“Bè lũ bán nước” đã làm gì?

Nguyễn Ngọ
Kỳ Lân K
Bài hát Giải phóng miền Nam. Hai câu đầu tiên:
Câu 1: Giải phóng miền Nam, chúng ta cùng quyết tiến bước.
Câu 2: Diệt Đế quốc Mỹ, phá tan bè lũ bán nước…
Bài 3 (gồm tới ba bài nhánh) chỉ nhằm nói lên một điều: Mỹ chưa đủ tiêu chuẩn để được đề bạt là đế quốc – nếu theo định nghĩa được cả thế giới sử dụng cho đến nay. Trong khi đó, Liên Xô và Trung Quốc lại thừa tiêu chuẩn là đế quốc.
Bài 4 (a và b) này sẽ xét những việc đã làm của chính quyền miền Nam, coi thử nó có xứng đang nhận danh hiệu “bè lũ bán nước” – mà câu 2 của bài hát Giải phóng miền Nam – đã phong tặng, hay không (?)
I. NHẮC LẠI TÌNH HÌNH 1954 (đưa đến sự chia cắt đất nước)
– Năm 1954, tuy quân đội Pháp vẫn giữ được vùng đồng bằng miền Bắc (đông dân, nhiều của) nhưng sau trận đại bại ở Điện Biên Phủ, Pháp phải ký hiệp định Geneve; trong đó, quy định quân đội và chính quyền hai bên phải tập kết về hai miền (Nam, Bắc) trong thời hạn 300 ngày. Sau đó 1 năm, sẽ có cuộc tổng tuyển cử để toàn dân bầu ra chính quyền mới. Trong 300 ngày này, người dân có quyền chọn sống ở miền nào.
– Năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp do chính phủ cụ Hồ lãnh đạo đang trên đà thắng lợi, rất được dân tin. Các nước thuộc địa càng ca ngợi Việt Nam. Khi Mỹ thay chân Pháp, cũng bị người dân coi là xâm lược và sẵn sàng tiếp tục hy sinh để đánh Mỹ. Nhưng, sự thật là Mỹ (đứng đầu phe tư bản) không nhằm xâm lược (chiếm đất và nô dịch dân) mà nhằm chống Cộng Sản – một khi Mỹ biết chắc cụ Hồ là lãnh tụ rất uy tín của phe cộng sản.
Ngay thời 1954, mâu thuẫn ý thức hệ khiến phe tư bản và phe cộng sản không thể cùng tồn tại, cả trên thế giới, cũng như ở Việt Nam ta.
– Cũng năm 1954, cuộc Cải cách ruộng đất đi vào giai đoạn đẫm máu nhất, càng khiến Mỹ thêm quyết tâm can thiệp, bằng cách ủng hộ một chính phủ chống Cộng ở miền Nam, sau khi Pháp rút.
Trong tình trạng nói trên có 4 sự kiện đáng chú ý
– Sự kiện 1. Trong chiến tranh Việt-Pháp, cái chính quyền do Pháp dựng lên (từ năm 1949, ở vùng Pháp chiếm đóng) tự gọi mình là “Quốc Gia Việt Nam”. Tuy người đứng đầu được gọi là “quốc trưởng”, thực chất, đó là chế độ phong kiến (trên quốc huy còn có hình con rồng, mà chưa có hiến pháp). Nhăm 1955, vị thủ tướng cuối cùng của chính quyền này là Ngô Đình Diệm (thân Mỹ) đã lật đổ quốc trưởng Bảo Đại (thân Pháp) sau một cuộc trưng cầu dân ý, để trở thành quốc trưởng mới.
Quốc trưởng Diệm – cùng chính phủ của ông – chính là “bè lũ bán nước” đầu tiên – mà bài hát Giải phóng miền Nam gán cho, phải nhận.
– Sự kiện 2. Trong 300 ngày (nói trên) có tới 1 triệu dân miền Bắc (chủ yếu là đồng bào công giáo và những gia đình có nguy cơ sẽ bị “tố” và bị “đấu” trong cải cách ruộng đất đang đà lan rộng) đã kịp bỏ quê hương, mồ mả, ruộng đất, tài sản… để di cư vào miền Nam, vì sợ Cộng Sản (dẫu đảng này đã đổi tên thành Đảng Lao Động).
– Sự kiện 3. Miền Bắc vi phạm hiệp định: Cụ thể, đã bí mật cài (ém) lại một lực lượng chính trị và quân sự ở miền Nam (tới nay, điều này đã được nói công khai – như một thành tích “chống Mỹ, cứu nước”).
– Sự kiện 4. Khi chứng kiến cuộc cải cách ruộng đất, nhiều trí thức bắt đầu nhìn ra một mâu thuẫn mang tính thời đại. Té ra, mục tiêu tối cao và tối hậu của chủ nghĩa Cộng Sản là tước đoạt quyền tư hữu. Trong khi đó chủ nghĩa tư bản, mà mục tiêu tối cao và tối hậu của chủ nghĩa này là bảo vệ quyền tư hữu. Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, chỉ có một kết quả duy nhất: “một mất, một còn”.
Từ dó, nhiều trí thức đã đoán đúng: Sau 2 năm, thậm chí sau 20 năm, sẽ không có tổng tuyển cử để thống nhất đất nước – mà là sẽ tiêu diệt lẫn nhau, giữa những người cùng chủng tộc, cùng ngôn ngữ.
Ngay khi đấu khẩu với nhau (tuyên truyền), mỗi bên đã sớm dành cho nhau những lời lẽ chối tai. Dưới đây, là một ví dụ về lời lẽ (chửi phủ đầu) trên báo Nhân Dân khi báo này đưa tin Ngô Đình Diệm vừa mới được quốc trưởng Bảo Đại cử làm thủ tướng. Báo Nhân Dân đã phong cho cho ông chức “chó săn”.
| Quyết Định phong “chó săn” cho ông Diệm được đăng trên báo Nhân Dân ngày 24 tháng 6 năm 1954 – với cách hành văn rất đặc trưng của tờ báo này.
Nguyên văn: “Dưới thời thực dân Pháp trước đây, do tài luồn lọt bợ đỡ, Diệm từ chỗ một tên công chức nhỏ đã được cất nhắc dần dần lên tới tuần phủ. Thấy quan thầy chú ý, Diệm càng trổ tài khuyến mã, ra sức đàn áp cách mạng, áp bức nông dân, nên đến năm 1933 nó được quan thầy đặc cách phong chức thượng thư bộ Lại trong cái thứ triều đình mọt nát của Bảo Đại. Hồi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, địa vị thực dân Pháp lung lay, Diệm giở mặt thay thầy đổi chủ. Nó cử tên Vũ Đình Dy sang Đông Kinh thay mặt nó lạy van phát xít Nhật và xin cho nó cái chân thủ tướng bù nhìn. Nó lại cho tên tay sai Phan Thúc Ngô sang Nhật lần nữa mang cái “Lời thề trung thành” của nó tâu hỏi với phát xít Nhật và tên bù nhìn Cường Để, đồng thời định rước Cường Để về làm vua bù nhìn... Ngô Đình Diệm chính là một con chó săn lai Nhật, lai Tây, lai Mỹ chuyên thay thầy đổi chủ,…”. |
II. BA VIỆC LỚN VỀ CHÍNH TRỊ
“Bè lũ bán nước” Ngô Đình Diệm ngay sau khi nắm quyền, đã thực hiện 3 việc lớn để có chính danh với người dân và với quốc tế.
- Tạo lập nền cộng hòa đầu tiên ở miền Nam (đệ nhất cộng hòa)
Như trên đã nói, trước đó là chế độ phong kiến, chưa có hiến pháp. Ông Diệm đã bãi bỏ chế độ này bằng một cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 23-10-1955 (để chọn ai sẽ là quốc trưởng). Kết quả là Bảo Đại bị truất, Ngô Đình Diệm được chọn làm quốc trưởng với gần 99% số phiếu. Ở cương vị này, ông Diệm có đủ quyền tổ chức cuộc bầu cử để lập trở thành người lập Quốc Hội lập hiến.
Phải nói ngay rằng: Cuộc bầu chọn có sự gian lận. Tuy nhiên, mọi cuộc thăm dò sau đó vẫn thống nhất rằng: Dẫu không gian lận (kể cả có sự giám sát quốc tế), ông Diệm vẫn thắng ít nhất với tỷ lệ 60-70% số phiếu.
Đánh giá. Dẫu sao, cho đến nay, đây vẫn là lần đầu tiên ở nước ta có một cuộc trưng cầu ý dân. Sau đó là 20 năm chiến tranh, tất nhiên không thể tổ chức trưng cầu ý dân. Nhưng tiếp đó là 50 năm đất nước thống nhất, có hòa bình, mà vẫn chưa có cuộc trưng cầu ý dân nào khác để người dân chọn chế độ chính trị.
- Tổ chức cuộc bầu cử Quốc Hội lập hiến
Ngày 4-3-1956, Quốc trưởng mới Ngô Đình Diệm đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc Hội lập hiến, mà nhiệm vụ duy nhất là soạn thảo Hiến Pháp. Có 5 đảng tham gia (đa đảng), với 431 ứng cử viên, trúng cử 123 người..
Có nhận định (rất đúng) rằng cuộc bầu này chịu áp lực của chính quyền, do vậy đảng của tổng thống chiếm tới gần 50% số đại biểu (61/123). Dẫu đó là sự thật, thì đây vẫn là lần đầu tiên ở nước ta có quốc hội lập hiến, tương tự như ở nhiều nền dân chủ phương Tây. Với số ứng cử viên rất lớn (so với số trúng cử) thì phải khẳng định rằng tính chất dân chủ của cuộc bầu này là hơn hẳn hàng chục cuộc bầu khác, khi đất nước đã thống nhất.
| Chú thích. Bầu QH lập hiến khi có sự thay đổi rất căn bản chế độ chính trị (ví dụ, từ phong kiến sang tư bản). Sản phẩm của nó là bản Hiến Pháp mới về chất.
Ở nước ta, Quốc hội năm 1946 xứng đáng là quốc hội lập hiến. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, quốc hiệu nước ta nếu muốn đổi thành “xã hội chủ nghĩa” lẽ ra phải trưng cầu ý dân. Và sau đó sẽ bầu QH lập hiến để soạn thảo Hiến Pháp mới, khác về căn bản với các Hiến Pháp cũ. . Đây là cơ hội cực kỳ hiếm hoi để nâng cao dân trí. Các quốc hội được bầu về sau chỉ có nhiệm vụ thi hành và bảo vệ bản HP do quốc hội lập hiến thông qua. |
2 .Ban hành một bản Hiến Pháp có nhiều điều khoản tiến bộ
Đó là Hiến Pháp 1956, do Quốc Hội lập hiến soạn ra, được ban hành ngày 26 tháng 6 năm 1956 – được coi là ngày quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa.
Dưới đây là những điểm đáng được gọi là tiến bộ:
– Trước hết, hiến pháp này công nhận và bảo vệ quyền tư hữu của mỗi công dân. Điều 12 quy định: “Quyền tư hữu được tôn trọng. Không ai có thể bị tước đoạt quyền tư hữu, nếu không vì lý do công ích và do luật định, với sự bồi thường xứng đáng. Điều 20: Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu
Đó là điểm khác biệt cơ bản với các bản hiến pháp dưới chế độ cộng sản.
Nên biết: Năm 1948. Tuyên Ngôn thế giới về Quyền Con Người đã khẳng định (ở điều 17): Quyền tư hữu là một quyền cơ bản của Con Người.
– Ngoài ra, Điều 16 nêu: Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí. Trên thực tế, ở miền Nam tư nhân có quyền ra báo.
– Tiếp nữa, Hiến Pháp 1956 công nhận chế độ đa nguyên, đa đảng. Người dân có quyền lập hội, lập đảng. Tất nhiên, các đảng phải qua ứng cử, nếu được dân bầu chọn mới được tham gia cầm quyền.
– Đây cũng là bản hiến pháp đầu tiên ở Việt Nam quy định vai trò 3 quyền (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Điều 3. Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử. Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hòa. Tổng thống lãnh đạo Quốc dân.
Nên biết: Dưới chế độ phong kiến, vua nắm cả Tam quyền trong tay. Do vậy, phân lập 3 quyền là tiêu chuẩn “thép” để phân biệt chế độ độc đoán với chế độ dân chủ.
Thật ra, Hiến Pháp 1956, dưới áp lực của Ngô Đình Diệm (cương vị tổng thống) và đảng của ông trong quốc hội) đã dành cho tổng thống (đứng đầu hành pháp) quá nhiều quyền lực, áp đảo cả quyền lập pháp của quốc hội. Còn tư pháp lại cảng ở địa vị càng thấp hơn. Dẫu như vậy, đây vẫn là bản hiến pháp đầu tiên ở nước ta đã chế độ đa đảng và tam quyền phân lập.
III . DẸP YÊN SỰ LOẠN LẠC
Do có nhiều quyền lực, tổng thông Ngô Đình Diệm đã từng bước dẹp yên những hỗn loạn trong xã hội, khi quân Pháp chuẩn bị rút về nước (theo Hiệp định Geneve), khiến những tranh chấp quyền lực giữa nhiều phe phái có cơ hội bùng phát. Đặc biệt là các tôn giáo cũng tranh chấp quyền lợi chính trị. Hơn nữa, một số tôn giáo còn có cả lực lượng vũ trang và hùng cứ ở nhiều vùng địa lý.
IV. NGOẠI GIAO: Được nhiều nước công nhận
Trong khi miền Bắc chỉ có quan hệ ngoại giao với khoảng 40 nước, thì nền đệ nhất cộng hòa (tồn tại 1955-1963) có quan hệ ngoại giao với trên 70 nước.
V. KHÔNG CHO MỸ ĐƯA QUÂN VÀO MIỀN NAM
Đây là một trong các nguyên nhân gốc, khiến Mỹ ngầm cho phép một cuộc đảo chính, lật đổ nền đệ nhất cộng hòa và giết chết Ngô Đình Diệm.
Nguyên nhân bao trùm là càng ngày tổng thống Diệm càng không chấp nhận những lời khuyên và những yêu sách của Mỹ về nhiều mặt: Kinh tế, chính trị, quân sự, mặc dù Mỹ là nguồn viện trợ lớn nhất và quyết định nhất. Còn nguyên cớ trực tiếp đưa đến cuộc đảo chính là sự đàn áp rất khốc liệt phong trào Phật giáo, dẫn đến sự tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức.
Về quân sự, tổng thống Diệm chỉ chấp nhận các cố vấn Mỹ có mặt trong các đơn vị quân đội bản xứ, mà không chấp nhận quân Mỹ vào Việt Nam. Trong khi đó, đã có chứng cứ miền Bắc đã lập ra Mặt trận Giải Phóng.
Với những việc làm như trên, chính quyền Ngô Đình Diệm chưa đủ tiêu chuẩn để được chúng ta phong danh hiệu “bè lũ bán nước”,
(còn tiếp)
“Mỹ ngầm cho phép một cuộc đảo chính, lật đổ nền đệ nhất cộng hòa và giết chết Ngô Đình Diệm.
Nguyên nhân bao trùm là càng ngày tổng thống Diệm càng không chấp nhận những lời khuyên và những yêu sách của Mỹ về nhiều mặt: Kinh tế, chính trị, quân sự”
Tác giả đã chứng minh thành công Mỹ rõ ràng là 1 đế quốc, hay đúng hơn, con sói đội lốt cừu
ThíchThích
Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm còn tồn tại mà kiên quyết không cho Mỹ đổ quân vào thì liệu VNCH có thể tồn tại đến hết năm 1964 không?
Sau trận Ấp Bắc nơi mà Quân lực VNCH với quân số vượt trội và thiết vận xa, trực thăng dưới sự chỉ huy của cố vấn Mỹ mà vẫn gánh chịu thất bại nhục nhã trước du kích VC với trang bị chỉ súng trường, liên thanh, giới quân sự Mỹ đánh giá chắc chắn VNCH sẽ sớm sụp đổ nếu Mỹ không tham chiến trực tiếp.
Nếu lịch sử diễn tiến theo kịch bản này thì có lẽ đâu phải đổ xương máu nhiều như đã xảy ra!
ThíchThích
Pingback: Bài hát Giải Phóng Miền Nam: Một di sản lịch sử (Bài 5b) | Nghiên Cứu Lịch Sử