Câu “giải phóng Miền Nam” là sáng tạo độc đáo của cụ Lê Duẩn 
Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Vẫn là đề tài tìm hiểu 2 hai câu mở đầu bài hát Giải phóng miền Nam
– Câu 1. Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
– Câu 2. Diệt đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước
Bài 3 và 4 đã tìm hiểu câu 2, kết quả là Mỹ chưa đạt tiêu chuẩn đế quốc, Ngô Đình Diệm không bán nước, mà yêu nước và chống Cộng.
Bài này (5a) tìm hiểu câu 1, với 4 chữ đầu là “Giải phóng miền Nam”.
I . GIẢI PHÓNG ĐẤT NƯỚC VS “GIẢI PHÓNG MIỀN NAM”
- Khác hẳn nhau về nội dung và hoàn cảnh ra đời
Rất dễ nghĩ rằng “giải phóng đất nước” và “giải phóng miền Nam” có chung cái gốc “giải phóng”, chỉ khác nhau phần ngọn (đất nước vs miền Nam). Nếu vậy, hai câu này chỉ khác nhau về phạm vi hoặc mức độ. Té ra, nếu tìm hiểu một chút, sẽ thấy nghĩ như vậy là sai
– “Giải phóng đất nước” là từ ngữ ra đời rất sớm – từ thời Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Lê Lợi… đứng lên chống lại giặc Tàu xâm lược. Do vậy, đây là khái niệm dễ hiểu, vì đã thấm vào tâm can dân ta và vẫn bùng cháy mỗi khi tổ quốc lâm nguy.
Trước năm 1945, nước ta bị giặc Tây cai trị. Do vậy, khi cụ Hồ thành lập Mặt trân Việt Minh, nêu rõ mục tiêu giải phóng đất nước, lập tức toàn dân nức lòng hưởng ứng. Việc Cụ chọn cái tên Giải Phóng Quân cho lực lượng vũ trang, và tên Cờ Giải Phóng cho một tờ báo… quả là sáng suốt, đắc dụng.
Như vậy, bốn chữ “giải phóng đất nước” xuất hiện đúng hoàn cảnh, ai cũng hiểu, vì khái niệm này đã thấm sâu vào tim óc người dân.
| Tiện đây, xin nói thêm một điều để khỏi phải nhắc lại– Người dân thời đó rất tín nhiệm Việt Minh, nhưng rất kinh hãi Cộng Sản, mà không biết rằng chính Cộng Sản cầm đầu Việt Minh. Nghe 2 tiếng “cộng sản” ai cũng cảm thấy “tài sản” của mình sẽ bị “cộng” lại, gộp lại..– Năm 1954 cả 1 triệu dân (tức 1/15 dân số) thà bỏ cụ Hồ, bỏ quê, di cư vào miền Nam vì thấy đảng Cộng Sản bắt đầu lộ diện, vừa tự ca ngợi, vừa thực hiện đấu tranh giai cấp – mở đầu là Cải cách ruộng đất, rất tàn bạo.
– Khi đất nước bị chia cắt, mỗi miền theo một chế độ, nếu hai bên thi đua hòa bình để người dân chọn theo, sẽ không khó để dự đoán kết quả. |
– Còn “giải phóng miền Nam” – chỉ mới xuất hiện năm 1956 – trong hoàn cảnh khác hẳn và nội dung của nó cũng khác hẳn. Có thể nói vắn tắt: Lẽ ra, được giải phóng thì phải mừng rỡ, nhưng thật là ngược đời: Năm 1975, chính đồng bào miền Nam lại kinh hãi khi được “giải phóng”. Đến nay, các cụ U70, U80 vẫn có thể diễn tả sự kinh hãi của chính mình với hậu duệ. Do vậy, cần cắt nghĩa sự ngược đời này.
2. Thử dùng “nếu” để bàn về chiều hướng lịch sử sau 1954
Mục tiêu là để cắt nghĩa nội dung đích thực của 4 chữ “giải phóng miền Nam” do cụ Lê Duẩn sáng tạo. Còn mục đích là rút ra bài học Lịch Sử, căn dặn muôn đời con- cháu mai sau.
Năm 1954, sau 8-9 năm chống Pháp, Hiệp định Geneve tạm chia đất nước ta làm hai miền (Nam-Bắc), sau hai năm sẽ thống nhất lại bằng tổng tuyển cử.
Nhưng không có tổng tuyển cử. Trên thực tế, sự thống nhất được thực hiện bằng cuộc nội chiến đằng đẵng 20 năm, đẫm máu nhất trong lịch sử nước nhà. Những thanh niên cùng màu da, cùng ngôn ngữ, cùng mẹ Âu Cơ… đã nghiến răng, trợn mắt, lòng ngùn ngụt căm hờn, xông lên giết nhau, khiến đất nước tốn tới 3 triệu sinh mạng, chiếm 1/10 số dân. Chưa nói tới số bị thương, số góa phụ, con côi, số nước mắt của các mẹ già và vợ trẻ. Rồi, sự thù hận do khác biệt về ý thức hệ khiến sau 50 năm vẫn chưa thể hòa giải… Và chưa nói tới chuyện thiệt hại kinh tế, đất nước tan hoang. Cũng chưa nói tới sau năm 1975, cả nước bị cưỡng bức “tiến nhanh lên CNXH”, khiến cả dân tộc điêu đứng thêm 10 năm đen tối nữa… Kể lể dài dòng như vậy, đã hết chưa?
Do vậy – để con-cháu chúng ta rút ra bài học lịch sử – đề tài rất cần bàn bạc là: NẾU hai miền Nam-Bắc không dùng nội chiến dài 20 năm để thống nhất đất nước, mà dùng thi đua hòa bình giữa hai chế độ để (cũng sau 20 năm) người dân sẽ nhìn ra, sẽ tự cân nhắc, rồi dùng lá phiếu của mỗi công dân để chọn một chế độ chung cho cả nước… thì sẽ tốt đẹp biết bao!
Vẫn biết: Lịch sử là điều đã diễn ra, nay không thể thay đổi. Nhưng bàn về lịch sử là chuyện rất cần thiết, nhất là khi bài học Lịch Sử lớn tới mức ấy. Tất nhiên, phải dùng “nếu”. Đây là chuyện “Biết rồi! Khổ lắm! Vẫn phải nói mãi”…
3 . Không đời nào cụ Lê Duẩn chấp nhận dùng “nếu” để thảo luận
Có thể cam đoan như vậy. Bởi vì 4 chữ “Giải phóng miền Nam” với nội dung riêng (không thể hiểu theo cách tư duy lành mạnh của những người có đầu óc lương thiện) đã giúp cụ vẫn giữ vững vị trí cao vọi trên bàn thờ của chủ nghĩa Marx-Lenin (như đang thấy hiện nay). Còn thờ cụ, thì còn quyền lực do cụ để lại.
Do vậy, chưa thể dự đoán tới khi nào sẽ xuất hiện một Gorbachow ở nước ta, nhưng biết chắc một điều: Nhân vật này sẽ được Lịch Sử dân tộc đặt vào vị trí rất xứng đáng.
II . CẢ HAI BÊN ĐỀU CỐ Ý VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENEVE
– Nói chung, “bên ta” lẽ ra phải rút toàn bộ lực lượng về miền Bắc, nhưng cố ý ém lại (cài lại) miền Nam một lực lượng đủ lớn. Nói khác: Bên ta nặng về biện pháp bạo lực, nhưng dễ che giấu. Còn “bên nó” dùng thủ đoạn về chính trị, đưa ra lập luận công khai để né thi hành tổng tuyển cử – vì biết chắc sẽ thua. “Bên nó” cần thời gian hòa bình để chứng minh sự ưu việt của Hiến Pháp tôn trọng quyền tư hữu.
Chuyện cả hai bên vi phạm hiệp định đã nói từ bài trước, nay phải nhắc lại vì chỉ có cụ Lê Duẩn là nhân vật duy nhất của “bên ta” có quyền quyết định sẽ vi phạm Hiệp định ở mức độ nào.
* Bên Ta vi phạm ở mức độ nào, nay rất khó biết. Đã 70 năm trôi qua, tư liệu vẫn chưa được giải mật. Chinh bản thân cụ Lê Duẩn cũng chỉ giả vờ tập kết ra miền Bắc, nhưng thật sự đã bí mật quay trở lại miền Nam để lãnh đạo cái lực lượng do chính cụ “ém lại”. Khó biết con số chính xác, mà chỉ có thể suy đoán. Xin chọn đưa ra 2 căn cứ, là.
a– Sự lo sợ của tổng thống Ngô Đình Diệm. Nó lớn tới mức phải đối phó bằng cách cấp tốc ban hành Luật 10-59 (trừng trị rất tàn bạo) và phát động phong trào Tố Cộng – diệt Cộng mong toàn dân phát hiện và tố cáo những cá nhân và tổ chức được gọi là “nằm vùng”, nhưng thực tế đã bắt đầu hoạt động ngày càng mạnh, càng bạo lực.
b- Sự thiệt hại. Cũng rất khó có con số tương đối chính xác về thiệt hại của bên này hay bên kia. Do vậy, hãy tham khảo con số do cụ Nguyễn Phú Trọng đưa ra gần đây – để suy ra lực lượng “ém lại” lớn cỡ nào, thiệt hại ra sao. Năm 1954 “cụ Trọng” mới có 10 tuổi, còn năm 2015 cụ đã 70 tuổi, đã là tổng bí thư, đã đưa ra con số cụ thể: “Trong những năm 1954 – 1959, ở miền Nam đã có 466.000 đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị giết. Nếu số liệu này là đúng, phải nói rằng sự thiệt hại là quá lớn và lực lượng cài lại cũng quá lớn.
** Bên Nó vi phạm. Phía đối thủ biết chắc chắn sẽ thua nếu tổng tuyển cử, do vậy, tìm lý do để không thực hiện. Trước hết, chính phủ Pháp chính thức trao lại quyền cho chính phủ “quốc gia”) do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng (từ nay, phải tự bảo vệ lấy miền Nam) và phải có trách nhiệm thi hành hiệp định. Lực lượng quân sự (người Việt) của cái chính phủ này rất mỏng, chỉ mong quân Pháp nán lại càng lâu, càng tốt. Sau đó, thủ tướng Ngô Đình Diệm dùng trưng cầu ý dân để lật đổ quốc trưởng, rồi ban hành hiến pháp mới, lập ra chế độ mới và tuyên bố: Chế độ mới không có trách nhiệm thi hành hiệp định Geneve. Tuy nhiên, cái “chế độ mới” này rất sợ lực lượng quân sự của miền Bắc (rất thiện chiến, rất mạnh, sau trận thắng ở Điện Biên Phủ). Và sợ ngay cả lực lượng do cụ Lê Duẩn ém lại. Càng lo sợ khi lực lượng quân sự của Pháp cứ dọa “rút sớm” khỏi miền Nam. Đó là nguyên nhân khiến Luật 10-59 ra đời và phong trào Tố Cộng – diệt Cộng được phát động
*** Rất dễ hiểu tâm trạng cụ Lê Duẩn, khi lực lượng do chính cụ bỏ ra biết bao công sức và tâm huyết để “cài lại” nay bị thiệt hại quá lớn, dù ban đầu nó chưa nghiêng hẳn về biện pháp bạo động. Do vậy, cụ chủ trương dùng “nội chiến cách mạng” (từ ngữ của cụ) để lật đổ chính quyền miền Nam.
III . CÁC BƯỚC CỤ THỂ
Bài này không nói các bước cụ Lê Duẩn lãnh đạo cuộc “nội chiến cách mạng” do chính cụ là tổng tư lệnh. Đề tài đó quá lớn. Bài này chỉ nói các bước đi của cụ Lê Duẩn khiến 4 chữ “giải phóng miền Nam” chính thức có chỗ đứng trong Nghị Quyết của một Đại Hội ĐCS mà thôi. Chỉ cần thế, 4 chữ này sẽ trường tồn,
- Viết “Đề cương cách mạng miền Nam”
Đó là vào tháng 8 – 1956 (lẽ ra, tháng 7 phải có tổng tuyển cử), nhưng tình hình thực tế cho thấy đất nước sẽ chia cắt lâu dài. Trong hoàn cảnh như vậy, cộng với tâm trạng riêng tư (đã nói trên) cụ Lê Duẩn viết Đề Cương cách mạng miền Nam ở một cơ sở bí mật, nằm ngay tại Sài Gòn. Đề Cương dài trên 20 trang, gồm 5 phần, trong đó khẳng định: Cần đấu tranh làm sụp đổ chính quyền phản động bằng mọi biện pháp. Cụ sáng tạo 4 chữ “giải phóng miền Nam” để đưa vào Đề Cương, mặc dù quyền tư hữu ở miền Bắc mới cần được giải phóng.
Nhưng năm 1956, Sài Gòn vẫn giữ được danh hiệu “hòn ngọc ở Viễn Đông”, đời sống người dân rất cao, kinh tế phát triển, có báo chí tư nhân… khác hẳn ở miền Bắc. Do vậy, phần lên án chế độ miền Nam, cụ Lê Duẩn chỉ nói phớt qua và chung chung (đại ý): Miền Nam bị đế quốc, phong kiến và tư sản mại bản thống trị. Nhân dân miền nam bị Mỹ-Diệm áp bức, bóc lột, khủng bố, trả thù, thợ thuyền đói khổ… Tóm lại, phải “giải phóng nhân dân miền Nam”.
2. Bốn chữ vàng được đưa vào Nghị Quyết của Hội Nghị Trung ương 15 (mở rộng), tháng 1/1959.
Đề Cương được gửi ra miền Bắc, kịp để Hội Nghị Trung Ương thảo luận. Lúc này ở miền Bắc vẫn còn chưa ngã ngũ biện pháp đấu tranh thống nhất đất nước: Dùng cách thi đua hòa bình giữa hai chế độ, hay dùng biện pháp bạo lực. Liên Xô – nguồn viện trợ chủ yếu – cũng đang chủ trương chung sống hòa bình với Mỹ. Do vậy Đề Cương của cụ Lê Duẩn cũng không viết một cách quá “sắt máu”, để có thể được Hội Nghị chấp nhận. Thế là, bốn chữ vàng “Giải phóng miền Nam” được đưa vào Nghị Quyết. Thắng lợi! Nhưng đây mới chỉ là Nghị Quyết của một cuộc họp (dù là mở rộng) của cấp trung ương. Còn phải đợi Đại Hội đảng.
3 . Năm sau, ĐẠI HỘI ĐCS bầu cụ Lê Duẩn làm bí thư thứ nhất
Năm 1960, tại Đại Hội 3, trên chủ tịch đoàn, cụ Hồ ngồi giữa, hai bên là cụ Lê Duẩn và cụ Trường Chinh. Chính cụ Lê Duẩn đọc Báo cáo Chính trị, trong đó 2 nhiệm vụ của toàn đảng là: Miền Bắc (hậu phương) phải tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CHXN để chi viện cho tiền tuyến. Cụ Lê Duẩn cớ cơ hội giải thích khái niệm “giải phóng miền Nam” theo ý mình. Từ đó người dân tin rằng mình được sống dưới một chế độ ưu việt, còn nhân dân lao động ở miền Nam bị bóc lột, đè nén dưới sự thống trị của đế quốc, phong kiến, tư bản. Sự phồn vinh chỉ là giả tạo…
![]() |
“Đề cương cách mạng miền Nam” là một văn bản quan trọng, do Lê Duẩn soạn thảo vào tháng 8 năm 1957, xác định rõ mục tiêu và phương hướng cách mạng miền Nam.
Đề cương khẳng định việc lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, và giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến. |

Đọc loạt bài này, tôi xin có vài ý kiến :
Loạt bài dông dài này có rất nhiều kết luận bất hợp lý. Sơ bộ nêu lên vài điểm như thế. Tác giả hay độc giả nào có hứng thú thì tôi sẵn sàng trao đổi thêm.
ThíchThích
“Quân lực VNCH hễ nghe hơi chứ chưa thấy VC thì đã bỏ chạy”
Nhận xét rất chính xác, họ không muốn đánh đấm gì cả, và biện hộ đó là vì họ “nhân văn”. Nhờ chính sách mở cửa, tôn trọng tiếng nói đa chiều của Đảng, họ bắt đầu có chút can đảm để dõng dạc nói về những cố gắng tránh gây nợ máu với Cách Mạng . 1 cớ nữa là họ nhìn những người Cộng Sản là anh em, the better ones, và họ không muốn cầm súng Mỹ để bắn vào anh em .
Phooey! Hèn thì cứ bảo là hèn đi, phải nói trại đi là nhân văn . Võ Văn Quản của Luật Khoa chưa đi tới tận cùng của sự thật .
ThíchThích
Cám ơn bạn đã đọc bình luận và bổ sung thêm.
Tôi thấy bạn đề cập đến Võ Văn Quản của Luật khoa nên thử vào tìm xem 1 video của ông ta trên Youtube, thấy rõ chỉ là cố gắng ngụy biện để tô son trát phấn cho thây ma VNCH thôi. Tôi đã phang cho 1 bình luận. Để xem có ai vào phản hồi không?
Nếu bạn có thì giờ và hứng thú thì vào xem cho vui : “Việt Nam Cộng hòa chỉ tồn tại 20 năm – Vì sao tôi vẫn viết về nó?” – Võ Văn Quản – YouTube
Theo kinh nghiệm của riêng tôi thì những kẻ chống cộng bất kể là tàn quân VNCH hay “chiêu hồi mới” đều chỉ giỏi độc thoại và tung hứng với nhau, nếu gặp phản biện thì đều tắc tị, cứng họng đuối lý, hoặc chửi thề, nói tục!
ThíchThích
Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 5b) | Nghiên Cứu Lịch Sử