Lịch Sử Việt Nam Thời Tự Chủ : Vua Lê Ý Tông [1735-1739]

    Hồ Bạch Thảo

Chúa Trịnh Giang lập Lê Duy Thận, em Vua Thuần Tông lên ngôi. Duy Thận, con thứ mười một của Vua Dụ Tông, lúc ấy 17 tuổi; kém Duy Diêu, con cả Vua Thuần Tông 2 tuổi. Nhưng Trịnh Giang e rằng Duy Diêu tuổi đã trưởng thành, khó kiềm chế; nên Giang mới nói thác rằng diện mạo Duy Thận giống như tiên đế Dụ Tông, nên quyết ý lập làm Vua; bầy tôi không ai dám nói gì cả.

Tháng 4 [22/5-20/6/1735], làm lễ cáo Thái miếu, rồi lên ngôi Vua, đổi niên hiệu là Vĩnh Hựu, tha hai phần mười về thuế tô, thuế dung năm này cho dân.

 Ngày mồng một tháng 9 [16/10/1735], Chúa Trịnh Giang giết Vua cũ Lê Duy Phường. Trước đây Giang đã truất ngôi của Lê Duy Phường, nay bắt thắt cổ chết.

Tại miền Nam, vào tháng 5 [21/6-19/7/1735], Tổng binh trấn Hà Tiên là Mạc Cửu chết, Chúa Nguyễn truy tặng chức Khai trấn thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công.

Tháng giêng năm Bính Thìn, Vĩnh Hựu thứ 2 [12/2-11/3/1736], (Thanh, Cao Tông, năm Càn Long thứ nhất); Chúa Trịnh Giang tiến phong cho em là Doanh làm Tiết chế quân thủy, quân bộ, chức Thái úy, tước Ân quốc công, mở phủ Lượng quốc. Doanh là con thứ Trịnh Cương, 17 tuổi; được tiến phong để phụ tá giữ chính quyền, mỗi tháng 3 lần, Doanh tiếp kiến trăm quan ở phủ, nghe trình bày công việc.

Tháng 5 [9/6-8/7/1736], Trịnh Giang cho thi Tiến sĩ ở phủ đường, lấy Trịnh Tuệ đỗ Trạng nguyên. Theo chế độ cũ, cứ 3 năm mở một khoa, các Hương cống dự thi Hội ở bộ Lễ được trúng cách, lại vào thi Đình. Thể lệ thi Đình, chính nhà Vua thân hành ra bài văn sách, rồi lấy đỗ và cho xướng danh người đỗ. Nhưng từ lâu không có người đậu Trạng nguyên; khoa này Trịnh Giang cho triệu sĩ tử vào thi ở phủ Chúa, cất nhắc Trịnh Tuệ đỗ cập đệ đệ nhất danh [Trạng nguyên], còn các sĩ tử khác đỗ cập đệ và xuất thân có người cao người thấp khác nhau. Tuệ, người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc, thuộc Thanh Hóa, là tộc thuộc họ Trịnh; Tuệ vẫn có tiếng hay chữ; nhưng vì việc tại phủ Chúa, nên người ta bàn tán chê bai.

Vào tháng 11, nhà Lê sai Sứ mừng Vua Càn Long lên ngôi; Tuần phủ Quảng Đông báo tin,  triều đình nhà Thanh chấp nhận tiếp đón:

Ngày 21 Canh Tuất tháng 11 năm Càn Long thứ nhất [22/12/1736]. Tuần phủ Quảng Ðông Dương Vĩnh Bân dâng sớ tâu:

Lê Duy Y [Vua Lê Ý Tông] (1), người nối dõi Quốc vương An Nam, sai sứ mừng lên ngôi báu, xin chuẩn cho phụng biểu đến kinh đô.

Chấp nhận cho đi.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 31, trang 3).

Tại miền Nam, vào tháng 2 [12/3-11/3/1736], dùng Mạc Thiên Tứ, con Mạc Cửu, làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Cho 3 chiếc thuyền Long Bài được miễn thuế, sai xuất dương tìm mua các của quý để nộp, lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi. Thiên Tứ đặt các nha môn thuộc lại, kén bổ quan quân, đắp thành lũy, mở phố chợ, khách buôn các nước đến họp đông. Lại vời những văn nhân, mở Chiêu Anh Các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng họa; có 10 bài thơ vịnh Hà Tiên [Hà Tiên thập vịnh] :

1 – Kim Dữ thanh đào [Đảo Kim Dữ sóng trong vắt].

2 – Bình Sơn điệp thúy [Mâybiếc chập chùng núi Bình Sơn].

3 – Tiêu Tự thần chung [Chuông sớm chùa Tiêu Tự].

4 – Giang thành dạ cổ [Tiếng trống đêm ở Giang thành].

5 – Thạch động thôn vân [Mây luồn động đá].

6 – Châu nham lạc lộ [Cò đậu núi Châu].

7 – Đông Hồ ấn nguyệt [Trăng in Đông Hồ].

8 – Nam phố trừng ba [Sóng êm Nam phố].

9 – Lộc Trĩ thôn cư [Xóm làng ở Lộc Trĩ].

10 – Lư Khê ngư bạc [Thuyền chài đậu khe Lư].

Tháng 10 [3/11-1/12/1736] Nặc Yêm nước Chân Lạp chết, con là Nặc Tha xin ban mệnh; bèn phong cho Nặc Tha làm Vua nước Chân Lạp. Tháng 10 năm sau [24/10-21/11/1737], nước Chân Lạp lại sai Sứ đến cống.

 Tháng 9 năm Đinh Tỵ, Vĩnh Hựu thứ 3 [24/9-23/10/1737], (Thanh, năm Càn Long thứ 2), trộm cướp nỗi lên ở Sơn Tây và Thái Nguyên. Tại vùng núi Tam Đảo [Vĩnh Phú] người thầy chùa tên là Nguyễn Đương Hưng, tụ họp đồ đảng, xưng Vương, đặt quan thuộc, bọn bất đắc chí nơi đồng nội núp bóng, quân nỗi dậy có đến vài ngàn người. Bèn sai Đốc đồng Nguyễn Bá Lân giữ chức giám quân, cùng Nguyễn Lịch, Nguyễn Trọng Côn chia đường tiến đánh, dẹp yên được. Lúc ấy, nhân trong nước bình yên đã lâu; chợt nghe có tin cấp báo, xa gần đều nghi ngờ lo sợ, người trong kinh đô dắt díu nhau ra ngoài thành, dân sở tại thì đào hố chôn giấu của cải. Vì bọn trộm cướp ở các xứ nổi lên như ong, trạm báo tin không được nhanh chóng, bèn hạ lệnh cho các lộ Sơn Tây và Thanh Hóa đặt đồn hỏa hiệu ở trên đỉnh núi, bắt dân sở tại ngày đêm canh giữ, nếu có nguy cấp thì đốt lửa để thông báo về triều.

Vào tháng 2, sứ bộ Đại Việt gồm Nguyễn Trọng Thường, Vũ Huy, Vũ Duy Tể đến triều Thanh cáo ai Vua Thuần Tông mất, xin phong cho Vua nối dõi Ý Tông, và dâng cống; sứ bộ được tặng quà. Sau đó Vua Càn Long bèn sai Hàn lâm viện thị độc Tung Thọ, Tu soạn Trần Viêm đến tế lễ Vua quá cố và ban sắc phong cho Vua đương nhiệm. Trong chuyến đi này, Sứ thần Vũ Huy chẳng may bị bệnh mất; được nhà Thanh ban tiền cấp tuất:

 Ngày 8 Bính Dần tháng 2 năm Càn Long thứ 2 [8/3/1737]. Quốc vương An Nam Lê Duy Hỗ [Vua Lê Thuần Tông] mất, người em nối dõi là Lê Duy Y [Vua Lê Ý Tông] sai sai bọn Bồi thần Nguyễn Trọng Thường, Vũ Huy, Vũ Duy Tể dâng biểu cáo ai, phụ cống sản vật địa phương. Gửi xuống các bộ để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 36, trang 11).

Ngày 19 Ðinh Sửu tháng 2 năm Càn Long thứ 2 [19/3/1737]. Lê Duy Y, người con nối dõi Quốc vương An Nam, sai bọn Bồi thần Nguyễn Trọng Thường, Vũ Huy, Vũ Duy Tể dâng biểu cống các sản vật địa phương cho các năm Ung Chính thứ 10 và thứ 13. Ban thưởng như lệ, đình chỉ yến tiệc.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 37, trang 3)

Ngày 20 Mậu Dần tháng 2 năm Càn Long thứ 2 [20/3/1737]. Do việc phong cho em của cố Quốc vương An Nam Lê Duy Hỗ, là Lê Duy Y làm Quốc vương An Nam; bèn sai Hàn lâm viện thị độc Tung Thọ, Tu soạn Trần Viêm đến phong.” ( Thanh Thực Lục Cao Tông Thực Lục quyển 37, trang 9)

Ngày 26 Giáp Thân tháng 2 năm Càn Long thứ 2 [26/3/1737]. Bộ lễ đề xuất và xin:

Quốc vương An Nam Lê Duy Hỗ mất, nên theo lệ ban cho lễ tế và táng.

Chấp thuận. Viên Bồi thần Vũ Huy nước An Nam đi tiến cống, bị bệnh mất; được ban tiền cấp tuất theo lệ.” ( Thanh Thực Lục Cao Tông Thực Lục quyển 37, trang 14)

Tháng chạp năm Mậu Ngọ, Vĩnh Hựu thứ 4 [10/1-7/2/1739], (Thanh, năm Càn Long thứ 3); các Hoàng thân Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc, Lê Duy Quy nỗi lên chống họ Trịnh. Lê Duy Mật, Lê Duy Quy đều là con Vua Lê Dụ Tông, Lê Duy Chúc là con Vua Hi Tông; giận về nỗi họ Lê mất quyền bính, Trịnh Giang bạo nghịch giết Vua; bèn cùng các quan trong triều là bọn Phạm Công Thế, Vũ Thước mưu đốt kinh thành, nhưng việc không thành. Vì sợ công việc bị lộ, nên Duy Quy chạy đi Cẩm Thủy [Thanh Hóa], Duy Mật và Duy Chúc chạy đến Nghi Dương [huyện Kiến Thụy,Hải Phòng], được thổ hào là bọn Ngô Hưng Tạo hộ tống vượt biển vào Thanh Hóa. Giang sai binh lính đuổi theo, bắt được Vũ Thước, đem giam vào ngục, rồi giết. Duy Chúc và Duy Quy sau bị bệnh chết; riêng Duy Mật bèn chiếm cứ thượng du vùng tây nam. Lúc ấy Phạm Công Thế đương giữ chức Đông các hiệu thư, theo Duy Mật dấy quân đánh nhau, bại trận rồi bị bắt. Bầy tôi trong triều trách Công Thế rằng:

 “Nhà ngươi là người trong khoa giáp, làm sao lại đi theo bọn phản nghịch?”.

Công Thế cười nói:

Danh phận không sáng tỏ đã lâu rồi, còn phân biệt thế nào là thuận với nghịch nữa?”.

Rồi, vươn cổ chịu chém, không khuất phục.

Trong năm này các sứ bộ Đại Việt đến nhà Thanh tạ ơn ban sắc phong, làm lễ tế táng, cùng mừng Vua Càn Long lên ngôi; khiến Vua Thanh hài lòng, ban cho Vua Lê cùng các sứ thần lụa đoạn và các phẩm vật:

Ngày 28 Canh Tuất tháng 4 năm Càn Long thứ 3 [15/6/1738]. Người nối dõi Quốc vương An Nam, Lê Duy Y, dâng biểu tâu tạ ơn sách phong cùng ban lễ tế táng.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 67, trang 29-30)

Ngày 15 Giáp Tý tháng 9 năm Càn Long thứ 3 [27/10/1738]. Quốc vương An Nam Lê Duy Y sai bọn Bồi thần Nguyễn Lệnh Nghi dâng biểu mừng Hoàng thượng lên ngôi, cùng phụ cống sản vật địa phương. Nhận được chiếu chỉ:

Xem lời mừng của Vương, cùng sự tiến cống sản vật địa phương, thấy được tấm lòng thành, ta đã hiểu rõ. Bộ sở quan cũng hiểu điều này.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 76, trang 20)

Ngày 29 Mậu Dần tháng 9 năm Càn Long thứ 3 [10/11/1738]. Ban cho Quốc vương An Nam Lê Duy Y những tấm đoạn, cùng thưởng cho bọn Sứ thần Lê Hữu Kiểu có sai biệt.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục 77, trang 17)

Tại miền Nam, vào tháng 4 [19/5-16/6/1738] Chúa Nguyễn Phúc Chú mất, Chúa ở ngôi 13 năm, thọ 43 tuổi. Con cả là Nguyễn Phúc Khoát lên kế vị, lúc này 25 tuổi.

Tháng 3 năm Kỷ Vị,  Vĩnh Hữu thứ 5 [8/4-7/5/1739], (Thanh, năm Càn Long thứ 4), vùng Bạch Thông, Cảm Hóa [xưa thuộc Thái Nguyên] có nhiều hầm mỏ, người Trung Quốc thường lén lút sang khai thác, rất khó kiểm soát về an ninh; bấy giờ viên Lưu thủ Thái Nguyên Lê Đình Tính, làm tờ khải dâng lên phủ Chúa như sau:

 “Châu Bạch Thông [Bắc Kạn] và huyện Cảm Hóa [huyện Ngân Sơn, Na Rì, Bắc Kạn] tiếp giáp với địa giới Lạng Sơn, Cao Bằng và Bảo Lạc [Cao Bằng], trước kia không có đồn ải, những dân ngoài giáo hóa triều đình thường tự do đi lại. Tôi trộm e rằng, nếu việc phòng bị nơi biên cảnh không nghiêm, thì không thể khống chế được bọn giặc cướp táo bạo, rồi sẽ đi đến chỗ giặc cướp lan tràn. Vậy xin đặt đồn ải ở những đường hiểm yếu, bắt phiên thần phái lính canh giữ, để biên cảnh được vững vàng“.

Trịnh Giang chấp thuận.

Tháng 12 [30/12/1739-28/1/1740] sử dụng dân binh, lập phép đoàn kết như sau: Mỗi xã, cứ 10 dân đinh thì lấy 2 người, bắt tự sắm lấy đồ binh khí, đặt điếm canh để canh giữ; cứ 4, 5 xã hoặc 6, 7 xã địa thế tiếp giáp nhau kết hợp làm một đoàn; chọn một người chức dịch ở trấn hoặc thuộc lại ở huyện làm trưởng đoàn. Gặp sự nguy cấp thì người trưởng đoàn đốc suất dân đinh theo tình thế mà chống chọi đánh dẹp; nếu không đủ sức, thì cấp tốc báo ngay đoàn khác tiếp viện đối phó. Vì lập phép này, nên dân gian đâu đâu cũng có binh khí; bọn gian nhân sơ hở, lợi dụng tụ họp đi cướp bóc ngày càng quá tệ. Sau thay đổi lại, chọn người có địa vị danh vọng sung vào việc quản lãnh trông coi, lại dùng quan chức trong triều đi phủ dụ. Nhưng không bao lâu, phép này lại bãi bỏ, những đồ binh khí đã chế ra, phải đem nộp lên quan.

Chúa Trịnh Giang lấn quyền, làm điều càn giỡ mỗi ngày một nhiều, dâm dục chơi bời quá độ; sau mắc chứng bệnh tâm thần, sợ hãi sấm sét. Bọn Hoạn quan Hoàng Công Phụ bày mưu, xui cho đào đất làm cung ngầm dưới hầm cho Giang ở, từ đấy Giang không bước chân ra ngoài, việc chính trị bỏ mặc cho thuộc hạ. Nên Công Phụ cùng đồ đảng chuyên chính lộng quyền, các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết, bị phạt; người nào cũng nơm nớp lo sợ không tự bảo toàn được thân mình. Còn chính sự thì hà ngược, thuế khóa nặng nề; nên lòng dân mong sao cho chóng nổi lên loạn lạc. Lúc ấy tại Hải Dương, có bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở Ninh Xá [huyện Đông Triều, Quảng Ninh], Vũ Trác Oánh ở Mộ Trạch [huyện Bình Giang, Hải Dương] ; về phía Sơn Nam [Thái Bình, Nam Định] có Hoàng Công Chất; đảng lớn đảng nhỏ, hết chỗ này đến chỗ khác, thúc giục nhau phiến động, chỗ nào cũng tự dấy quân, tự xưng danh hiệu: Nguyễn Tuyển xưng Minh chủ, Trác Oánh xưng hiệu Minh công, hội họp ở xã Ninh Xá, đều mượn tiếng “phò Lê”. Dân ở miền đông miền nam, người đeo bừa, người vác gậy đi theo, chỗ nhiều có đến hơn vạn, chỗ nhỏ cũng hàng ngàn, hàng trăm, họ quấy rối cướp bóc làng xóm, vây đánh các ấp các thành, triều đình không thể nào ngăn cấm được.

Bấy giờ loạn lạc xãy khắp nơi, Hỷ Trường nỗi dậy tại vùng biên giới, xưng là Giang giao vương; khiến viên Tổng đốc Vân Nam phải đem sự việc tâu lên triều Thanh:

Ngày 30 Ất Hợi tháng 5 năm Càn Long thứ 4 [5/7/1739]. Tổng đốc Vân Nam Khánh Phục tâu:

Quân gian người An Nam tự xưng Ðô đồng giang giao Vương tụ tập dân chúng, phát tán lời đồn. Ngoại việc báo tin cho Quốc vương An Nam biết, còn ra lệnh quan quân chia ra bố trí các cửa ải để phòng bị.

Nhận được chiếu chỉ rằng:

Cứ liệu biện như vậy, rất hợp phương cách chế ngự ngoại Di. Nhưng sau khi báo, nếu họ xin quân lính can thiệp, thì không thể phát binh ngay; chỉ nên tâu lên trên, để xin chiếu chỉ nên nói với họ những điều gì, và cố thủ nơi biên giới.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 93, trang 28)

Mấy tháng sau bọn Giang giao vương xin Tổng đốc Vân Nam đầu thuận, nhưng nhà Thanh cho rằng triều đình khoan dung cho đầu hàng, mà không  hỏi đến An Nam, về mặt ngoại giao xét không ỗn:

Ngày 26 Canh Ngọ tháng 7 năm Càn Long thứ 4 [29/8/1739]. Ðại học sĩ bàn rằng:

Cứ Khánh Phục, Trương Duẫn [Tuần phủ] lần lượt tâu rằng:Quân gian người An Nam tự xưng là Giang giao vương hiện nay bỏ đám đông thuộc hạ, thành tâm đầu thuận xin hướng theo sự giáo hóa. Tên này tại nước nó chắc có tội, nhưng Thiên triều vốn sẵn có lòng nhân không thiên vị, những lời nó tố cáo tuy không thể tin được hết, nhưng lòng thành cũng đáng thương. Trừ việc an sáp tên đầu mục, giải tán quân lính, chiêu phủ dư đảng Càn Ðường cùng báo cho An Nam hay; xin đợi thần thẩm tra minh bạch, thi hành đầy đủ những lời Thánh huấn, khi mọi việc hợp lý sẽ đem tình hình việc bọn giặc đầu thuận tâu lên.’

Trẫm nghỉ rằng An Nam là ngoại phiên của triều ta, vốn thường cung thuận, so với nội địa không có điều gì khác. Nay quân gian nước này mưu đồ gây hấn sinh loạn, lại ngụy xưng rằng có binh Thiên triều tương trợ, hành động càng thêm bội nghịch. Lần trước Khánh Phục gửi văn thư cho viên Quốc vương rằng Thiên triều ắt không giúp binh cho kẻ gian, liệu biện việc này rất đúng. Nay trong lời tâu lại có chỗ nói rằng ‘Ðưa bảng văn ra chiêu hàng mở đường sinh lộ, bọn giặc liên tiếp sai người đến xin đầu hàng. Ðổng Phương theo nội dung bảng văn, hứa không bị giết, và đòi hỏi đầu sỏ giặc bỏ quân đích thân đến, bọn giặc Giao bèn giải tán dư đảng, chỉ lưu 300 thân binh tại Mã Lang, 300 đóng tại núi Mã Yên (2), 100 tại sông nơi biên giới; suất lãnh 12 viên Ðầu mục, đến doanh tại nơi biên giới, khấu đầu thành khẩn, lại trình bản đồ đời trước. Bọn Ðổng Phương khao rượu thức ăn, tạm thời an trí trong doanh trại.’

Cứ theo lời nói, thì dân phản loạn tại An Nam, quan địa phương chấp nhận cho đầu hàng và dung nạp. Tính ra bọn gian tất cả không đến 1000 người, cách biên giới tỉnh Vân Nam rất xa; với binh lực của An Nam thì đánh bắt bọn đầu sỏ và phá tan bè đảng rất dễ. Sở dĩ họ chưa điều binh, vì nghe bọn gian nói rằng ‘có Thiên triều giúp binh’ ; nên không khỏi có ý chờ xem tình hình. Nay Thiên triều lại khoan dung cho đầu hàng, mà không hỏi đến An Nam; hãy đứng vào địa vị nước này, xem họ sẽ làm gì? Giả sử An Nam đem việc dung nạp kẻ phản loạn, khoan dung với kẻ cừu thù nước này để đưa ra hạch hỏi, thì bọn viên Tổng đốc lấy gì để đáp lại? Như vậy so với những văn bản gửi cho họ trước đây không mâu thuẫn ư! Việc này xét ra về tình và lý đều không hợp. Cần phải đưa tin cho bọn Khánh Phục, liệu biện tình hình hiện tại phải bàn luận cho ỗn thỏa, nhắm thuyết phục được lòng An Nam, không mất đại thể về cách thống ngự ngoại phiên, không thể mưu việc giản tiện cẩu thả, mà kết quả hoàn thành được.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 97, trang 11-13)

Tuy nhiên Tổng đốc và Tuần phủ Vân Nam đều đồng loạt tâu rằng Giang giao vương Hỷ Trường sau khi đầu thuận, đã đưa về tỉnh lỵ; triều Thanh thấy việc đã rồi, chỉ khuyên thu xếp cho ỗn thỏa:

Ngày 30 Giáp Tuất tháng 7 năm Càn Long thứ 4 [2/9/1739]. Tổng đốc Vân Nam Khánh Phục, Tuần Phủ Trương Duẫn lần lượt tâu rằng:

Ðã áp giải đến tỉnh lỵ quân gian An Nam Hỷ Trương, cùng triệt hồi và điều bát quân phòng thủ tại Lâm Nguyên, Quảng La, Nguyên Giang (3); duy tại trấn Khai Hóa (4) tàn dư giặc chưa dẹp xong, tạm giữ quân lính để đàn áp.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðã hiểu. Theo lời báo trước kia, đã ban chỉ dụ. Các ngươi hãy tuân theo chỉ dụ đó, phối hợp với tình hình hiện tại, rồi trù liệu cho chín, liệu biện ỗn thỏa.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 97, trang 29)

Tổng đốc Vân Nam muốn làm vừa lòng triều đình, xin áp giải Giang giao vương đến An Nam. Nhưng triều đình cho rằng viên Tổng đốc trước kia đã  ra bảng văn hứa sẽ tha tội chết; nay nếu giải giao cho nước này, ắt bị giết chết, như vậy viên Tổng đốc và các quan trong trấn đều mang lỗi thất tín. Vậy nên đem Giang giao vương ra xử tội; rồi sau đó báo tin cho Quốc vương An Nam hay:                    

Ngày 21 Giáp Ngọ tháng 10 năm Càn Long thứ 4 [21/11/1739]. Tổng đốc Vân Nam Khánh Phục tâu:

Thẩm tra rõ giặc Giao là Hỷ Trường tình tội duyên do và thành tâm đầu hàng. Xin giao bọn Hỷ Trường cho Quốc vương An Nam định liệu.

Ðược chiếu chỉ rằng:

An Nam là thuộc quốc của triều ta, nay đưa tình tội của Hỷ Trường ra thẩm tra minh bạch, tức có thể định được kết cục. Viên Tổng đốc lại xin giao cho Quốc vương An Nam định liệu, thật sự liệu biện chưa thỏa đáng. Án này hoặc cho giải quyết ngay, hoặc chờ đợi để xem lời tâu báo của nước này rồi bàn định tiếp, Quân cơ đại thần hãy bàn rồi tâu.

Rồi nhận được lời nghị bàn:

Bọn giặc Giao Hỷ Trường sợ hãi quan binh, lại thấy cáo thị cho phép được trần tố, mang đồ đảng đến đầu thuận. Nay đã thẩm tra rõ ràng, đáng trị đúng tội lỗi, như vậy mới hợp với thể thống của Thiên triều phân xử những bọn phản loạn cho thuộc quốc. Vả lại trước đây những người của viên Tổng đốc ra bảng văn hứa sẽ tha tội chết; nay nếu giải giao cho nước này, ắt bị giết hết, như vậy viên Tổng đốc và các quan trong trấn đều mang lỗi thất tín. Nay nên lệnh viên Tổng đốc chiếu luật phân biệt kết tội, rồi xin chiếu chỉ thi hành. Vẫn đem việc Hỷ Trường chịu tội báo cho viên Quốc vương hay.

Nhận được chiếu chỉ:

Ðúng; y theo lời bàn.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 103, trang 11-12)

Bấy giờ tại miền đông bắc nước ta, Thổ quan châu Lộc Bình cũng nỗi dậy chống họ Trịnh, đánh phá tỉnh thành Lạng Sơn; sự việc được tâu lên, triều đình nhà Thanh ra lệnh quan quân tại Quảng Tây chuẩn bị nghiêm mật tại quan ải, với ý đồ muốn can thiệp:

Ngày 3 Ất Hợi tháng 12 năm Càn Long thứ 4 [1/1/1740]. Bọn Ðại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái bàn rồi phúc tấu:

Quyền Tuần phủ Quảng Tây An Ðồ tâu Thổ quan châu Lộc Bình [Lạng Sơn] , An Nam phá phủ thành Lạng Sơn, lấy danh nghĩa là trừ tham quan ô lại, thuộc vào loại hô hào nhất thời; bọn chúng xưng là ‘ Hội đồng 7 châu, cùng diệt Trịnh vương ’. Họ Trịnh phản nghịch như thế nào thì chưa rõ ràng; nhưng quan lớn tại biên cương gặp lúc hữu sự; cần nên chuẩn bị đề phòng, đợi khi biết tình hình địch xác, sau đó mới bố trí.

Nay viên quyền Tuần phủ lại tâu xưng rằng: Nếu Quốc vương An Nam cho gõ cửa quan cầu cứu, lâm thời chờ xin chiếu chỉ mới thi hành, sợ việc chậm hoãn không đáp ứng được tình hình cấp bách. Bởi vậy cần viện trợ, tiến gấp. Vả lại nếu chấp thuận cho tiến quân viện trợ, xin được diệt giặc; nếu chỉ trương yết thị chiêu hàng, hứa cho miễn tội, thì tương lai sẽ kết luận như thế nào?’

Lần này các viên Tổng đốc, Ðề đốc căn cứ tờ bẩm khẩn cấp của viên quan Di, đáng tự mang quân giữ ải; viên châu mục Văn Uyên [Lạng Sơn] đã đến quan ải, cần được phủ tuất. Còn viên Quốc vương tham ô như thế nào? Họ Trịnh chuyên quyền ra sao? Cần điều tra và tâu đầy đủ.

Ðược chiếu chỉ phán:

Y theo lời bàn cấp tốc thi hành. Lệnh Tổng đốc Mã Nhĩ Thái đến trú trát tại tỉnh thành Quảng Tây, lo liệu việc này; chờ khi xong việc thì về lại Quảng Ðông” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 106, trang 8-9)

Văn bản Thanh Thực Lục kế tiếp cho biết tình hình tại Lạng Sơn khá trầm trọng; các quan lại, thổ mục chạy sang Trung Quốc trốn tránh, được lệnh cho trú tại biên giới, chờ khi bình an thì tự trở về nước:

Ngày 29 Tân Sửu tháng 12 năm Càn Long thứ 4 [27/1/1740]. Bọn Ðại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái bàn bạc rồi phúc tấu:

‘Tổng đốc Lưỡng Quảng Mã Nhĩ Thái tâu: ‘ Tình hình nước An Nam hưng binh, căn cứ viên Tuần phủ An Ðồ viết thư hỏi viên Quốc vương, đang còn đợi phúc đáp. Nếu như yên ổn vô sự, cần đem các viên quan nước này trốn đến đây, áp giải trở về, để họ giải quyết.’

 Tra ngày tháng tờ tâu của Mã Nhĩ Thái, thì vẫn chưa có dịp đọc qua chiếu chỉ trước, viên Tổng đốc cần tuân theo rồi châm chước cho thích hợp. Còn như các quan châu mục Di và dân Di, thì theo lời tâu của Ðàm Hành Nghĩa đã ban dụ được trú tại biên giới, không được tự tiện đi vào nội địa. Nếu như tình hình an ổn vô sự, nên cho họ tự trở về nước; cái gọi là ‘áp giải trở về để họ giải quyết’, không cần phải liệu lý như vậy.

Nhận được chiếu chỉ:

Y lời bàn, cho thi hành gấp.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 107, trang 23)

Riêng Cương Mục nước ta xác nhận viên Thổ quan châu Lộc Bình nỗi dậy chống họ Trịnh tên là Toản Cơ; viên Trấn thủ Lạng Sơn Ngô Đình Thạc bị bắt, không chịu khuất phục nên bị giết:

Toản Cơ, thổ tù ở phiên trấn Lạng Sơn, làm phản, đánh phá Đoàn Thành [thành Lạng Sơn]. Tổng phủ Ngô Đình Thạc bị chết. Đình Thạc lấy tư cách Thượng thư bộ Hộ, tham tụng, ra trấn thủ Lạng Sơn mới được vài tháng. Toản Cơ làm phản, vây Đoàn Thành, trong thành không có binh lính. Có người khuyên Đình Thạc bỏ chạy, may ra được thoát. Đình Thạc nói:

Chức phận của ta là ở chỗ giữ lấy đất của triều đình, ta phải sống chết với thành này, toan chạy đi đâu?.

Rồi bị sa vào tay giặc. Đình Thạc giữ tiết tháo, không khuất phục, để chết. Sau được truy tặng hàm Thiếu bảo.” Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, sđd, tập 2, trang 521.

Cũng vào thời gian này, viên Đề đốc Quảng Tây tâu báo về triều, tình hình bất ỗn tại An Nam, 3 Hoàng thân nỗi dậy chống họ Trịnh chuyên quyền. Tuy tin tức tổng quát không sai; nhưng những chi tiết như việc Vua Lê Dụ Tông sủng ái vợ người cậu họ Trịnh không đúng sự thực, và Hoàng thân cử binh chống họ Trịnh tên là Lê Duy Mật, chứ không phải là Duy Trạc:

Ngày mồng 1 Kỷ Tỵ tháng 9 năm Càn Long thứ 4 [3/10/1739]. Thự Ðề đốc Quảng Tây Ðàm Hành Nghĩa tâu:

Trinh thám cho biết cố Quốc vương Lê Duy Ðào [Vua Lê Dụ Tông] sủng ái vợ người cậu họ Trịnh, sau đó lại có ý đoạt quyền họ Trịnh, nên bị hại, ba người con trốn vào Thanh Hóa (5). Họ Trịnh lập người cháu họ Lê tên là Duy Hữu, Duy Hữu chết, lại lập người trong họ tên là Duy Y; trong ba đời chỉ có tên mà không có quyền. Vào tháng 3 năm nay, con thứ Lê Duy Ðào là Duy Trạc sai em trở về để gặp mẫu thân và gia quyến, lại bị họ Trịnh giết hại. Lúc này Trấn thủ Thanh Hóa là Thiệu Quận công cùng Duy Trạc [Lê Duy Mật] khởi binh báo thù, chiếm cứ 3 phủ, liên tiếp đánh bại quân Trịnh, Duy Trạc hiện đã xưng Vương. Thần hiện tại thông sức mật các quan binh trong tỉnh, chuyên cần thao luyện, cùng xem động tĩnh.’

Ðược chiếu chỉ:

Những điều tâu liên quan đến sự thực, cũng chỉ nên nghiêm phòng biên giới, để từ từ xem sự động tĩnh.

Lại dụ Quân cơ đại thần rằng:

Cứ Tổng đốc Vân Nam Khánh Phục tấu báo tình hình quân gian sinh sự tại An Nam, Trẫm đã ra lệnh các ngươi truyền chỉ hiểu dụ. Nay trong bản trần tấu của Ðàm Hành Nghĩa, tuy chỉ là tin tức thám thính, xác thực đúng hay sai, chưa có thể tin hoàn toàn. Tuy nhiên trước đây Khánh Phục tâu có những lời rằng ‘ Quân gian An Nam cấu kết với Thổ mục, giả hiệu chiếm đất, thế lực có phần hoành hành’; Trẫm nghĩ rằng trong 3 phần đất, An Nam trú trọng binh, nhưng không ra lệnh xuất phát tiễu trừ; như vậy có lẽ trong nước này có sự cố, như Ðàm Hành Nghĩa tâu cũng chưa biết chừng.

Tổng chi, sự việc liên quan đến nước Phiên bên ngoài; các quan lớn nơi biên giới cần nghiêm sức quan quân, tra xét phòng ngừa, xem sự động tĩnh. Tức tương lai tại An Nam do họ Trịnh nắm giữ, hoặc giả lấy danh nghĩa Quốc vương để xin giúp tiễu trừ; vì An Nam thần phục Thiên triều, tuy theo nghĩa không thể khước từ; tuy nhiên tình hình hư thực trong nội bộ của họ, việc làm thuận hay nghịch cũng chưa biết đích xác, nên chưa tiện cử sự. Viên Tổng đốc chỉ nên tâu đầy đủ rồi nhận chiếu chỉ, hãy tâu rõ ràng chi tiết sự việc hoãn hay gấp, đợi Trẫm ước lượng ra chỉ thị, để không tổn thương quốc thể, cũng không làm lỡ việc tại biên giới. Bọn các ngươi hãy đưa tin cho Khánh Phục và viên Tuần phủ để hay biết. Trẫm phê vào tờ tâu của Ðàm Hành Nghĩa rồi sao lục gửi đi một lượt.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục, quyển 100, trang 1-2)

Về mặt biển, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Mã Nhĩ Thái tâu trình về việc các thuyền nước ngoài trôi dạt đến Trung Quốc; trong năm Càn Long thứ 3 [1738], có vài chiếc thuyền An Nam trôi dạt đến các cảng Thanh Lan, Bảo Bình thuộc đảo Hải Nam:

Ngày 16 Canh Thân tháng 9 năm Càn Long thứ 4 [18/10/1739]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Mã Nhĩ Thái tấu báo:

Vo năm Càn Long thứ ba, bọn Ðặng Hưng người An Nam, nhân chèo thuyền đánh cá, lênh đênh trên biển hốt nhiên gặp bão, thế rất mãnh liệt. Trong lúc hoảng hốt, sức người không làm gì được, tuy cực lực cứu hộ, thuyền không đến nỗi bị lật. Nhưng gió to sóng lớn, không thể chọn chỗ để ghé, đành để cho gió thổi đi; may mắn vào ngày mồng 4 tháng 5 năm Càn Long thứ 3 [gió đẩy đến cảng Thanh Lan (6), huyện Văn Xương.

Lại có bọn Phan Lãnh Phụng người An Nam dùng thuyền chở lúa, vào ngày 13 tháng 5 năm Càn Long thứ 3 [29/6/1738], thuyền trôi dạt đến cảng Bảo Bình, châu Nhai (7).

Lại có người An Nam Nguyễn Văn Hùng dùng thuyền chở hàng, vào ngày mồng 8 tháng 7 năm Càn Long thứ 3 [22/8/1738], bị gió thổi đến vùng biển Ðại Hoạch.

Lại có bọn di nước ngoài tên Nhược Ca dùng thuyền chở gạo, vào ngày 28 tháng 2 năm Càn Long thứ 3 [16/4/1738], thuyền phiêu dạt đến vùng biển Áo Môn (8).

Lại có bọn Phất Lãng Tây Cô người nước phiên Lữ Tống (9) đi buôn bán bị gió thổi hư thuyền, vào ngày mồng 8 tháng 8 năm Càn Long thứ 3 [21/9/1738] phiêu dạt đến biển Áo Môn.

Sự việc căn cứ các quan địa phương báo rõ ràng, đều được quan Tổng đốc tiền nhiệm là Ngạc Nhĩ Ðạt phê, khiến Bố chánh thi hành cấp cho lương ăn, an ủi, và cho về nước.

Nhận được chiếu chỉ:

Gửi cho bộ liên hệ hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 101, trang 1-2)

Tại miền Nam, Nặc Bồn nước Chân Lạp oán Mạc Cửu làm mất đất. Cửu chết, Thiên Tứ mới lĩnh chức, vào tháng giêng [8/2-9/3/1739] Bồn cử binh đến gây hấn. Thiên Tứ đem hết quân bản bộ ra đánh, đuổi tới Sài Mạt [vùng biển Campuchia], ngày đêm đánh hăng lương thực không tiếp kịp. Vợ là Nguyễn thị đốc suất vợ lính vận lương đến nuôi quân, quân không bị thiếu ăn, hăng hái cố đánh phá được quân Bồn. Tin thắng trận báo lên, Chúa Nguyễn Phúc Khoát khen ngợi, đặc biệt cho Thiên Tứ chức Đô đốc tướng quân, ban cho áo bào đỏ và mũ đai, phong Nguyễn thị làm phu nhân. Do đó Chân Lạp không dám dòm ngó Hà Tiên nữa.

Tháng giêng năm Canh Thân, Vĩnh Hữu thứ 6 [29/1-26/2/1740], (từ tháng 5 trở về sau thuộc năm Cảnh Hưng thứ nhất đời Lê Hiển Tông-Thanh, năm Càn Long thứ 5); Trịnh Doanh nắm quốc chính, tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương. Trước đó Giang mắc chứng bệnh tâm thần, sợ hãi sấm sét, bọn Hoạn quan Hoàng Công Phụ để Giang ở dưới nhà hầm, tự tiện nắm quyền quốc sự.  Trịnh thái phi Vũ Thị là vợ Trịnh Cương và mẹ của Giang và Doanh, cho triệu Bồi tụng Nguyễn Quý Cảnh đến; bảo Quý Cảnh khuyên Trịnh Doanh thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn trong phủ.

Bấy giờ Hoàng Công Phụ nhận thấy Nguyễn Tuyển trước khi làm giặc đã từng ở trong nhà y, nên muốn thân hành đi phủ dụ, mong dẹp yên Nguyễn Tuyển, lập công to, để hiếp chế triều đình. Nhân đấy Quý Cảnh hết sức khuyên. Công Phụ bèn đem binh lính bản bộ sang đò qua sông, lúc ấy trong hoàng thành bỏ trống rỗng. Bọn Quý Cảnh lợi dụng thời cơ, phân phối hương binh sung vào việc bảo vệ kinh thành, rồi hội họp trăm quan, phò Trịnh Doanh lên nối ngôi giữ quốc chính. Doanh nhún nhường từ chối không dám nhận. Quý Cảnh e rằng nếu để chậm sẽ sinh biến cố khác, bèn đem việc này tâu lên Vua. Nhà Vua sai người dụ bảo hai ba lần, Trịnh Doanh không từ chối nữa, nhận sắc mệnh lên giữ chức; trăm quan cùng đến lạy mừng.

Sau khi Doanh đã lên nối ngôi, tuyên bố lời dụ khiến trong kinh ngoài trấn rất lấy làm vui vẽ. Lời dụ gồm 15 điều:

  1. Khôi phục hai ban văn vũ theo chế độ cũ, để triều đình được nghiêm trọng;
  2. Ba năm xét công trạng các quan một lần, để phân biệt người tốt, người xấu;
  3. Lục dụng người không mắc tội mà phải giáng truất, cất nhắc người có tài bị chìm đắm;
  4. Nghiêm ngặt đối với những đơn xin chức tước hoặc bảo toàn tính mệnh, để con đường làm quan được trong sạch;
  5. Tăng thêm khẩu phần ruộng, để binh lính đủ lương ăn;
  6. Rộng xá thuế tô, thuế dung, để cứu chữa sự đau khổ cho dân;
  7. Đình chỉ tất cả công việc xây dựng, để sức lực của dân được thư thả;
  8. Triệt bỏ các sở tuần ti, bến đò đặt trái phép, để tỏ rõ chính thể khoan hồng;
  9. Cấm chỉ sự ức hiếp và lối đặt tiền trước để mua hàng;
  10. Định lệnh thưởng và phạt tướng sĩ có công hoặc có tội, ra ân rộng rãi cho quân sĩ đã chết vẫn được hưởng;
  11. Định rõ việc khiếu tố các viên quan cai quản làm việc hà khắc nhũng lạm;
  12. Đê đường, giao cho viên quan ở trấn đốc thúc sửa đắp, để việc làm ruộng được thuận tiện;
  13. Tiền của cải giao về bộ Hộ giữ gìn quản trị, để việc chi dùng trong nước được đầy đủ;
  14. Các việc kiện tụng, cấm dâng tờ khải khiếu tố càn rỡ;
  15. Miễn tô ruộng cho hai xứ Thanh và Nghệ.

 Chúa Trịnh Doanh luận công thăng thưởng cho bầy tôi phò giúp như Vũ Tất Thận, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Quý Cảnh. Sau đó, hạ lệnh bắt giết đồ đảng thân tín của Hoàng Công Phụ. Công Phụ còn đóng quân ở Văn Giang [Bắc Ninh], hay tin, hắn cùng hơn mười người thủ hạ bỏ trốn. Do đấy cung cấm trong phủ đường được nghiêm chỉnh, yên tĩnh.

Từ thời trung hưng trở về sau, lấy lính ở Thanh, Nghệ sung vào việc bảo vệ, gọi là “ưu binh”; về ngạch lính, cứ 3 suất đinh lấy một lính. Năm Bảo Thái thứ 2 [1721] định lại chế độ binh lính, cứ 5 suất đinh lấy một lính. Đến nay tuyển thêm lính, lại theo ngạch cũ 3 suất đinh lấy một lính. Tuyển được người nào thì  đưa đi luyện tập, sau dẫn vào phủ đường thi khảo, rồi bổ vào các đội ngũ.

Hạ lệnh người nào dâng vật liệu dùng về việc binh, sẽ được ban thưởng. Lúc ấy các đạo đánh dẹp, binh khí phần nhiều dùng thuốc súng bắt lửa. Vì thế, mới hạ lệnh cho các phiên mục dâng nộp diêm tiêu, lưu hoàng, sẽ miễn cho việc đánh thuế mỏ và miễn tiền thuế dung, thuế điệu của dân đinh trong khu vực mà người phiên mục ấy cai quản. Nếu phiên mục nào muốn làm quan, sẽ cân nhắc số vật liệu đã dâng nhiều hay ít để trao cho quan chức. Những khách buôn ở các cửa hàng trong kinh kỳ và phố Hiến [Hưng Yên], nếu người nào tình nguyện dâng nộp sẽ được thưởng chức sắc; nếu người nào không muốn chức sắc thì trả lại bằng tiền; người nào ẩn giấu sẽ phải tội.

Vùng Sơn Nam [Thái Bình, Nam Định] địa thế rộng rãi, bọn Hoàng Công Chất thường cướp phá luôn, chúng ra vào không nhất định, một mình Đốc lãnh Hoàng Kim Trảo không thể chống cự được. Triều đình bèn sai quan quân chia làm ba đạo tiến đi càn quét: Cao quận công Trịnh Kính tiến theo thượng đạo ven núi; Trình quận công Hoàng Công Kỳ tiến theo tả đạo ven sông; Nhạc Thọ hầu Phạm Trần Tông tiến theo hữu đạo ven sông, cho phép các tướng được tùy tiện thi hành mọi việc, nhưng không thắng được.

Lúc ấy, quân của Duy Mật tràn ra Sơn Tây; các huyện Phúc Lộc [Phúc Thọ, Hà Tây], Tiên Phong [Ba Vì, Hà Tây] đều bị đánh phá. Bèn bổ dụng Đình Miên giữ chức Đốc lãnh Sơn Tây, đem quân đi đánh. Sau đó, lại sai Bồi tụng Nguyễn Bá Lân đem quân và voi tiến lên, vừa đánh dẹp vừa phủ dụ. Bá Lân chiêu tập dân binh ba huyện thượng du đi bình định, bắt được nhiều người; quân của Duy Mật lui về miền núi.

Bọn Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn và Tú Cao ở Ngân Già [huyện Nam Trực, Nam Định], liên kết quân binh, uy hiếp phố Chân Ninh [huyện Mỹ Lộc, Nam Định], thanh thế rất lừng lẫy. Đốc lãnh Hoàng Kim Trảo cùng tướng hiệu dưới quyền là bọn Nguyễn Thế Siêu, Trần Danh Quán chống cự lại, nhưng bại trận đều bị giết. 

Tháng 2 [27/2-27/3/1740] bổ dụng Vũ Công Tể, Nguyễn Quý Cảnh và Nguyễn Công Thái là Tham tụng. Công Tể từng làm quan Bồi tụng, ra trấn thủ Cao Bằng, sau lại triệu về. Vì là người văn học, nên Công Tể được trọng đãi. Lúc ấy, Trịnh Doanh mới lập, mọi việc chính sự đổi mới nên hạ lệnh cho Công Tể cùng Quý Cảnh, Công Thái cùng vào phủ đường giữ công việc chính trị.

Nguyễn Trọng Uông, thống lãnh Bắc đạo, đánh nhau với Nguyễn Tuyển ở xã Bình Ngô [huyện Gia Bình, Bắc Ninh], thua trận bị giết; triều đình bổ dụng con là Đức Thân lên thay. Trọng Uông là người khỏe mạnh, quả cảm, chiến đấu giỏi, thường một mình một ngựa xông pha trong trận giặc. Đến nay gặp Nguyễn Tuyển, Trọng Uông đem hết sức lực chiến đấu gay go. Nguyễn Hữu Nhuận, thuộc tướng của Uông, bỏ chạy trước, cả một đội quân kinh sợ, tan vỡ; quân tiếp ứng phía sau của bọn Đặng Đình Sắt, Phạm Hữu Tá cũng đều bỏ chạy. Giặc đem hết quân bao vây, Trọng Uông kiệt sức, bị hại. Chúa Trịnh Doanh rất thương, truy tặng hàm Thái bảo, tước Quận công. Doanh nhận thấy Đức Thân, con Trọng Uông, là người có tài làm tướng, bèn hạ lệnh cho cầm quân thay. Lại giết bọn Hữu Nhuận và Đặng Đình Sắt, đày Phạm Hữu Tá đi châu xa.

 Tháng 3 [28/3-25/4/1740] bãi bỏ mọi việc xây dựng. Việc xây dựng các chùa Quỳnh Lâm [huyện Đông Triều, Quảng Ninh], Hồ Thiên [huyện Lạng Giang, Bắc Giang], Hoa Long [Bạch Hạc, Phú Thọ], Tử Trầm [huyện Yên Sơn, Sơn Tây] và Tây Phương [huyện Thạch Thất, Sơn Tây] đều bãi bỏ hết; những ruộng đất trước kia chiếm làm chùa quán, nay trả lại dân.

Hạ lệnh đề cử người có tài cán mưu lược và lựa xét bổ dụng con cháu bầy tôi có công. Phàm người nào có phương pháp, mưu lược, biết võ, khoẻ mạnh, có thể dùng vào việc cầm quân, cùng người nào có thuật đặc biệt, có mưu kỳ lạ, không cần câu nệ về tư cách phẩm trật, hết thảy được đề cử tên từng người để triều đình biết, sẽ tùy theo tài năng bổ dụng. Sau lại hạ lệnh con cháu bầy tôi có công được vào kinh đô để lựa chọn; người nào có sức mạnh, chiến đấu khỏe, sẽ cấp cho lương bổng, rồi cho theo đi quân thứ chịu sự điều khiển.

Vũ Tá Lý, Chinh tây đại tướng quân, đánh nhau với Tế và Bồng ở huyện Yên Lạc [Vĩnh Phúc]; bắt được bọn này. Tên Tế, giặc ở Sơn Tây, và Bồng ở Bình Ngô, đều nổi tiếng là giặc tinh quái hung tợn. Tá Lý đón đánh ở Yên Lạc, bắt được bọn này; Trịnh Doanh ban cho Tá Lý cờ, kiếm và ấn, để tuyên dương công trạng.

Nguyễn Danh Phương, dư đảng của tên Tế, chiếm cứ núi Tam Đảo [Vĩnh Phúc], nhân địa thế hiểm trở làm thành lũy, chiêu mộ binh lính, vơ vét lương ăn, chứa khí giới, họp đồ đảng, ẩn náu nơi núi rừng. Nhiều lần Danh Phương xin hàng để hoãn binh, Trịnh Doanh biết mưu giả trá, đem việc ấy bàn với bầy tôi. Doanh cho rằng:

“Sự thế đánh dẹp cần phải biết việc hòa hoãn, việc khẩn cấp mà định kế đánh trước, đánh sau. Danh Phương chẳng qua chỉ là tên giặc giữ một xó thôi. Còn như vùng đông nam là nơi đẻ ra của cải thuế khóa của quốc gia; nay vùng này bị Hữu Cầu và Công Chất liên kết với nhau, hàng ngày đốt phá cướp bóc thả cửa, vậy bây giờ trước hết phải quét sạch vùng đông nam, để gở mối lo nguy cấp cho dân. Sau khi đã bình định được hai tên giặc này rồi, lúc ấy sẽ quay cờ kéo lên mặt tây, thì Danh Phương dầu giảo quyệt đến đâu cũng không thể lọt lưới của ta được“.

Bèn hạ lệnh cho trấn thủ Sơn Tây nhận lời cho Phương hàng, liệu lượng lưu quan quân ở lại đóng đồn phòng ngự. Còn bao nhiêu binh sĩ đều đổ dồn hết về đạo đông nam, để góp sức đánh dẹp càn quét.

Trịnh Doanh say sưa phép tỉnh điền (10) đời cổ, muốn cho người nghèo người giàu đều nhau, để thuế khóa và lực dịch được quân bình. Các quan chấp chính trong phủ đường bàn rằng:

Từ đời Tam Đại (11) trở về sau, chế độ ruộng đất bỏ đổ nát, không sổ sách nào có thể làm bằng chứng được. Các đời Vua triều Lê cũng chưa có đời nào thi hành. Vả lại, hiện nay sổ đinh, sổ điền ở các trấn cũng có chỗ tăng lên, chỗ hụt đi, trộm giặc ở quận huyện chưa dẹp yên được. Nếu phân phối người đo khám xét đo đạc, chỉ thêm phiền nhiễu cho dân, người nghèo chưa chắc đã trở về sum hợp, mà người giàu sẽ sinh lòng nghi ngờ trở ngại. Vậy muốn thi hành phép này phải đợi khi thái bình rồi sẽ bàn định“.

Vì thế nên việc này nữa chừng, lại thôi.


Chú thích:

1.Lê Duy Y: tức vua Lê Ý Tông, làm vua 5 năm [1736-1740], tên húy dùng trong nước là Lê Duy Thận.

2.Núi Mã Yên: núi tại phía tây huyện Thiên Bảo 3 dặm, thuộc phủ Trấn An, Quảng Tây; giáp giới Vân Nam.

3.Nguyên Giang: tên châu đời Thanh, phía nam tỉnh Vân Nam, giáp với các tỉnh Lai Châu, Ðiện Biên nước ta.

4.Khai Hóa: một phủ tại phía đông nam tỉnh Vân Nam.

5.Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục tập 2, trang 501-502, ba Hoàng thân tham gia cuộc nỗi dậy, thì Lê Duy Mật, Lê Duy Qui là con của Vua Dụ Tông; còn Lê Duy Chúc con của Vua cha Hy Tông.

6.Cảng Thanh Lan tại huyện Văn Xương, phía đông đảo Hải Nam.

7.Châu Nhai thuộc đảo Hải Nam.

8.Áo Môn thuộc tỉnh Quảng Ðông, là nơi nhượng địa cho người Tây phương đến buôn bán từ thời nhà Minh.

9.Lữ Tống thuộc nước Phi Luật Tân ngày nay.

10.Tỉnh điền: Chế độ ruộng đất nhà Chu (1121-250 tr.c.n), lấy thửa đất 900 mẫu làm một dặm, vạch ra thành 9 khu, mỗi khu 100 mẫu. Khu giữa là ruộng công của Vua, còn 8 khu chung quanh chỉ chia cho mỗi gia đình một khu làm ruộng tư, 8 gia đình được chia ruộng này phải góp sức lại để cày cấy ruộng công cho vua, mà ruộng tư của mình không phải nộp thuế. Cách chia ruộng ấy theo hình chữ “tỉnh” (井), nên gọi “tỉnh điền”.

  1. Tam đại: Tức 3 nhà, Hạ, Thương và Chu, đời thượng cổ Trung Quốc.

Bình luận về bài viết này