí, về đầu hàng, sẽ nhất luật cho đổi mới, người nào có thể đái tội lập công cũng sẽ được tha tội lỗi, ban ân thưởng.”
Tháng 6 [24/6-22/7/1740] kén chọn hương binh. Bấy giờ dùng nhiều quân đánh dẹp, nên không đủ lính; bèn hạ lệnh tuyển lính tại thôn làng, cứ năm đinh lấy một người, chia thành đội ngũ luyện tập.
Định phép thông dụng tiền và bạc. Khoảng năm Long Đức-Vĩnh Hựu (1732-1740), sự chi tiêu trong nước chuyên dùng bằng tiền, giá bạc hơi hạ. Đến lúc dùng quân đánh dẹp, phần nhiều đem bạc cấp lương cho lính, bọn nhà buôn lại càng giảm giá bạc xuống, thành ra sự ăn tiêu của binh lính gặp khó khăn. Bèn hạ lệnh viên quan giữ chức trách định giá chợ, cho phép tiền và bạc đều được thông dụng. Ở chợ đặt chức thị trưởng, phân biệt bạc thực bạc giả để mua bán; do đấy giá cao hạ được thăng bằng, mà bọn phú thương không thể vơ vét mối lợi.
Tháng 7 nhuận [22/8-20/9/1740], bọn Thống lãnh Hoàng Nghĩa Bá đánh bại được Nguyễn Tuyển ở Phao Sơn [huyện Chí Linh, Hải Dương]. Ban thưởng cho Nghĩa Bá thẻ bài bằng vàng, để tuyên dương công trạng.
Tháng 10 [19/11-18/12/1740], Trịnh Doanh đem đại quân đánh giặc Ngân Già Vũ Đình Dung, bình định được. Chỗ ở của bọn này không có tường lũy gì, chỉ dựa vào nơi bùn lầy làm hiểm trở, đồ đảng thì nanh ác mạnh tợn, không sợ chết; gặp quan quân, chúng liền vác dao xông vào chém bừa bãi, các tướng nhiều lần bị thua. Bấy giờ Trịnh Doanh hạ lệnh bình định xong mặt nam, liền tiếp tục chuyển quân hướng về mặt đông. Bèn sai quan đi ngựa loan báo cho các huyện ấp biết trước: Quân trẩy đến đâu, nhân dân cứ việc ở yên không phải sợ hãi; người bị giặc bắt hiếp phải theo, nay nếu về đầu hàng sẽ không phải tội; quan lại vẫn được trở về giữ chức việc như cũ; nhân dân được phép nhận điền sản của mình. Lại đặt chức hành quân phỏng sát (1), cấm chỉ việc bắt người, cướp của. Vì thế, quan quân đến đâu, phụ lão ở đấy đón đường vui mừng nghênh tiếp, có người tình nguyện nộp của cải để giúp cho quân; có người xin theo đi đánh giặc. Trịnh Doanh đóng quân ở bến Mộc Hoàn [huyện Duy Tiên, Hà Nam], sắm sửa khí giới, tập trận thủy chiến, binh sĩ rất hăng hái, thanh thế lẫy lừng. Trịnh Doanh bàn rằng:
” Giặc Ninh Xá [Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ] chưa thể phá ngay được, bây giờ không gì bằng trước hết đánh tan được giặc Ngân Già để cắt đứt sự cứu viện của đảng giặc“.
Doanh bèn dẫn quân xuống mặt nam.
Tháng 11[19/12/1740-16/1/1741], quân tiến đến đóng tại xã Vũ Điện [Hà Nam], sau kéo đến Hiến Doanh, chia các tướng thành từng bộ phận, hẹn ngày đều tiến quân: Sáng sớm xuất phát từ Hiến Doanh, chiều đến sông Vị Hoàng [Nam Định] sáng sớm hôm sau đến Lục Đạo [huyện Giao Thủy, Nam Định]. Bọn Đình Dung đem hết quân ra đánh để kháng cự. Doanh sai các tướng là bọn Đinh Văn Giai, Nguyễn Đình Hoàn, Vũ Tất Thận và Trương Khuông đốc suất quân các doanh ra đánh. Trương Khuông đem quân cánh tả tiến sát đến chỗ đồi cỏ rậm rạp, phục binh của giặc thình lình nổi dậy, giết một tì tướng của Khuông. Trịnh Doanh nổi giận, thúc voi tiến lên, chỉ huy các quân góp sức lại đánh một trận lớn. Đình Hoàn đem quân đánh tập hậu vào quân của giặc, nhân đấy buông lửa đốt ấp trại, khói bốc đầy trời, quân giặc tan vỡ tứ tung, quan quân nhân đà thắng, cùng nhau đánh kẹp lại: thây giặc chết nằm chồng chất nhau. Bắt chém tướng súy cầm đầu của giặc, bình định được giặc Ngân Già. Trịnh Doanh ban cho bọn Đình Hoàn thẻ bài bằng vàng và 200 lạng bạc; sai Trịnh Tự Thành săn bắt đảng giặc còn sót lại; yên ủi vỗ về nhân dân, để họ trở về yên nghiệp làm ăn.
Trước kia, khi đại quân trẩy xuống mặt nam, Nguyễn Cừ ở Ninh Xá cùng đồ đảng là Trần Diệu, nhân lúc sơ hở, tiến thẳng quân sát bến Bồ Đề [BắcNinh], trong kinh thành không có quân, lòng người rất lo sợ. Lúc ấy. thái phi Vũ Thị ở trong cung điều khiển bọn Trịnh Đạc giữ bốn cửa thành; lại sai quan văn là bọn Phạm Kinh Vĩ, Nguyễn Bá Quýnh đem hết dân cư ngoài thành ra bến sông bố trí hàng ngũ, để làm nghi binh; Đề lãnh Đặng Đình Mật đem quân trong cơ của mình sang qua sông, đánh Nguyễn Tuyển, Đình Mật bị bại, bèn quay về. Trước đây, Diệu quận công Trần Cảnh cùng thống lãnh Bằng Thọ hầu đóng quân ở Lang Tài [huyện Thuận Thành, Bắc Ninh], được tin nguy cấp, liền đem quân đi vội đến làng Phù Lưu và Đình Bảng [huyện Từ Sơn, Bắc Ninh], theo đánh mặt sau của giặc. Dận quận công Đặng Đình Miên, trấn thủ Sơn Tây, đem quân đi đêm vào hộ vệ kinh thành, trước hết hắn sai con là Đình Trí do đường xã Thụy Hương huyện Từ Liêm sang đò tắt ở bờ phía bắc Gia Lâm [Hà Nội], tung quân đánh úp. Vì thế, giặc bèn mất hết nhuệ khí, phải dẫn quân đi.
Lúc Trịnh Doanh mới dẹp được giặc Ngân Già, chợt được tin báo ở kinh thành đưa đến, Doanh hạ lệnh cho các đạo quân phải tinh sương đi mau trở về để cứu nơi căn bản. Khi đạo quân kéo về đến xã Kim Lan [huyện Gia Lâm, Hà Nội], thì giặc đã trốn chạy xa rồi, kinh sư vẫn được yên ổn. Việc làm của Vũ Thị vợ Trịnh Cương, được Vua Tự Đức đời Nguyễn đề cao với lời Ngự Phê như sau:
“Vũ Thị cũng là một người anh kiệt trong phái phụ nữ, cho nên mới có thể mấy lần (2) định được kế mưu lớn.”
Tháng 12 [17/1-15/2/1741], Trần Viêm, Đốc đồng trấn Sơn Tây, đánh nhau với quân Nguyễn Tuyển ở Khoái Châu, bị thua, Viêm chết trận. Lúc ấy, quân của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ cướp phá các lộ Hồng Châu [Hải Dương], Khoái Châu [Hưng Yên]. Viêm lấy chức phận là Đốc đồng đi phủ dụ Khoái Châu, bèn đem hương binh đi tiểu bắt, chợt gặp giặc ở địa phận xã Đồng Lạc và Canh Hoạch [huyện Tiên Lữ, Hưng Yên], vì bên nhiều bên ít không địch nổi, Viêm bị chết tại trận. Đoàn Vinh Kiêm giám sinh, người đồng quận với Viêm cùng vài chục người làng đều bị chết theo. Triều đình biết việc này, bèn truy tặng Trần Viêm hàm Đông các đại học sĩ, tước Hải Thọ bá, cấp cho 15 mẫu ruộng để thờ tự.
Tình hình biên giới nước ta có việc liên quan đến 2 tỉnh Quảng Tây và Vân Nam. Về phía Quảng Tây, sau khi viênThổ quan châu Lộc Bình đánh phá phủ thành Lạng Sơn; Vua Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng đến biên giới liệu biện gấp. Nhưng viên Tổng đốc cho rằng nếu đến ngay dân chúng sẽ cho rằng biên cương có báo động, trong lòng sinh nghi hoặc; nên hứa trong vòng 2, 3 tháng, sẽ đến với lý do tuần tra biên giới:
“Ngày 29 Tân Mùi tháng giêng năm Càn Long thứ 5 [26/2/1740]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Mã Nhĩ Thái mật tâu:
‘Năm ngoái giặc phỉ tại An Nam nỗi lên, trước đó có Hỷ Trường tự xưng là dòng đích của Giao Giang vương, cùng họ Trịnh đối địch, chiếm đoạt vùng Hưng Hóa của nước này, chẳng mấy lâu đầu thuận tỉnh Vân Nam. Sau đó có Thổ quan châu Lộc Bình Vi Phúc Quan đánh chiếm Lạng Sơn, muốn diệt họ Trịnh; rồi nghe rằng nước này đã giảng hòa được, tạm thời ninh thiếp, chưa xâm phạm biên cương nước ta. Thần chỉ bí mật tăng tuần phòng, phía trong bố trí, phía ngoài chứng tỏ trấn tĩnh. Nay nhận được chỉ dụ, lệnh thần đến Quảng Tây lo liệu việc này. Sợ binh dân cho rằng biên cương có báo động, trong lòng sinh nghi hoặc; cần trong vòng 2, 3 tháng, lấy lý do tuần tra biên giới hai tỉnh và quan binh các trấn tại duyên hải; trước hết đến các địa phương tại Tả Hữu giang (3) để lo liệu việc này cho ổn thỏa.’
Nhận chiếu chỉ phán:
“ Lời tâu rất đúng, mọi việc tùy cơ mà thi hành.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 109, trang 20-21)
Mấy tháng sau viên Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu rằng đã đến Quế Lâm hội họp, bàn định gia tăng phòng thủ biên giới, nghiêm mật đề phòng:
“Ngày 29 Mậu Tuất tháng 5 nhuần năm Càn Long thứ 5 [ 22/7/1740]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Mã Nhĩ Thái lại tâu:
‘Quốc vương họ Lê tại An Nam mấy đời được cho là cung thuận, gần đây nghe tin bị quyền thân họ Trịnh lộng quyền gian manh, sinh ra gây hấn. Viên châu mục Vi Phúc Quan thông đồng với Lê Duy Yết định đánh thành nhà Lê; đây là việc dân Di đời đời vẫn xẩy ra. Hiện tại nước này chưa có lời thỉnh cầu, chỉ nên gia tăng tuần tiễu biên giới, nghiêm mật phòng thủ. Thần hiện tại tra xét việc binh nơi biên giới, mật thám tình hình Giao Di, trên đường lại tiếp nhận tờ báo cáo của 2 viên Tuần phủ, Ðề đốc về việc các sắc tộc Sở, Việt, Miêu, Giao cấu kết phiến động; bèn đến ngay Quế Lâm, họp hội đồng bàn định.’
Nhận được chiếu chỉ rằng:
“ Lâu không nhận được tờ tâu, thực rất mong nhớ! Hai tỉnh liệu biện về bọn Miêu, Dao; nếu trì hoãn ứng phó sinh lỡ việc, khanh giỏi về phản ứng nhanh, kinh lý thì rất tốt.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 119, trang 32-33)
Ngoài ra viên Đề đốc Quảng Tây còn tâu báo tình hình An Nam, lập Vua mới Lê Hiển Tông:
“Ngày 30 Mậu Thìn tháng 8 năm Càn Long thứ 5 [20/10/1740]. Ðề đốc Quảng Tây Ðàm Hành Nghĩa lại tâu:
‘Do thám sai đi cho biết vào ngày 12 tháng 5 năm nay, An Nam tập hợp các quan lập con của Long Ðức tên là Bưu làm Vương [Vua Hiến Tông], đổi thành năm Cảnh Hưng thứ nhất. Hiện tại cho dán bảng văn ân xá tại các xứ, sai quan gia phong Vi Phúc Quan làm Quận vương, lại phong cho 7 viên Thổ châu quan chức. Nhưng bọn Nguyễn Siêu Hầu, Vũ Mỹ Ngọc tại các xứ đông, nam vẫn còn động binh chưa dừng.’
Tờ tấu dâng lên, đem báo để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 125, trang 23)
Về phía Vân Nam, viên Tổng đốc tâu rằng An Nam xin đưa Giang giao vương Hỷ Trường về nước để trị tội. Bọn Đại học sĩ triều Thanh cho rằng trước đây bọn Hỷ Trường đầu thuận đã hứa khoan hồng, nên không thể giao cho An Nam, viên Tổng đốc nên tìm giải pháp ỗn thỏa:
“Ngày 11 Canh Thìn tháng 6 năm Càn Long thứ 5 [4/7/1740]. Bọn Ðại học sĩ bàn bạc rồi phúc tấu:
‘Tổng đốc Vân Nam bọn Khánh Phục tâu những lời như sau: Thổ mục Ðô Long (4) Ông Quí Hốt mang mấy trăm lính địa phương đến núi Mã Yên (5) rêu rao rằng đến để xin lãnh Hỷ Trường trở về. Quân lính tại cửa tấn bố phòng cẩn mật, họ đều biết đó là lời giả dối; thực ra muốn dùng những lời này để dọa dư đảng của Hỷ Trường, để bọn này không dám tiếp tục đến Ðô Long nữa.
Duyệt tư văn của An Nam gửi đến lần thứ 2 nói rằng: Mới đây Thổ mục Ðô Long đã đến biên giới xin lãnh đầu đảng giặc dữ, hy vọng được cho giải đến rồi mang về, để phanh thây ngoài chợ, nhắm làm rõ sự trừng phạt…
“ Nay cứ theo lời tâu của viên Tổng đốc, Thổ mục Ðô Long rêu rao xin lãnh Hỷ Trường, An Nam 2 lần gửi thư phản hồi cũng nói xin lãnh đầu đảng giặc. Bọn họ thỉnh cầu mấy lần, và xin đợi mệnh; nhưng thực bất tiện không thể giải giao Hỷ Trường cho nước này. Bọn thần bàn rằng, lúc Hỷ Trường thừa cơ sinh loạn, vốn là kẻ phản loạn của nước này; nhưng vào lúc đó nước này chưa mang quân đánh bắt; phải chăng nếu tướng sĩ nơi biên cương dùng binh đàn áp, hịch dụ rạch ròi, thì tập đoàn cướp càng dấy lên, mê hoặc dân chúng càng lớn, kế sách này nếu áp dụng, thực không khỏi gây nguy hiểm lớn. Bởi vậy tạm gác lại để chiêu an, nhắm làm tan đảng cướp tụ tập. Rồi Hỷ Trường đã chấn sợ binh uy, cúi đầu xin tha tội. Thiên triều vì nghĩa không giết kẻ hàng, nên tạm hoãn tội chết, việc này do quyền nghi [giải quyết linh động] nhưng tín nghĩa nằm trong đó. Trước kia nếu nước này nghe tin Hỷ Trường dấy loạn, bèn đánh dẹp ngay, cùng tư giấy xin đánh bắt; thì một lần bắt trói, đáng giao cho nước này, để trị đúng tội. Kẻ phản loạn tại An Nam là giặc của Trung Quốc, tại bên đó hay bên này, nào có gì khác! Nay viên Tổng đốc đã hoạch định theo chiếu chỉ, cách thức cũng không khác gì tại nước này, vậy không cần áp giải đến, cũng không phải từ xa đến chờ xin lãnh. Nên bảo viên Tổng đốc châm chước những ý này để phúc đáp cho An Nam. Còn việc nên đưa Hỷ Trường đến chỗ nào, viên Tổng đốc cần điều tra suy nghĩ rồi tâu lên để xin chiếu chỉ.”
Thiên tử chấp thuận….(Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 118, trang 20-23)
Tiếp theo Tổng đốc Vân Nam báo cáo việc họ Trịnh phế lập Vua Lê; và xin đem an sáp bọn Hỷ Trường, Ông Ðinh tại các tỉnh lân cận:
“Ngày 10 Ðinh Mùi tháng 10 năm Càn Long thứ 5 [28/11/1740]. Bọn Ðại học sĩ bàn rồi phúc tấu:
‘Tổng đốc Vân Nam Công tước Khánh Phục tâu những lời như sau: Thám báo cho biết Bồi thần họ Trịnh làm việc phế lập đổi niên hiệu; nên phản loạn tại nước này dấy lên từ bốn phương, đều lấy danh nghĩa phục Lê diệt Trịnh. Họ Lê là bề tôi triều cống nước ta, nên ban văn thư hỏi duyên do, trách vấn bằng đại nghĩa, khiến phản thần biết mà lo sợ.
Ðiều tra biết được họ Trịnh chuyên quyền đã lâu, nay lại làm việc phế lập, theo điều nghĩa đáng trách vấn. Nhưng việc này thực hư chưa được thẩm tra, lại không biết người mới được lập thuộc dòng Vương cũ nào; túng sử gửi văn thư sang nước này, thư phúc đáp đều qua tay họ Trịnh; bọn này tất sẽ lựa lời chối bỏ. Hơn nữa một lần ban thư cật vấn, thì cả nước đều biết; tuy lúc này họ Trịnh tạm hoãn mưu nghịch, nhưng bọn lấy danh nghĩa diệt Trịnh, sẽ rầm rộ xin quân, việc này khó có thể ứng phó.’
Lời tâu được y theo. Lại bàn luận rồi phúc tấu:
‘Tổng đốc Vân Nam Công tước Khánh Phục tâu những lời như sau: ‘ Thẩm xét vụ án giặc Giao Hỷ Trường, xin đem an sáp bọn giặc Giao gồm đầu đảng Hỷ Trường, tòng phạm bọn Lôi Hầu, cùng bọn Ông Ðinh tại các tỉnh Quảng Ðông, Quí Châu và Tứ Xuyên; còn các phạm nhân khác sẽ phân biệt phát vãng.’
Tra duyên do việc Hỷ Trường khởi sự, rồi thành tâm đầu thuận được đề cập rõ ràng qua tấu án, đáng cho kết thúc như vậy. Nhưng Quí Châu tiếp giáp với Vân Nam, gần với đất cũ của bọn này; đáng giao cho các quan tại Quảng Ðông, Tứ Xuyên gia tăng ước thúc.’
Lời tâu được y theo.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển128, trang 6-7)
Tháng giêng năm Tân Dậu, Cảnh Hưng thứ 2 (16/2-16/3/1741), (Thanh, năm Càn Long thứ 6); triều đình sai Đặng Đình Luận làm Đốc lãnh thượng đạo Hải Dương, Trần Trọng Liêu và Nhữ Trọng Thai giữ chức Hiệp đồng, đem quân đi đánh Nguyễn Tuyển. Bọn này tiến quân đóng ở Đông Triều [Quảng Ninh]. Tuyển sai người xin hàng, Đình Luận tin lời, không phòng bị. Đêm đến, Tuyển đánh úp doanh trại; Đình Luận, Trọng Liêu và Trọng Thai đều bị bắt, Tuyển cho ở riêng một chỗ. Sau này Tuyển bị thua, bọn Đình Luận trốn về, đều bị lột hết quan chức.
Đong thóc ở Sơn Nam và Nghệ An. Từ lúc dùng quân đánh dẹp đến nay, dân phải khổ sở về đói kém, chỉ có Sơn Nam và Nghệ An hàng năm được mùa, nhà giàu phần nhiều chứa thóc. Bèn hạ lệnh đong thóc ở Sơn Nam 150 vạn bát quan, ở Nghệ An 200 vạn bát quan, cứ 50 bát quan thóc [mỗi bát đếm được 84.000 hạt thóc] trị giá một quan tiền, nhà giàu lấy làm đau đớn.
Tháng 2 [17/3-15/4/1741], Thống lãnh trấn Hải Dương Hoàng Nghĩa Bá đem quân tiến đánh, phá tan được các đồn giặc ở Phao Sơn [huyện Chí Linh, Hải Dương] và Ninh Xá [huyện Đông Triều, Quảng Ninh]; Nguyễn Tuyển thua chạy, rồi chết. Nhân đấy, Nghĩa Bá tiến đánh bọn Vũ Trác Oánh và Nguyễn Cừ ở Gia Phúc, được thắng trận. Lại tập hợp quân thủy đuổi theo càn quét ở sông Bạch Đằng, đảng giặc bị tan tác. Trác Oánh không biết chết ở đâu, còn Nguyễn Cừ lẫn lút đến Lạng Sơn. Nhân đấy Nghĩa Bá xin kéo quân về.
Trương Khuông, Đốc trấn Hải Dương, đánh nhau với giặc tên là Kình. Khuông bị bại trận; Nhữ Đình Toản hiệp mưu, bị Kình bắt được. Kình vẫn kính trọng thanh danh Đình Toản, dùng lễ tân khánh đối đãi. Nhân gặp cơ hội, Đình Toản đem sự họa phúc dụ dỗ; Kình bèn đến cửa quân đầu hàng.
Ưu binh nổi loạn, phá hủy nhà Tham tụng Nguyễn Quý Cảnh. Ưu binh là lính tuyển ở Thanh, Nghệ; gặp lúc trong nước nhiều việc nguy cấp, ưu binh phải đi đánh dẹp luôn, nên triều đình dùng quan tước để thưởng công, từ chức Thập trưởng trở lên đều ban cho sắc mệnh. Vì thế, ưu binh càng kêu ngạo, những người không được dự vào hạng quân công, lại xin tính số xã dân được cấp, để liệu lượng trao cho chức phẩm. Quý Cảnh lấy cớ là trái thể lệ, bác bỏ lời xin của ưu binh. Bọn này nổi giận, đem đời tư Quí Cảnh ra để sỉ nhục:
“Từ Hương cống [Cử nhân] lên đến địa vị Thượng thư, thì thể lệ nào?“.
Rồi họ bèn cùng đem nhau đến phá nhà, lùng tìm Quý Cảnh để giết, nhưng Quý Cảnh đã đi vội vào trong phủ từ trước, nên được thoát nạn. Chúa Trịnh Doanh giữ Quý Cảnh ở trong phủ, rồi tra hỏi bắt giết người cầm đầu việc nổi loạn. Còn những người khác, đều bắt buộc vào khuôn phép, cấm đoán nghiêm ngặt. Nhưng ưu binh kêu ngạo, hung hãn đã thành thói quen, chung quy không thể nào kiềm chế được.
Tháng 3 [16/4-14/5/1741], dân Hải Dương bị nạn đói. Triều đình hạ lệnh trích số thóc đong ở Sơn Nam lấy 10 vạn bát quan phát chẩn cho dân nghèo. Lại hạ lệnh ban bố 4 điều răn:
1.Các thuyền buôn thóc gạo được thông hành mua bán, miễn cho việc nộp thuế;
2.Miễn tiền lễ tạ, tiền khám xét cho dân nghèo bị kiện;
3.Tôi tớ những nhà quyền quý không được thiện tiện đến nhà dân sách nhiễu;
- Không có chỉ bài cấp phát không được trái phép bắt dân làm việc chuyển đệ văn thư.
Tháng 5 [13/6-12/7/1741], Lê Lệ, Đốc lãnh Sơn Tây và Nguyễn Quai, Hiệp đồng Tuyên Quang, đánh phá được Nguyễn Diên. Trước kia Diên cùng với chú là bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi loạn. Khi Tuyển và Cừ thất bại, Diên tập hợp đồ đảng, quấy nhiễu cướp bóc vùng Sơn Tây. Trịnh Doanh hạ lệnh cho Lê Lệ đốc lãnh các đạo quân đi đánh, cả phá được Diên ở An Lạc [huyện Ứng Hòa, Hà Tây]. Diên lại sai đồ đảng đem binh thuyền thuận dòng sông xuôi xuống, hẹn đến ngày 13 tháng 6 [25/7/1741] qua bến đò Cốc [huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc]. Nguyễn Quai, đánh úp, thuyền của Diên bị đắm hết. Trước đây, Quai hỏi tù binh, biết được mưu kế của Diên, nhân đấy, Quai tuyển quân lính nhanh nhẹn, mang cờ đen, đội nón nan, giống như quân trang của Diên, rồi sai bọn này dùng thuyền đi trước. Quả nhiên Diên dẫn quân đến, trông thấy toán quân giả hiệu của Quai tưởng là quân mình kéo đến, thành ra không phòng bị gì cả. Lúc ấy, Quai thình lình đến đánh, Diên hoang mang sợ hãi bỏ chạy, quân nhu và khí giới vứt bỏ đi hầu hết.
Bắt đầu cấp liêm điền cho các quan về hàng văn; viên quan nhất phẩm được cấp 50 mẫu, từ viên quan nhị phẩm đến bát phẩm mỗi phẩm trật rút dần đi 5 mẫu. Việc này giao cho Hộ phiên tùy theo sự thuận tiện của từng người mà cấp ruộng, gọi là “liêm điền”.
Mùa xuân năm trước, bọn Phụ đạo Thoan và Thiều ở sách Đông Quang [huyện Trấn Yên, Yên Bái] nổi loạn, cướp bóc nhũng nhiễu, đánh phá xã Đại Đồng [Tuyên Quang]. Vào tháng 6 [13/7-10/8/1741] Lưu thủ Văn Đình Dận [con Lưu thủ Văn Đình Nhậm, người xã Lạc Phố, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh] tiến đánh, phá tan được; đồ đảng của giặc tan vỡ, đất nơi biên giới hết thảy đều được bình định.
Tháng 7 [11/8-9/9/1741], lúc ấy binh lính phần nhiều bỏ trốn, các viên quan ở trấn phải thúc giục bắt bớ, làm phiền nhiễu dân. Triều đình bàn định cải tổ, cho phép chọn mỗi xã một người làm Thủ dịch, xã nào hàng năm không khuyết ngạch lính, sẽ được thưởng; xã nào trong 10 năm hoàn toàn không có lính trốn, không thiếu ngạch lính, thì đều được tùy theo hạng định xã lớn hoặc nhỏ mà ban thưởng cho: xã lớn trao cho chức Thiên hộ, xã vừa chức Phó thiên hộ, xã nhỏ chức Bá hộ. Các binh lính đã đem phân phối vào đội ngũ rồi, mà bỏ trốn, thì do viên quan cai quản trách cứ tróc nã, người lính trốn sẽ phải phạt 60 trượng; nếu trốn lần thứ 2 sẽ phải luận vào tội đồ; nếu lại cố ý trốn mới giao viên quan ở trấn tróc nã đích thân và bắt cả những người chứa chấp lính trốn đều đem trị tội. Đến như khi theo đi đánh dẹp mà mướn người đi thay, hoặc bỏ trốn, hoặc khi ra trận mà ẩn núp trốn tránh ở một nơi, phải theo luật luận tội.
Mỗi trấn đặt một viên Đại sứ và một viên Phó sứ, chuyên giữ công việc đồng ruộng, thân hành đi khuyên bảo nông dân. Lại đặt Khuyến nông lại, để khuyên dân hết sức làm ruộng, tùy theo tiện nghi mà giúp đỡ dân. Hàng năm, cứ tháng 11 Âm lịch, sai người đi xem xét dò hỏi, xem nơi nào ruộng nương bỏ hoang hoặc khai khẩn, thức ăn của dân đầy đủ hay thiếu thốn, để định việc cất nhắc hoặc truất bãi các quan chức địa phương. Lại bàn định việc đồn điền, có 3 sở đồn điền dùng lính kinh kỳ cày cấy, 7 sở dùng lính thuộc 4 trấn, 9 sở dùng lính binh trấn. Ngoài ra, tùy theo nơi đồn ải chia làm 14 sở nữa, tổng cộng gồm 33 sở đồn điền. Những lính trước đóng ở đồn nào, nay đều giữ lại ở đồn ấy để tiện việc cày cấy. Từ đấy, binh lính đều biết làm ruộng, lương thực của quân không đến nổi quá thiếu.
Phạm Đình Trọng, Hiệp đồng đạo Đông Triều [Quảng Ninh], bắt được Nguyễn Cừ ở núi Ngọa Vân, đóng cũi đưa về kinh sư giết chết. Trước đây, Cừ cùng Tuyển đứng đầu làm loạn, đồ đảng vây cánh rất nhiều. Cừ chiếm cứ Gia Phúc [huyện Gia Lộc, Hải Dương], Tuyển chiếm cứ Phao Sơn [huyện Chí Linh, Hải Dương], hai bên làm thanh thế viện trợ lẫn nhau. Đến khi Tuyển bị bại, thế lực của Cừ mỗi ngày một cô đơn, từ lúc bị thua trận ở Gia Phúc và Bạch Đằng, bè đảng tan tác bỏ đi. Vì đến bước đường cùng, Cừ trốn lên Lạng Sơn, nương nhờ thổ phỉ là Toản Cơ. Đến nay, lại định mưu trở về phía Đông, khi đi đến Đông Triều, hết lương ăn, quân chúng tan tác. Cừ cùng con lẻn đến núp ở nhà dân dưới núi Ngọa Vân. Hiệp đồng Phạm Đình Trọng và tuần thủ Nguyễn Thự bí mật dò la biết được, bắt đóng củi đưa về kinh sư giết đi. Vì có công Đình Trọng được thăng chức tả Thị lang bộ Công. Nguyễn Thự thăng chức Tổng binh đồng tri.
Tháng 8 [10/9-9/10/1741], dân bị đói to. Triều đình bèn hạ lệnh lấy thóc trong kho chia ra phát chẩn cho dân phiêu tán, cứ 10 ngày phát chẩn một lần. Từ cuối năm Vĩnh Hựu [1740], trộm giặc các nơi nổi dậy, vùng Hải Dương càng nhiều hơn, dân gian bỏ cả cấy cày, các thứ tích trử ở làng xóm hầu như hết sạch; chỉ có vùng Sơn Nam còn hơi khá một chút. Dân phiêu tán dắt díu nhau đi xin ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa ăn no, Nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nổi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau; số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi.
Tháng 9 [1010-7/11-1741]. Trịnh Doanh sai Đặng Đình Mật đánh úp, phá được Lê Duy Mật ở Sơn Tây; Duy Mật rút quân giữ Ngọc Lâu [huyện Thạch Thành, Thanh Hóa]. Trước kia, Duy Mật bỏ trốn ra ngoài, cùng với chú là Duy Chú đóng ở đầu nguồn thuộc Thanh Hóa, quần chúng suy tôn Duy Chúc làm minh chủ. Chưa bao lâu, Duy Chúc mất, Duy Mật bèn thống lãnh quần chúng, rồi do đường An Hóa, Phụng Hóa thuộc Thiên Quan [Ninh Bình], vượt qua Mĩ Lương [phủ Quốc Oai, Sơn Tây] và Minh Nghĩa [Sơn Tây], kéo ra quảng sông Đà, sông Thao. Trịnh Doanh sai Đặng Đình Mật thống lãnh đạo Thanh Hóa, đốc suất cả quân các đạo An Sơn, Mĩ Lương và Chương Đức tiến đánh. Đình Mật nhân lúc không ngờ, đương đêm tiến quân sát đến đồn lũy của Duy Mật, phá vỡ được ba trùng lũy, cùng vài chục sở đóng quân. Duy Mật rút quân giữ huyện Văn Lãng thuộc Thái Nguyên, sau lại trở về Thanh Hoa dựng doanh lũy ở xã Ngọc Lâu, xưng hiệu là Thiên Nam đế tử.
Về phía nhà Thanh, hai viên Tổng đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây đều nhắc nhở triều đình An Nam chậm kỳ cống vào năm nay; nhân đó lưu ý rằng tại An Nam Thổ mục Vi Phúc Quan khởi binh chiếm thành Lạng Sơn, nên đường đi cống có thể bị ngăn trở. Sau khi triều đình nghị bàn, Vua Càn Long chấp nhận cho thong thả:
“Ngày 30 Ất Sửu tháng 2 năm Càn Long thứ 6 [15/4/1741]. Lưỡng Quảng Tổng đốc Mã Nhĩ Thái tâu:
‘Theo lệ An Nam dâng hai kỳ cống một lần. Kể từ năm Càn Long thứ 3 đến năm thứ 6, nay đúng vào hai kỳ cống; theo lệ vào tiết giao mùa xuân hạ, có Sứ giả đến báo, nay đã chậm trễ, đáng gửi thư trách vấn. Tuy nhiên từ năm Càn Long thứ 4 đến nay, tại nước An Nam có tên Thổ mục Vi Phúc Quan khởi binh, đến nay vẫn chưa yên, đường đi cống có thể bị ngăn trở; lại nghe rằng Quốc vương mới được lập. Vậy nước này trong hoàn cảnh nhiễu nhương, việc tiến cống có thể chậm trễ, cũng không cần phải thúc dục.’
Chiếu chỉ phán:
‘Quân cơ đại thần bàn rồi tâu.’
Rồi nghị bàn:
‘Xin lệnh viên Tổng đốc gửi văn thư cho Quốc vương, chấp nhận cho thong thả. Chờ đến khi đường sá khai thông, sẽ đến cống. Nhắm biểu lộ lòng thể tuất nước Phiên bên ngoài.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Chấp nhận theo lời bàn mà thi hành.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển137, trang 18 )
“Ngày 29 Giáp Ngọ tháng 3 năm Càn Long thứ 6 [14/5/1741]. Quyền Tuần phủ Quảng Tây Dương Tích Phật tâu:
‘Năm nay đúng kỳ An Nam dâng hai lần cống vào tháng 3, nhưng chưa nhận được lời báo. Tra xét được biết từ khi viên Thổ quan châu Lộc Bình nỗi loạn đến nay; gần thành nhà Lê có anh em Vương Nho Bồng chiếm cứ các địa phương cạnh bến đò, Quốc vương nước này sai viên Ðốc trấn Nguyễn Siêu Hậu mang quân đánh dẹp. Viên Ðốc trấn mang quân ra khỏi kinh đô thì bội phản, chiếm cứ xứ Ðông, đó là nơi đường Cống sứ đi qua, nên việc cống bị đình trệ; bởi vậy không cần phải theo lệ ban hịch hỏi lý do.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Qua lời tâu của Mã Nhĩ Thái, đã có chiếu chỉ ban.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 139, trang 39)
Quyền Tuần phủ Quảng Tây và Tổng binh trấn Hữu Giang đều tâu tình hình an ninh tại 2 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn thuộc An Nam vẫn chưa hồi phục; nên xin tăng cường quân tại biên giới để phòng thủ:
“Ngày 30 Quí Tỵ tháng 5 năm Càn Long thứ 6 [12/7/1741]. Tổng binh trấn Hữu Giang Quảng Tây, Trương Triều Tuyên tâu:
‘Phủ Trấn An tiếp giáp với các châu Mục Mã, Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, Giao Chỉ. Hiện gặp lúc Thổ quan châu Lộc Bình Vi Phúc Quan, Nguyễn Siêu Hầu tại nước này nỗi loạn, nên ra lệnh lập thêm đồn, đóng binh, để phòng thủ cửa ải.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Nhận rõ lời tâu. Hiện nay đúng lúc các ngươi cần phòng giữ; hãy lưu tâm mọi sự cho ỗn thỏa.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 143, trang 30 )
“Ngày 8 Tân Sửu tháng 6 năm Càn Long thứ 6 [20/7/1741]. Bộ Hộ lại bàn chấp thuận lời tâu của quyền Tuần phủ Quảng Tây Dương Tích Phật rằng:
‘Thổ quan Vi Phúc Quan tại An Nam gây nội loạn gần biên giới, đã ra lệnh các quan ải gần biên giới gia tăng đề phòng. Nhưng cửa ải thì nhiều, mà quân các doanh như Tân Thái, Long Bằng, Thủ Ðạo, ngoại trừ các thành và tấn [đồn biên phòng], thì không đủ phân bố. Lại điều 100 tên từ trấn Tả Giang đến thổ châu Hạ Thạch thuộc phủ Thái Bình để trú trát và đàn áp. Xứ này thủy thổ ác liệt, cách Nam Ninh trên 500 dặm, binh lính từ xa đến đất lam chướng, thật là khổ sở. Ngoại trừ các năm Càn Long thứ 5 đã xét thưởng, xin từ năm Càn Long thứ 6, mỗi tên được cấp lương ăn hàng ngày, do Thông phán Thái Bình chuyên chở từ kho thuế dự trử đến.’
Lời tâu được chấp thuận.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 144, trang 12)
Tiếp đến, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng tâu trình rằng An Nam vừa gửi văn thư đến, xin hoãn kỳ cống và trình bày thêm tình hình tại An Nam, viên Thổ quan Vi Phúc Quan lấy danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh đánh phá tại Lạng Sơn:
“Ngày 29 Nhâm Tuất tháng 6 năm Càn Long thứ 6 [10/8/1741]. Tả đô ngự sử quản Tuần phủ Quảng Tây, kiêm lý Tổng đốc Lưỡng Quảng Vương An Quốc lại tâu:
‘Ðường đi cống của An Nam bị tắc trở, đã theo lệ gửi văn thư sang xin hoãn kỳ hạn cống. Tra xét nước này có viên quyền thần họ Trịnh lấn quyền, mưu đồ soán đoạt, làm việc phế lập. Bọn Thổ quan Vi Phúc Quan lấy danh hiệu phù Lê diệt Trịnh, khởi binh làm loạn. Hiện nay đã nghiêm sức các quan văn vũ trong địa phương, phát binh phòng thủ nơi biên giới; không để bọn giặc người Di lén vào biên cảnh cấu kết với dân gian tại nội địa. Vì nước này có loạn, người người mong chiếm cứ một phương, dùng binh đã lâu, việc thắng bại ắt sẽ đến. Tương lai sẽ có người mượn tiếng xin cầu viện, hoặc thế cùng xin đầu thuận. Nếu các quan Tổng đốc, Tuần phủ nơi biên giới nắm được đại thể, không chuộng lợi nhỏ; thi hành sách lược vạn toàn mà không tham công, thì quốc uy phấn chấn, dân biên giới hưởng phúc được an dưỡng.’
Chiếu chỉ ban:
‘Xem qua; lời bàn rất đắc thể.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 28, trang 29)
Vào tháng 10, viên Tổng binh Quảng Tây Đàm Hành Nghĩa tâu trình Thổ quan Vi Phúc Quan 7 lần thua trận, phải bỏ chạy. Đến tháng 12 lại báo Phúc Quan bị giết, tình hình các tỉnh biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn trở nên yên ỗn:
“Ngày 30 Tân Dậu tháng 10 năm Càn Long thứ 6 [7/12/1741]. Tổng binh Quảng Tây Ðàm Hành Nghĩa tâu:
‘Ðốc trấn Mục Mã, Giao Chỉ Nguyễn Thế Khải điều binh đánh dẹp Vi Phúc Quan; từ ngày 21 đến 26 tháng 9 [30/10-4/11/1741] liên tiếp 7 lần thắng trận. Vi Phúc Quan chạy đến vùng Bát Bách, đất mới; viên quan Mục Mã tiến thẳng đến Lạng Sơn, Lộc Bình. Hiện tại trăm họ đã yên; từ bấy giờ đường đi cống được khai thông.’
Báo cho mọi nơi biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 153, trang 28 )
“Ngày 29 Canh Thân tháng 12 năm Càn Long thứ 6 [4/2/1742]. Ðề đốc Quảng Tây Ðàm Hành Nghĩa lại tâu:
‘Nghịch thần An Nam Vi Phúc Quan đã bị tru lục. Hiện tại nước này đem người trong họ của Vi Phúc Quan là Vi Phúc Ngọc quản lý châu Lộc Bình. Ðem hai đạo quân tại xứ đông, xứ Bắc triệt hồi hết; chỉ để lại 1000 quân Mục Mã đóng tại Lạng Sơn. Nay các xứ tại 7 châu được yên ỗn, biên cảnh ninh thiếp.” (Thanh Thực Lục Cao Tông Thực Lục quyển 157, trang 28-29)
Về cuộc nỗi loạn của viên Thổ quan đánh phá thành Lạng Sơn; sử Việt Cương Mục, chép sự kiện tương tự, nhưng tên người thì ghi khác. Sử Trung Quốc ghi viên Thổ quan Vi Phúc Quan nỗi loạn, sử Việt ghi là Toản Cơ; sử Trung Quốc chép kẻ dẹp loạn là Ðốc trấn Nguyễn Thế Khải, sử Việt ghi là tướng thủy đạo Nguyễn Đăng Hiển. Xin trích dẫn Cương Mục để rộng đường tham khảo:
“Tháng giêng năm năm Cảnh Hưng thứ 3 [5/2-6/3/1742] Nguyễn Đăng Hiển, tướng thủy đạo, đuổi bắt và giết được Toản Cơ ở Hoành Bồ [Quảng Yên]. Cuối năm Vĩnh Hựu, thổ tù Toản Cơ (sót họ) nổi loạn, đánh phá đoàn thành [thành Lạng Sơn], đốc trấn Ngô Đình Thạc bị giết. Khi Trịnh Doanh nối ngôi, hạ lệnh cho Nguyễn Đăng Hiển, tướng thủy đạo, tiến quân đánh phá; Toản Cơ thua chạy ra Yên Quảng. Đến nay, đuổi bắt được ở Hoành Bồ, chém chết.” Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, sđđ, tập 2, trang 555.
Phía tỉnh Vân Nam, năm ngoái viên Tổng đốc tâu xin lưu đày bọn Hỷ Trường. Năm nay lại tâu về triều, xin phân chia chi tiết từng loại tội phạm, cho lưu đày kẻ xa người gần; lời tâu được Vua Càn Long chấp thuận:
“Ngày 20 Bính Ngọ tháng 7 năm Càn Long thứ 6 [30/8/1741]. Bộ Hình bàn định xin chấp nhận lời tâu của Tổng đốc Vân Nam Khánh Phục như sau:
“Án về ngụy Giao Giang vương Hỷ Trường người An Nam, cấu kết với Thổ mục tụ dân làm loạn, cuối cùng đầu thuận. Theo tội đáng đem bọn Hỷ Trường 11 người xử chém, nhưng đã đầu thuận, chiếu luật giảm tội 2 bực; mỗi người bị đánh 100 trượng, tội đồ 3 năm. Dân Di a tòng bị phạt gông 40 ngày, phát vãng đến các tỉnh Quảng Ðông, Tứ Xuyên; giao cho các quan địa phương nghiêm cấm quản thúc. Người nhà, tài sản được miễn nạp quan. 20 người tùy tòng của Hỷ Trường đều bị phạt gông. Những người gốc phủ Quảng Nam [Vân Nam], đều cho trở về an sáp (6) tại quê quán; đối với người Giao Chỉ thì cho sống tại tỉnh Vân Nam, nơi có các quan Ðề đốc, Trấn thủ trú đóng, giao cho các quan văn võ địa phương quản thúc. Ðối với bọn chưa đầu thuận như Lôi Ngạn Bân, nếu là người Giao Chỉ thì báo cho nước này để tra bắt. Lại đem đầu đuôi sự việc kẻ bị Ông Ðinh tố tranh quyền tên là Ông Quí ra điều tra. Các đồ tịch thu được như ấn đồng, sách Vạn Niên, bản đồ địa lý; xét để phân biệt thiêu hủy hoặc trử vào kho.’
Lời tâu được chấp thuận.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 147, trang 9)
Tại miền Nam, Chúa Nguyễn sai kiểm tra thuế thóc và thuế muối. Thuế ruộng muối Thuận Hóa, mỗi năm thu được hơn 2.500 sọt; Quảng Nam đánh thuế người làm muối, hàng năm mỗi đinh phải nộp 6 sọt.
Riêng thuế lúa thì tùy đất mà đặt kho, kho ở xã nào thì lấy xã ấy mà đặt tên, thu chứa thóc để tiện cho dân chở nộp. Thuận Hóa gồm có 7 kho : kho Thọ Khang huyện Phú Vang, kho Nguyệt Biều huyện Hương Trà, kho Thạch Hãn huyện Hải Lăng, kho Lai Cách huyện Minh Linh, kho An Trạch huyện Lệ Thủy, kho Trung Trinh và kho Trường Dục huyện Khang Lộc. Từ Quảng Nam trở về nam gồm có 12 kho : kho Tân An phủ Thăng Hoa, kho An Khang, kho Tư Cung phủ Quảng Ngãi; kho Phú Đăng, kho Thời Phú, kho Đạm Thủy, kho Càn Dương phủ Quy Ninh; kho An Toàn, kho Xuân Đài phủ Phú Yên; kho Phú Yên phủ Bình Khang, kho Phước Yên huyện Diên Ninh, kho Tân Định xứ Gia Định. Lại cho rằng Gia Định đất rộng, lập thêm 9 khố trường Quy An, Quy Hóa, Cảnh Dương, Thiên Mụ, Quản Thảo, Hoàng Lạp, Tam Lạch, Ba Canh, Tân Thịnh để nộp riêng.
Chú thích:
1.Hành quân phỏng sát: Chức quan có nhiệm vụ dò la xem xét trong khi hành quân.
- Lời phê này có ý khen Vũ Thị lần trước chủ trương việc lập Trịnh Doanh thay Trịnh Giang và lần này điều khiển các tướng bảo vệ kinh thành.
3.Các sông Tả Giang, Hữu giang vị trí tại các phủ Thái Bình, Nam Ninh và Trấn An tỉnh Quảng Tây.
4.Ðô Long: vùng đất trước đây thuộc Việt Nam, được gọi là Tụ Long; qua hiệp ước Thiên Tân thực dân Pháp đã nhường cho Trung Quốc, hiện nay còn địa danh trấn Ðô Long, thuộc huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, trấn này giáp với tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
5.Núi Mã Yên: núi tại phía tây huyện Thiên Bảo phủ Trấn An 3 dặm.
6.An sáp: bắt định cư xen kẽ với gia đình thường dân.