Đàng Trong và Đàng Ngoài : Tây Ban Nha và Pháp tại vương quốc An Nam

Tác giả: Augusto Lacayo
Người được trao tặng Huân chương Thánh Fernando
và Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp.

Burgos, năm 1883
Nhà in của ông Timoteo Arnáiz, quảng trường Prim, số 17.

Vũ Đức Trung dịch và giới thiệu

LƯU Ý KHI ĐỌC SÁCH: “TÂY BAN NHA VÀ PHÁP TẠI ANNAM” — MỘT GÓC NHÌN THỰC DÂN ÂU CHÂU TRÊN ĐẤT VIỆT

Tác giả: Augusto Lacayo – Năm xuất bản: 1883

Cuốn sách Tây Ban Nha và Pháp tại Annam của Augusto Lacayo là một tài liệu quý giá, phản ánh cách nhìn nhận của giới thực dân châu Âu về Việt Nam (Đàng Trong và Đàng Ngoài) trong nửa sau thế kỷ XIX. Tác phẩm vừa là hồi ký, vừa là bản báo cáo quân sự, vừa là luận văn chính trị, cho thấy rõ tâm thế, tham vọng và lập luận của các nước phương Tây khi can thiệp vào vùng Viễn Đông.

Nội dung chính

Sách được chia làm nhiều chương, đi từ những suy xét chung về quyền lợi của Tây Ban Nha tại An Nam, đến các miêu tả địa lý, lịch sử, dân cư, tôn giáo, quân sự và các chiến dịch quân sự Pháp-Tây Ban Nha tại Đàng Trong từ 1858 đến 1863. Tác giả còn nhấn mạnh những mối quan hệ phức tạp giữa Tây Ban Nha, Pháp, Trung Hoa, Anh và các cường quốc khác trong vùng vào thời điểm đó.

Lacayo dành phần đầu sách để biện minh cho sự tham gia của Tây Ban Nha trong cuộc chiến ở Đàng Trong, nhấn mạnh hai yếu tố chính: danh dự quốc gia bị tổn thương do việc giết hại các nhà truyền giáo, và quyền lợi thiêng liêng của Kitô giáo cần được bảo vệ. Ông đồng thời bày tỏ quan ngại sâu sắc trước sự bành trướng của Anh quốc trên toàn cầu, và cho rằng chỉ có sự liên minh giữa Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha và Ý mới có thể cân bằng lại cán cân quyền lực tại châu Á.

Trong phần miêu tả địa lý, dân cư và xã hội Việt Nam, Lacayo cho thấy sự am hiểu khá tỉ mỉ về khí hậu, sản vật, hệ thống sông ngòi, dân số và đặc điểm cư dân. Tuy nhiên, dưới lăng kính thực dân, người dân An Nam thường được mô tả như “hiền lành, chất phác, lạc hậu, dễ bị trị”, trong khi giới quan lại bị đánh giá là “tham nhũng, ngu muội, chuyên quyền”.

Ở phần lịch sử, tác giả nhấn mạnh vai trò của các thừa sai Tây Ban Nha và Pháp từ thế kỷ XVII trong việc truyền bá Kitô giáo tại An Nam. Ông cũng trình bày khá chi tiết những cuộc bách hại dưới thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, coi đây là lý do chính đáng để phương Tây can thiệp bằng vũ lực.

Một góc nhìn cần cảnh giác

Điều quan trọng mà độc giả hiện đại cần lưu ý là toàn bộ cuốn sách phản ánh cái nhìn và lập luận điển hình của chủ nghĩa thực dân thế kỷ XIX. Trong mắt tác giả, việc phương Tây can thiệp quân sự, chiếm đóng lãnh thổ và truyền bá văn minh Âu châu được xem như “mang ánh sáng, tri thức và tôn giáo đích thực” đến cho các dân tộc bị coi là chậm tiến.

Sự phê phán các vua quan triều Nguyễn, dù có phần dựa trên thực tế bách hại đạo Công giáo, nhưng cũng được Lacayo dùng như công cụ biện minh cho chính sách bành trướng thuộc địa. Mặt khác, những nhận xét về văn hóa, tôn giáo và xã hội Việt Nam trong sách thể hiện rõ sự thiếu khách quan, pha lẫn định kiến ưu việt chủng tộc vốn phổ biến trong các văn bản thực dân cùng thời.

Giá trị tham khảo

Dù chứa đựng nhiều định kiến, Tây Ban Nha và Pháp tại Annam vẫn là một tài liệu lịch sử quý, giúp chúng ta hiểu được cách các nhà quân sự và ngoại giao Âu châu nhìn nhận Đông Dương vào cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt, cuốn sách cũng phản ánh rõ những động cơ phức tạp phía sau các cuộc viễn chinh Pháp-Tây tại Việt Nam, trong đó không chỉ có tôn giáo mà còn có lợi ích kinh tế, chiến lược và sự cạnh tranh giữa các cường quốc phương Tây tại châu Á.

Lời kết

Khi đọc Tây Ban Nha và Pháp tại Annam, người đọc ngày nay cần đặt tác phẩm vào đúng bối cảnh tư tưởng, thời đại và hệ giá trị của thế kỷ XIX, để không rơi vào hai thái cực: một bên là ngộ nhận về sự “thiện chí văn minh” của phương Tây, bên kia là bác bỏ hoàn toàn mọi dữ liệu mà cuốn sách cung cấp. Với sự tỉnh táo phê phán, tác phẩm này sẽ là nguồn tham khảo bổ ích cho những ai nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử truyền giáo, và lịch sử Việt Nam trong giai đoạn thực dân hóa.

MỤC LỤC

  • Lời đề tặng
  • Chương I. — Những suy xét chung.
  • Chương II. — Đế quốc An Nam, xét về địa lý và quân sự.
  • Chương III. — Tóm lược lịch sử về Cochinchina (Nam Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ) trong mối liên hệ với Tây Ban Nha.
  • Chương IV. — Cuộc viễn chinh Pháp – Tây Ban Nha tới Cochinchina, từ năm 1858 đến 1863. — Chi phí và các khoản bồi thường chiến tranh. — Hiệp ước hòa bình. — Quyền lợi và lợi ích của Tây Ban Nha tại Tonkin.
  • Chương V. — Nước Pháp tại Tonkin. — Những khả năng của một chiến dịch. — Chủ quyền của Thiên triều; cờ đen; những phức tạp trong quan hệ với Trung Hoa, Anh và Đức.
  • Chương VI. — Lập trường của Tây Ban Nha.

Kính gửi Ngài
D. Feliciano Herreros de Tejada,
BỘ TRƯỞNG TOÀN QUYỀN TỪNG ĐẠI DIỆN TÂY BAN NHA TẠI MEXICO,
CỐ VẤN BỘ GIÁO DỤC CÔNG VÀ THƯỢNG NGHỊ SĨ VƯƠNG QUỐC.

Khi viết nên những trang này, lòng tôi dấy lên xúc cảm trước những biến cố hiện tại, khiến ký ức về chiến dịch ở Đàng Trong như sống lại cách sống động. Tôi hồi tưởng với nỗi buồn man mác ngọt ngào về những ấn tượng đầu tiên của tuổi trẻ, nhớ lại mọi biến cố, niềm vui và cả những bất hạnh mà đoàn viễn chinh của tôi đã trải qua nơi xứ sở ấy.

Trong chiến dịch ấy, tôi đã mắc phải một căn bệnh đau đớn và để lại hậu quả buồn thảm; nhưng từ đó, tôi cũng giữ lại trong tâm trí và linh hồn mình một gia sản quý báu nhất mà tôi sẽ để lại cho con cháu: danh dự vì đã hoàn thành bổn phận của mình.

Tây Ban Nha và Pháp đã tưởng thưởng cho tôi vượt quá những gì tôi xứng đáng nhận được vì các công vụ đã chu toàn. Và khi hồi tưởng lại tất cả những cảm xúc và ký ức của thời kỳ ấy, tôi muốn gắn kết những ấn tượng đầu tiên, cả thể lý lẫn tinh thần, của cuộc đời mình với tình bạn chân thành của ngài – người đã thể hiện mối cảm tình đầu tiên của linh hồn tôi – và cũng chính vì thế mà tôi thấy mình có bổn phận phải đặt tên ngài ở ngay trang đầu tiên của cuốn sách này.

Những ghi chép và hồi ký của tôi về chiến dịch tại Đàng Trong, tất cả các dữ kiện và tin tức tôi đã thu thập được trong thời gian ấy, cùng với bao mộng tưởng và lý tưởng của tôi khi ấy – với những niềm vui thoáng qua và những thất vọng dai dẳng – tất cả tạo thành những ấn tượng đẹp đẽ nhất của tuổi trẻ tôi: những ngày tươi sáng và hạnh phúc đối với người khác, nhưng lại rất hiếm hoi về niềm vui và lạc thú đối với tôi. Bởi vậy, để viết nên những trang này, tôi đã phải đào sâu lại mọi tâm tình trong linh hồn mình và khơi dậy trí khôn và ký ức, để khi thực hiện cuộc kiểm điểm giữa bao cảm xúc và hồi tưởng, tôi có thể tìm thấy những chứng tích không thể quên của lòng biết ơn và tình thân dành cho ngài.

Trong những trang này, ngài cũng sẽ thấy được ước nguyện yêu nước của tôi là cố gắng, trong khả năng cho phép, làm giảm bớt quyền lực thực dân áp đảo của Anh Quốc và ảnh hưởng vượt trội của họ trên các vùng biển. Sự liên kết giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Ý sẽ có thể chống lại tham vọng vô độ và ích kỷ của người Anh; và theo hướng ấy, chúng ta cần cổ vũ và phát triển mối liên minh cũng như những lợi ích thuộc địa chung giữa các dân tộc có cùng nguồn gốc và cùng mục tiêu.

Tôi không rõ liệu ngài có đồng tình với những nhận định và phán đoán của tôi về “Tây Ban Nha và Pháp tại Đàng Trong và Đàng Ngoài” hay không; điều tôi có thể khẳng định ngay là: cho dù sự phán đoán sáng suốt của ngài và ý kiến hết sức khiêm tốn của tôi có thể khác biệt, thậm chí đôi khi không đồng thuận, thì tình cảm yêu mến giữa chúng ta sẽ không bao giờ rạn nứt. Nay cũng như xưa, xin ngài đón nhận nơi người bạn thân thiết nhất của mình tình cảm chân thành ấy.

AUGUSTO LACAYO
Tháng Sáu năm 1883

TÂY BAN NHA VÀ PHÁP
TẠI VƯƠNG QUỐC AN NAM

CHƯƠNG I
Những suy xét tổng quát

Lá cờ Tây Ban Nha, vốn đã từng tung bay một cách vẻ vang giữa lưỡi lê của quân đội Pháp tại Đàng Trong, tượng trưng cho liên minh giữa hai quốc gia được liên kết bởi những lý do giống nhau nhằm bảo vệ các lợi ích thiêng liêng của nền văn minh và của Kitô giáo, hôm nay lại cần phải được giương cao một lần nữa – không phải như biểu tượng của chiến tranh hay cờ hiệu của cuộc chinh phục – nhưng để nhắc nhớ, bởi hoàn cảnh cấp thiết đòi hỏi, rằng trên lá cờ ấy đã ghi khắc những ngày tháng vẻ vang của các chiến thắng của chúng ta, và cùng với đó là các quyền lợi mà Tây Ban Nha đã giành được tại Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Và Tây Ban Nha không chỉ đại diện cho những quyền lợi có được nhờ sức mạnh vũ trang: còn có những quyền lợi do các nhà truyền giáo của chúng ta đạt được khi trong suốt ba thế kỷ đã gieo mầm Kitô giáo trên những vùng đất xa xôi ấy, tưới gội các cuộc chinh phục của nền văn minh và tiến bộ bằng máu của các vị tử đạo.

Các nhà truyền giáo Tây Ban Nha tại vương quốc An Nam đã để lại cho chúng ta, qua việc rao giảng và qua những nỗ lực phi thường, những lợi ích đáng kính và thiêng liêng mà chúng ta không thể từ bỏ, và mà mọi chính phủ đều cần phải công nhận, vì theo như có thể suy ra từ cách hành xử của nước Pháp và từ sự im lặng của báo chí, thì dường như chúng ta đã hoàn toàn từ bỏ mọi quyền lợi mà Tây Ban Nha đã giành được và vẫn còn có tại Đàng Ngoài.

Những mục tiêu mà Tây Ban Nha đã đặt ra khi tham gia chiến dịch tại Đàng Trong cùng với quân đội Pháp – như chúng ta sẽ có dịp chứng minh – là: chuộc lại danh dự của lá cờ tổ quốc bị xúc phạm, trả thù cho máu của các nhà truyền giáo chúng ta đã bị đổ một cách tàn bạo ở Đàng Ngoài; bảo vệ việc thờ phượng Công giáo và che chở cho các lợi ích của chúng ta bằng cách thúc đẩy thương mại và ảnh hưởng của Tây Ban Nha tại các quốc gia ấy. Điều đó đã được chính phủ Pháp và Đề đốc Bonnard – Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp – nhìn nhận, và các ngài cũng đã tỏ thiện chí giúp đỡ Tây Ban Nha trong việc chiếm lấy tỉnh Nam Định ở Đàng Ngoài. Và khi ấy – như ta sẽ thấy sau – chính người bản xứ nổi dậy chống lại Hoàng đế Tự Đức cũng đã cầu viện sự trợ giúp của chúng ta. Quân đội của Tự Đức đã bị đánh bại bởi một người tranh ngôi hoàng đế An Nam, người này đã tha thiết xin được vũ khí Tây Ban Nha yểm trợ. Điều đó xảy ra vào năm 1862, và người lãnh đạo phe nổi dậy, kẻ nuôi mộng lên làm vua xứ Đàng Trong, chính là Lê Duy-Phụng, hậu duệ của hoàng tộc Chiêu Thống – bị lật đổ vào năm 1788. Khi chiến dịch Pháp–Tây tại Đàng Trong kết thúc vào năm 1863, và sau khi hiệp ước hòa bình được ký kết với Tây Ban Nha và Pháp, hoàng đế Tự Đức đã điều quân đến Đàng Ngoài, đánh bại phe nổi loạn và đẩy quân Lê vượt khỏi Kẻ Chợ, trốn sang các vùng núi phía Tây.

Cuộc nội chiến ở Đàng Ngoài và những chiến thắng mà quân đội chúng ta giành được trong chiến dịch tại Đàng Trong đã mang lại nhiều lợi thế cho Tây Ban Nha đến mức khi ấy chúng ta hoàn toàn có thể thiết lập sự hiện diện tại vương quốc An Nam, không chỉ theo lời khẩn cầu của cư dân nơi đó, mà còn là kết quả của nỗ lực của chính chúng ta, của các quyền lợi chính đáng, và như một khoản bồi thường công bằng sau chiến tranh.

Tây Ban Nha, vốn có những thuộc địa quan trọng nhất ở vùng Viễn Đông và nhiều quyền lợi cần được bảo vệ cũng như phát triển, không thể tiếp tục thể hiện sự thờ ơ và thái độ dửng dưng như hiện nay trước những gì đang diễn ra tại châu Đại Dương và vùng viễn đông châu Á.

Tây Ban Nha – vì lợi ích của chính mẫu quốc, và hơn thế nữa, vì quần đảo Philippines quý giá của mình – phải tìm mọi cách và tận dụng mọi cơ hội thuận lợi để trung hòa quyền lực và ảnh hưởng của Anh quốc trên các vùng biển ấy.

Lá cờ và uy tín của chúng ta, vốn đã từng thống trị không đối thủ ở châu Đại Dương kể từ thế kỷ XVI, nay đang phải hứng chịu nỗi nhục của một thực lực suy yếu nghiêm trọng, hậu quả của chính thái độ thờ ơ mà chúng ta đang theo đuổi.

Anh quốc đang mở rộng lãnh thổ khắp nơi trên thế giới; họ đã tước đoạt chủ quyền của chúng ta ở Borneo, làm tiêu tan ảnh hưởng của ta tại châu Phi, khiến các quyền lợi chính đáng của ta ở Santa Cruz de Mar Pequeña trở nên vô ích, và chúng ta còn phải chịu nỗi ô nhục khi chứng kiến trên lãnh thổ Tây Ban Nha một lá cờ đã bị cắm bởi sự nhục nhã, chứ không phải như một chiến tích vinh quang – đó là Gibraltar.

Tây Ban Nha không có ý định thực hiện các cuộc chinh phục, cũng không nghĩ đến những cuộc phiêu lưu điên rồ và nguy hiểm trong thời điểm hiện tại; điều duy nhất Tây Ban Nha mong muốn là những gì thuộc về mình được tôn trọng, và những yêu sách chính đáng được lắng nghe. Để đạt được điều đó, chúng ta cần phải góp phần bằng mọi phương tiện vào việc làm suy yếu quyền lực thuộc địa của Anh và sự thống trị của họ ở phương Đông, đồng thời cổ vũ công cuộc thực dân hóa của những quốc gia như Pháp và Bồ Đào Nha – những dân tộc lẽ ra phải là bạn bè và đồng minh của chúng ta.

Liên minh giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Ý sẽ có thể làm vô hiệu quyền thống trị của Anh tại Địa Trung Hải và miền Bắc châu Phi. Việc phát triển và thúc đẩy các thuộc địa của Pháp, Bồ Đào Nha và Hà Lan ở châu Á và bán đảo Đông Dương sẽ đảm bảo thế thống trị của chúng ta ở châu Đại Dương, đồng thời gia tăng sự giàu có và thương mại.

Khi ảnh hưởng của Anh quốc tại Viễn Đông ngày càng tăng, còn thế lực của chúng ta thì suy giảm nghiêm trọng, thì điều hết sức quan trọng đối với Tây Ban Nha lúc này là phải có một tiền đồn ở vùng duyên hải Đàng Ngoài – giữa chuỗi các vị trí trải dài từ Singapore đến Hồng Kông. Trên các vùng biển ấy, cờ của Pháp và Anh tung bay, rất gần tuyến hải trình của tàu chúng ta trên đường đến Philippines; vì thế, cần thiết phải có tại Đàng Ngoài một nơi trú ẩn an toàn cho các đoàn truyền giáo, một bến đậu cho tàu thuyền của ta, và một kho dự trữ lương thực cùng than đá để chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy đến trong tương lai. Nhờ đó, ta cũng dễ dàng hơn trong việc thực dân hóa đảo Mindanao, và thay thế lao động nô lệ từ Cuba, cũng như lao động người Hoa tại Philippines, bằng cách cổ vũ di dân Kitô giáo từ Đàng Ngoài và Đàng Trong đến Cuba và Mindanao.

Nga cũng đang mở rộng lãnh thổ: các tuyến liên lạc giữa Siberia và Tartaria sẽ – dù sớm hay muộn – hiện thực hóa những giấc mộng của Pie Đại đế, và khi đó, quyền thống trị bán đảo Đông Dương sẽ rơi vào tay Nga và Anh. Liên minh giữa hai cường quốc này sẽ là sự hợp nhất của hai người khổng lồ, vì nếu sức mạnh về nhân lực và tài nguyên của Nga đã là điều đáng sợ, thì lực lượng hải quân của Anh – hiện đang làm chủ các đại dương – lại hùng mạnh và không thể cưỡng nổi.

Aden, Tích Lan, những vùng lãnh thổ rộng lớn ở Ấn Độ, Singapore, Pulau Pinang, Hồng Kông và Thượng Hải đều thuộc về người Anh: mọi tuyến đường dẫn đến bán đảo Đông Dương và châu Đại Dương đều bị Anh quốc giám sát, và khi thiết lập như thế một chuỗi các điểm được củng cố, họ đã từng bước tạo ra các đồn tiền tiêu hải quân từ Gibraltar đến tận Trung Hoa. Việc chiếm đóng Ai Cập và chủ quyền ở Borneo chính là những pháo đài cuối cùng của một chuỗi phòng thủ rộng lớn mà chúng ta cần xem là mối đe dọa thường trực đối với tự do hàng hải của tàu thuyền Tây Ban Nha trên tuyến đường từ chính quốc đến Philippines.

Ảnh hưởng của Anh quốc tại vùng Đông Dương lớn đến mức, cùng với sự thống trị của mình, họ đã mang đến đó toàn bộ nền thương mại, phong tục và ngôn ngữ của họ, và cố gắng truyền bá chúng đến độ khiến tôi vẫn còn nhớ rõ cảm giác ngạc nhiên khi tham gia chiến dịch tại Đàng Trong, lúc chúng tôi dừng lại vài ngày ở Quảng Châu: chỉ sau vài tháng quân Pháp và Anh tiến vào thành phố đông đúc ấy, phần lớn các tên đường phố đã được viết bằng tiếng Anh bên cạnh các ký tự Hán; còn các mục sư Tin Lành thì hiện diện đông đảo nơi nhiều quảng trường, công khai rao giảng giáo lý Tin Lành cho con cái của Thiên triều, lôi kéo tín đồ từ tay Phật và Khổng.

Pháp, trước đó chưa có một thuộc địa nào tại Viễn Đông, đã biết tận dụng đúng lúc cơ hội để thiết lập thuộc địa tại Đàng Trong. Họ đã chiếm Sài Gòn với sự trợ giúp của quân đội Tây Ban Nha, từ đó kiểm soát một vị trí chiến lược tuyệt hảo xét theo tương quan với Tây Ban Nha, Anh, Hà Lan và Bồ Đào Nha, bởi Sài Gòn nằm giữa Trung Hoa và các eo biển, giữa Singapore và Hồng Kông, gần Batavia và sát bên Ma Cao và Manila.

Pháp khi ấy đã có thể hiện thực hóa khát vọng của mình – điều mà dư luận và báo chí thời đó đã nói rõ ràng – rằng nước Pháp đang ở vào một vị thế đáng hổ thẹn, và cần phải “để cho lá cờ Pháp tung bay trên một vùng đất Pháp tại châu Á.” Đó chính là lý do chủ yếu của chiến dịch Pháp tiến vào Đàng Trong năm 1858, một chiến dịch được hậu thuẫn bởi những lý do chính đáng và được khởi xướng nhân danh những nguyên do thiêng liêng.

Ngay từ thời vua Louis XVI, nước Pháp đã ấp ủ nguyện vọng thiết lập một thuộc địa trong đế quốc An Nam. Năm 1787, Đức cha Pigneaux de Béhaine, Đại diện Tông Tòa tại Đàng Trong, đã trình lên nhà vua bản kế hoạch thành lập thuộc địa, kèm theo một bản ghi nhớ mà nơi đó ta thấy có những nhận định tiên tri, vẫn còn mang tính thời sự đến ngày nay:

“Cán cân chính trị của Ấn Độ nghiêng về phía Anh quốc, nên Pháp cần phải cân bằng lại bằng cách thiết lập hiện diện tại Đàng Trong.” “Trong thời bình, Pháp sẽ được ưu thế hơn Anh quốc trong việc buôn bán với Trung Hoa, đồng thời kiềm chế các cuộc xâm lăng; có thể đóng và sửa tàu, thiết lập kho lương thực lớn để phục vụ cho các hạm đội nước ngoài; và trong thời chiến, nơi đó sẽ là nguồn cung cấp nhân lực và tài chính.”

Vua Louis XVI đã chấp thuận những ý tưởng của vị Giám mục thông thái và nhiệt thành ấy, nhưng không thể hiện thực hóa được.

Kể từ thời điểm đó, châu Á – và đặc biệt là bán đảo Đông Dương – dần dần bị thấm nhập bởi tập quán phương Tây; nền văn minh, dù phát triển còn chậm, đã mang đến những đổi thay rõ rệt và khắc ghi các biến chuyển tận căn trong đời sống của các dân tộc nơi đây. Tuy nhiên, không phải Pháp hay Tây Ban Nha, mà chính nước Anh mới là kẻ đem theo sự áp đặt bằng sức mạnh và những cuộc chinh phục nhân danh tiến bộ.

Lời rao giảng của các nhà truyền giáo chúng ta, cùng với mọi hy sinh và nỗ lực của Kitô giáo, đã làm gia tăng cách đáng kể số người tân tòng; và trong khi Pháp và Tây Ban Nha mở rộng Công giáo tại Á châu và châu Đại Dương, thì nước Anh lại giành lấy thần dân và chiếm lĩnh các vùng đất, coi như những viên ngọc quý để đính lên vương miện của họ, nhằm tăng thêm vẻ huy hoàng và của cải.

Tây Ban Nha, Pháp và Bồ Đào Nha chính là những quốc gia đã góp phần mang lại tri thức địa lý – lịch sử về các xứ sở ấy; và các đoàn truyền giáo đến đó rao giảng Tin Mừng là hiện thân đáng kính của tri thức và đức tin, bởi họ đã để lại những minh chứng rõ ràng rằng họ biết kết hợp sâu sắc giữa tôn giáo và khoa học, đem lại nhiều hoa trái tốt đẹp cho thế gian và cho Thiên Chúa.

Tuy nhiên, chỉ mình Kitô giáo thôi thì chưa đủ để đưa các dân tộc ấy bước vào đời sống của nền văn minh và tiến bộ; cần phải chinh phục họ bằng sự thuyết phục đến từ sức mạnh: đó chính là điều nước Pháp phải thực hiện để bảo đảm các quyền lợi thuộc địa của mình tại Đàng Trong – những quyền lợi không chỉ có ý nghĩa lớn về mặt chính trị, mà còn rất hữu ích về nhiều mặt khác.

Với công cuộc này, chúng ta cần liên đới về mặt tinh thần, nếu hiện tại chưa thể cùng tham gia bằng những cách khác; tuy nhiên, điều rất quan trọng là ta cần hỗ trợ các mục tiêu của Pháp, khi nhớ rằng việc liên minh giữa Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp tại vùng viễn đông châu Á là điều hoàn toàn thiết yếu – nơi mà chúng ta sẽ ngày càng thường xuyên phải đối diện với các âm mưu chống lại Tây Ban Nha từ phía Anh quốc, cũng như những thù hận và cạnh tranh của Đức và Anh đối với nước Pháp.

Chúng tôi sẽ trình bày một cách khái lược về vương quốc An Nam, xét trên phương diện địa lý và quân sự; sẽ điểm lại sơ lược lịch sử của Đàng Trong và Đàng Ngoài trong mối tương quan với nước Pháp và Tây Ban Nha; sẽ nêu ra những điều quan trọng nhất liên quan đến chiến dịch Pháp–Tây từ năm 1858 đến 1863, bao gồm chi phí, các hiệp ước hòa bình và những khoản bồi thường từ cuộc chiến ấy.

Và vì mục tiêu của chúng tôi là làm sáng tỏ tất cả những khả năng của một chiến dịch quân sự của nước Pháp tại vương quốc An Nam – phát sinh từ các biến cố gần đây – cùng với những phức tạp có thể xảy ra với Trung Hoa, Anh và Đức, nên cần thiết phải xác định rõ lập trường của Tây Ban Nha: đất nước không nên từ bỏ các quyền lợi và lợi ích mà mình đang có tại Đàng Ngoài, và phải lấy làm tiếc rằng đến nay Tây Ban Nha vẫn chưa được hoàn trả các chi phí và hy sinh đã bỏ ra cho chiến dịch tại Đàng Trong.

CHƯƠNG II
Vương quốc An Nam xét về phương diện địa lý và quân sự

Vương quốc An Nam bao gồm Đàng Trong, Cao Miên và Đàng Ngoài, và được chia thành ba mươi tỉnh, trong đó có mười ba tỉnh thuộc Đàng Ngoài, mười tỉnh thuộc Đàng Trong và sáu tỉnh thuộc Cao Miên; tuy nhiên, ngoài các tỉnh này, đế quốc An Nam còn có nhiều lãnh thổ phụ thuộc khác như các vùng gọi là Lào, Bao và Chiampa hay Bình Thuận, vùng này có đông người Hồi giáo và người Do Thái sinh sống; lãnh thổ Lac-Tchu, nằm giữa Đàng Ngoài và Trung Hoa, bị cắt ngang bởi con sông lớn May-Kang, vốn cũng chảy qua vùng được biết đến dưới tên gọi Lào, ở phía đông bắc vương quốc Xiêm, và nơi đây lấy tên đó do có rất nhiều voi sinh sống.

Đàng Trong hay Nam An Nam kéo dài từ phía nam Đàng Ngoài đến tận Chiampa, với chiều dài 825 kilômét và chiều rộng 230 kilômét. Đàng Ngoài có chiều dài 760 kilômét và chiều rộng 500 kilômét, với diện tích khoảng 202.500 kilômét vuông. Cao Miên, còn được gọi là Indra-Skan, có chiều dài 890 kilômét từ Bắc xuống Nam và 560 kilômét từ Đông sang Tây. Hình dáng của Đàng Trong và Đàng Ngoài thường được ví như chiếc áo dài, trong đó Đàng Trong chính là dải thắt lưng của chiếc áo ấy.

Vị trí địa lý thuận lợi của vương quốc An Nam, sự phì nhiêu của đất đai, sự phong phú về tài nguyên rừng và khoáng sản, hệ thống sông ngòi dày đặc và các hải cảng an toàn, và trên hết là sự đông đúc dồi dào về dân số – điều cho phép khai thác mọi nguồn lực sản xuất – đã khiến người ta xem đất nước này như một trung tâm giàu có đối với các dân tộc châu Âu, những dân tộc đang khai thác các yếu tố thịnh vượng ấy trong các thuộc địa của họ tại Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Lúa gạo và tre là những sản phẩm nông nghiệp quan trọng nhất tại xứ sở này, vì chúng đáp ứng những nhu cầu đầu tiên và thiết yếu trong đời sống. Lúa gạo và cá là nền tảng chính trong khẩu phần ăn của người dân, còn tre thì được dùng để dựng nhà, làm cầu và đóng thuyền bè — những chiếc thuyền rất hẹp và nhẹ, đến nỗi người ta có thể dễ dàng kéo chúng lên khỏi mặt nước trong các con kênh và vác lên vai mỗi khi không thể đi qua một số nơi nào đó. Để trồng lúa — loại cây mà họ thu hoạch hai vụ mỗi năm — người ta đã phải thực hiện những công trình kênh mương và dẫn thủy rất lớn.

Ở Đàng Ngoài và Đàng Trong, người ta dễ dàng trồng được bắp, quế, mía, bông, tơ tằm, cau, chè; có loài cây gọi là aloexylum verum, từ đó lấy được nhựa trầm hương (ở Đàng Trong gọi là kỳ nam), loại nhựa quý giá như nhựa cánh kiến mà loài kiến làm ra trên cây croton lacciferum; cùng với nhựa máu rồng (sangre de drago) lấy từ cây dracæna ferrea. Cây nguyệt quế (laurel mirra) cho loại quế ngon hơn quế Tích Lan; còn cây sáp cho một loại dầu trắng tuy có mùi khó chịu nhưng lại được dùng để làm nến; cùng với đó là cây chàm (indigo) rất phong phú và vượt trội, có thể trở thành nguồn lợi đáng kể.

Từ cây mía, người ta sản xuất được rất nhiều đường, đem xuất khẩu sang Trung Hoa dưới dạng bánh, khá tinh khiết.

Phần lớn các loại trái cây của Trung Hoa và Ấn Độ đều có mặt ở đây, và có nhiều loại trái cây rất ngon: trong đó có chanh, cam rất ngọt, dưa, dừa – thứ quả có rất nhiều công dụng và ứng dụng hữu ích tại xứ này; còn có xoài thanh nhã và măng cụt thơm ngon mà hương vị ngọt ngào của chúng vẫn còn đọng lại trong ký ức. Gà rất nhiều, nhưng vịt thì lại càng dồi dào hơn. Tại các kênh rạch, ao hồ, sông ngòi và ven biển, có rất nhiều loại cá khác nhau được đánh bắt, dùng ăn tươi và phơi khô để bảo quản; chính điều này đã gây ra rất nhiều bệnh ngoài da khó chịu, dai dẳng và gần như không thể chữa khỏi.

Những phương tiện vận tải đường thủy nội địa và ven biển, đặc biệt trên các dòng sông tại Đàng Trong và Đàng Ngoài, là những chiếc thuyền nhỏ, thuyền buồm và thuyền mành, có hình dáng và cách đóng khá giống với thuyền Trung Hoa.

Xứ sở này rất đẹp: phô bày sự lộng lẫy và vẻ kỳ diệu của thiên nhiên khoác lên mình toàn bộ vẻ rực rỡ của ánh sáng và thảm thực vật xanh tươi, tạo nên trong tâm hồn người lần đầu đặt chân lên bờ cõi ấy những ấn tượng ngỡ ngàng đầy thán phục và cảm giác thư thái êm dịu.

Tôi vẫn chưa quên được ấn tượng mà bầu trời trong vắt và những tia nắng mặt trời gay gắt nơi ấy đã để lại cho tôi, vào ngày mà tôi, trên chiến hạm Jorge Juan, tiến vào Đàng Trong qua sông Đồng Nai. Tôi say sưa trước khung cảnh đã khi ấy gieo vào tâm hồn tôi cả một thi vị của sự sống: chiến hạm chúng tôi lướt nhẹ sát những bờ sông như những khung tranh bằng lá cây tô điểm cho bức họa thần tiên; cột buồm, tay buồm và cánh buồm quấn vướng trong các tán lá nghiêng rủ xuống mặt nước như những vòm cây, và dường như lá cây cành lá lay động trong gió chỉ để vẫy chào chúng tôi như một lời chào đón. Thiên nhiên ôm ấp chúng tôi vào lòng, đánh thức con tim bằng những tiếng thì thầm ngọt ngào của bao hạnh phúc khôn tả; nhưng chẳng bao lâu, những cảm xúc êm đềm ấy lại chuyển thành nỗi buồn và bất hạnh; chính trên dòng sông ấy, tôi đã tìm thấy chốn nương náu giữa cơn đau đớn, khi bị dịch tả tấn công tại Go-kong. Trong khoang tàu vận tải Pháp L’Europeene, neo đậu trên sông Đồng Nai (một dòng sông có chỗ hẹp, có chỗ rộng đến ba kilômét), chỉ có bên cạnh tôi những người bị thương và những bệnh nhân như tôi: lúc đó, tôi cố tìm vô vọng đường chân trời rực rỡ khi xưa: chẳng còn thấy bầu trời xanh biếc nữa, và những làn gió duy nhất còn nâng đỡ tâm hồn tôi chỉ còn là những ký ức về quê hương, đầy những hoài nghi về việc liệu tôi có còn được nhìn thấy quê nhà nữa hay không.

Phía Bắc và phía Tây của Đàng Ngoài, cùng với phía Tây của Đàng Trong, đều rất nhiều núi non: có nhiều loại cây quý dùng cho đóng tàu và nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú. Tại các tỉnh thượng du Đàng Trong và Đàng Ngoài có nhiều mỏ kẽm và đồng đang được khai thác; và cần phải đặc biệt nhắc đến các mỏ vàng, bạc và đồng ở Phú Yên như là những mỏ có giá trị quan trọng.

Trong các vùng núi sâu còn có cọp, báo, trâu rừng và đủ loại rắn.

Các mùa được phân định khá đều đặn, và khí hậu không quá nóng bức cũng không duy trì nhiệt độ đồng đều quanh năm như ở Cuba và Philippines; nhiệt kế không vượt quá 36 độ, và về mùa đông không xuống dưới 12 độ.

Từ tháng Mười Hai đến tháng Ba thịnh hành gió Bắc, gần như luôn chiếm ưu thế, đặc biệt là ở Đàng Ngoài, nơi thường xuyên có những thay đổi đột ngột về nhiệt độ, với sự chênh lệch rõ rệt về độ ẩm và nhiệt độ giữa ngày và đêm do ảnh hưởng của mặt trời và sự bốc hơi nước. Không khí luôn duy trì ở mức độ ẩm rất cao. Xứ sở này có khí hậu lành mạnh ở vùng ven biển và đồng bằng, nhưng lại độc hại tại các vùng núi non và đầm lầy, việc thích nghi với khí hậu rất khó khăn ở những nơi có độ cao lớn so với mực nước biển.

Vào mùa mưa, đồng ruộng bị ngập lụt và người ta di chuyển trên đó bằng thuyền; trên vùng nước mênh mông ấy, cây cối, làng mạc và nhà cửa trông như những hòn đảo nổi.

Những trận lụt, hệ thống kênh mương và những vùng nước tù đã gây nên nhiều loại sốt rét tái phát, và một số cơn sốt ác tính vô cùng nghiêm trọng; trong thời gian diễn ra chiến dịch Pháp–Tây từ 1858 đến 1863, đã có nhiều trường hợp tử vong thương tâm trong quân đội đồng minh vì những nguyên nhân này. Bệnh kiết lỵ và thấp khớp là những chứng bệnh phổ biến nhất; ngoài ra còn có dịch tả, khi thì xuất hiện như một căn bệnh địa phương, khi thì bùng phát thành dịch lớn, thường để lại những dấu tích đau thương và bi thảm.

Đàng Ngoài, nằm ở cực bắc của An Nam và phía bắc Đàng Trong, giáp ranh với đế quốc Trung Hoa, bị chia cắt bởi sông Hồng, chảy từ Tây sang Đông và đổ ra vịnh Bắc Bộ. Sông Song-Kian ngăn cách Đàng Ngoài với Đàng Trong; còn sông San-Koi – con sông quan trọng nhất giữa vô số các con sông lớn – bắt nguồn từ Trung Hoa, dài 880 kilômét và định kỳ gây lũ lụt cho đất nước như sông Nile ở Ai Cập và sông Hằng ở Ấn Độ, trở thành nguyên nhân chính mang lại sự màu mỡ cho các cánh đồng của Đàng Ngoài khi chảy từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Sông Mei-cong, chảy qua phần lớn lãnh thổ Cao Miên, có chiều dài hơn 370 kilômét có thể lưu thông bằng thuyền.

Số dân của vương quốc An Nam vượt quá 29 triệu người; trong đó Đàng Ngoài có 10 triệu, còn Đàng Trong và Cao Miên có 19 triệu. Dân số đông đúc đến mức, như cha thừa sai Retord đã nói về giáo phận của ngài: “gồm bảy triệu tám trăm ngàn dân cư, trên một diện tích không vượt quá hai ngàn dặm vuông”, tức là có đến “3.900 người trên mỗi dặm vuông”, trong khi ở Pháp, với diện tích 28.000 dặm vuông, chỉ có 36 triệu dân; như vậy Đàng Ngoài có mật độ dân số gấp ba lần nước Pháp. Tại Tây Ban Nha, diện tích bán đảo và các đảo phụ cận là 504.516 kilômét vuông, nhưng mật độ dân số trung bình chỉ có 33 người trên mỗi kilômét vuông. Mật độ dân số cao như vậy chính là một nguồn lực to lớn nếu biết khai thác hợp lý sức lao động và tiềm năng của nó; vì thế mà Java có tầm quan trọng thương mại ngang ngửa với Manila, mặc dù quần đảo Philippines có gần sáu triệu dân, và diện tích dặm vuông của đảo Java — thuộc Hà Lan — còn nhỏ hơn cả đảo Luzon.

Dân cư của vương quốc An Nam là những người hiền lành và chất phác, khác biệt rõ rệt với người Trung Hoa về phương diện đạo đức; tình cảm của họ trong sáng hơn, tập tục khắt khe hơn; họ lương thiện và không có lòng thù hận, đa nghi và hay báo oán như người con của Thiên triều; tuy nhiên, cần hiểu rằng những đức tính tốt đẹp ấy chỉ tồn tại nơi thường dân, bởi các quan lại thì lại giống người Hoa trong các thói xấu và sự suy đồi trong quản trị, dù kém hơn về học vấn và trí tuệ.

Người Đàng Trong khác người Hoa về tập tục và đời sống tinh thần, cũng giống như nông dân vùng quê khác với cư dân thành thị và những nơi đông dân. Chính vì vậy, người Đàng Trong, và đặc biệt là người Đàng Ngoài, sẽ là những di dân lý tưởng và rất hữu ích cho công cuộc thực dân hóa Mindanao, đồng thời có thể thay thế lao động nô lệ da đen và lao động tự do của người Hoa tại Cuba — vốn do những điều kiện bất lợi mà hiệu quả không cao.

Người bản xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài có tầm vóc trung bình, mặt tròn, rộng, không râu, nước da đồng ánh dầu, mắt nhỏ, mũi rất tẹt; tóc đen và thường tết bím, khi nói chuyện với người khác họ thả bím tóc xuống như dấu hiệu biểu lộ sự kính trọng; móng tay dài và nhọn là biểu tượng của sự thanh nhã. Trang phục của họ gồm một chiếc quần rộng và áo dài có dạng chữ thập phía trước. Khi mặc lễ phục, họ khoác thêm chiếc áo choàng dài với tay áo rộng; người thuộc tầng lớp thượng lưu mặc áo lụa và giữ mọi nghi thức xã giao đặc trưng của người Hoa.

Tôn giáo chính của họ là đạo Phật, nhưng họ cũng thờ cúng tất cả các vị thần của Trung Hoa, và dân gian thường thờ cả các thần thiện lẫn ác. Tuy nhiên, cần đặc biệt nhắc đến những người theo Lão Tử, người sáng lập đạo Đạo (Tao-sse), mà các truyền thuyết mô tả như một bản thể thuần khiết, có bản tính thần linh: “Ngài là Đạo-sư, có trước cả trời đất, khoác hình nhân loại, và nhiều lần hóa thân để thực hiện những định mệnh khác nhau trong cõi trần gian.” Lão Tử, theo truyền thuyết, là con trai của một gia đình nghèo khó, ngay từ thuở nhỏ đã miệt mài học tập, am tường các giáo lý Bà-la-môn, Tam vị nhất thể Ấn Độ và triết học Trung Hoa — có thể vốn chịu ảnh hưởng từ Athens — để rồi sáng lập đạo Đạo, trong đó “Đạo” là điều kiện tồn tại, là nguyên lý và sự thật của muôn vật.

Lão Tử nói: “Trước cả hỗn mang sinh ra trời đất, đã có một hữu thể duy nhất, vô biên, tĩnh lặng và bất biến; ta không biết tên gọi của hữu thể ấy, nhưng ta gọi là Đạo.” Vì Khổng Tử sinh sau Lão Tử năm mươi năm, nên chúng tôi mới đề cập đến ngài ở đây; bởi nếu những môn đệ của Lão Tử không làm biến dạng giáo lý ban đầu, thì có lẽ Kitô giáo còn có thể giành được nhiều tín đồ hơn tại Đàng Trong.

Lão Tử khuyên con người thực hành nhân đức, giữ tâm hồn thanh thản khổ hạnh, lấy lý trí làm nguyên tắc tối cao trong mọi hành động sống, mà không đòi hỏi các nghi lễ tôn giáo. Tuy nhiên, các môn đồ của ông đã làm biến tướng giáo huấn ấy đến mức về sau, những nghệ sĩ đường phố và các pháp sư, những kẻ đoán mệnh tương lai, đã trở thành giới giáo sĩ, chế ra các loại linh dược trường sinh bất tử và những phương cách giúp con người bay lên trời qua bầu không khí.

Tôn giáo Ấn Độ với các truyền thuyết và thần thánh của họ; thuyết thần linh trong đạo Thần đạo tại Nhật Bản — khẳng định rằng linh hồn người lành ngự nơi vùng sáng gần thiên giới, còn linh hồn kẻ ác lang thang trên thế gian; và thuyết luân hồi của người Ấn, cho rằng con người chết đi rồi lại tái sinh, luân chuyển vĩnh viễn cho đến khi đạt đến cùng đích — tất cả những giáo thuyết ấy cũng đã có nhiều tín đồ tại Đàng Trong, như tại hầu hết các quốc gia vùng Viễn Đông.

Dân cư ở nhiều vùng núi thuộc Đàng Trong và Đàng Ngoài không có một tôn giáo xác định; trong khi có những người chỉ bày tỏ tín ngưỡng bằng những nghi thức thô sơ của Phật giáo, thì những người khác lại hoàn toàn không có khái niệm gì về sự bất tử của linh hồn; họ chỉ giữ trong lòng cảm giác ghê sợ và kinh hoàng trước xác chết, vì tin rằng ma quỷ ngự trị trong đó, và cho rằng các thần dữ ẩn náu nơi người chết.

Khi quan sát người Đàng Trong bày ra muôn hình vạn trạng các mê tín của các dân tộc vùng Đông Dương, ta lại thấy rằng các quan lại và giới nho sĩ ở đây chẳng có niềm tin tôn giáo nào bám rễ vững chắc; họ là những kẻ hoài nghi và ích kỷ, tuy miệng nói rằng mọi hành vi của mình đều lấy lý trí làm chuẩn mực, nhưng lại phạm đủ mọi điều ô nhục mà không mảy may cắn rứt lương tâm hay sợ hãi hình phạt ở đời này hay đời sau, ngang nhiên chà đạp luật pháp và luân lý.

Tại Đàng Ngoài, nhờ công cuộc truyền giáo hiệu quả và liên tục của các hội thừa sai Pháp và Tây Ban Nha, đã có một số lượng lớn linh mục bản xứ, hơn hai trăm hai mươi ngàn tín hữu Công giáo, các trường học Công giáo, viện mồ côi dành cho con em lương dân, các tu viện nữ và hai Đại diện Tông Tòa — Trung Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài — do các nhà truyền giáo của chúng tôi, những vị khả kính, uyên bác và đáng được mọi sự tôn kính, chở che và yêu mến, đảm trách.

Ở Đàng Trong và Đàng Ngoài không có nền công nghiệp hay khoa học; trong mọi lãnh vực, họ chỉ theo lối mòn của các tập tục truyền thống, giống người Hoa, nhưng kém kiến thức hơn; họ cũng không có tinh thần duy mỹ như các dân tộc Ấn Độ và Nhật Bản — tinh thần duy mỹ đã thổi sự sống và hình hài vào những điều siêu nhiên, và nơi các dân tộc phương Đông, nó áp đặt lên lý trí những ảo giác và mê sảng do trí tưởng tượng phong phú và tràn bờ của họ; cũng như thần thoại Hy Lạp đã sáng tạo ra đỉnh Olympus cùng các thần linh của nó, thì Ấn Độ cũng dựng lên các thần thánh và linh hồn; kể rằng sông Hằng từ trời cao đổ xuống hạ giới, và dâng lên trong kho tàng văn học của họ thiên sử thi trác tuyệt Mahabharata, nơi chất chứa mọi điều kỳ diệu và siêu nhiên mà trí tưởng tượng con người — bị kích thích bởi chủ nghĩa duy mỹ, sự nhẹ dạ và lòng mê tín — có thể mơ tưởng đến.

Ở Đàng Trong và Đàng Ngoài không có tinh thần nghệ thuật, họ cũng không mô phỏng các tác phẩm nghệ thuật như người Hoa — dù người Hoa cũng chỉ là những kẻ bắt chước trung thành và kiên trì các sản phẩm truyền thống của họ — khác với người Nhật, vốn say mê tiến bộ, có tinh thần cởi mở và tư tưởng cải cách; người Nhật không chỉ bắt chước và sáng tạo, mà còn biết điều chỉnh các sáng tạo của mình cho phù hợp với thị hiếu châu Âu, để tiến bước với tất cả nhiệt thành trên con đường văn minh hiện đại. Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Đức sẽ là những quốc gia mà các dân tộc ấy tìm đến để học hỏi kỹ nghệ và thầy giỏi cho ngành công nghiệp của họ; nhưng cảm hứng nghệ thuật sẽ đến từ Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Bỉ và Ý — những dân tộc đã ghi dấu trong những trang sử huy hoàng nhất của lịch sử nghệ thuật bằng những sáng tác rực rỡ, bộc phát và đầy cảm hứng bất tử hóa thiên tài của các nghệ sĩ mình. Dù người Bắc Mỹ đặt mua và trả giá cao cho các tác phẩm và nghệ sĩ danh tiếng nhất, họ không thực sự cảm nhận được nghệ thuật, cũng không biểu đạt được nó; họ chỉ chiêm ngưỡng nghệ thuật như những món hàng có giá trị thương mại.

Đàng Trong và Đàng Ngoài hợp thành một dân tộc duy nhất, có chung nguồn gốc, tôn giáo và tập tục; ngôn ngữ của họ cũng giống nhau, chỉ khác nhau phần nào ở cách phát âm và chính tả; tiếng Trung Hoa nay đã khác biệt khá nhiều so với tiếng An Nam — một ngôn ngữ đơn âm, vốn có gốc từ tiếng Trung Hoa, nhưng có những âm gió và âm huýt mà tiếng Trung Hoa không có.

Trong vương quốc An Nam, chế độ ly dị và đa thê được cho phép; luật pháp bị coi thường; bất công, bạo lực và sự chuyên quyền của chính quyền hoành hành; dân chúng chìm trong cảnh ngu dốt và suy đồi; sự lạm quyền và vô luân của các quan lại đã tóm lược toàn bộ thực trạng chính trị – xã hội của Đàng Trong, còn tình hình tại Đàng Ngoài có phần dễ chịu hơn nhờ ảnh hưởng tốt lành của các nhà truyền giáo chúng tôi, những người đã uốn nắn phong tục, giáo dục và tâm hồn dân chúng bằng giáo lý, trợ giúp bằng lời khuyên, khai sáng bằng tri thức, và nâng đỡ họ trong cảnh khốn cùng cũng như vào những thời điểm xảy ra các tai họa lớn.

Nếu xét về hiện tại và trên bình diện tổng quát, ta có thể khẳng định rằng Đàng Trong và Đàng Ngoài là một dân tộc 29 triệu nô lệ, chịu sự cai trị tuyệt đối của năm mươi ngàn quan lại, mà chính các quan lại ấy lại run rẩy và phủ phục dưới ý chí tối thượng và độc đoán của Quốc vương — tên bạo chúa Tự Đức.

Việc thành lập vương quốc An Nam được thực hiện bằng cách hợp nhất các tiểu quốc và vương quốc khác nhau, trong đó có Đàng Ngoài, vùng đất được sáp nhập vào Đàng Trong từ đầu thế kỷ này, dưới thời Gia Long, người đã chinh phục vùng đất này vào năm 1802, như chúng ta sẽ thấy ở một chương khác.

Khi kết thúc chiến dịch Pháp–Tây, nước Pháp đã chiếm hữu vùng Hạ Đàng Trong, bao gồm sáu tỉnh, trung tâm là Sài Gòn, đồng thời chiếm luôn đảo Pulo Condore. Đến năm 1867, Pháp chính thức kiểm soát những vùng lãnh thổ này; nhưng theo hiệp ước năm 1874 do Công tước Broglie ký kết, quyền cai trị của Pháp được giới hạn chỉ còn ở ba tỉnh phía nam Đàng Trong: Sài Gòn (Gia Định), Mỹ Tho (Định Tường) và Biên Hòa.

Đàng Trong và Đàng Ngoài xưa kia từng là bộ phận thuộc đế quốc Trung Hoa: về các quyền chủ quyền mà Thiên triều vẫn nắm giữ tại vương quốc An Nam, chúng ta sẽ đề cập kỹ hơn ở chương sau.

Khái quát về tổ chức quân sự của người An Nam, chúng tôi xin nói rằng: đứng đầu mỗi tỉnh là một thống đốc quân sự hay Tổng trấn, một chánh án tối cao và một phó chánh án phụ trách các bản án và hình phạt; các chức năng tư pháp và hành chính – kinh tế được gom chung vào các chức vụ này. Mọi công việc chung đều do một hội đồng gồm ba thành viên quyết định; trưởng các tổng được bầu ra bởi chính dân trong vùng.

Quân đội có khoảng 200.000 quân, trong đó hơn 35.000 đóng tại Huế, kinh đô An Nam, và các vùng phụ cận; số còn lại phân bố tại các tỉnh khác trong vương quốc. Việc tuyển quân được tiến hành ở mọi làng xã, theo luật định, cứ ba người lấy một, nhưng trên thực tế, vào thời bình, thường chỉ tuyển một trên tám người; độ tuổi nhập ngũ từ 20 đến 60 tuổi.

Lính được cấp một lượng gạo nhất định để nuôi sống bản thân, phải chia đều từng người; số khác thì nhận một khoản lương ít ỏi để tự lo tất cả nhu cầu thiết yếu; tuy nhiên, cả gạo lẫn tiền đều không đến nguyên vẹn tay họ vì lòng tham vô độ của các quan lại; những kẻ này trục lợi từ mọi thứ và chiếm đoạt tất cả.

Lực lượng quân đội An Nam thực sự có tổ chức, được tuyển chọn và huấn luyện theo từng trung đoàn chỉ vỏn vẹn khoảng 18.000 người; đó là lực lượng duy nhất có tổ chức quân sự đúng nghĩa. Còn lại chỉ là những đám đông không kỷ luật, không vũ khí, không trang bị gì; họ chỉ là lính trên danh nghĩa, bị từ vua, các quan đến những kẻ chức sắc cuối cùng bóc lột tàn bạo, bắt làm đủ mọi lao dịch công cộng. Quân đội An Nam không có kỵ binh; số ngựa ít ỏi và kém chất lượng ở Đàng Trong chỉ dùng để phục vụ bưu chính. Vì thế, trong chiến dịch Pháp–Tây, người Pháp đã phải mua ngựa tại Manila, đồng thời tuyển mộ binh lính Tagalog ở Philippines để thành lập kỵ binh — nếu không có biện pháp ấy thì kỵ binh không thể hình thành được. Vua An Nam sở hữu một số lượng lớn voi chiến; và khi diễn ra lễ tiếp đón các đặc sứ toàn quyền Tây Ban Nha và Pháp đến trao đổi phê chuẩn hiệp ước hòa bình ngày 14 tháng 4 năm 1863 tại kinh thành Huế — bên trong đại thành lũy — có khoảng 20.000 binh sĩ xếp thành hàng từ nơi ở của các phái bộ cho tới tận cung điện Tự Đức, cùng với một trung đoàn voi được trang bị lộng lẫy.

Tại Đàng Trong có các thành lũy, kho vũ khí, xưởng chế tạo giáo mác và gươm đao, xưởng đúc súng đồng và pháo nhỏ; ở Huế có một bảo tàng pháo binh với các mẫu súng đủ loại. Hệ thống phòng thủ của thành Huế được xây dựng dưới thời vua Gia Long do các kỹ sư Pháp thiết kế; hào có chu vi khoảng 16 kilômét, rộng 35 mét, tường thành cao trên 18 mét và trang bị một ngàn khẩu pháo. Thành Sài Gòn cũng do kỹ sư Pháp xây dựng, có thể sánh ngang với thành Huế.

Thành Vinh Lương có hình vuông, mỗi mặt có một pháo đài nhô ra giữa mặt thành; nơi đây được trang bị nhiều pháo đủ cỡ với bệ pháo (cureñaje) làm theo mẫu châu Âu; các thành Mỹ Tho và Go Công là những hình vuông mỗi cạnh khoảng 400 mét với các góc pháo đài và hào sâu rộng.

Người An Nam rất có năng khiếu và kinh nghiệm trong xây dựng công trình phòng thủ, và hơn hết là có nguồn nhân lực dồi dào sẵn sàng huy động cho các công trình kiên cố hóa. Những đám đông nhân lực ấy luôn sẵn sàng phục vụ cho việc đắp lũy, xây đồn, đào hào chiến tuyến kéo dài như những tuyến bao vây cổ điển. Khi quân Pháp–Tây đánh chiếm các pháo đài Kỳ Hòa, quân ta thu được nhiều công sự và chiến hào dài tới 12 kilômét, do 15.000 quân địch trấn giữ, chúng phải chịu tổn thất 500 quân tử trận, vô số người bị thương và bị bắt; quân ta thu được nhiều pháo đồng, pháo sắt, pháo nhỏ, giáo mác và súng trường, song quân đồng minh cũng phải gánh chịu tổn thất đáng kể: tướng Pháp Bassoigne, đại tá Palanca và đại úy Fajardo trong quân đội chúng tôi đều bị thương; hai đại đội của chúng tôi tham gia trận chiến trọng đại ấy có 34 người bị thương nặng và 11 người bị chấn thương nhẹ, còn phía Pháp thì có khoảng 300 quân chết và bị thương.

Người An Nam, giống như người Hoa, rất khéo léo và yêu thích các loại pháo hoa; trong chiến dịch Đàng Trong, chúng tôi từng chứng kiến họ sử dụng pháo sáng. Còn nhớ đêm 23 tháng 2 năm 1863, trong lúc các kỹ sư đang xây cầu vượt suối Rạch Tân Nhơn Trong — cây cầu mà rạng sáng hôm sau chúng tôi phải vượt qua — họ đã bắn pháo sáng soi rõ vị trí của chúng tôi để điều chỉnh hỏa lực pháo binh nhắm vào các công trình và quân bảo vệ.

Địa hình và thiên nhiên nơi đây, dưới góc nhìn chiến lược, với rừng rậm, sông ngòi, kênh rạch và đầm lầy, rất thuận lợi cho phòng thủ, dễ thực hiện các cuộc tập kích bất ngờ và rút lui, và tuy không thể ngăn chặn hoàn toàn nhưng có thể gây cản trở nghiêm trọng cho các cuộc tiến quân và các hoạt động tác chiến của những đội quân có tổ chức hơn.

CHƯƠNG III
Lược sử Đàng Trong và Đàng Ngoài trong tương quan với Pháp và Tây Ban Nha

Mặc dù người ta vẫn nói rằng vinh dự khởi xướng việc rao giảng Kitô giáo tại Đàng Trong thuộc về cha Alexandre de Rhodes, Dòng Tên, sinh tại Avignon năm 1591, nhưng chúng ta cần khẳng định rằng chính tu sĩ Đa Minh Diego Aduarte mới là người đầu tiên đem Tin Mừng đến vương quốc An Nam vào năm 1596; còn người Bồ Đào Nha Fernando de Costa là người đã, vào năm 1614, sau chuyến đi từ Đàng Trong về Ma Cao, đề nghị với các cha Dòng Tên về sự thuận lợi và tiện ích trong việc truyền bá đức tin Công giáo tại đây. Cha Busomi khi ấy đã xin phép bề trên, và năm 1615 bắt đầu công cuộc truyền giáo, do Buzomi điều hành từ đó đến năm 1639, trong khoảng thời gian mà các thừa sai không gặp trở ngại nào trong việc thi hành các nghi lễ tôn giáo; tuy nhiên, đến năm 1644, một số quan lại bắt đầu bách hại các dự tòng, tuy chưa nghiêm khắc và tàn bạo như sau này.

Tây Ban Nha là nước đầu tiên đem biểu tượng Kitô giáo cũng như quân đội Tây Ban Nha đến Đàng Trong; vào năm 1645, bốn tu sĩ Tây Ban Nha — gồm hai tu sĩ Capuchin — cùng với năm mươi binh sĩ dưới quyền chỉ huy của một viên đại úy, đã được vua An Nam và toàn bộ triều đình long trọng tiếp đón. Bốn ngàn binh sĩ An Nam đã làm lễ danh dự với sự cung kính cao độ dành cho phái đoàn Tây Ban Nha tại Đàng Trong; hoàng đế tiếp đón họ trọng thể trong một đại sảnh trang hoàng lộng lẫy, quân lính mặc lễ phục huy hoàng và quý giá. Khi các tu sĩ và viên đại úy dẫn đầu đoàn hộ vệ oai phong bước vào điện, họ bỏ mũ, cúi chào nhà vua một cách trang nghiêm và cung kính; nhà vua cũng đáp lại bằng những cử chỉ tôn kính tương tự; ngài khoản đãi họ một bữa yến tiệc linh đình, kèm theo những điệu múa trình diễn trong bữa ăn; khi tiệc kết thúc, họ ra về với những nghi lễ giống như khi vào cung, trong bầu không khí huy hoàng của một lễ hội long trọng bậc nhất tại vương quốc ấy. Sau đó, kéo dài thêm hai ngày hội với các trò giải trí, trong đó có một cuộc thủy chiến do hạm đội An Nam thực hiện và một buổi thao diễn quân sự có sự tham gia của sáu ngàn binh lính. Khi các phái đoàn Công giáo và quân đội Tây Ban Nha rời Đàng Trong, họ được tặng quà và đón nhận nhiều biểu hiện tôn trọng, quý mến; tuy vậy, chưa đầy vài tháng sau, cha Dòng Tên người Pháp Alexandre de Rhodes đã bị bắt giữ và chẳng bao lâu sau bị trục xuất.

Các tu sĩ Đa Minh từ Philippines đảm nhận sứ vụ Đàng Ngoài vào năm 1679, và tiếp tục cho đến ngày nay; các cha Gil và Leziniana đã chịu tử đạo đau đớn vào năm 1745; các ngài, cùng với cha Castañeda, cũng thuộc Dòng Đa Minh, bị kết án tử hình bởi vua Đàng Trong năm 1773, chính là những nạn nhân đầu tiên của sứ vụ chúng ta, những vị tử đạo đầu tiên ngã xuống dưới bàn tay các quan lại An Nam.

Cuối thế kỷ XVIII, các sắc lệnh bách hại trở nên khốc liệt hơn, nhiều thừa sai người Pháp đã phải chịu cái chết thảm thương; mặc dù nước Pháp đã mạnh mẽ phản đối, nhưng không đạt được kết quả khả quan nào.

Những quyền lợi mà nước Pháp tuyên bố có được tại Đàng Trong bắt nguồn từ thời vua Gia Long, năm 1787, và sau đó được củng cố thêm nhờ chiến dịch của đề đốc Pháp Lapierre vào năm 1847; các hiệp ước năm 1862 và 1874 củng cố thêm các yêu sách ấy.

Những quyền lợi ban đầu mà Pháp viện dẫn dựa trên các thỏa thuận và sự giúp đỡ mà họ đã dành cho vua Gia Long trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn. Khi bị đánh bại bởi quân nổi loạn và phải trốn chạy khỏi đất nước, Gia Long đã toan tính sang Ấn Độ tìm chỗ nương náu dưới sự bảo trợ của người Anh; nhưng Đức cha Pigneaux de Béhaigne, Đại diện Tông Tòa Đàng Trong, nhận ra rằng nếu nước Pháp hỗ trợ Gia Long bằng tiềm lực của mình thì sau này có thể thiết lập một thuộc địa tại Đông Dương. Ngài đã che chở cho Gia Long, nhận nuôi các hoàng tử và được Gia Long trao phó nhiệm vụ sang châu Âu tìm kiếm sự giúp đỡ, kể cả tại Hà Lan và Anh quốc. Cha Pigneaux đã viết thư tường trình sự việc cho Giám đốc Tiểu chủng viện Hội Thừa Sai Hải ngoại, đồng thời thỉnh cầu vua Louis XVI giúp khôi phục ngai vàng cho Gia Long. Để vận động mạnh mẽ hơn, ngài đã lên đường sang Pháp, mang theo các hoàng tử An Nam trình diện trước vua Louis XVI và triều đình, khẩn cầu sự bảo trợ và chở che. Nhận thấy những lợi ích mà sự can thiệp của Pháp có thể đem lại, vua Louis XVI vào ngày 28 tháng 11 năm 1787 đã ký kết một hiệp ước liên minh tấn công và phòng thủ (bản sao hiệp ước hiện còn), do bá tước Montmorin và bá tước Vergennes ký nhân danh quốc vương Pháp, còn phía Đàng Trong có các hoàng tử của Gia Long và Đức cha Pigneaux đại diện. Theo các điều khoản hiệp ước, vua Pháp cam kết cung cấp ngay cho Gia Long một hạm đội 20 chiến hạm, 5 trung đoàn bộ binh và một triệu đồng bạc trong vòng bốn tháng, một nửa bằng tiền mặt, nửa còn lại bằng vũ khí và đạn dược. Vua Đàng Trong cam kết, sau khi đất nước được bình định, sẽ nhượng cho Pháp vịnh và lãnh thổ Tourane (Đà Nẵng) cùng các đảo lân cận: Fay-Fo về phía Nam và Hay-Wen về phía Bắc; đồng thời sẽ cung cấp gỗ cần thiết để đóng tàu, bảo đảm tự do tôn giáo và sẵn sàng huy động 14.000 binh sĩ An Nam hỗ trợ Pháp khi cần thiết; trong trường hợp có quốc gia nào tấn công các vùng đất của Pháp tại Đàng Trong, vua sẽ lập tức cử một đạo quân 60.000 binh sĩ để bảo vệ. Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Pháp đã bùng nổ trước khi nước Pháp thực thi những cam kết ấy, khiến mọi nỗ lực giúp Gia Long đều thất bại. Nhưng Đức cha Pigneaux, vị Đại diện Tông Tòa kiên cường và nhiệt thành, vẫn không nản chí; ngài từ Pondichery đã khởi hành với một chiến hạm Pháp, không có binh lính, chỉ trông cậy vào các sĩ quan Dayot, Lebrun, Ollivier, Wanier, Chaigneau, Barisy, Forsant và một số ít người khác. Mặc dù Ollivier chỉ huy lực lượng, nhưng Pigneaux mới chính là người truyền cảm hứng và là linh hồn của chiến dịch. Từ chiến thắng này sang chiến thắng khác, Gia Long đã khôi phục được ngai vàng Đàng Trong và sau đó chinh phục luôn Đàng Ngoài.

Các quan lại, vì ghen tị với uy tín và ảnh hưởng của Đức cha Pigneaux, đã họp nhau lại và tâu với hoàng đế rằng: vì thận trọng, không nên để một người ngoại quốc và lại là Kitô hữu phụ trách việc giáo dục thái tử. Nhưng những âm mưu này hoàn toàn không làm suy giảm lòng tin tưởng và lòng biết ơn của Gia Long. Người phẫn nộ trước thái độ của các quan lại, đã kết án tử hình hai kẻ cầm đầu, nhưng về sau, nhờ lời can thiệp của vị giám mục khôn ngoan và quả cảm ấy — người là vinh dự của Giáo hội và là niềm tự hào của nước Pháp — mà hai người này được tha mạng. Khi Đức cha Pigneaux qua đời vào ngày 9 tháng 10 năm 1799, nước Pháp đã đánh mất cơ hội thuận lợi nhất để thiết lập một thuộc địa tại Đàng Trong. Tất cả những nỗ lực và sự trợ giúp của Đức cha Pigneaux đều là những cố gắng riêng lẻ, vì ngài không nhận được sự hỗ trợ và bảo trợ từ nước Pháp; cả nước Pháp lẫn Gia Long đều không thể thực hiện các điều khoản đã thỏa thuận trong hiệp ước liên minh tấn công và phòng thủ ký năm 1787.

Tấm bia mộ mà Gia Long cho khắc trên phần mộ của vị giám mục khả kính ấy là một vinh dự cho cả hai, vì trong một câu duy nhất đã kết hợp công lao và lòng biết ơn: “Trẫm đã mất người tâm phúc, là người chia sẻ mọi bí mật cùng trẫm; nếu ở châu Âu, người có thể vô danh, thì tại đây, người sẽ được ghi nhớ mãi như là người ngoại quốc lừng danh nhất từng đặt chân đến kinh đô Đàng Trong.” Lễ tang trọng thể của ngài là một minh chứng rực rỡ cho đức tin Kitô giáo, với toàn bộ vẻ trang nghiêm, huy hoàng và các nghi lễ phụng vụ theo nghi thức an táng của Giáo hội. Nhà vua và quân lính An Nam đã tháp tùng linh cữu, đi đầu là thánh giá, gậy mục tử và mũ giám mục — những biểu tượng cho phẩm trật giám mục cao cả của ngài.

Sau khi Gia Long băng hà, con trai ruột của ngài là Chi-Dam lên ngôi kế vị, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vị vua này sớm bộc lộ thái độ thù nghịch với các nhà truyền giáo, vì lo ngại ảnh hưởng của Kitô giáo và nước Pháp. Lúc đầu triều đại, ông vẫn còn cho phép các nhà truyền giáo tiếp tục hoạt động, nhưng từ chối tiếp nhận quà tặng và thư từ mà vua Louis XVIII gửi tới qua sứ thần đặc biệt là thuyền trưởng Bougainville. Sau đó, Minh Mạng ban hành một sắc lệnh chống lại các thừa sai: “Vì truyền bá thứ đạo ngoại giáo xấu xa của người Âu, không chỉ nhằm mục đích buôn bán mà còn muốn tiêu diệt phong tục tập quán của đất nước.” Nhà vua ra lệnh cho các quan phải ngăn chặn mọi người ngoại quốc đổ bộ vào lãnh thổ An Nam, những kẻ được cho là đang gieo rắc các học thuyết làm băng hoại tinh thần và lương tâm. Từ đó, các hoạt động thờ phượng công khai bị đình chỉ; tuy vậy, các nhà truyền giáo của chúng ta chưa bị quấy nhiễu, dù về sau, dưới sức ép của các quan, Minh Mạng đã ban hành một sắc lệnh mới vào năm 1826: “Tuyệt đối cấm đạo Kitô giáo, xử tử mọi người Âu nào truyền đạo và giết tất cả những người bản địa nào vẫn trung thành với đức tin Công giáo.” Số quan lại thực hiện nghiêm ngặt những mệnh lệnh ấy không nhiều, nên mãi tới năm 1831, cuộc bách hại các nhà truyền giáo mới bắt đầu, và trở nên dữ dội hơn vào các năm 1833 và 1834. Trong sắc lệnh mới, nhà vua ra lệnh phá hủy các nhà thờ và các cơ sở phụng tự. Cuối cùng, nhà vua còn tuyên bố: “Đạo của Giêsu là đạo đáng kính trọng, nhưng đối với dân tộc ngu muội và khờ khạo của trẫm thì không thích hợp.”

Cha Odorico, một linh mục dòng Đaminh người Tây Ban Nha, qua đời trong ngục tối năm 1834. Sự phẫn nộ và lời oán than của người dân An Nam trước các biện pháp độc tài và chuyên chế của Minh Mạng, cùng với nỗi lo sợ rằng việc đàn áp người Kitô hữu có thể kéo theo những tai ương lớn lao cho cả vương quốc, đã khiến ông buộc phải công khai thừa nhận rằng chính cách cai trị của mình đã chuốc lấy cơn thịnh nộ của trời cao. Như một dấu hiệu của lòng ăn năn, nhà vua đã thú nhận những hành động và hậu quả đau thương trong triều đại của mình. Nhưng các quan lại lại không ủng hộ những ý định hòa giải và hòa hợp của nhà vua đối với dân chúng và đạo Kitô. Vì vậy, ông liền bịa ra và sáng lập một tôn giáo mới: phúc âm và mười điều răn của chúng ta cũng được ông lấy làm căn bản, nhưng được kết hợp với đạo lý của Khổng Tử. Ông truyền rằng bốn lần mỗi năm, tất cả tín hữu phải quy tụ đông đảo để cử hành những mầu nhiệm thánh. Tuy nhiên, chẳng ai lắng nghe hay theo học giáo lý của ông; khi thấy cuộc cải cách tôn giáo thất bại không thu hút được ai, cơn giận dữ và thịnh nộ của ông càng bùng lên mạnh mẽ, và vương quốc An Nam đã lâm vào một cơn khủng hoảng dữ dội và thảm khốc vào năm 1835. Quân Xiêm và các bộ lạc độc lập của Lào tuyên chiến; bọn thổ phỉ từ miền núi tràn xuống đồng bằng cướp bóc và tàn phá; Đàng Ngoài và Nam Kỳ nổi loạn; hải tặc Trung Hoa và Mã Lai cướp phá ven biển và đánh chiếm các thuyền bè. Giữa cảnh hỗn loạn và hoang tàn của đất nước bị khuấy động đến mức không còn thu thuế được, không ai còn được an toàn, nhưng lạ thay, các nhà truyền giáo và các nhà thờ của chúng ta vẫn được tôn trọng

Vào năm 1839, công cuộc truyền giáo của Tây Ban Nha lại một lần nữa gặp phải những thử thách khốc liệt: cha Ignacio Delgado, thuộc Dòng Đaminh, đã 76 tuổi và là một Giám mục khả kính, người đã điều hành Địa phận Tông tòa Đông Đàng Ngoài suốt 40 năm, bị bắt giam và kết án tử hình, cùng với một số đông các dự tòng và tín hữu. Bản án dành cho vị đại diện Tông Tòa của chúng ta tại Đàng Ngoài dựa trên lý do rằng:  “Người ngoại quốc này đã lén lút vào nước, sống bằng việc nghiên cứu những điều thuộc về nội tâm và suy gẫm những điều khó hiểu; trong hơn bốn mươi năm, ông ta đã giảng dạy cho dân chúng những sai lầm mà người dân chất phác ngỡ là chân lý. Xét rằng có luật cấm ma thuật và bói toán, chúng tôi xử tội họ như những kẻ lừa dối dân chúng bằng những mánh khóe của họ, và kết án họ tử hình.” Cha Delgado qua đời trong tù trước khi vua kịp ký lệnh xử, nhưng thi hài ngài vẫn bị chặt đầu, và đầu ngài bị đem bêu trước công chúng. Vài ngày sau đó, phụ tá của ngài, cha Henares, 73 tuổi, cũng như hai linh mục Đaminh người Tây Ban Nha là cha Fernandez và cha Gimenez, đều bị xử trảm. Các quan được lệnh: “Không được cho phép cử hành phụng tự”, đồng thời phá hủy các nhà thờ và tất cả cơ sở truyền giáo của chúng ta tại Đàng Ngoài, vốn đã trải qua những thử thách tàn bạo suốt từ năm 1833 đến 1858. Những thử thách này không đến từ người dân — vì họ kính trọng các thừa sai của chúng ta — nhưng đến từ các vua chúa và quan lại, vốn luôn là những kẻ thù không đội trời chung với Kitô giáo tại Đàng Trong.

Khi hoàng đế Minh Mạng băng hà năm 1841, con trai ông là Thiệu Trị kế vị ngai vàng, thừa hưởng thói xấu và thái độ thù nghịch của cha mình, nhưng lại không có được sự thông minh như cha. Ông ta tái lập và thực thi tất cả các sắc lệnh đã được ban ra trước đó nhằm chống lại các tín hữu Kitô giáo. Thế nhưng, bất chấp các sắc lệnh ấy, một sự kiện công khai long trọng vẫn diễn ra ngay tại pháp trường nơi từng diễn ra các cuộc hành quyết: đó là lễ tấn phong giám mục cho cha Hermosilla, Dòng Đaminh, được bổ nhiệm làm Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài. Sự kiện này là một minh chứng hùng hồn cho đức tin kiên trung và tâm hồn anh dũng của ngài.

Năm 1847, đô đốc người Pháp là Lapierre tiến vào Đàng Trong để phản đối các cuộc bách hại và yêu cầu được tự do thực hành đạo Công giáo. Chính từ đây mà nước Pháp bắt đầu viện dẫn những quyền lợi của mình tại Đế quốc An Nam, bên cạnh những quyền lợi đã có từ thời Gia Long năm 1787.

Đô đốc Lapierre cập bến vịnh Tourane (Đà Nẵng), và theo lệnh của Thiệu Trị, ông được tiếp đón trọng thể với những biểu hiện hữu nghị cao nhất. Nhưng thực ra, nhà vua âm mưu mời ông dự tiệc rồi giết hại ông cùng toàn bộ các sĩ quan trong hạm đội, đồng thời phóng hỏa thiêu hủy các chiến hạm Pháp. Âm mưu bị bại lộ, Đô đốc Lapierre đã có hành động trả đũa quyết liệt, tấn công quân An Nam, khiến họ tổn thất chín trăm binh sĩ và mất năm chiến thuyền (loại thuyền chiến bản địa).

Thiệu Trị, khi vừa hay tin thất bại trong mưu đồ ám sát và cả thất bại trong trận chiến, lại càng căm phẫn hơn khi nghe tin quân Pháp đã rút khỏi Tourane vì thiếu phương tiện để tiếp tục chiến đấu. Ông liền ban hành lệnh tàn sát các tín hữu Kitô giáo, xử tử viên võ quan chỉ huy quân sự ở Tourane vì đã không đánh bại được người Pháp. Nhà vua cho thay thế toàn bộ số đại bác cũ bằng những khẩu mới để xóa sạch mọi dấu tích từng góp phần vào thất bại của mình; tổ chức lại quân đội, chuẩn bị sẵn sàng đề phòng người Pháp có thể quay lại bờ biển Đàng Trong hay Đàng Ngoài. Để chứng tỏ lòng căm ghét người ngoại quốc, ông còn phá hủy toàn bộ các đồ vật Âu châu trong cung điện: bàn ghế, đồng hồ, đồ sứ. Tuy nhiên, những ý đồ trả thù và mọi toan tính về phòng thủ cũng không đủ xua tan nỗi sợ hãi luôn đè nặng trong lòng ông mỗi khi nghe tin có hạm đội Pháp tiến gần. Rồi ông ngã bệnh vì kinh hãi và qua đời năm 1847.

Con trai ông là Hường-Nhâm kế vị ngai vàng, lấy niên hiệu là Tự Đức, có nghĩa là “hậu duệ chiến thắng”. Vì là người con út trong số các con trai của Thiệu Trị, nên anh trai của ông là An Phong đã nổi loạn chống lại, tìm cách chiêu mộ sự hậu thuẫn của các tín hữu Kitô giáo, hứa sẽ bảo vệ họ nếu mình giành được ngai vàng. Trước tình thế ấy, Tự Đức liền tái ban hành các sắc lệnh bách hại đạo Kitô, và trong các năm 1851, 1855 và 1857, đã có ba nhà truyền giáo cùng nhiều giáo lý viên bị xử tử.

Năm 1856, ông Montigny được cử sang vùng Đông Dương với sứ mạng, nhân danh Hoàng đế Napoléon, ký kết một hiệp ước với các triều đình An Nam và Xiêm La.  Ông đến Tourane (Đà Nẵng) trên chiến hạm Catinat, nhưng vua Tự Đức từ chối tiếp nhận các quốc thư xác nhận ông là đại diện của nước Pháp tại Đàng Trong. Thấy các quan lại An Nam có những thái độ khinh mạn và lăng nhục, viên chỉ huy chiến hạm cho đổ bộ lên Tourane với một đại đội lính thủy đánh bộ, cho phá hủy thuốc súng và làm tê liệt 60 khẩu đại bác. Kinh hãi trước hành động ấy, các quan liền tỏ thái độ kính cẩn, sẵn sàng chuyển quốc thư của ông Montigny tới Tự Đức. Chưa đầy một tháng sau, chiến hạm Capricieuse cập bến Tourane, đưa ông Montigny quay lại sau khi trong thời gian đó ông đã tiến hành đàm phán với vua Xiêm La.  Trong khi đó, Tự Đức ráo riết củng cố binh lực, đồng thời cầu viện với hoàng đế Trung Hoa, và được hồi đáp rằng: “Bằng mọi giá và bằng mọi phương thế, hãy chống trả đến cùng trước bọn man di Âu châu.” Lúc bấy giờ, nước Pháp yêu cầu Tự Đức phải cho phép tự do hành đạo Kitô giáo, tự do thương mại, thiết lập tòa lãnh sự, và nhượng lại cảng Tourane hoặc một trong các đảo lân cận để xây dựng cơ sở thương mại tại đó. Nhưng Tự Đức không những từ chối tất cả những yêu sách này, mà còn tiếp tục gia tăng sự bách hại nhắm vào các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha. Trong các sắc chỉ gửi cho các quan lại, nhà vua tuyên bố rằng: “Chớ có sợ người Pháp; chúng chỉ biết dọa nạt như chó, nhưng khi thấy nguy thì bỏ chạy như dê.” Lời lẽ này ám chỉ tới những lời đe dọa của Đô đốc Lapierre khi ông phải vội vã rút khỏi Tourane (mà sau đó nước Pháp cũng không còn tìm cách can thiệp vào Đàng Trong nữa để bảo vệ quốc kỳ của mình và đảm bảo tự do cho đạo Kitô). Cũng trong suốt thời gian đó, Tây Ban Nha chưa từng có hành động nào đòi lại công lý cho các vụ bách hại và tử đạo của các thừa sai của mình. Cha Diaz, thuộc Dòng Đaminh, Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài Trung, bị Tự Đức xử chém vào tháng 7 năm 1857. Một linh mục khác của chúng ta, cha Melchor, cũng bị Tự Đức kết án tử đạo vào tháng 9 năm 1858. Đầu ngài bị đem bêu tại quảng trường, còn thi thể bị chặt thành từng phần, rồi phân phát về các vùng khác nhau trong vương quốc An Nam, nơi có đông tín hữu Kitô giáo.

Cuộc bách hại leo thang và những cái chết của các thừa sai của chúng ta đã khiến Tây Ban Nha và Pháp liên kết với nhau trong cùng một tâm nguyện. Hai quốc gia, với lý do và mục tiêu giống nhau, đã cùng tham dự vào Đàng Trong qua cuộc viễn chinh Pháp – Tây Ban Nha từ năm 1858 đến 1863, mà chúng ta sẽ bàn tới trong chương kế tiếp.

CHƯƠNG IV

Cuộc viễn chinh Pháp – Tây Ban Nha tại Đàng Trong từ năm 1858 đến 1863. — Chi phí và bồi thường chiến tranh. — Hiệp ước hòa bình, quyền lợi và lợi ích của Tây Ban Nha tại Đàng Ngoài.

Khi chiến dịch tại Đàng Trong khởi sự vào năm 1858, một lực lượng gồm 1.500 binh sĩ từ quân đội Philippines dưới quyền chỉ huy của đại tá D. Bernardo Ruiz de Lanzarote được đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Đô đốc Rigault de Genouilly. Mục tiêu là: “cùng với quân đội Pháp trả thù cho những xúc phạm mà Hoàng đế An Nam đã gây ra cho Tây Ban Nha và Pháp.”

Khi chiến sự bùng nổ và quân đội liên minh đổ bộ lên Tourane vào tháng Chín năm 1858, lực lượng của Tây Ban Nha và Pháp khi ấy ngang bằng nhau về quân số, và quyền lợi của hai quốc gia cũng tương đồng. Thế nhưng, những lợi ích mà hai bên thu được khi hòa ước được ký kết lại không hề tương xứng.

Chúng ta đã bước vào chiến dịch Đàng Trong mà không ký kết một thỏa thuận nào xác định rõ các nền tảng và điều kiện của liên minh với Pháp, hoàn toàn phó thác cho thiện chí và sự trung tín của họ.

Chúng ta sẽ không đi vào chi tiết các chiến tích lẫy lừng trong cuộc viễn chinh ấy — vốn là niềm vinh dự cho danh dự quân đội chúng ta nhưng lại chẳng đem lại thành quả cho Tây Ban Nha — mà chỉ xin điểm qua rằng: Từ khi đổ bộ lên Tourane cho đến ngày 26 tháng Hai năm 1863, khi chiến dịch kết thúc bằng việc chiếm được thành trì Go-Kong, quân đội chúng ta đã thể hiện lòng dũng cảm, tài năng quân sự và kỷ luật vững vàng bất chấp mọi gian khổ: từ Myt-hó và Vinh-luong, trong các trận chiếm Saigon và Bien-hoá, chiếm thành Mi-cui, các pháo đài Tan-tiel, Vin-tong, Nibing và Tour-ninon, trong trận Long-lap, vượt sông Song-rai, Lai-cong, Vinh-luong, các con suối Suei-Thoun và Yo-Kom, và sau cùng là vượt suối Rach-Tan-Non-Trong — trận đánh quyết định trong các ngày 22, 23, 24 và 25 tháng Hai năm 1863, đưa đến việc chiếm thành Go-Kong và khu chợ lớn Trai-cat.

Những địa danh ấy xứng đáng được ghi vào những trang sử huy hoàng trong lịch sử quân sự của chúng ta, như những cột mốc vinh quang cho những chiến thắng mà quân đội Tây Ban Nha đã giành được tại Đàng Trong, không quên trận phòng thủ anh dũng tại chùa Clochetons tháng Bảy năm 1860. Khi ấy, chỉ với 100 binh sĩ và 4 sĩ quan dưới quyền chỉ huy của một đại úy, các chiến binh của chúng ta đã ngăn chặn được sức tấn công dữ dội của quân An Nam đông gấp bội, bảo vệ danh dự lá cờ và vị trí Saigon đang bị đe dọa nghiêm trọng.

Lực lượng của chúng ta, vốn là những binh sĩ Tagalos (tức người bản địa Philippines), do quen thuộc với khí hậu và địa hình tương tự nơi quê hương mình, nên chịu đựng được thời tiết khắc nghiệt và những nhọc nhằn của chiến dịch tốt hơn quân Pháp.

Họ có khả năng vượt sông ngòi nhanh chóng, leo trèo cây cối với sự linh hoạt đáng kinh ngạc, lặng lẽ di chuyển chân trần trong rừng rậm mà không bị phát hiện, chiến đấu dũng cảm, xông thẳng vào địch quân với tốc độ và lưỡi lê, chỉ cần một nắm cơm làm lương thực, lấy mặt đất làm giường ngủ, hoàn toàn bất chấp nắng mưa và mọi tác động của thời tiết.

Chính những phẩm chất ấy đã khiến Đô đốc Rigault de Genouilly xin phép tổ chức một tiểu đoàn 600 binh sĩ Tagalos phục vụ cho quân đội Pháp; ông cũng thuê thêm thủy thủ để bù đắp cho quân số bị hao hụt của hạm đội, và tuyển quân kỵ binh cho quân đội Pháp ngay tại Philippines.

Nhờ các lực lượng ấy, chúng ta đã chiếm được vô số chiến tuyến, đồn lũy, lô cốt kiên cố, rất nhiều đại bác với đủ cỡ nòng và lượng khí tài chiến tranh phong phú tại Tourane, Saigon, Mi-cui và Go-Kong.

Để kết lại, nhằm nêu cao danh tiếng xứng đáng mà quân đội Tây Ban Nha đã giành được qua chiến dịch dài lâu và gian khổ này, xin ghi nhận, vì chưa ai nhắc đến, rằng: Binh lính chúng ta không chỉ phải đương đầu với quân thù, mà còn với sự khắc nghiệt của khí hậu và địa hình, với các bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét tái phát, sốt rét ác tính và dịch tả. Chúng ta thiếu thốn lương thực và đủ loại tiếp tế, chịu đựng sự thờ ơ và bỏ mặc của chính quốc Tây Ban Nha, và cả sự lảng tránh từ Chính phủ Hoàng đế nước Pháp khi phân chia lợi ích, như một sự đền bù chính đáng cho mọi phí tổn chiến tranh và như sự công nhận hợp pháp các quyền lợi mà Tây Ban Nha đã giành được tại Đàng Trong và Đàng Ngoài.

Đô đốc Rigault de Genouilly là Tổng chỉ huy đầu tiên của cuộc viễn chinh; kế tiếp là Đô đốc Page, rồi đến Phó Đô đốc Charner; vào tháng 11 năm 1861, Đô đốc Bonnard tiếp nhận quyền chỉ huy. Dưới sự chỉ huy của ông cùng với Tổng chỉ huy quân viễn chinh Tây Ban Nha, ông Carlos Palanca, chiến dịch Đàng Trong đã hoàn tất, và một hiệp ước hòa bình giữa Tây Ban Nha, Pháp và vua An Nam đã được ký kết.

Chúng tôi xin kết thúc bản tường thuật này bằng trích dẫn đoạn cuối cùng trong bài diễn từ đầy nhiệt huyết mà Phó Đô đốc Bonnard đã gửi đến binh sĩ chúng ta vào ngày 19 tháng Tư năm 1863. Đoạn ấy đã tổng kết toàn bộ tinh thần của chúng ta trong suốt chiến dịch và trở thành một tấm huy chương danh dự cho quân đội: “Tôi xin gửi lòng biết ơn đến những người Tây Ban Nha, những đồng minh quả cảm của chúng ta, những người đã luôn tung bay lá cờ của mình nơi tiền tuyến của chúng ta.”

Tất cả những hy sinh mà Tây Ban Nha đã bỏ ra tại Đàng Trong cuối cùng đều trở thành vô ích, khi mà các kế hoạch của Bộ trưởng Ngoại giao chúng ta vẫn không thể thực hiện được. Ngày 26 tháng Hai năm 1860, ngài đã tuyên bố rằng: «vì quyền lợi của hai quốc gia đồng minh là giống nhau, và những chi phí cũng như những nhọc nhằn của cuộc chiến là đồng đều, thì những lợi ích thu được sau khi hòa bình được thiết lập cũng phải tương xứng.» Và nhân dịp đó, trong các chỉ thị gửi tới Đặc sứ Toàn quyền của Tây Ban Nha tại An Nam, ngài còn căn dặn: «Hiệp ước hòa bình phải được đàm phán và ký kết chung, bởi đây là một thỏa ước quốc tế; nếu như đặc sứ Pháp chỉ giới hạn các quyền lợi thu được từ cuộc chiến bằng việc yêu cầu triều đình Huế ký kết một hiệp ước thương mại, thì Đức ngài phải nỗ lực đặc biệt để Tây Ban Nha cũng đạt được tất cả các quyền lợi tương tự mà Pháp có được. Nếu Pháp yêu cầu bồi thường chi phí chiến tranh, thì Tây Ban Nha cũng phải cương quyết đòi hỏi một khoản bồi thường tương xứng; và nếu Pháp chiếm lĩnh một phần lãnh thổ của đế quốc, thì vì sự an toàn của các phái bộ truyền giáo của chúng ta, cũng như để chứng minh rằng những hy sinh của Tây Ban Nha trong cuộc chiến này không phải là vô ích, cần thiết phải có được một vị trí tại miền Trung Đàng Ngoài, nơi có thể được bảo vệ và củng cố vững chắc để bảo đảm an toàn cho các thừa sai, cũng như để thúc đẩy và củng cố mối quan hệ trong tương lai giữa vùng đất ấy với các thuộc địa của chúng ta trong quần đảo Philippines.»

Đó là những chủ trương của Chính phủ Tây Ban Nha liên quan đến các lợi ích mà Tây Ban Nha phải thu được từ chiến dịch Đàng Trong. Còn về phía Pháp, mục đích của họ được Bộ trưởng Ngoại giao Pháp bày tỏ trong bản điện tín của Đại sứ Tây Ban Nha tại Paris ngày 24 tháng Mười Một năm 1858, khi chiến dịch quân sự đồng minh mới bắt đầu: «Chưa rõ liệu có phù hợp với nước Pháp hay không trong việc chiếm lãnh thổ ở Đàng Trong, nhưng nếu như điều đó phù hợp cho cả Pháp và Tây Ban Nha thì hai quốc gia sẽ cùng chia sẻ.» Vị Bộ trưởng Ngoại giao Pháp cũng khẳng định: «Bất kể kết quả ra sao, cả Pháp lẫn Tây Ban Nha đều sẽ cùng được hưởng các khoản bồi thường và quyền lợi tương đương, và Tây Ban Nha sẽ được đối xử theo cách thuận lợi nhất.»

Nhưng khi Pháp tuyên bố Saigon sẽ là thuộc địa của mình, vào tháng Chín năm 1859, Chính phủ Tây Ban Nha đã lên tiếng: «Nếu Pháp thiết lập sự hiện diện tại Saigon, Tây Ban Nha cũng có quyền yêu cầu có một thương điếm tại bờ biển Đàng Ngoài (Đàng Ngoài).» Pháp đã chấp thuận yêu cầu này vì lợi ích của các giáo phận truyền giáo, vì các quyền lợi thuộc địa và danh dự của Tây Ban Nha. Tuy nhiên, dù Pháp thực hiện ngay những điều họ mong muốn, thì những điều mà Tây Ban Nha yêu cầu lại không được thực hiện. Điều đó buộc Bộ trưởng Ngoại giao Tây Ban Nha ngày 25 tháng Năm năm 1860 phải bày tỏ «sự ngạc nhiên trước việc khi các lực lượng đồng minh chiếm được Saigon, lãnh thổ này lại trở thành đất Pháp, mà hoàn toàn không đề cập đến Tây Ban Nha, cũng như không phân định phần nào thuộc về Tây Ban Nha, dù rằng Tây Ban Nha đã chịu biết bao tổn phí và gian nan và vì thế có đầy đủ quyền được chia sẻ các quyền lợi thu được.» Bộ trưởng còn chỉ thị cho Đại sứ Tây Ban Nha tại Pháp phải nêu rõ yêu cầu rằng cần có một viên sĩ quan Tây Ban Nha tham gia vào Tòa án Chiến lợi phẩm được thành lập tại Saigon, để cùng phân chia tất cả những chiến lợi phẩm giữa Pháp và Tây Ban Nha. Bộ trưởng các Thuộc địa Pháp hồi đáp với những lời lẽ hết sức thỏa đáng, ông nói thêm rằng: «Việc mở cảng Saigon và thu một số loại thuế là hoàn toàn thuộc thẩm quyền hành chính, và đã được chỉ thị cho Tổng chỉ huy chiến dịch Pháp dành cho Tây Ban Nha phần tương ứng từ những khoản thu ấy.» Thế nhưng chỉ thị ấy chưa bao giờ được thực thi: cảng và lãnh thổ Saigon đã được tuyên bố hoàn toàn là thuộc địa Pháp. Đại tá Palanca, khi ấy là chỉ huy quân viễn chinh Tây Ban Nha, đã phản đối rằng Saigon phải được coi là tài sản chung của hai quốc gia cho đến khi các hiệp ước được ký kết.

Phó Đô đốc Charner hồi đáp vào ngày 8 tháng Mười năm 1860 rằng ông đã trình báo lên Chính phủ Hoàng đế Napoleon yêu cầu xác định rõ vị trí của Tây Ban Nha trong các vấn đề Đàng Trong, và ông vừa nhận được hồi âm như sau: «Tây Ban Nha đã tham gia với Pháp trong tư cách là đồng minh trong các cuộc chiến chống lại vương quốc Annam, và với tư cách đó, Chính phủ của Nữ hoàng Tây Ban Nha có quyền được đối xử thuận lợi tương tự như nước Pháp khi thiết lập quan hệ thân thiện với triều đình Huế.» «Chính phủ Tây Ban Nha có quyền đòi hỏi các quyền lợi thương mại tương tự, yêu cầu mức bồi thường chiến tranh ngang bằng, đòi hỏi những bảo đảm giống như Pháp có được; và Pháp không thể không nhìn nhận tính chính đáng trong mong muốn của Tây Ban Nha được nhận một số nhượng bộ về mặt vật chất.» «Việc cùng chia sẻ quyền sở hữu Saigon thì rõ ràng là không thể; nhưng Tây Ban Nha có thể tìm được một sự bù đắp xứng đáng cho những hy sinh đã thực hiện tại một địa điểm khác trong Đàng Trong.» Sự bù đắp ấy chính là tại vùng Đàng Ngoài. Ngay từ tháng Ba năm 1860, Bộ trưởng Ngoại giao Tây Ban Nha đã thông báo cho Đại sứ Tây Ban Nha tại Paris rằng: ông đã có một cuộc trao đổi về Đàng Trong với Đại sứ Pháp tại Madrid, ông Barrot, và Chính phủ nhấn mạnh rằng vị đại diện của chúng ta cần phải bày tỏ rõ với Bộ trưởng Ngoại giao Pháp «rằng Tây Ban Nha mong muốn duy trì một vị trí tại miền Trung Đàng Ngoài, nơi có thể được phòng thủ vững chắc, nhằm bảo vệ các thừa sai truyền giáo của chúng ta trong những vùng xa xôi ấy.»

Chúng tôi cho rằng cũng rất cần thiết công bố thêm hai bức công văn được Bộ trưởng Ngoại giao ông Saturnino Calderón Collantes gửi đi ngày 31 tháng Bảy năm 1861: một gửi Đại sứ Tây Ban Nha và một gửi Đặc sứ Toàn quyền của chúng ta tại Đàng Trong. Trong bức thư sau, ngài viết như sau: “Tôi đã trình lên Nữ hoàng những điện thư của Ngài, và đây là ý chỉ của Người: không phương hại gì đến các cuộc thương thuyết sắp được mở ra với Chính phủ Pháp, và cũng không phụ thuộc vào kết quả của các cuộc thương thuyết ấy, Ngài hãy dốc hết sức lực để giành cho được quyền nhượng lại tỉnh Nam Định thuộc vùng Đàng Ngoài, cùng với những quyền lợi và khoản bồi thường mà Tây Ban Nha có quyền được hưởng, sao cho Tây Ban Nha không bị đặt vào vị thế kém hơn so với Pháp.” Trong công văn gửi cho Đại sứ của chúng ta, Chính phủ Tây Ban Nha cũng khẳng định lại những yêu sách của mình với giọng điệu đầy phẩm giá và cương quyết, như được thể hiện trong các đoạn gửi đến Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, ông Thouvenel: “Điều quan trọng là Tây Ban Nha và Pháp phải hành động phối hợp, để Chính phủ Hoàng đế Pháp bảo đảm cho Tây Ban Nha được quyền đòi hỏi rằng chính sức mạnh quân sự và đại diện ngoại giao của Tây Ban Nha trong các cuộc đàm phán sắp được tiến hành phải giúp cho Chính phủ Hoàng hậu giành được vùng lãnh thổ mà Tây Ban Nha yêu cầu tại trung tâm Đàng Ngoài, cùng với các quyền lợi và khoản bồi thường xứng đáng với những hy sinh to lớn mà chúng tôi đã phải gánh chịu; bởi nếu không, quân đội của chúng tôi sẽ không thể tiếp tục sát cánh cùng quân đội Pháp, và Tây Ban Nha sẽ phải gánh chịu một nỗi thất vọng cay đắng, điều mà, với niềm tin vào lòng trung thành của Chính phủ Hoàng đế, chúng tôi hy vọng sẽ không bao giờ phải chứng kiến chừng nào những yêu sách chính đáng của chúng tôi còn chưa bị phớt lờ.” Pháp đã hồi đáp thông qua Bộ trưởng Ngoại giao gửi cho Đại sứ Tây Ban Nha rằng: “Vì không thể phân chia Saigon nên Chính phủ Pháp sẵn sàng trao cho Tây Ban Nha một khoản tiền như là sự bù đắp tương đương với phần mà Tây Ban Nha yêu cầu tại Saigon.”

Đồng thời, Đô đốc Bonnard cũng cam kết vào tháng Mười Một năm 1861, khi nhận quyền chỉ huy chiến dịch liên quân Pháp-Tây Ban Nha, rằng khi kết thúc chiến dịch quân sự sắp tới, ông sẽ đặt dưới quyền sử dụng của Tây Ban Nha những chiến hạm và binh sĩ cần thiết để tiến hành chiến dịch tại Đàng Ngoài, với điều kiện lực lượng viễn chinh của Tây Ban Nha tại Đàng Trong phải được tăng cường. Vì lý do này, Đại tá Palanca đã yêu cầu Tổng đốc Philippines cử thêm bốn đại đội bộ binh, một khẩu đội pháo dã chiến, một phân đội kỵ binh và một pháo hạm, nhưng nhà chức trách tối cao tại Manila đã không đáp ứng yêu cầu đó. Khi ấy, chúng tôi đã có thể tận dụng cơ hội thuận lợi để đặt chân lên Đàng Ngoài, bởi vào tháng Giêng năm 1862 đã bùng nổ cuộc khởi nghĩa chống lại vua Đàng Trong; quân nổi dậy đã chiếm được kinh đô Quang Yên, đánh bại quân của Tự Đức và cử nhiều sứ giả đến xin viện trợ từ quân đội của chúng tôi, hoặc ít nhất là sự hiện diện tượng trưng của một chiến hạm Tây Ban Nha tại một trong các hải cảng của Đàng Ngoài.

Tháng Tư năm đó, một sứ giả của vị hoàng thân tranh ngôi lại tiếp tục đến xin viện trợ vũ trang của chúng tôi. Đại tá Palanca, mong muốn hỗ trợ yêu cầu đó, đã cầu xin Đô đốc Bonnard, nhưng vô ích, đề nghị ngài dành cho đoàn quân viễn chinh Tây Ban Nha một chiến hạm cùng với một lực lượng nhỏ của quân đội Pháp để đưa quốc kỳ của chúng tôi tới vùng Đàng Ngoài. Dù vậy, những người khởi nghĩa vẫn không từ bỏ nguyện vọng của mình, và Đức Giám mục Phafos, Đại diện Tông tòa tại Đàng Ngoài miền Đông, đã gửi cho Palanca vào ngày 26 tháng Tám cùng năm một bức thư, kèm theo một bản trình bày của vị hoàng thân tranh ngôi Lê Duy Phuny (đã cải đạo và nhận thánh danh Phêrô), trong đó ông khẩn khoản yêu cầu rằng khi Tây Ban Nha tiến hành ký kết hiệp ước hòa bình với vua Đàng Trong, xin đừng quên những quyền hợp pháp của ông, vốn cũng gắn liền với quyền lợi của quốc gia chúng ta, và đặc biệt là của các nhà truyền giáo và các tín hữu Kitô tại Đàng Ngoài, đồng thời một lần nữa cầu xin sự trợ giúp của quân đội chúng tôi hoặc sự bảo hộ của Tây Ban Nha.”

Trong toàn bộ những gì vừa được trình bày liên quan đến cuộc viễn chinh Pháp – Tây Ban Nha, người ta thấy rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa và cũng không thể có bất kỳ sự biện minh hay diễn giải nào khác, rằng nước Pháp đã công nhận cho Tây Ban Nha có đầy đủ quyền chiếm lĩnh một địa điểm tại vùng Đàng Ngoài, tương ứng với những phần lãnh thổ mà Pháp chiếm được tại Đàng Trong. Thế nhưng, khi hòa ước được ký kết, chúng ta lại không giành được một lãnh thổ nào, cũng như không nhận được những khoản bồi thường mà lẽ ra chúng ta có quyền được hưởng, mặc dù Chính phủ chúng ta đã chính thức trình bày với phía Pháp vào ngày 19 tháng Tám năm 1861 rằng: “Điều tất yếu là chúng tôi phải được bù đắp cho sự thiếu hụt về lãnh thổ bằng khoản thanh toán bằng tiền mặt, cùng với những quyền lợi khác mà nước Pháp đạt được nhằm bảo vệ hoạt động thương mại và các phái bộ truyền giáo của mình.” “Chính phủ không thể từ bỏ việc đòi hỏi một khoản bồi thường đầy đủ cho các khoản chi phí to lớn mà chúng tôi đã phải gánh chịu, cũng như cho những khoản chi tiêu mà có thể còn phải phát sinh thêm.”

Trong khi Tây Ban Nha tiếp tục hy sinh nhân lực và tài lực, thì nước Pháp đã bắt đầu hoàn lại các chi phí chiến tranh của mình bằng việc thu các khoản thuế từ hải quan Saigon, mở cửa Đàng Trong cho thương mại quốc tế và chỉ riêng trong vài tháng đã thu được hơn một trăm nghìn đồng bạc nhờ thuế neo đậu của các tàu thuyền, cùng với 20% giá trị nhập khẩu thuốc phiện. Khi quân đồng minh chiếm được các pháo đài và thành trì tại Saigon vào tháng Hai năm 1859, đoàn quân viễn chinh Tây Ban Nha cũng không hề được chia phần trong số lượng lớn chiến lợi phẩm thu được, bao gồm cả khí tài quân sự, lương thực và bạc tiền; tại đây, người ta thu giữ được nhiều khẩu pháo bằng đồng, rất nhiều vật dụng khác nhau, cùng với số lượng lớn gạo dùng để nuôi dưỡng quân đội Pháp, thậm chí còn xuất khẩu sang đảo Borbón (Réunion). Mặc dù Tổng chỉ huy đoàn quân viễn chinh Tây Ban Nha tại Đàng Trong khi ấy đã yêu cầu Đô đốc Charner tiến hành việc kiểm kê toàn bộ chiến lợi phẩm thu được tại các pháo đài Tourane và thành Saigon, cũng như gửi cho ông bảng thống kê các khoản thu nhập của cảng từ các loại phí neo đậu, phạt vạ, thuế khóa và chiến lợi phẩm kể từ khi cảng được mở cửa; đồng thời lập bảng chi tiết việc bán và nhượng lại các ngôi nhà, đất đai (việc này đã bắt đầu từ ngày 11 tháng Tư năm 1860); nhưng vị chỉ huy quân đội Pháp đã không chấp thuận bất cứ yêu cầu nào trong số đó, chỉ hồi đáp rằng: “Tây Ban Nha không có bất kỳ quyền lợi nào tại Saigon, bởi Saigon là tài sản riêng của nước Pháp, Pháp sở hữu hoàn toàn mà không phải chia sẻ phần nào. Vì vậy, tất cả những khoản thu được từ đó và sẽ tiếp tục thu được đều thuộc về nước Pháp. Và cũng như Saigon thuộc về Pháp, thì tại Đàng Ngoài hay một địa điểm khác thuộc Đàng Trong, Tây Ban Nha sẽ nhận được sự bù đắp cho những chi phí của mình.”

Ngày 5 tháng Sáu năm 1862, các Đặc sứ Toàn quyền của Tây Ban Nha và Pháp tại Đàng Trong cùng với các Đặc sứ Toàn quyền của vua Tự Đức đã ký kết một bản hiệp ước hòa bình. Theo đó: Việc hành đạo Kitô giáo được cho phép tự do trên toàn lãnh thổ An Nam; toàn bộ ba tỉnh Biên Hòa, Saigon, Mỹ Tho cùng với đảo Poulo Condore (Côn Đảo) được chuyển nhượng trọn vẹn về chủ quyền cho Hoàng đế nước Pháp; nhiều hải cảng được mở cửa giao thương, với những điều khoản ưu đãi dành cho cả Tây Ban Nha lẫn Pháp; sau cùng, vua An Nam cam kết chi trả khoản bồi thường chiến tranh trị giá hai mươi triệu peseta, trả trong vòng mười năm, mỗi năm nộp hai triệu peseta cho đại diện của Hoàng đế Pháp tại Saigon; khoản tiền này nhằm hoàn lại các chi phí chiến tranh cho Tây Ban Nha và Pháp.

Việc trao đổi phê chuẩn hiệp ước hòa bình được tổ chức vô cùng long trọng và trang trọng tại Huế vào ngày 14 tháng Tư năm 1863. Trong buổi lễ đó, vua Tự Đức đã gửi lời đáp lại các lời chúc mừng của các Đặc sứ Tây Ban Nha và Pháp qua một vị đại thần trong Hội đồng của mình, với những lời lẽ sau: “Các sứ thần, những người đã chịu bao gian lao để đến được đây, đã chứng tỏ rõ ràng công trạng của mình; Nhà vua An Nam xin hoan nghênh và chúc mừng sứ thần về sứ mạng của họ. Khi trở về trình diện các Đấng Tối thượng của mình, họ hãy tâu rằng: nay hòa bình đã được lập lại, mọi vấn đề về sau đều phải được giải quyết trong tinh thần hòa bình, với tình hữu nghị chân thành và vĩnh cửu vì hạnh phúc của cả ba dân tộc. Mong các sứ thần khắc ghi những lời này vào tâm trí của mình, đó là điều mong mỏi của Đấng Quân vương đã thốt ra những lời này.”

Cũng trong ngày hôm đó, nhà vua An Nam đã trao tận tay các đặc sứ toàn quyền những bức thư tự tay Người viết, gửi lời chúc mừng và kính trọng tới Nữ hoàng Tây Ban Nha và Hoàng đế Pháp. Đồng thời, sau đó, nhà vua còn phái một phái bộ đặc biệt mang theo thư từ và lễ vật tiến cống tới hai vị quân vương. Thành phần sứ bộ gồm có Phó Đại Giám Phán Phan Thanh Giản làm chính sứ, Phó Chủ tịch Bộ Lại Phan Phụ Thứ làm phó sứ, và Tư Lễ Quan đặc trách các nghi lễ đại triều Nguyễn Khắc Đản làm tam sứ, cùng với đông đảo đoàn tùy tùng.

Để bàn thảo việc ký kết hòa ước giữa Tây Ban Nha, Pháp và An Nam, nhà vua Tự Đức cũng đã cử tới Sài Gòn vào tháng Năm năm 1862 hai vị đặc sứ toàn quyền được trao đầy đủ thẩm quyền: Phó Đại Giám Phán kiêm Thượng thư Bộ Lễ Phan Thanh Giản, và Thượng thư Bộ Binh Lâm Duy Hiệp.

Bên cạnh tất cả các chi phí đặc biệt mà Tây Ban Nha phải chi ra cho cuộc viễn chinh tại Đàng Trong, còn cần phải tính đến sự hao mòn của trang thiết bị và vũ khí, cũng như phần mà chúng ta đáng lý phải được chia từ các chiến lợi phẩm thu được trong suốt chiến dịch, từ nguồn thu thuế hải quan và cảng Saigon, từ việc bán đất và nhà cửa, và sau cùng là phần đánh giá bù trừ tương ứng với ba tỉnh mà nhờ sự hỗ trợ của quân đội Tây Ban Nha đã bị chinh phục, nhưng sau đó lại được nhượng lại cho Pháp theo các điều khoản của hiệp ước.

Xét đến tất cả những điều đó, lẽ ra phải công bằng và hợp lý nếu toàn bộ khoản bồi thường chiến tranh trị giá tám mươi triệu real (tiền Tây Ban Nha) được trao cho Tây Ban Nha. Thế nhưng, vào tháng Tám năm 1863, theo một thỏa thuận song phương giữa hai chính phủ Tây Ban Nha và Pháp, khoản bồi thường ấy được phân chia cho cả hai quốc gia, trong đó Tây Ban Nha nhận được hai triệu đôla, tức hơn bốn mươi triệu real. Trong số đó, vào tháng Mười Một năm 1863, Tây Ban Nha đã nhận được 1.234.500 franc, tức một nửa số tiền của kỳ thanh toán đầu tiên mà chính phủ An Nam đã nộp. Việc thanh toán tám triệu đồng cho tới thời điểm đó, vua Tự Đức đã thực hiện như sau:

  • 20.000 đồng lúc bắt đầu thương thảo.
  • 200.000 đồng vào cuối năm 1862.
  • 180.000 đồng khi ký kết hiệp ước hòa bình tại Huế.

Tổng cộng: 400.000 đồng, tức tương ứng với kỳ thanh toán đầu tiên của khoản bồi thường chiến tranh.

Vào tháng Tư gần đây, khi Chính phủ Tây Ban Nha quyết định cấp một khoản tín dụng đặc biệt trị giá 300.000 peseta để bồi thường cho các thần dân Pháp đang cư trú tại Tây Ban Nha vì những thiệt hại mà họ phải gánh chịu trong các cuộc nổi dậy Carlista và Cantonal, chúng tôi đã nhớ rằng lẽ ra khi ấy, Tây Ban Nha hoàn toàn có thể dựa vào thiện chí và tinh thần công bằng, hữu nghị của Chính phủ Pháp để đề cập đến các khoản bồi thường mà Tây Ban Nha đáng ra phải nhận được liên quan đến cuộc viễn chinh tại Đàng Trong. Bởi lẽ, nước Pháp nay đã đòi hỏi bồi thường về các biến cố Cantonal và cuộc nội chiến Carlista tổng cộng 951.303 franc, và trước đó cũng đã được Chính phủ chúng ta chấp thuận trả 305.832 peseta, khiến cho khoản tín dụng đặc biệt 300.000 peseta vừa được cấp thêm sẽ được dùng để thanh toán số dư 951.000 peseta còn tồn đọng cho đến tháng Tư vừa rồi, như khoản bồi thường thiệt hại cho thần dân Pháp trong giai đoạn hỗn loạn của các cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha.

Nay khi nước Pháp đã đưa quân tới Đàng Ngoài và, sớm hay muộn, sẽ buộc phải phát động thêm một chiến dịch nữa — không phải để chinh phục, mà là để củng cố quyền cai trị vốn vẫn chưa được thừa nhận đầy đủ — thì chúng tôi thấy cần nhắc lại rằng Tây Ban Nha có ở đó những quyền lợi thiêng liêng, từng nắm giữ tại Đàng Ngoài những quyền lợi ưu tiên, hợp pháp và được thừa nhận, vốn đã được xác lập từ năm 1858 đến năm 1863, trên cơ sở một liên minh được ghi dấu bởi sự can thiệp thắng lợi của quân đội viễn chinh Tây Ban Nha tại Đàng Trong. Và quyền lợi ấy, tuy sau hiệp ước năm 1862 không còn cơ sở pháp lý chính thức nữa, nhưng vẫn là một quyền lợi đạo đức, dựa trên lý lẽ và sự công bằng.

Việc cai trị mà nước Pháp đang thực thi tại Đàng Ngoài từ năm 1873 không bắt nguồn từ hiệp ước đã chấm dứt chiến dịch liên quân Pháp – Tây Ban Nha tại Đàng Trong; đó là những quyền lợi phát sinh từ bản hiệp ước mới mà Công tước Broglié ký năm 1874, dựa trên các hoạt động của Dupuis tại Đàng Ngoài và được củng cố nhờ các chiến thắng của ông, với điều khoản về chế độ bảo hộ mà nước Pháp hiện nay viện dẫn và triều đình Trung Hoa còn đang nghi ngờ; chế độ bảo hộ ấy khiến vua Tự Đức bất an và cũng không thuận với quyền lợi của nước Anh.

Những biến cố mới xảy ra gần đây tại Đàng Ngoài, lập trường của vua An Nam, những tác động từ phía Anh Quốc và sự can thiệp của Trung Hoa có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng mà chúng tôi sẽ trình bày tiếp sau.

CHƯƠNG V
PHÁP TẠI ĐÀNG NGOÀI
Những biến cố của một chiến dịch. Chủ quyền của Thiên triều. Quân cờ đen. Những phức tạp với Trung Hoa, Anh và Đức.

Từ năm 1863 đến năm 1873, nước Pháp không hề bộc lộ ý định mở rộng sự thống trị của mình tại vương quốc An Nam. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian ấy, những nhà thám hiểm Pháp thường xuyên tới Đàng Ngoài, được thúc đẩy bởi các quyền lợi thương mại hoặc tinh thần phiêu lưu mạo hiểm, đã một lần nữa khơi dậy tại nước Pháp lòng khát khao mở rộng thuộc địa. Trong số các nhà thám hiểm quan trọng của vùng đất ấy, chúng ta có thể kể đến Millot và Dupuis, nhưng đặc biệt là Dupuis, vì khi nhận thấy những điều kiện thuận lợi mà Đàng Ngoài mang lại cho sự can thiệp của người Pháp — nhờ vào những biến động mà các phe nổi loạn đang gây ra tại một số tỉnh khi ấy — ông đã không ngần ngại công khai bày tỏ ý định của mình (mà báo chí đã phổ biến rộng rãi), đó là dâng hiến vùng Đàng Ngoài cho nước Pháp. Với những biểu hiện hào hiệp mang hơi hướng hiệp sĩ ấy, ông như tái hiện lại những chiến công và cuộc phiêu lưu của các nhà chinh phục Tây Ban Nha thời xưa tại Mexico và Peru; mặc dù trong thời đại của chúng ta, động lực của những cuộc chinh phục như vậy thường không phải là để làm vẻ vang cho Tổ quốc, mà phần nhiều chỉ vì lợi ích thương mại. Để đạt được mục tiêu, Dupuis khởi sự bằng cách liên kết với quân nổi loạn, hậu thuẫn cho việc phục hồi triều đại Lê — những lời kêu cứu và cầu viện mà Tây Ban Nha đã nhiều lần từ chối trong suốt chiến dịch Đàng Trong. Tuy nước Pháp cũng không hoàn toàn ủng hộ các kế hoạch của Dupuis, nhưng khi bị các quan lại An Nam liên tiếp tấn công quyết liệt, ông vẫn kiên cường đánh trả, củng cố thanh thế và lực lượng nhờ những chiến thắng liên tiếp, đến mức nước Pháp cuối cùng cũng phải chính thức công nhận và hậu thuẫn cho ông về mặt chính thức và vật chất. Và từ đó, chế độ bảo hộ của Pháp bắt đầu hình thành — tuy chưa phải trên toàn bộ Đàng Ngoài, mà là đối với triều đại nhà Lê. Pháp điều động quân đội, và vào năm 1873, cuộc viễn chinh do Francis Garnier chỉ huy đã tiến vào Đàng Ngoài, chiếm lĩnh phần lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, Garnier không được hưởng vinh quang ấy bao lâu, vì ông đã bị sát hại tại thành Hà Nội. Sau đó, Dupuis, với lòng quả cảm anh hùng và ý chí bền bỉ, tiếp tục đánh lui địch quân đang hăng hái sau cái chết của vị chỉ huy Pháp, không ngừng truy kích chúng. Ông đề xuất một bản hiệp ước hòa bình như một bằng chứng vinh quang cho những nỗ lực của mình, và hiệp ước này đã được chấp thuận và vẫn còn hiệu lực đến nay, bao gồm những điều khoản như: Mở cửa sông Hồng cho giao thương và vận chuyển; Tự do thương mại và tôn giáo; Bảo hộ của Pháp; Ân xá toàn diện cho tất cả những người nổi loạn và các tín hữu Kitô bị bách hại. Một đoàn viễn chinh thứ hai do Philastre chỉ huy sau đó được cử tới nhằm trấn áp các lực lượng đối lập, các thành phần bất mãn và bọn cướp bóc; đoàn này đã củng cố và khẳng định đầy đủ các điều khoản của hiệp ước trước đó.

Chúng tôi sẽ không tranh luận về tính hợp pháp nhiều hay ít của sự can thiệp của Pháp tại Đàng Ngoài sau hiệp ước hòa bình mà Tự Đức đã ký với Tây Ban Nha và Pháp năm 1862 — bởi lẽ chúng tôi mong muốn sự thuộc địa hóa của nước Pháp tại vương quốc An Nam — nhưng cần phải nhắc lại rằng, trong những hoàn cảnh đặc biệt, nước Pháp đã làm được điều mà quân đội Tây Ban Nha hoàn toàn có thể và đáng lý ra phải làm ngay từ trong chiến dịch, với đầy đủ lý do chính đáng và quyền lợi hợp pháp.

Từ năm 1874 đến 1882, Pháp không còn can dự vào Đàng Ngoài nữa. Trong khoảng thời gian ấy, đất nước này bị bọn cướp biển hoành hành, mọi thứ tội ác và lộng hành diễn ra mà không gặp phải sự trừng phạt, bởi vua An Nam thì bất lực không đủ lực lượng để kiểm soát tình hình, còn nước Pháp, mặc dù đã thiết lập chế độ bảo hộ, lại không làm gì để vãn hồi trật tự đang ngày càng bị xáo trộn nghiêm trọng. Mãi cho đến khi nhận ra rằng cần phải bảo đảm an ninh và trật tự, nước Pháp mới tổ chức đoàn viễn chinh dưới quyền chỉ huy của đại úy Riviere, người đã tử trận hai tháng trước tại Hà Nội. Khi bắt đầu chiến dịch quân sự, ông chia quân làm hai cánh: cánh tiên phong gồm 150 lính thủy quân, và giữ lại 250 binh sĩ làm lực lượng dự bị. Nhưng ông đã bị bất ngờ tấn công bởi lực lượng đông đảo quân An Nam, và mặc dù đội hậu binh lập tức tiến lên ứng cứu và đánh tan đối phương, ông vẫn bị bắt làm tù binh và bị sát hại, cùng với nhiều lính thủy quân đã sát cánh bên ông.

Nước Pháp đang chuẩn bị cho một chiến dịch, còn nước Anh thì theo dõi với sự dè chừng các tham vọng bành trướng thuộc địa của Pháp tại Đàng Ngoài; thế nhưng, nước Anh cũng e ngại những hệ lụy từ một cuộc chiến có thể làm tê liệt các quyền lợi thương mại của họ với Thiên triều.

Về phần mình, Trung Hoa — quốc gia không công nhận sự cai trị của Pháp tại vùng này và vẫn chưa từ bỏ chủ quyền của mình đối với vương quốc An Nam — đang vận dụng mọi phương cách ngoại giao, đồng thời vận động trong giới chính trị Anh để tìm kiếm người đồng thuận với các phản đối của mình, hoặc ít nhất là nhận được sự hậu thuẫn về mặt tinh thần, phòng khi phải đối đầu.

Để nước Pháp có thể phát động một chiến dịch tại Đàng Ngoài với kết quả khả quan, trước hết, họ cần có đầy đủ các phương tiện và nguồn lực cần thiết nhằm duy trì tại đây những lực lượng đông đảo và kỷ luật. Cuộc chiến này, ngoài những hiểm họa do các xung đột trong dư luận và các bất ổn nội bộ tại chính nước Pháp (nếu như lòng yêu nước không thể vượt lên trên các cuộc tranh chấp và quyền lợi đảng phái trong suốt thời gian diễn ra chiến dịch), còn tiềm ẩn những khó khăn vốn gắn liền với đặc thù riêng biệt của một cuộc chiến tại Đàng Ngoài, và có thể gây ra những va chạm với Trung Hoa, Anh và Đức.

Những phức tạp có thể nảy sinh với Trung Hoa đều bắt nguồn từ chủ quyền mà quốc gia này khẳng định là mình đang nắm giữ tại vương quốc An Nam. Trung Hoa đã tuyên bố rằng Pháp không nên can thiệp vào Đàng Ngoài, ngay cả khi hành động ấy dựa trên ủy quyền của vua Tự Đức, nếu chưa thỏa thuận trước với Thiên triều về phạm vi chiến dịch, bởi vì Trung Hoa chưa từ bỏ chủ quyền của mình trên toàn bộ vương quốc An Nam. Trung Hoa công nhận và tôn trọng các phần đất mà Pháp đã giành được theo hiệp ước năm 1862; họ vẫn ngần ngại trước một vài điều khoản của hiệp ước năm 1874, và hoàn toàn bác bỏ mọi diễn tiến về sau nếu không có sự tham gia và chấp thuận của Thiên triều. Do đó, lập trường của Trung Hoa về cơ bản là đối nghịch với thái độ của Pháp; tuy nhiên, chủ quyền ấy chỉ thực sự thể hiện vào ngày các vua An Nam lên ngôi, khi họ buộc phải nhận sắc phong của Trung Hoa, mặc dù An Nam không phải là một chư hầu, mà là một quốc gia độc lập và không chịu bất kỳ hình thức lệ thuộc nào.

Chúng tôi không thể dừng lại quá lâu ở điểm này, tuy vậy cần phải làm sáng tỏ bởi nó có tầm quan trọng thực sự; và để làm được điều ấy, phải tìm về nguồn gốc của mối quan hệ xưa kia giữa vương quốc An Nam với Thiên triều. Vùng Đàng Ngoài vốn được người Kemois từ dãy núi ngăn cách Đàng Trong với Campuchia đến sinh sống lập cư; hai thế kỷ trước Công nguyên, người Trung Hoa tiến vào vương quốc An Nam, mang theo tôn giáo và phong tục của mình, rồi chiếm cứ Đàng Ngoài. Hoàng đế Trung Hoa Vĩnh Lạc (Yong-ló), vào cuối thế kỷ XIV, đã tuyên bố sáp nhập Đàng Ngoài như một tỉnh thuộc Thiên triều. Sau nhiều cuộc biến loạn, hoàng đế Ung Chính (Jongtching, có nghĩa là Hòa Bình Vững Bền) cùng với cháu nội của ông là Tuyên Tông (Suen-Tiong) đã khôi phục và nâng đỡ một hậu duệ của dòng họ Lê xưa, nhờ đó mà Đàng Ngoài tách ra khỏi Trung Hoa; tuy vậy vẫn giữ quy chế triều cống với Thiên triều. Về sau, khi Đàng Ngoài và Đàng Trong tách rời nhau, Đàng Trong dưới sự thống trị của triều đại Nguyễn đã hình thành nên một vương quốc độc lập với Đàng Ngoài.

Vì các vua An Nam có quyền tự mình chỉ định người kế vị, nên đã xảy ra nhiều cuộc nội chiến đẫm máu tranh giành ngai vàng; trong số đó có cuộc chiến giữa các Tây Sơn ở thế kỷ trước, kéo dài suốt 28 năm. Cuộc chiến ấy mang tên Tây Sơn vì đó là vùng núi nơi các nghĩa quân nổi dậy tụ họp. Những cuộc nội chiến ấy kết thúc khi Đàng Trong và Đàng Ngoài được hợp nhất dưới quyền cai trị của Gia Long, người thừa kế hợp pháp ngai vàng Đàng Trong. Trước thời điểm ấy, tại đất nước có hai vị quân vương: vị thứ nhất là Vua (Vua hay Hoàng đế), người đứng đầu tối cao, nắm giữ địa vị danh dự và quyền uy bậc nhất: ông ban hành luật pháp, chủ trì các nghi lễ tôn giáo và chính trị, ban phúc lành cho ruộng đất, tham dự các cuộc rước và lễ hội đầu năm mới, rồi sau đó lại ẩn mình trong cung cấm với các hậu phi, không còn xuất hiện trước thần dân nữa. Vị quân vương thứ hai là Chúa, tức người cai trị thực sự, nắm giữ toàn bộ quyền hành đối với quân đội và bộ máy hành chính; ông có toàn quyền bổ nhiệm mọi chức vụ dân sự và quân sự trong nước.

Khi Gia Long chinh phục Đàng Ngoài và vào năm 1802 tuyên bố là hoàng đế duy nhất của cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, ông đã được Trung Hoa sắc phong xác nhận quyền cai trị của mình. Con trai ông là Minh Mạng, vào năm 1824, đã thân chinh ra Đàng Ngoài để đăng quang, như thể không phải lên ngôi theo quyền thừa kế của vua cha Gia Long, mà chỉ như một Tổng đốc đại diện của Thiên triều tại Đàng Ngoài vậy. Trong suốt triều đại của ông, Minh Mạng tỏ ra hết sức thiên vị Trung Hoa và bày tỏ thái độ thù nghịch quyết liệt với mọi ảnh hưởng đến từ phương Tây; chính trong thời kỳ ấy, ảnh hưởng của Thiên triều lên vương quốc An Nam đạt tới mức cao độ nhất.

Năm 1847, vua An Nam là Thiệu Trị đã thỉnh ý Hoàng đế Trung Hoa về cách ứng xử đối với các giáo sĩ truyền giáo; trong thư phúc đáp, Hoàng đế Trung Hoa không quên nhắc lại các quyền chủ quyền của mình đối với Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đến năm 1856, vua Tự Đức cũng tìm kiếm sự giúp đỡ từ Trung Hoa khi ông De Montigny tới Tourane để thay mặt nước Pháp đàm phán với triều đình An Nam một hiệp ước; tuy Hoàng đế Trung Hoa khi ấy khuyên ông hãy kiên quyết kháng cự lại “bọn man di châu Âu”, song An Nam vẫn không nhận được bất kỳ sự trợ giúp nào, ngay cả trong suốt cuộc viễn chinh liên quân Pháp – Tây Ban Nha. Điều đó cũng không có gì khó hiểu, nếu xét đến việc lúc bấy giờ Trung Hoa vừa phải gánh chịu hậu quả thảm khốc từ việc quân Pháp và Anh tiến vào Bắc Kinh.

Trên thực tế, những quyền chủ quyền mà Trung Hoa hiện nay viện dẫn chưa bao giờ được công nhận một cách hiển nhiên và thực tế. Ngay chính vua Gia Long, dù nhận được sắc phong công nhận vương quyền từ Trung Hoa, cũng để vấn đề ấy trong tình trạng chưa rõ ràng. Các đời vua An Nam sau đó chỉ thể hiện sự tôn kính với Trung Hoa vì được sắc phong từ Bắc Kinh, như trường hợp vua Thiệu Trị, khi có một sứ thần từ Thiên triều đến Kẻ Chợ (Hà Nội) trao cho ông ngọc tỷ lên ngôi. Đến đời kế tiếp là vua hiện tại — Tự Đức — thì nhà vua đã yêu cầu được nhận sắc phong ngay tại Huế, kinh đô Đàng Trong. Để làm lễ đăng quang cho vua Tự Đức, các sứ thần Trung Hoa kéo đến cùng đoàn tùy tùng khoảng hai trăm người, trong suốt hành trình qua các vùng dân cư đều cưỡng bách dân chúng phải thiết đãi tiệc tùng linh đình, song lại đáp trả bằng thái độ khinh miệt — thứ mà người Đàng Trong luôn phải gánh chịu trước người Hoa — thậm chí họ còn buộc dân bản xứ phải vác trên vai vô số bao tải đất mang từ Trung Hoa đến, để những vị sứ thần ấy có thể “luôn hít thở hương thơm của cố quốc” khi ngả mình nằm nghỉ. Những vị sứ giả này mang theo chiếu chỉ của Hoàng đế Trung Hoa, và lễ đăng quang được tổ chức với tất cả sự long trọng, xa hoa vốn là đặc điểm yêu thích của các dân tộc phương Đông.

Dẫu cho ngày nay Thiên triều viện dẫn các quyền chủ quyền ấy, thì chính vua Tự Đức lại đã nhiều lần cho thấy ông hoàn toàn làm chủ đất nước mình, khi chấp nhận điều khoản thứ tư của hiệp ước hòa bình giữa Tây Ban Nha, Pháp và An Nam, trong đó quy định rằng: “Sau khi hòa ước được ký kết, nếu có bất kỳ quốc gia ngoại bang nào, dù do khiêu khích hay theo điều khoản hiệp ước, mong muốn được nhượng lại một phần lãnh thổ của An Nam, thì Hoàng đế An Nam sẽ phải thông báo cho Hoàng đế nước Pháp qua một sứ thần, tham khảo ý kiến của ngài, nhưng vẫn giữ quyền tự do quyết định có chấp thuận sự giúp đỡ đó hay không; tuy nhiên, bất kỳ sự nhượng đất nào với nước ngoại bang ấy cũng không thể có hiệu lực nếu không có sự đồng ý của Hoàng đế nước Pháp.”

Trong toàn bộ điều khoản ấy, không hề đề cập gì tới chủ quyền của Trung Hoa tại vương quốc An Nam, và khi đó, Thiên triều cũng không hề đưa ra bất kỳ phản đối chính thức nào, mặc dù bản thân điều khoản đã mặc nhiên thừa nhận quyền can thiệp của nước Pháp đối với việc chuyển nhượng lãnh thổ. Thậm chí vua Tự Đức còn đi xa hơn khi, qua bộ trưởng phụ trách Thương chính An Nam là ông Tru-ong, gửi thông điệp ngày 2 tháng 11 năm 1862 cho các phái viên toàn quyền của Tây Ban Nha và Pháp, trước khi tiến hành trao đổi phê chuẩn hiệp ước, trong đó ông viết: “Trẫm vẫn luôn tin rằng lãnh thổ vương quốc An Nam đã được xác lập rõ ràng và thần dân của trẫm hoàn toàn hưởng quyền tự chủ; do đó, nếu trong tương lai có quốc gia ngoại bang nào đến đàm phán hòa bình với chúng ta, thì sẽ tuyệt đối không có vấn đề nhượng đất nằm trong bất kỳ điều khoản nào của hiệp ước.”

Thái độ hiện tại của Thiên triều đối với Pháp mang nhiều tính chất ngoại giao hơn là hiếu chiến, và có thể khẳng định rằng tự bản thân Trung Hoa sẽ không đơn phương tỏ thái độ thù địch. Họ sẽ kéo dài thời gian bằng những cuộc đàm phán, đồng thời thăm dò lập trường và thiện cảm của nước Anh, bởi lẽ ngoài thực lực của chính mình, họ còn cần đến sự hậu thuẫn từ các cường quốc mà kết quả giải quyết vấn đề này có ảnh hưởng lớn, như Anh, Hoa Kỳ và Đức. Bởi vì ngay khi chiến sự bùng nổ, các quyền lợi thương mại của những nước này sẽ ngay lập tức bị đình trệ, bởi điều đầu tiên nước Pháp làm sẽ là thiết lập phong tỏa chặt chẽ tất cả các cảng Trung Hoa hiện đang mở cửa cho thương mại quốc tế — những cảng vốn mang lại nguồn lợi khổng lồ cho họ; và người Anh — vốn trước hết là thương nhân — hẳn sẽ rất lưu tâm đến điều này.

Đối với nước Đức, chúng tôi chỉ cần nhắc rằng hiện nay có rất nhiều sĩ quan và thủy thủ người Đức đang phục vụ trong quân đội và hạm đội của Thiên triều; và nước Pháp không bao giờ được phép quên đi vị thế đặc biệt của mình với nước Đức. Pháp luôn phải khắc ghi trong tâm trí và tận sâu trái tim mình một nỗi đau và một ký ức: Alsace và Lorraine. Chỉ cần nhắc đến hai cái tên ấy, trong lòng người Pháp lại bừng lên khát vọng được thấy lá cờ tam tài tung bay khắp mọi miền đất mẹ.

Đức hiểu rõ khát vọng đó, và nước Pháp buộc phải luôn duy trì đủ lực lượng cần thiết để sẵn sàng đối phó với mọi rắc rối và biến cố có thể xảy đến.

Nếu như Trung Hoa, Anh hoặc Đức tìm cách cản trở hành động của Pháp, thì Pháp sẽ kiên quyết tuyên bố rằng họ không mưu toan bất kỳ cuộc chinh phục lãnh thổ mới nào tại vương quốc An Nam, mà chỉ đơn thuần muốn bảo vệ và phát triển các thuộc địa của mình một cách kiên cường. Nếu chiến sự không bùng nổ vào lúc này, nếu Pháp chần chừ đứng yên vì sợ các phức tạp đó, thì cuộc đối đầu chỉ tạm hoãn lại, và cần phải sớm giải quyết dứt điểm vấn đề này.

Nga là cường quốc duy nhất có thể ủng hộ tham vọng của Pháp tại Đàng Ngoài, bởi vì mọi sự suy yếu của Trung Hoa đều có lợi cho Nga, khi nước này đang ấp ủ ý đồ tìm kiếm bù đắp lợi ích trước Anh tại vùng Armenia.

Nếu Trung Hoa không trực tiếp chống đối các kế hoạch của Pháp, thì họ vẫn có thể viện trợ cho quân An Nam bằng binh lực và các nguồn lực khác nhau; họ có thể cho phép tuyển mộ thêm, để bổ sung các sĩ quan và binh lính Trung Hoa vào hàng ngũ quân đội An Nam. Tuy nhiên, còn có những kẻ thù khác đang chực chờ nước Pháp tại Đàng Ngoài: đó là tàn dư của một đạo quân phiến loạn Trung Hoa bị đánh bật khỏi tỉnh Quảng Tây năm 1855, sau đó chia thành hai phe giương cao các lá cờ đen và vàng — theo màu sắc in trên mỗi lá cờ. Trong đó, lực lượng cờ đen đặc biệt nguy hiểm, vì họ đã tiếp nhận thêm một số phiến quân Đàng Ngoài nổi dậy trong các cuộc nổi loạn năm 1862 và 1863, tạo nên nòng cốt đầy sức mạnh và mưu lược của lực lượng này, bên cạnh một số lớn các tay phiêu lưu châu Âu, nhiều binh sĩ đào ngũ và những cựu quân nhân Pháp. Chúng có trang bị vũ khí đầy đủ, tổ chức tương đối quy củ, và trong thời bình thì hoạt động trong lĩnh vực thương mại, khai thác mỏ, buôn lậu và hải tặc.

Dupuis khích lệ nước Pháp nên hỗ trợ việc giải phóng Đàng Ngoài khỏi ách thống trị của vua Tự Đức, đồng thời khẳng định rằng Trung Hoa không đủ lực lượng và phương tiện để ngăn chặn điều đó. Nhưng nước Pháp không nên quên rằng tình hình quân sự hiện tại của Trung Hoa đã rất khác so với khi các liên quân tiến vào Bắc Kinh trước kia. Đã nhiều năm trôi qua, trong quãng thời gian đó Thiên triều đã tiến hành cải tổ quân đội và hải quân, điều này sẽ đòi hỏi nước Pháp phải huy động nguồn nhân lực và tài lực lớn lao — điều mà tình hình chính trị hiện nay của Pháp có thể chưa cho phép.

Về hải quân, Trung Hoa hiện sở hữu: 2 tàu pháo bọc thép, 2 tàu tuần dương, 6 khinh hạm bằng gỗ, 10 pháo hạm hai chân vịt, trang bị pháo từ 16 đến 30 tấn, 13 tàu vận tải, 3 tàu ngư lôi và vài pháo thuyền chuyên săn hải tặc và phục vụ hải quan. Hai pháo hạm bọc thép của họ — Yang-VeiTchao-Yong — là những chiến hạm xuất sắc đóng tại Anh, trọng tải 1.300 tấn, công suất 2.400 mã lực với hai chân vịt, được trang bị 2 pháo Armstrong 26 tấn và 6 súng liên thanh. Những con tàu này do người châu Âu điều khiển, nhưng hệ thống pháo binh của họ lại pha tạp các loại pháo Armstrong, Vavasseur và Krupp, gây khó khăn lớn trong công tác huấn luyện và vận hành vũ khí. Một chiến hạm mới tên là Ting-Yuen cũng vừa được hạ thủy, biên chế 14 sĩ quan và vài kỹ sư người Đức dưới quyền chỉ huy của Đại tá Bá tước de Westes. Hiện cũng đang hoàn thiện thêm một thiết giáp hạm Chen-Yuan trọng tải 7.000 tấn, trang bị 4 pháo Krupp 30 cm bố trí trong hai tháp pháo bọc thép. Với bốn con tàu đang hoàn thiện, tổng số tàu ngư lôi của Trung Hoa sẽ tăng lên bảy chiếc. Họ cũng có kế hoạch đóng mười tàu ngư lôi tại Stettin và xây thêm một ụ nổi lớn. Sau khi các sĩ quan và kỹ sư hải quân Trung Hoa hoàn tất khóa đào tạo tại Đức, họ sẽ được điều động về hạm đội này. Ngoài các sĩ quan người Đức, cũng có vài người Mỹ phục vụ trong hải quân Thiên triều. Nếu chiến tranh nổ ra, nước Pháp sẽ không thể tiến vào các cảng vì Trung Hoa đã bố trí cả hệ thống phòng thủ ngầm dưới nước; buộc Pháp phải phong tỏa và oanh tạc các cảng, khiến cuộc chiến kéo dài đầy gian nan và tốn kém.

Về lục quân, Trung Hoa cũng đang củng cố tổ chức với sự huấn luyện của các sĩ quan châu Âu. Quân đội nhìn chung trang bị súng trường Remington, còn các pháo đài đều được lắp đặt pháo Armstrong và Krupp.

Tuy vậy, những phương tiện phòng thủ ấy và đội quân đông đảo của Trung Hoa hiện nay cũng không thể khiến nước Pháp phải quá e ngại, bởi dù sao Thiên triều vẫn chưa quên hai thất bại thảm khốc của mình: Cuộc chiến với nước Anh năm 1842; Cuộc chiến với liên quân Anh – Pháp năm 1862. Để chứng minh sự yếu đuối ấy, hãy nhắc lại sự kiện vào cuối thế kỷ trước trong cuộc chiến Tây Sơn:  Năm 1786, khi Long-Nhu-Ông (tức Nguyễn Huệ) chinh phục được Đàng Ngoài, vị vua của vùng này đã phải chạy sang Trung Hoa cầu cứu Thiên triều. Hoàng đế Trung Hoa phái quân tiếp viện nhưng đã bị Long-Nhu-Ông từ Đàng Trong kéo quân ra đánh bại thảm hại: quân Trung Hoa để lại hơn 18.000 xác chết trên chiến trường, số binh lính còn sống sót không vượt quá một trăm người. Sau chiến thắng ấy, quân Tây Sơn còn vượt qua biên giới tiến vào sâu trong đất Trung Hoa, chỉ dừng lại khi cách Quảng Châu vài dặm. Kinh hoàng trước lòng dũng cảm và sự táo bạo của Nguyễn Huệ, Hoàng đế Trung Hoa buộc phải công nhận ông làm vua, với điều kiện duy nhất là phải đến Bắc Kinh triều kiến và nhận sắc phong. Nhưng Nguyễn Huệ, vì nghi kỵ, đã phái một thân tín đi thay, rồi sau đó giết chết người này để tránh bị lộ bí mật đánh tráo.

Tại Trung Hoa, cũng như ở mọi quốc gia trước thềm chiến tranh, luôn tồn tại hai phe: phe hiếu chiến và phe ôn hòa — phe sau có số đông hơn, chủ trương hòa bình. Mặc dù Thiên triều hiện có những tiềm lực quân sự đáng kể để can thiệp vào Đàng Ngoài, họ vẫn không thể nào quên nỗi tủi nhục khi quân liên minh tiến vào Bắc Kinh, hay thiệt hại từ cuộc chiến với Anh năm 1842, buộc họ phải mở cửa đón phương Tây vào Trung Hoa với hàng loạt cảng thương mại: Quảng Châu, Amoy, Phúc Châu Phủ và Ninh Ba; phải trả một khoản bồi thường khổng lồ 21 triệu đô la trong vòng bốn năm; và mất thêm cả Hồng Kông — từ đó trở thành thuộc địa Anh quốc — cũng như việc Thượng Hải bị tách rời khỏi Thiên triều.

Nước Anh, hôm nay đang chỉ trích Pháp gay gắt, đến mức cho rằng Pháp không chỉ chà đạp luật pháp tại Đàng Ngoài mà còn phải xem cuộc viễn chinh của Pháp như một hành động cướp bóc, dường như đã quên mất rằng chính họ — dù chẳng có được những quyền lợi như Pháp — cũng từng tiến vào Đông Dương.

Năm 1862, nước Anh đã hợp nhất Pegu, Ana-Kan và Tenasierin, hình thành nên thuộc địa rộng lớn được biết đến ngày nay với tên gọi Miến Điện thuộc Anh. Pháp cũng nên nhắc lại với Anh về cách hành xử của họ tại vương quốc An Nam gần một thế kỷ trước: khi Giám mục Pigneaux de Behaigne trên đường từ Pháp trở lại Đàng Trong để hỗ trợ việc khôi phục ngôi báu cho Gia Long, ông đã cập bến Pondichery cùng hạm đội viễn chinh; nhưng viên Toàn quyền Anh đã tìm mọi cách ngăn giữ đoàn này lại, dùng đủ loại mưu mẹo, dối trá và viện cớ trì hoãn. Trong khi đó, từ Pondichery lại có các đoàn viện trợ và nguồn lực được gửi cho kẻ thù của Gia Long và nước Pháp. Sau đó, Cách mạng Pháp bùng nổ, và chỉ còn hai mươi sĩ quan dưới quyền Ollivier trong hạm đội dự định tiến đến Đàng Trong có thể cập bến.

Chưa dừng lại ở đó: năm 1847, hai chiến hạm Anh xuất hiện trước cửa biển Tourane. Bọn sĩ quan Anh, lợi dụng mối căm thù mà vua An Nam là Thiệu Trị dành cho người Pháp, đã đề nghị ký kết với ông một hiệp ước thương mại với Anh. Họ thậm chí còn ngỏ ý sẽ bảo vệ vương quốc của ông chống lại người Pháp, đồng thời cam kết hỗ trợ ông trong việc cấm đạo Công giáo tại Đàng Trong. Khi ấy, trong lúc Thiệu Trị còn cân nhắc trước những đề xuất kèm theo vô số lễ vật này, thì quân Anh đã rút khỏi Tourane với ý định sớm quay trở lại cùng lực lượng hùng hậu hơn. Nhưng rồi Thiệu Trị qua đời, và cái chết của ông đã chấm dứt những âm mưu thâm độc ấy của nước Anh — vốn như thường lệ, luôn bị dẫn dắt bởi lòng tham lợi thương mại và sự hám lợi ích của mình.

Giờ đây, nước Pháp buộc phải can thiệp vào Đàng Ngoài, bởi nếu cứ tiếp tục bất động thì sức mạnh tinh thần của họ sẽ bị tổn hại nghiêm trọng, không chỉ tại vương quốc An Nam mà cả ở châu Âu. Nếu năm 1827 Pháp còn tiến vào Algérie chỉ vì muốn trả đũa những lăng nhục nhắm vào Lãnh sự Pháp, và đến nay đã chi hơn ba tỷ franc cho cuộc chinh phục Algérie, thì nay những lý do thúc đẩy họ tiến vào Đàng Ngoài còn mạnh mẽ hơn nhiều — nơi mà nước Pháp vẫn chưa rửa được mối nhục về cái chết thảm khốc của chỉ huy Riviere.

Tại đó, Pháp có một thuộc địa mà họ cần bảo vệ, dưới sự che chở của Pháp hiện có hai Phủ Đại diện Tông tòa Tây và Nam, với 50 thừa sai Pháp, 140 linh mục bản xứ, 740 nhà thờ và nguyện đường, cùng 5 chủng viện. Các giáo phận của Tây Ban Nha tại Đàng Ngoài thì như đã nói, chia thành hai Phủ Đại diện Tông tòa Trung và Đông.

Để giành thắng lợi trọn vẹn cho quân đội và những hy sinh của nước Pháp, cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng và dự liệu đầy đủ mọi nhu cầu của một chiến dịch tại Đàng Ngoài. Không thể đến đó một cách ngẫu hứng, phó mặc số phận cho may rủi như vẫn thường thấy ở các cuộc viễn chinh mà Tây Ban Nha và Pháp gửi tới các thuộc địa — vốn thường thiếu quân số và tài nguyên. Cần phải ghi nhớ rằng việc chuẩn bị công tác hậu cần là vấn đề phức tạp bậc nhất trong một quốc gia xa lạ, với đạo quân cách quê hương hơn sáu ngàn dặm.

Hiện tại, nước Pháp có một đạo quân thường trực hơn 500.000 binh sĩ, hoàn toàn có thể huy động thêm lực lượng dự bị khi cần, đồng thời sở hữu một hạm đội hùng hậu dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan đầy kinh nghiệm mà tài năng và dũng cảm của họ đã gây nhiều ngưỡng mộ. Với những thiết giáp hạm tối tân, lực lượng pháo hạm đông đảo, ưu thế vượt trội về kỷ luật và binh pháp — luôn là sức mạnh lấn át sự thô sơ về số đông — nước Pháp sẽ đảm bảo vững chắc quyền kiểm soát của mình tại Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Để khởi động chiến dịch, ngay từ bây giờ Pháp cần huy động tối thiểu 8.000 binh sĩ. Hãy nhớ rằng, khi quân viễn chinh Tây Ban Nha còn đồn trú tại Đàng Trong (lúc đó quân số đã giảm chỉ còn 1/5 lực lượng so với khi bắt đầu chiến dịch), thì nước Pháp đã có tới hơn 6.000 lính bộ binh và hải quân tham gia các trận đánh chiếm Sài Gòn và Mỹ Tho. Và đó là còn chưa kể đến sự hỗ trợ đắc lực từ các binh sĩ Tagalog của Tây Ban Nha. Khi ấy, không có Trung Hoa hay bất cứ quốc gia nào khác giúp đỡ quân An Nam, nhưng chiến sự vẫn kéo dài; quân An Nam khi đó bố trí đến 200 khẩu falconetes (pháo hạng nhẹ) và pháo cỡ tám trên các chiến lũy kiên cố, cùng với nhiều đại bác hạng nặng trong các khẩu đội pháo.

Trong chiến tranh thuộc địa, cần phải hành động quả quyết và thần tốc, với đầy đủ kho tiếp vận và lực lượng dự trữ.

Pháp cần luôn lưu tâm — nhưng không phải lo sợ — trước những can thiệp bên ngoài và những nguồn viện trợ mà quân An Nam có thể nhận được. Nhưng nếu trong lòng nước Pháp vẫn còn tồn tại tinh thần yêu nước, nếu ngọn lửa thiêng liêng của Tổ quốc vẫn còn cháy trong tâm hồn những người Pháp và lá quốc kỳ của họ vẫn được tôn kính, thì một khi quân đội tiến hành chiến dịch quyết định với đầy đủ mọi phương tiện và các đơn vị y tế, vận tải và hậu cần hoàn thiện, thì chẳng bao lâu nữa, quốc kỳ Pháp sẽ vĩnh viễn tung bay với vinh quang bất diệt trên bầu trời Đàng Ngoài.

CHƯƠNG VI
THÁI ĐỘ CỦA TÂY BAN NHA

Trên mảnh đất Đàng Trong và Đàng ngoài, nơi máu của các vị tử đạo và binh sĩ Tây Ban Nha đã thấm đẫm, chính tại đó đã bén rễ và nở hoa những quyền lợi thiêng liêng mà Tây Ban Nha và Pháp có được trên Đế quốc An Nam.

Trên những nấm mồ ấy phấp phới lá cờ Pháp, nhưng quốc kỳ Tây Ban Nha lại không bao phủ các phần mộ của những vị tử đạo, cũng chẳng che chở cho những phần mộ bị bỏ mặc — nơi an nghỉ của những người lính đã đem lá cờ vinh quang của Tây Ban Nha, quấn quýt cùng cờ Pháp, và cùng nhau hy sinh ôm chặt lấy nó như các thừa sai ôm lấy thánh giá của mình giữa chiến địa Đàng Trong. Những ý nghĩ cuối cùng của các vị tử đạo Đàng ngoài dâng về Thiên Chúa; trong ánh mắt mờ dần khi cận kề cái chết vẫn rực sáng đức tin tìm về thiên đàng; và những lời cầu nguyện là hơi thở sau cùng được thốt lên từ đôi môi họ. Những người lính tội nghiệp của chúng ta, cũng là những nạn nhân của nghĩa vụ thiêng liêng trong binh nghiệp, vào giây phút cuối đời vẫn dõi theo trong tâm tưởng những miền xa xăm tìm về quê hương và tổ quốc; còn các vị thừa sai khi rời bỏ trần thế thì trở về quê hương đích thực của mình: thiên đàng vĩnh cửu bên Thiên Chúa.

Tây Ban Nha đã là đồng minh nhiệt thành và trung tín của Pháp trong chiến dịch Đàng Trong. Và nếu hôm nay, ta buộc lòng phải chấp nhận việc không thể kéo quốc kỳ Tây Ban Nha lên tại Đàng ngoài, thì chí ít cũng hãy tiếp tục ủng hộ mục tiêu của Pháp, đồng hành với họ bằng sự hỗ trợ tinh thần, và qua những thiện cảm chân thành của chúng ta, bày tỏ mong muốn sâu sắc được thấy nước Pháp củng cố và phát triển những thuộc địa của mình, qua đó cân bằng lại ảnh hưởng của Anh Quốc tại Đông Dương. Chính lợi ích của chúng ta, danh dự của chúng ta — luôn bị xúc phạm ở mọi thời kỳ bởi nước Anh — chỉ bảo và khuyến khích chúng ta hành động như vậy.

Bằng cách làm suy yếu nỗ lực của Anh và hỗ trợ cho Pháp, chúng ta sẽ bảo vệ các quyền lợi của các thuộc địa Tây Ban Nha, đồng thời kết nối Philippines với Đông Á thông qua các mối quan hệ thương mại, đem lại sự thịnh vượng và giàu có.

Những quốc gia yếu thế, những nước không đủ lực lượng để tự khẳng định mình, phải tìm kiếm sự trợ giúp và những liên minh dựa trên lợi ích chung; và khi những kẻ yếu đoàn kết lại, họ sẽ trở thành những người khổng lồ có thể khiến cả các titan phải run sợ — còn người Anh, với tham vọng chiếm hữu không phải thiên đàng mà là toàn thể địa cầu, thì chẳng khác nào các titan thời cổ đại. Không gì có thể kiềm hãm được lòng tham của họ.
Họ đã chiếm hữu Cyprus và New Guinea, can thiệp vào bờ biển Tây Phi, nã pháo vào Alexandria và chiếm đóng Ai Cập; năm 1819 họ thành lập Singapore, năm 1823 đặt chân lên Malacca phía Tây Nam bán đảo cùng tên, và làm chủ đảo Pulo-Pinang (tức đảo Hoàng tử xứ Wales), với hải cảng khống chế eo biển Malacca. Vì thế, hôm nay Tây Ban Nha cần kiểm soát đảo Borneo, thiết lập hải cảng và trạm mậu dịch tại Đàng ngoài, đồng thời hoàn toàn kiểm soát Luzon, Jolo và Mindanao; khi đó, biển Mindoro sẽ thuộc về ta, cũng như Địa Trung Hải sẽ thuộc về Tây Ban Nha nếu ta có thể cắm cờ tổ quốc trên tảng đá Gibraltar của mình.

Nếu Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Ý liên kết, thì rốt cuộc cũng sẽ vượt qua được quốc gia mà chuẩn mực luân lý duy nhất chỉ là lòng tham: nước Anh. Chính nước Anh đã mang tới Trung Hoa — thông qua việc nhập khẩu thuốc phiện — một trong những thói hư tật xấu tàn khốc và không thể cưỡng lại nhất: sự suy thoái thể chất và đạo đức, sự nghèo khổ, suy kiệt, lú lẫn và cái chết. Thương mại thuốc phiện lại chính là một trong những nguồn lợi khổng lồ của Ấn Độ thuộc Anh. Đại tá Watson và nhân viên Công ty Đông Ấn là Whecler là những người đầu tiên mang thuốc phiện từ Bengal sang Trung Hoa; kể từ đó, thứ thương mại béo bở và chết chóc ấy không ngừng gia tăng. Trước năm 1767, lượng thuốc phiện nhập khẩu chưa vượt quá 200 kiện; tới năm 1823 tăng lên 1000 kiện; đến năm 1806 đã đạt 3300 kiện, tương đương 1,5 triệu bảng Anh; còn ngày nay, nước Anh vận chuyển từ Malwa, Behar và Benares hơn 50.000 kiện thuốc phiện tới thị trường Calcutta.

Chúng ta phải không ngừng chống lại sự thôn tính và những can thiệp đầy kích động của Anh, với động lực duy nhất là sự phồn vinh và lớn mạnh của Tổ quốc — vượt lên trên mọi khác biệt đảng phái trong nội bộ chính trị Tây Ban Nha. Trong vòng xoáy liên miên của các cuộc tranh đấu nội bộ và mâu thuẫn nghị trường, chúng ta thường dễ dàng bị mê hoặc bởi sức hấp dẫn của hùng biện, và đôi khi coi những trò chơi chữ sắc bén như thể những lý thuyết sâu sắc; ta bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bề ngoài của lời lẽ, mà không nhìn thấy những sai lầm nội dung ẩn bên dưới. Ta thích những câu châm biếm, bị hấp dẫn bởi sự bôi nhọ và tai tiếng; trong khi ở nghị viện, lẽ ra phải có những cuộc thảo luận chín chắn, mổ xẻ rõ ràng các nhu cầu và lợi ích quốc gia, thì lại diễn ra những phiên họp giông bão vô bổ, chỉ làm mất uy tín của hệ thống đại diện và hạ thấp phẩm giá nghị trường. Than ôi, thứ biện luận tai hại, thái độ cố chấp và sự chia rẽ đảng phái thật tai hại cho Tây Ban Nha! Và thế là năm tháng trôi qua mà không có gì thay đổi hay cải thiện về phương diện đạo đức cũng như vật chất đối với nhân dân — những người vốn chưa từng biết đến các lợi ích của văn minh và tiến bộ. Những làng mạc và cộng đồng nông dân của ta vẫn giữ nguyên cách sống cũ kỹ; trước đây họ là nô lệ của sự ngu dốt và mảnh đất cằn cỗi, còn nay vẫn là nô lệ của chủ nghĩa cát cứ, của sự ngu dốt và của mảnh đất ấy.

CẦN PHẢI CẢI TỔ LẠI HỆ THỐNG HÀNH CHÍNH VÀ PHÁT TRIỂN SỰ GIÀU CÓ CỦA ĐẤT NƯỚC; CẦN PHẢI PHÁT TRIỂN HẢI QUÂN CỦA CHÚNG TA, GỢI NHỚ LẠI NHỮNG KÝ ỨC VÀ VINH QUANG CỦA LEPANTO, CỦA TRAFALGAR VÀ CALLAO. Đường bờ biển dài của chúng ta, cùng với sự an toàn của các hòn đảo và các lãnh thổ hải ngoại, khẩn thiết đòi hỏi Tây Ban Nha phải tái tổ chức lại lực lượng hải quân, đưa nó ra khỏi tình trạng bị bỏ bê và suy thoái như hiện tại; quyền lực hải quân có lẽ là yếu tố duy nhất có thể bảo đảm cho chúng ta sự tôn trọng và vị thế trước các cường quốc khác. Như Themistocles đã nói: “Đất liền phải khuất phục kẻ làm chủ đại dương” — và chúng ta cũng không thể quên rằng, chính từ những hải cảng của mình, Tây Ban Nha đã phái đi những đoàn viễn chinh chinh phục khắp năm châu, hiện thực hóa tư tưởng của Pompey khi ông khẳng định: “Ai làm chủ được đại dương thì sẽ thống trị được lục địa.” Chúng ta cần vũ trang cho những vùng duyên hải bị bỏ ngỏ của mình, củng cố các hải cảng bằng thủy lôi, đồng thời đẩy mạnh việc đào tạo trong quân đội. Phong trào học tập khoa học quân sự đã bắt đầu trỗi dậy, lan rộng ngay cả trong các tầng lớp dân sự: những người như Moret, Perez de Lasala, Canalejas và Gonzalez Carballeda đã chứng tỏ tài năng và năng lực vượt trội của mình trong những vấn đề then chốt liên quan tới quân sự và quân đội; đồng thời, ông Antonio Cánovas del Castillo cũng đóng góp bằng việc công bố trên tạp chí khoa học quân sự một công trình xuất sắc về sự hình thành và sụp đổ của quyền bá chủ quân sự Tây Ban Nha tại châu Âu, kèm theo những ghi chép và chi tiết về trận Rocroy.

Khi hồi tưởng lại tất cả những ký ức, thông tin và ấn tượng về chiến dịch Đàng Trong, tôi có một bổn phận thiêng liêng cần phải thực hiện: bổn phận của lòng biết ơn mà tôi xin ghi lại nơi đây. Tôi sẽ không bao giờ quên một sĩ quan hải quân Tây Ban Nha đầy trí tuệ và một nữ tu Bác Ái, những người đã túc trực bên giấc ngủ chập chờn và mê sảng của tôi trong bệnh viện Saigon, những ngày u ám khi tôi, là nạn nhân của dịch tả và ngỡ rằng mình cô đơn trên cõi đời, đã tìm nương náu trong nơi ẩn thân nhân ái mà nước Pháp đã rộng lòng dành cho.

Khi bóng tối của thần chết dang rộng cánh tay khổng lồ giữa khoảng không, được bao bọc trong tấm khăn liệm đêm đen, len lỏi giữa khu rừng rậm rạp mà tôi chỉ lờ mờ trông thấy qua cửa sổ, tôi tưởng như những cành cây, những bóng tối, những cành lá lay động trong gió là những bóng ma kinh hãi đang đội mồ sống dậy, gõ cửa bệnh viện và nhẹ nhàng cất tiếng gọi tôi về cùng họ. Trong những giờ phút trầm ngâm mà tâm hồn lang thang, cảm xúc dâng trào, những giọt lệ tưởng niệm — thậm chí còn nhiều hơn cả những giọt lệ vì cơn đau thể xác — lặng lẽ lăn dài trên má tôi; đó là những giọt nước mắt của linh hồn, là nỗi nhớ quê nhà, nơi gia đình thiêng liêng mà tôi mỏi mòn tìm kiếm trong vô vọng. Trong cơn mê sảng của cơn sốt, trí tưởng tượng tôi vượt đại dương bao la, đưa tôi trở về Tây Ban Nha, nơi tôi thấy người mẹ già yếu ớt và khóc lóc, cầu xin Trời Cao thương xót cho bà và cho tôi. Và khi tỉnh dậy khỏi cơn mộng mị, tôi luôn thấy bên giường bệnh là những bàn tay tận tụy của một nữ tu Bác Ái, hay những lời an ủi đầy thân tình của một người bạn, khiến nỗi buồn trong tôi dần tan biến khi nhìn thấy tấm khăn trắng của thiên thần ấy, hay bộ quân phục uy nghiêm của vị sĩ quan hải quân Tây Ban Nha mà tôi hôm nay xin gửi lời cảm ơn sâu sắc. Người nữ tu thánh thiện ấy, Thiên Chúa mới biết nay Người đã được đưa về đâu bởi sứ mạng cao cả và những thăng trầm của nước Pháp; nhưng tôi có thể quả quyết rằng, nếu không còn nơi trần thế, nếu đã rời xa những bệnh viện và chiến trường, thì Người chắc chắn đã về Thiên Đàng — nơi cư ngụ của các thiên thần, những người chỉ đến thế gian để thực thi bác ái và các nhân đức.

Những khúc ca sử thi của chúng ta xưa kia được truyền cảm hứng từ tiếng gươm giáo của những trận đánh khi Tây Ban Nha làm bá chủ thế giới. Nếu Fernando de Herrera từng ngợi ca thiên anh hùng ca Lepanto và vinh quang của Don Juan de Austria; nếu Roger de Flor cùng hai nghìn chiến binh Tây Ban Nha đã đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ, góp phần vào cuộc chinh phục Sicilia của Don Fadrique de Aragón, thì ngày nay, Tây Ban Nha, đất nước từng góp phần giúp nước Pháp chinh phục Đàng Trong, và từ năm 1644 đã đưa đội quân đại diện đầu tiên của châu Âu đặt chân lên vùng đất xa xôi ấy, cũng cần phải ghi chép vào những trang sử quân sự hiện đại đầy vinh quang của mình những chiến công và vinh dự từ chiến dịch Đàng Trong. Chúng ta cũng phải dâng lên những binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha đã tham gia chiến dịch ấy — một lời tưởng nhớ dành cho những người còn sống và lòng biết ơn vĩnh cửu dành cho ký ức những người đã ngã xuống.

Bình luận về bài viết này