Cụ sáu Trần Lục -Cha sở Phát Diệm Phó vương ở An Nam

do Đức ông Armand Olichon biên soạn

Bản dịch của Vũ Đức Trung

CỤ SÁU


Cha sở và Nam tước Phát Diệm,
Linh mục người An Nam,
Hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh,
Nguyên Bộ trưởng Bộ Lễ nghi tại Triều đình An Nam,
Người xây dựng nhà thờ Phát Diệm
và là cha sở xứ đạo này từ năm 1866 đến 1899.

 

 

Cha sở Phát Diệm – Phó vương ở An Nam

do Đức ông Armand Olichon biên soạn

Lời giới thiệu của Đức ông Henri Chappoulie

NHÀ SÁCH BLOUD & GAY , 1941

LỜI MỞ ĐẦU

HÀNG GIÁO SĨ BẢN XỨ

CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO TÒA THÁNH

THÁNH PHÊRÔ TÔNG ĐỒ

Cụ Sáu, cha sở Phát Diệm, phó vương ở An Nam, mà chúng tôi tái bản tiểu sử do Đức ông Olichon biên soạn, là một trong những hoa trái tốt đẹp nhất của một cây đại thụ đã gần ba trăm năm tuổi.

I

Thật vậy, vào nửa đầu thế kỷ XVII, các thừa sai Công giáo đã bắt đầu tiếp xúc với vùng Đàng Ngoài. Năm 1627, một nhà truyền giáo đến Hà Nội từ Ma Cao, khi ấy là lãnh thổ Bồ Đào Nha và là thủ phủ của tất cả các sứ vụ truyền giáo tại Viễn Đông. Vị thừa sai đó thuộc Dòng Tên, tên là Alexandre de Rhodes. Ngài sinh tại Avignon vào năm 1591, và đã từng sống nhiều năm giữa các cộng đoàn người An Nam tại vùng Huế.

Ngay từ sớm, ngài (Alexandre de Rhodes) đã bắt tay vào việc học tiếng bản xứ. Ngài kể rằng mình đã tìm được một người thầy tuyệt vời nơi một cậu bé trong vùng – một em nhỏ có trí thông minh xuất chúng đến mức có thể ngay lập tức hiểu được mọi điều mà nhà truyền giáo muốn nói. Em bé đó đã dạy ngài tất cả các thanh điệu và cách phát âm từng từ.

Tại Đàng Ngoài, Alexandre de Rhodes, sau khi được nhà vua chấp thuận, đã rửa tội cho hai trăm tân tòng chỉ sau hai tháng cư trú. Số người dự tòng đến xin rửa tội ngày càng đông đến nỗi nhà truyền giáo phải nhờ sự giúp đỡ của một số thanh niên trong vùng mà ngài nhận thấy có lòng đạo đức và trí tuệ. Họ trở thành các thầy giảng; nhiệm vụ chính yếu của họ là chuẩn bị các dự tòng lãnh nhận bí tích Rửa tội.

Cùng với đà phát triển của Kitô giáo tại Đàng Ngoài – và điều này diễn ra rất nhanh chóng vì từ năm 1627 đến 1660 đã có hơn 300.000 người được rửa tội – vai trò quan trọng của các thầy giảng đã ngày càng được khẳng định. “Chính họ,” Alexandre de Rhodes viết, “mới thật sự là những người đã làm nên tất cả – sau Thiên Chúa – trong bước tiến lớn lao mà Giáo hội này đã đạt được.” Số lượng các linh mục quá ít – trung bình chỉ ba hoặc bốn người – và các ngài phải hết sức thận trọng để không chọc giận các quan lại cũng như tránh bị trục xuất. Nếu không có sự cộng tác của các thầy giảng, thì các cha Dòng Tên đã không thể chu toàn sứ vụ nặng nề ấy; bởi lẽ các thầy giảng chính là tay chân của các ngài.

Khi cuộc bách hại đẫm máu đầu tiên nổ ra nhằm vào các Kitô hữu tại Đông Dương, Thiên Chúa Quan Phòng đã dành vinh dự trở thành vị tử đạo tiên khởi của dân tộc An Nam cho một thầy giảng. Đó là một thanh niên trẻ mà Alexandre de Rhodes đã rửa tội và đặt tên là Anrê. Bị đưa ra trước mặt quan tổng trấn Tourane (tức Đà Nẵng), thầy không hề che giấu việc mình là người Kitô hữu, và còn mạnh mẽ tuyên xưng: “Ngay cả cái chết cũng không thể khiến tôi chối bỏ danh xưng ấy.” Ngày 26 tháng 7 năm 1644, thầy đã bị chém đầu, trong khi vẫn không ngừng tuyên xưng Danh Thánh Giêsu.

Với những con người có tinh thần như thế, người ta có thể kỳ vọng rất nhiều. Đối với những người ưu tú nhất trong số họ – để họ thật sự thuộc trọn về Thiên Chúa – các cha Dòng Tên đã mời gọi họ sống các lời khấn của đời tu: khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục bề trên trong Dòng. Họ sống đời sống chung, tuân giữ một thời khóa biểu nghiêm ngặt, trong đó xen kẽ các việc đạo đức, học hành và giảng dạy cho các dự tòng.

Trong Giáo hội Công giáo, vốn theo tinh thần của thánh Phaolô, không phân biệt Hy Lạp hay man di, nhưng chỉ nhận biết những con người mà Đức Giêsu Kitô đã đổ máu cứu chuộc, thì không có lý do nào ngăn cản việc trong số các thầy giảng người An Nam ấy, một số được kêu gọi lãnh nhận chức linh mục, để trở thành những Tông đồ đích thực của chính dân tộc mình, đứng bên cạnh các nhà truyền giáo người Âu.

Chính đó là điều mà Alexandre de Rhodes suy nghĩ khi, vào năm 1645, ngài lên đường sang châu Âu. Ngài sắp đi thỉnh cầu Đức Giáo hoàng ban cho Giáo hội An Nam các vị giám mục, những vị có thể ở ngay tại chỗ phong chức linh mục cho người bản xứ.

II

Những vị giám mục đầu tiên đặt chân đến Đông Dương là người Pháp. Họ mang tên Pierre Lambert de la Motte và François Pallu. Cùng đi với các ngài là một số linh mục, và chính nhóm nhỏ này đã hình thành hạt giống đầu tiên của Hội Thừa sai Paris (Missions Étrangères de Paris). Hội này vừa thành lập chủng viện tại thủ đô Paris, trên đường du Bac, nơi sẽ đào tạo nên một đạo binh các nhà truyền giáo và các vị tử đạo, góp phần làm rạng danh cho hàng giáo sĩ nước Pháp.

Vì không thể vào được vương quốc An Nam lúc bấy giờ do cuộc bách hại đang diễn ra dữ dội với các Kitô hữu, các giám mục đã chọn kinh đô Ayutthaya của vương quốc Xiêm làm nơi đặt trụ sở. Lambert de la Motte đến đó vào năm 1662, và Pallu theo sau vào năm 1664. Ngay từ năm 1665, các ngài đã sai một trong các linh mục của mình là François Deydier đến Đàng Ngoài. Vị thừa sai này được giao một nhiệm vụ đặc biệt: tìm kiếm trong số các thầy giảng – những người đã từng phục vụ lâu năm cho các cha Dòng Tên – những ai xứng đáng để lãnh nhận chức linh mục.

Ngay lập tức, Deydier muốn thiết lập một chủng viện. Một công việc đầy gian nan, bởi lúc ấy Kitô giáo bị cấm cách chính thức, và nhà truyền giáo buộc phải sống trong ẩn dật, phải đổi chỗ ở mỗi khi có dấu hiệu bị phát hiện để tránh rơi vào tay quan quân Đàng Ngoài. Một chiếc thuyền nhỏ – trong hàng ngàn chiếc thuyền vẫn di chuyển trong vùng châu thổ sông Hồng, nơi cư ngụ của biết bao người sống trôi nổi – dường như là nơi trú ẩn tốt nhất mà Deydier có thể tìm được cho các chủng sinh của mình. Chẳng bao lâu sau, ông đã có khoảng mười hai người trẻ vây quanh. Dù phải sống đời du mục, nhưng cuộc sống của họ vẫn rất nền nếp và đều đặn. Họ được huấn luyện về lòng đạo đức, học đọc và viết chữ Latinh, và thuộc lòng bản văn Thánh lễ. Deydier, người hầu như không rời họ lúc nào, chính là gương mẫu sống động cho họ. “Chúng tôi ăn uống chung,” – ngài viết – “ai nấy thay phiên nhau đọc sách và phục vụ bàn ăn. Tôi không tự miễn mình khỏi bất cứ việc gì, giống như các chủng sinh trẻ nhất của tôi vậy.”

Chẳng bao lâu sau, hai trong số các thầy giảng kỳ cựu từng phục vụ cho các cha Dòng Tên được Deydier nhận thấy xứng đáng để lãnh chức linh mục. Họ tên là Bênêđictô Hiền và Gioan Huệ, khi ấy lần lượt 54 và 47 tuổi. Tại Ayutthaya, thủ đô của vương quốc Xiêm, Đức cha Lambert de la Motte đã truyền chức linh mục cho họ vào tháng 4 năm 1668.
Hai vị này đã “thể hiện lòng khiêm nhường, đơn sơ, và tình yêu với đời sống khó nghèo …” một cách anh hùng, đến mức khiến Đức cha và những người chung quanh ngài phải cảm phục sâu sắc.

Chức linh mục Công giáo giờ đây đã bén rễ trong lòng dân tộc An Nam. Bênêđictô Hiền và Gioan Huệ là hai linh mục đầu tiên của một hàng giáo sĩ bản xứ, mà về lòng nhiệt thành, sự từ bỏ mình và tinh thần anh dũng, sẽ không thua kém gì các nhà truyền giáo đã sinh ra họ trong niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Cha Deydier kỳ vọng nơi các linh mục bản xứ ấy sẽ là gương sáng sống động cho các chủng sinh và toàn thể tín hữu Đàng Ngoài. Ngài cũng tin rằng nhà vua và các quan lại sẽ được đánh động khi thấy rằng Giáo hội Công giáo đã xem người bản xứ là xứng đáng để được lãnh nhận thiên chức linh mục. Bởi lẽ, vị vương tử này đã nhiều lần bày tỏ sự nghi ngờ sâu sắc đối với một tôn giáo mà tất cả các linh mục đều là người ngoại quốc từ châu Âu đến; ông lo sợ rằng các linh mục là những kẻ dọn đường cho ngoại bang xâm lược. Việc thiết lập một hàng giáo sĩ người An Nam có thể góp phần phá tan những nghi kỵ đó, và có thể giúp Kitô giáo tránh khỏi những cuộc bách hại tàn khốc trong tương lai.

Năm 1670, Đức cha Lambert de la Motte đích thân đến Đàng Ngoài và truyền chức linh mục cho bốn thầy giảng mới. Tại Rôma, khi hay tin về các cuộc truyền chức này, Đức Giáo hoàng vô cùng hoan hỉ. Vài năm sau đó, Đức Innocente XI, để diễn tả tầm quan trọng mà ngài đặt nơi việc xây dựng hàng giáo sĩ bản xứ tại An Nam, đã nói với Đức cha François Pallu: “Tôi thà thấy ngài truyền chức cho một linh mục ở những vùng đất ấy, còn hơn là nghe tin có 50.000 người tân tòng.”

III
Ngày nay, hàng giáo sĩ bản xứ đã phát triển rực rỡ, không chỉ ở Đàng Ngoài mà trên khắp toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp. Bảy mươi phần trăm tổng số linh mục là người An Nam, với hơn 1.300 linh mục bản xứ. Ba địa phận Tông tòa hiện do các giám mục bản xứ cai quản: Phát Diệm và Bùi Chu tại Đàng Ngoài, Vĩnh Long tại Đàng Trong. Ngôi thánh đường do Cụ Sáu xây dựng nay đã trở thành nhà thờ chính tòa của vị giám mục An Nam đầu tiên, Đức cha Tòng, người đã được Đức Giáo hoàng Piô XI đích thân truyền chức giám mục tại Rôma vào năm 1933. Trong các dòng tu nam và nữ, tỷ lệ người bản xứ còn cao hơn nữa so với linh mục: 91% ở các tu huynh và 93% ở các nữ tu. Đức tin Công giáo, mà biết bao người An Nam đã hiến dâng mạng sống mình với lòng quảng đại vô song, giờ đây đang được chính con cái của dân tộc An Nam rao giảng cho đồng bào mình. Và chính những bàn tay người An Nam, tại các nhà thờ ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, dâng hiến Mình và Máu Thánh Đức Giêsu Kitô hằng ngày trên bàn thánh, Đấng đã chịu đóng đinh để cứu rỗi toàn thể nhân loại.

Chiếc thuyền nhỏ nghèo nàn nơi Deydier đào tạo những người giáo sĩ đầu tiên, nay đã được thay thế bằng các chủng viện lớn nhỏ hoạt động quy củ không kém gì các cơ sở đào tạo tại châu Âu. Các cha thuộc Hội Thừa sai Paris cùng với các linh mục người An Nam cùng nhau đảm nhận vai trò giảng dạy. Theo thống kê mới nhất vào tháng 10 năm 1939, các chủng viện này đang đào tạo 531 đại chủng sinh và 1.537 tiểu chủng sinh. Gần đây, các linh mục thuộc Hội Xuân Bích, được hàng giám mục Đông Dương mời gọi, đã đến thành lập một đại chủng viện lớn tại Hà Nội, nơi quy tụ các thanh niên đến từ khắp mọi miền của vùng thuộc địa rộng lớn này của chúng ta tại châu Á. Trở thành nhà truyền giáo từng là ước mơ của cha Olier, Đấng sáng lập Hội Xuân Bích vào thế kỷ XVII. Ba trăm năm sau, các môn sinh của ngài đã thực hiện trọn vẹn ước nguyện ấy, khi truyền dạy cho hàng giáo sĩ tương lai người An Nam lòng đạo đức và các nhân đức linh mục, vốn là niềm vinh dự và sức mạnh của hàng giáo sĩ Pháp.

Thực ra, Đông Dương không phải là một ngoại lệ trong đời sống của Giáo hội hiện đại.
Hai cường quốc lớn tại Viễn Đông, là Trung Hoa và Nhật Bản, cũng đã có các chủng sinh, linh mục và giám mục bản xứ, những vị đầu tiên trong số đó được chính Đức Piô XI chọn lựa và truyền chức. Và mới hôm qua, Đảo Java cũng đã có vị giám mục bản xứ đầu tiên, được Đức Piô XII bổ nhiệm – chính ngài, vào ngày lễ Chúa Kitô Vua năm 1939, đã vui mừng truyền chức giám mục đầu tiên cho một người da đen, và cũng là vị giám mục đầu tiên người Madagascar.

Thật vậy, không còn một giáo đoàn nào – từ các đảo châu Đại Dương cho đến vùng băng tuyết ở miền cực Bắc Canada – mà không có các chủng sinh và linh mục bản xứ.
Tại các vùng truyền giáo, hiện nay có 6.242 linh mục bản xứ, bên cạnh 14.825 linh mục người ngoại quốc. Một tương lai đầy hứa hẹn đang mở ra cho sứ vụ truyền giáo Công giáo tại các vùng lương dân, khi ta nhớ lại lời Đức Bênêđictô XV đã nói trong tông thư Maximum illud năm 1919, khi ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc đào tạo và tổ chức hàng giáo sĩ bản xứ: “Đây là một trong những nguồn hy vọng phong phú nhất cho các giáo đoàn mới. Thật vậy, linh mục bản xứ – người được liên kết cách sâu xa với đoàn chiên của mình qua chính quê hương, tâm lý, cảm xúc và lý tưởng – được trang bị cách tuyệt vời để đem chân lý thích nghi với tâm hồn dân bản địa. Hơn bất kỳ ai khác, họ biết chọn cách tiếp cận trái tim con người, và họ dễ dàng bước vào những linh hồn mà linh mục ngoại quốc không sao vượt qua nổi ngưỡng cửa.”

IV

Vào thế kỷ XVII, khi cha François Deydier đào tạo những chủng sinh đầu tiên của Đàng Ngoài trên con thuyền nhỏ của mình, thì Giáo hội nơi đây đang sống trong thời kỳ bách hại. Các Kitô hữu luôn phải sẵn sàng lẩn trốn và chạy trốn. Thế nhưng theo thời gian, tình hình đã thay đổi. Từng bước một, Giáo hội đã đạt được một chỗ đứng hợp pháp tại Đông Dương, Trung Hoa, Nhật Bản, và có thể nói là gần như ở khắp nơi trên thế giới lương dân. Giáo hội không còn bị bó buộc trong “hầm trú ẩn” nữa, mà đã có thể bước ra dưới ánh sáng mặt trời của Thiên Chúa, xây dựng nhà nguyện và chủng viện.

Đối với công cuộc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ, thì việc có thể thiết lập những cơ sở đào tạo linh mục một cách vững chắc là điều cực kỳ quan trọng. Bởi vì Giáo hội không muốn các linh mục bản xứ chỉ là những người ở “hàng thứ hai” so với các linh mục đến từ Âu châu. Giáo hội muốn có thể tìm thấy nơi họ – khi thấy là thích hợp – những người lãnh đạo, những vị giám mục. Do đó, cần phải trao cho họ một nền giáo dục trọn vẹn, tại những chủng viện ổn định và được tổ chức bài bản theo đúng tiêu chuẩn.

Đức Piô XI, trong tông thư Rerum Ecclesiae, đã tuyên bố: “Điều hết sức quan trọng là các chủng sinh bản xứ phải được đào tạo có phương pháp và hệ thống về các khoa học tự nhiên cũng như thần học. Không được rút ngắn hoặc sơ lược việc đào tạo của họ. Trái lại, cần giúp họ theo học toàn bộ chương trình thông thường, để họ được trang bị đầy đủ với một vốn tri thức phong phú.”

Tuy nhiên, việc đào tạo chủng sinh tại các vùng truyền giáo luôn đặt ra một vấn đề nghiêm trọng: đó là vấn đề tài chính. Cần có tiền để xây dựng chủng viện, để nuôi dưỡng các chủng sinh và thầy dạy; cần có gạo để ăn, sách để học. Năm 1889, Đức cha Cousin, Giám mục giáo phận Nagasaki (Nhật Bản), mang nỗi lo khắc khoải ấy trong lòng, đã viết thư chia sẻ niềm băn khoăn và đau đớn của ngài với hai giáo dân người Pháp là bà Stéphanie Bigard và cô con gái Jeanne: “Chủng viện của chúng tôi hiện có hơn 50 chủng sinh… Dù chúng tôi đã hết sức tiết kiệm và xoay xở mọi cách, chắc bà cũng hiểu gánh nặng tài chính mà 50 em ấy đang đặt trên đôi vai vốn đã nghèo khó của chúng tôi. Trong kỳ tuyển sinh vừa rồi, tôi đã thông báo rằng sẽ chỉ nhận 12 chủng sinh mới, mỗi giáo xứ được đề cử hai em. Ấy vậy mà một giáo xứ duy nhất đã gửi đến tận 15 em – những em đã miệt mài học tập suốt hơn một năm ngày đêm để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển. Thế nhưng chúng tôi buộc lòng phải từ chối, phải bịa ra hàng ngàn lý do để gửi các em ấy trở về với gia đình, dẫu rằng các em chắc chắn sẽ trở thành những linh mục tuyệt vời trong tương lai.”

Trong nỗi đau vì thấy những ơn gọi quý giá bị đánh mất – những ơn gọi mà trong tương lai sẽ vô cùng cần thiết cho sự phát triển của Giáo hội tại Nhật – Đức cha Nagasaki đã ngỏ lời kêu gọi tới Stéphanie và Jeanne Bigard, và qua họ, hướng về nước Pháp Công giáo: “Tôi không biết liệu mình có lầm chăng, nhưng tôi nghĩ… ở nước Pháp Kitô giáo của chúng ta, chắc chắn có nhiều tâm hồn đầy tinh thần Công giáo – những người sẽ không ngần ngại cộng tác với chúng tôi trong công cuộc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ, nếu họ được biết đến công việc ấy. Có thể họ sẽ sẵn lòng hy sinh, để có một chủng sinh của riêng mình, người mà sau này sẽ mang trong lòng ký ức về những ‘người cha mẹ đỡ đầu’ ấy – suốt cả đời và sau khi họ qua đời… Thật là một niềm vui khi còn sống, và là một niềm an ủi lớn lao khi nhắm mắt lìa đời, khi nghĩ rằng: mỗi ngày, một linh mục sẽ đọc tên bạn trong lời cầu nguyện của thánh lễ.”

Stéphanie và Jeanne Bigard là những người phụ nữ có tấm lòng cao cả. Họ đã lắng nghe tiếng kêu gọi của Đức cha Cousin và không thể làm ngơ trước tiếng kêu đau đớn của ngài. Ngay trong năm 1889, họ đã vạch ra những nét khởi đầu cho một hội đoàn, với mục đích góp phần cung cấp tài chính cho các chủng viện bản xứ: đó chính là Hội Thánh Phêrô Tông Đồ (Œuvre de Saint-Pierre-Apôtre). Nuôi dưỡng các chủng sinh tại châu Á, châu Phi, và ở bất cứ nơi nào các giám mục truyền giáo cần đến, từ nay trở thành lý tưởng duy nhất của đời họ. “Phần của tôi trong gia sản, tôi xin dành cho công cuộc ấy”, Jeanne đã viết như thế.

Và để công cuộc này thành công, người con gái cao quý ấy đã không ngần ngại hiến dâng chính mình làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa: “Rất nhiều lần, và gần như trong mọi khoảnh khắc, tôi đã thưa với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin ban chiến thắng cho Hội Thánh Chúa… và nếu cần đến đau khổ, thì này con đây, này thân xác con, này cả mạng sống con.’” Chính vì thế, bất chấp bao hiểu lầm và trở ngại, Jeanne Bigard đã làm cho Hội Truyền giáo Thánh Phêrô Tông đồ sống động và lớn mạnh. Và trong một buổi lễ rực rỡ vinh quang, Giáo hội Công giáo Pháp đã long trọng cử hành ngày kỷ niệm 50 năm thành lập hội, vào ngày 20 tháng 3 năm 1939, tại Vương cung Thánh đường Thánh Étienne ở Caen – khi hội đã được nâng lên hàng Hội Giáo hoàng, và trở nên được toàn thể Giáo hội hoàn vũ biết đến.

V

“Tôi sẽ phải chịu nhiều đau khổ,” Jeanne Bigard đã nói như thế. “Nhưng nếu đó là cái giá mà hạt cải nhỏ bé phải trả để có thể nảy mầm và lớn lên, thì tôi sẽ là người có lỗi nếu từ chối điều đó.” Quả thật, Jeanne đã chịu nhiều đau khổ khôn cùng, nhưng hạt cải nhỏ ấy đã trở thành một cây lớn, vươn cành lá của mình ra khắp các vùng đất truyền giáo. Trong số 15.000 chủng sinh, cả đại chủng sinh lẫn tiểu chủng sinh, hiện đang theo học tại các chủng viện truyền giáo trên khắp thế giới, thì 13.500 em là “nghĩa tử” của Hội Thánh Phêrô Tông đồ.

Nghĩa là hội này lo toàn bộ chi phí ăn học và đào tạo cho các chủng sinh ấy, trong suốt những năm cần thiết để họ trở thành linh mục. Tìm kiếm nguồn tài chính để duy trì sứ mạng ấy – một gánh nặng ngày càng tăng vì số lượng chủng sinh mỗi năm một đông thêm – chính là sứ mạng của Hội Truyền giáo Thánh Phêrô Tông đồ.

Hội này kêu gọi các tín hữu cộng tác, dưới sự bảo trợ của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, theo ý muốn của Đức Piô XI – vị Giáo hoàng của công cuộc truyền giáo. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là bổn mạng của các nhà truyền giáo, dù Người chưa từng rời khỏi đan viện của mình. Thế nhưng nhờ dâng hiến trọn vẹn đời mình cho tình yêu Thiên Chúa và các linh hồn, Người đã phủ khắp mặt đất bằng cơn mưa ân phúc từ trời. Noi gương Thánh nữ và nhờ lời chuyển cầu của Người, các thành viên của Hội Thánh Phêrô Tông đồ, dù không rời khỏi quê nhà, vẫn có thể góp phần mạnh mẽ vào sự phát triển của sứ mạng truyền giáo tại những vùng đất xa xôi.

Người ta đều biết rằng quy định của Hội Truyền giáo Thánh Phêrô Tông đồ rất đơn giản. Các ân nhân có thể thiết lập một học bổng vĩnh viễn trị giá 20.000 franc, với phần lãi dùng để trang trải chi phí ăn học trọn đời cho một chủng sinh tại một trong các chủng viện thuộc các vùng truyền giáo. Tuy nhiên, cũng có thể chỉ cần nhận đỡ đầu một chủng sinh trong suốt thời gian học tập – thường là từ 6 đến 7 năm. Hình thức này được gọi là “cây tầm xuân” (le rosier), với mức đóng góp 1.200 franc mỗi năm, và người nhận đỡ đầu cam kết duy trì khoản hỗ trợ ấy – trong khả năng của mình – cho đến khi người con tinh thần được lãnh chức linh mục. “Cây tầm xuân” có thể được chia thành các “cành” trị giá 120 franc, và các “bông hoa” trị giá 6 franc. Nhờ đó, ngay cả những đóng góp khiêm tốn nhất cũng đều được đón nhận, và mọi tín hữu – dù không dư dả – vẫn có thể tham dự vào những ơn ích thiêng liêng mà hội mang lại. Các ân huệ thiêng liêng này rất lớn lao: nhiều ân xá đã được các Đức Giáo hoàng ban cho hội viên; Thánh lễ được cử hành mỗi ngày tại nguyện đường dòng Kín Lisieux theo ý chỉ của các ân nhân; và các chủng sinh được hội nâng đỡ cũng cam kết cầu nguyện cho các ân nhân của mình.

Dù hoàn cảnh có thế nào – dù ngày mai có đen tối hơn hôm nay đi nữa – Giáo hội sẽ không bao giờ từ bỏ hàng giáo sĩ bản xứ. Và tại sao chúng ta lại để mình bị nỗi sợ hãi chi phối? Jeanne Bigard đã có một cái nhìn hoàn toàn siêu nhiên về tương lai của công cuộc truyền giáo, và cái nhìn ấy phải trở thành của chính chúng ta. Năm 1900, trong thư gửi cho một nhà truyền giáo tại Viễn Đông đang lo lắng về cuộc bách hại ở Trung Hoa, chị đã viết: “Chúng ta hãy trở nên mỗi ngày một Công giáo hơn nữa; hãy là những người Công giáo Rôma đích thực, hiệp nhất trong tận sâu con người mình với Đấng kế vị Thánh Phêrô – Đấng giảng dạy không thể sai lầm. Và chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho tương lai của công cuộc truyền giáo – không phải theo giấc mơ của sự khôn ngoan nhân loại, mà theo ý muốn của Đức Giêsu Kitô.”

– H. Chappoulie,
Giám đốc Hội Truyền giáo Thánh Phêrô Tông đồ tại Paris.

Nam tước Phát Diệm

Lời mở đầu

Gửi những người yêu thích tiểu thuyết và cả những người chê bai các truyện đời được lãng mạc hóa!

Đây là một câu chuyện có thật, còn kịch tính hơn cả tiểu thuyết phiêu lưu.
Là câu chuyện về một con người, mà cuộc đời ông gần như gói trọn lịch sử của cả một dân tộc, hoặc chí ít, là lịch sử của một thời kỳ – thời kỳ đau thương nhất và cũng quan trọng nhất đối với dân tộc ấy.

Đây là câu chuyện về một linh mục, người đã trở thành vinh dự của quê hương mình, của Giáo hội và cả của nước Pháp; người đã trả giá bằng máu đào, trước cả khi trả giá bằng năm mươi năm lao nhọc, để góp phần làm lan tỏa nền văn minh Kitô giáo tại Viễn Đông.

Ông chỉ là một linh mục người Đàng Ngoài, nhưng sau khi đối diện với cảnh tử đạo, đã được các vị vương công An Nam ban tặng những danh dự ngang hàng với các Phó vương.

Tên thật của ông ư? Ông đã thay tên nhiều lần, như theo tập tục bản xứ. Người Âu gọi ông bằng một tên lạ lùng, gần như một con số thứ tự – mà sau này tôi sẽ giải thích rõ hơn. Người ta thường gọi ông là Thầy Sáu, hoặc đơn giản là Cụ Sáu.

Là chủng sinh trong các chủng viện tại Đàng Ngoài vào thời kỳ oai hùng nhất trong lịch sử tôn giáo nước mình, ông vẫn còn là phó tế khi cuộc bách hại khốc liệt bùng nổ – cuộc bách hại đã được thánh hóa bởi cái chết của chân phước Théophane Vénard.

Gắn bó với vị giám mục cao niên bảy mươi tuổi của mình, ông chia sẻ kiếp sống trốn chạy nơi rừng núi, ẩn náu trong hang động; hy sinh bản thân để cứu mạng vị giám mục, tuyên xưng đức tin trước tòa án tại Hà Nội, và bị kết án lưu đày. Thế nhưng, ông vẫn kín đáo lãnh chức linh mục, và từ đó, hiến trọn đời mình phục vụ các cộng đoàn Kitô hữu đang bị đàn áp.

Khi nước Pháp cuối cùng áp đặt được lên hoàng đế An Nam bản hiệp ước năm 1862 – đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ tự do tôn giáo tại Đông Dương – thì Cụ Sáu đã gần bốn mươi tuổi. Đó cũng là lúc khởi đầu cho nửa sau cuộc đời của ngài. Chính trong giai đoạn này, ngài sẽ bộc lộ trọn vẹn nghị lực và tài tổ chức của mình. Được bổ nhiệm làm cha sở Phát Diệm, ngài nhanh chóng tỏ ra là một nhà lãnh đạo xuất chúng. Các viên chức Pháp sống tại An Nam và Đàng Ngoài thường đến tham khảo ý kiến ngài. Các sĩ quan Pháp, như đại úy Joffre và chỉ huy trưởng Lyautey, cũng đã từng đến thăm ngài tại giáo xứ. Chính quyền Pháp đã trao tặng ngài huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh, đầu tiên là cấp Hiệp sĩ, rồi đến cấp Sĩ quan. Các hoàng đế nhà Nguyễn cũng tôn vinh ngài ngang hàng với các vị đại thần trong triều. Khi ngài qua đời vào đầu thế kỷ XX, có tới 40.000 người đến dự lễ an táng. Ký ức về ngài rạng rỡ đến nỗi, hai mươi lăm năm sau, Hoàng đế Khải Định đã truy phong cho ngài tước hiệu: “Nam tước Phát Diệm”.

Đàng Trong, nước Pháp và Giáo hội chưa từng có nhiều người phục vụ đạt đến phẩm chất như nơi vị linh mục khiêm hạ ấy. Liệu chúng ta có thể để tên tuổi ngài rơi vào quên lãng hay vào sự vô ơn của thời đại mình không?

Chính điều đó là điều mà những trang tiếp theo sẽ chứng minh.

Chương I

Người con của những tín hữu Công giáo lão thành

Địa lý của xứ Đông Dương hẳn cũng không quen thuộc với nhiều độc giả hơn là lịch sử của nó. Vậy chúng ta hãy cố gắng trình bày một cách khái quát và dễ hình dung.

Bán đảo rộng lớn này, nằm giữa vịnh Bengal, eo biển Malacca, Biển Đông và Đế quốc Trung Hoa, có diện tích gấp đôi nước Pháp, có thể được chia làm hai phần: Đông Dương phía Tây, bao gồm bán đảo Mã Lai, Xiêm (tức Thái Lan ngày nay) và Miến Điện (nay là Myanmar); và Đông Dương phía Đông – nơi sẽ là bối cảnh chính trong câu chuyện của chúng ta. Xen giữa hai phần ấy là Campuchia và Lào.

Giờ đây, ta chỉ nói đến Đông Dương phía Đông. Kể từ năm 1885 (sau chiến dịch của Đô đốc Courbet), nước Pháp chia vùng đất này thành ba khu vực: Vùng phía Nam, tức Nam Kỳ (Cochinchine) – một thuộc địa của Pháp, có Sài Gòn là trung tâm; Vùng miền Trung, tức vương quốc An Nam – là xứ bảo hộ, với kinh đô Huế; Vùng phía Bắc, tức Đàng Ngoài (Tonkin) – trung tâm là Hà Nội, nơi đặt trụ sở của Toàn quyền Đông Dương. Chính tại vùng phía Bắc này, và trong địa hạt Truyền giáo Tây Đàng Ngoài, các biến cố chính của câu chuyện chúng ta sẽ diễn ra.

Tuy nhiên, trước năm 1885, ba vùng này vẫn là một quốc gia duy nhất, gọi là Đế quốc An Nam, với các hoàng đế ngự tại kinh thành Huế. Triều đại các hoàng đế An Nam trong thế kỷ XIX mang ơn sâu nặng với nước Pháp: người sáng lập triều Nguyễn, vua Gia Long, đã nhận được sự hỗ trợ quý báu từ một trong những vị thừa sai lớn nhất của nước Pháp, đó là Đức cha Pigneaux de Béhaine, cũng như từ quân đội Pháp.

Chính từ đây, nền ảnh hưởng văn minh của nước Pháp bắt đầu bén rễ nơi vùng đất mà ngày nay nằm dưới quyền bảo hộ của Pháp.

Thế nhưng, đáng tiếc thay, ảnh hưởng ấy đã trải qua bốn mươi năm bị lu mờ, trùng khớp chính xác với bốn mươi năm đầu đời của Cụ Sáu, và cũng là giai đoạn khắc nghiệt nhất trong lịch sử của An Nam và của các miền truyền giáo, được ghi lại bằng những dòng máu đẫm đau thương.

Minh Mạng, người kế vị cha mình là Gia Long vào năm 1821, căm ghét người Pháp và nền văn minh Âu châu. Ông trục xuất các cố vấn ngoại quốc từng phục vụ vua cha, và đến năm 1825, ra lệnh cấm không cho các thừa sai Pháp đặt chân vào vương quốc. Kể từ năm 1833, ông bỏ lớp vỏ che đậy và chính thức khởi xướng một thời kỳ bách hại đẫm máu.

Lặp lại những lời vu khống đã có từ mười tám thế kỷ trước, Minh Mạng cáo buộc các linh mục là dụ dỗ phụ nữ và móc mắt bệnh nhân. Ông gọi các Kitô hữu là “những kẻ ngu dốt, u mê, không có khả năng phân biệt điều thiện và điều ác”, rồi kết luận bằng những mệnh lệnh sau:

“Vì vậy, chúng ta truyền cho tất cả những ai theo đạo này – từ hàng quan lại cho đến dân đen – nếu còn kính sợ quyền lực của triều đình, thì phải thành tâm từ bỏ đạo ấy. Chúng ta truyền cho các quan lại phải kiểm tra cẩn thận xem các Kitô hữu trên lãnh thổ của mình có sẵn lòng tuân phục chiếu chỉ này không, và buộc họ phải đạp lên Thánh Giá trước mặt các quan, sau đó họ sẽ được tha lần này. Còn các nơi thờ phượng và nhà ở của các linh mục, thì phải phá bỏ hoàn toàn. Và từ nay về sau, nếu bất cứ thần dân nào của chúng ta bị phát hiện tiếp tục theo đạo tà này, thì sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc nhất, để nhổ tận gốc rễ thứ tà đạo xấu xa ấy.”

Vị thừa sai đầu tiên bị bắt và bị chém đầu vào năm 1833 là cha Gagelin, Phó Đại diện Tông tòa xứ Đàng Trong. Năm 1835, cha Marchand chịu cực hình “bá đao”. Năm 1837, cha Cornay bị kết án “chặt đứt hết các chi thể”. Năm 1838 đến lượt Đức cha Borie. Năm 1840, cha Delamotte qua đời trong ngục. Các thừa sai khác thì ẩn nấp khắp nơi, ở đâu còn có thể trú được. Trong số các tín hữu, những người ít bị nghi ngờ nhất hoặc can đảm nhất đã dám mở cửa nhà đón nhận các vị đang bị truy nã. Họ đến đón vị thừa sai vào ban đêm, dẫn đi bộ hoặc đưa bằng xuồng nhỏ, len lỏi theo các lối mòn xa xôi hoặc những dòng rạch hẻo lánh, run rẩy trước mọi tiếng động và sẵn sàng, ngay khi có báo động, lao mình xuống ruộng lúa hay vào giữa các đám bông vải. Trong khi đó, trẻ em – ít bị nghi ngờ hơn người lớn – được bố trí dọc theo các con đường hoặc nơi đầu làng để canh chừng. Khi vị thừa sai đến nơi, người ta nhanh chóng giấu ngài trong một căn phòng khuất, giữa hai vách tường; đồng thời vội vàng chuẩn bị nơi trú ẩn an toàn hơn bằng cách đào trong vườn một cái hầm, rồi che miệng hầm lại bằng những bụi cây. Đó là những ngày tháng anh hùng, giống như thời kỳ các linh mục của Hội Thánh sơ khai từng trải qua – chỉ khác là hang toại đạo không còn được đào trong lòng đá trắng hay nâu của đất Rôma nữa, mà nay được đào trong bùn lầy của Đàng Trong và Đàng Ngoài.[1]

Chính tại miền đất ấy, trong bối cảnh như thế, người sau này được gọi là Cụ Sáu đã lớn lên.

Ngài sinh năm 1825, đúng vào năm mà vua Minh Mạng – đoạn tuyệt với truyền thống của vua cha – tuyên chiến với “lũ quỷ ngoại quốc”. Khi chịu phép Rửa Tội, ngài được đặt tên là Phêrô, và được thêm tên gọi Hữu. Thực vậy, vào thời ấy đã có rất nhiều gia đình An Nam đón nhận đức tin Công giáo từ hàng trăm năm trước, và vẫn giữ lòng trung thành thâm sâu với đạo của Chúa Giêsu. Người ta ước tính có khoảng 400.000 người tân tòng bị đe dọa bởi các chiếu chỉ của triều đình.

Cha mẹ của Phêrô Hữu chỉ là những nông dân nghèo ở làng Mỹ Quan, một ngôi làng nhỏ nằm gần biển, thuộc tỉnh Thanh Hóa, dưới chân những ngọn núi cao ngăn cách giữa Đàng Trong và phần đất chính của Đàng Ngoài. Ngoài vụ mùa lúa, nguồn sống chính của gia đình là việc đánh bắt và bán tôm cá, do người cha đánh bắt ở ven các dòng rạch, còn người mẹ đem ra chợ làng lân cận để bán.

Vì Phêrô là con út trong số bảy người con – năm trai và hai gái – nên cậu thường được giao trông nom các anh chị em của mình. Trong túp lều nhỏ của gia đình ngư dân nghèo ở Mỹ Quan, việc học hành gần như không thể nghĩ tới! Tuy vậy, một người cô bên ngoại sống ở làng Bạch Bát lân cận có thói quen lần lượt đón các cháu về nhà để dạy dỗ ít nhiều. Cậu bé Phêrô hưởng ứng những buổi học ấy với lòng ham học mãnh liệt, nhưng chẳng mấy chốc lại phải quay về với những công việc tay chân thực tế hơn. Dẫu vậy, biến cố thời cuộc cũng đã đảm nhận phần nào việc đào luyện đời sống luân lý và đức tin của cậu.

Năm 1836, khi ấy Phêrô mười một tuổi, cậu chứng kiến những cảnh tượng rùng rợn.
Cha Marchand đã bị kết án cực hình “bá đao”, và đầu của ngài bị đem đi diễu khắp cả vương quốc. “Khi chiếc đầu ấy đi ngang qua giáo xứ chúng tôi,” – cha Retord, vị giám mục tương lai của Đàng Ngoài, đã viết – “một cơn rùng mình lạnh buốt tràn ngập khắp mọi tâm hồn.” Ngày 25 tháng 1 cùng năm, cậu lại được nghe một chiếu chỉ mới của Minh Mạng được công bố:

“Mọi linh mục Âu châu bị bắt trên các tàu Trung Hoa cập bến vào vương quốc này sẽ bị xử tử.
Mọi linh mục Âu châu bị phát hiện trong nội địa vương quốc sẽ bị xử tử.
Những ai che giấu họ trong nhà mình sẽ cũng bị xử tử.
Tất cả viên chức trong địa hạt mà linh mục bị phát hiện cũng sẽ bị xử tử.”

Những hành động tàn ác đã nhanh chóng nối tiếp sau những lời đe dọa.
Các tín hữu, thầy giảng, linh mục và giám mục – bị săn đuổi như thú dữ – đầy ắp trong các nhà tù và đã ngã xuống vì đức tin.

Ngày 20 tháng 9 năm 1837, cha Cornay bị chặt hết các chi thể. Các giám mục ở Đàng Ngoài lần lượt biến mất. Phía Tây Ban Nha: Đức cha Henares bị chém đầu ngày 24 tháng 6 năm 1838; Đức cha Delgado qua đời trong ngục ngày 12 tháng 7 cùng năm. Phía Pháp: Đức cha Havard, Giám mục Địa phận Tây Đàng Ngoài, trút hơi thở cuối cùng trong cảnh khốn cùng tại quê hương của cậu Phêrô Hựu, giữa núi rừng Bạch Bát. Trước khi qua đời, vào ngày 5 tháng 7 năm 1838, ngài đã kịp – theo quyền đặc biệt do Tòa Thánh ban cho các giám mục Đàng Ngoài – chỉ định người kế vị. Ngài đã chọn hai người: Đức cha Borie là người chính, và nếu không thể, thì là Đức cha Retord.

Quyết định ấy thật là sự soi sáng của Chúa Quan Phòng, bởi vì trước khi kịp nhận tin bổ nhiệm làm Giám mục, Đức cha Borie đã bị bắt, và vào ngày 24 tháng 11 năm 1838, ngài đã hy sinh mạng sống vì đức tin.

Đức cha Retord, nhờ vậy mà trở thành Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài, nhưng không thể tìm được một giám mục nào để truyền chức cho mình. Ngài buộc phải lên đường tìm một vị giám mục – phải vượt qua biết bao hiểm nguy mà ai cũng có thể đoán – mãi tận các đảo Philippines…

Sau tất cả những điều ấy, chúng ta không còn ngạc nhiên khi nghe kể lại một chi tiết về tuổi thơ của Phêrô Hựu, cũng như của nhiều bạn đồng trang lứa. Khi còn là thiếu niên, các em đã từng bày tỏ ước muốn noi gương đời sống của các đan sĩ sa mạc xưa, muốn trốn vào rừng sâu, để tái hiện đời sống khổ hạnh của các ẩn tu thời Giáo hội sơ khai. Thật dễ hiểu cho ước vọng muốn trốn chạy khỏi thế gian ấy – hay đúng hơn, khỏi địa ngục đang mở ra ngay trước mắt các em!

Nhưng ơn gọi của người Kitô hữu không phải là để trốn khỏi thế gian, mà là để chiến thắng thế gian, hay đúng hơn, là để tái sinh thế gian! Người hướng dẫn thiêng liêng của Phêrô Hựu đã giúp cậu hiểu điều đó. Đó là cha sở làng Bạch Bát, một linh mục An Nam đơn sơ – một trong những vị anh hùng thầm lặng đã gìn giữ truyền thống Kitô giáo của quê hương mình, cũng như các linh mục của Pháp từng sống sót qua Cách mạng Pháp.

Vị linh mục ấy đã nhìn thấy khát vọng sâu xa nơi tâm hồn thiếu niên của cậu bé, đã nâng đỡ cậu, và xin phép cha mẹ cho cậu đến ở với mình để dạy dỗ và đào tạo trong nhà xứ.

Lúc ấy, Phêrô Hựu mười lăm tuổi. Cậu sẽ ở đó cho đến năm hai mươi tuổi, học hành tại trường nhỏ của nhà xứ Bạch Bát.

Không thể nào ca ngợi cho đủ công trạng của những hy sinh âm thầm mà Giáo hội Công giáo luôn tìm thấy trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử mình. Sự tận tụy của các linh mục An Nam trong thế kỷ XIX chính là một minh chứng tuyệt vời cho điều ấy, giữa bao minh chứng khác.

Lúc bấy giờ, các nhà truyền giáo Âu châu (thuộc Hội Thừa sai Paris) chỉ là một nhóm nhỏ – có lẽ chỉ khoảng mười hai người – phụ trách một địa phận với một trăm ngàn Kitô hữu và hàng triệu người chưa biết Chúa, và họ bị buộc phải sống lẩn trốn như thú hoang bị săn đuổi.[2]

Thật dễ hiểu biết bao sự khôn ngoan của Hiến pháp Dòng, khi ngay từ điều khoản đầu tiên trong bản luật, các ngài đã quy định rõ ràng bổn phận đặt việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ lên hàng ưu tiên tuyệt đối. Ngày nay, tại mỗi giáo phận truyền giáo của họ, khoảng một trăm linh mục bản xứ đang đảm nhiệm việc duy trì lâu dài công cuộc Phúc Âm hóa.

Các linh mục này – của Đàng Trong, An Nam và Đàng Ngoài – sẽ cùng với các bậc cha anh trong đức tin, gánh vác phần nặng nề nhất của cuộc bách hại. Và nhìn chung, họ không hề nao núng. Trong danh sách những người tuyên xưng đức tin và tử đạo – gồm cả linh mục lẫn chủng sinh (hay như thời ấy gọi là các “thầy giảng”) – họ được ghi tên hàng trăm người.

Nếu các cộng đoàn Kitô giáo ở Viễn Đông có thể đứng vững qua những cuộc bách hại khốc liệt – chẳng khác gì các cuộc bách hại thời Hội Thánh sơ khai – thì đó là nhờ nền móng vững chắc của các chủng viện bản xứ, vốn đã hoạt động nơi đây từ khi Hội Thừa sai Paris bắt đầu công cuộc loan báo Tin Mừng tại Đông Dương.

Mỗi cha sở có trách nhiệm chọn lựa trong số những gia đình đạo hạnh nhất một số em thiếu nhi nổi bật về lòng đạo đức, để huấn luyện các em trong việc giúp lễ, đồng thời dạy các em học chữ Hán và những bước đầu của tiếng Latinh.

Sau ba hoặc bốn năm, tùy hoàn cảnh, các em ấy sẽ được gửi vào Tiểu Chủng viện.

Chính nhờ hệ thống tuyển chọn này, như cha Launay nhận định, mà dù phải trải qua những cuộc bách hại dữ dội nhất, Đàng Ngoài vẫn luôn có đủ linh mục để chăm sóc đời sống đức tin cho các cộng đoàn Kitô hữu. Dĩ nhiên, có những thời điểm mà số lượng linh mục giảm sút – chẳng hạn như từ năm 1858 đến 1862, chỉ trong vòng bốn năm, địa phận Tây Đàng Ngoài đã mất tới ba mươi tư linh mục bản xứ bị tử đạo – nhưng rồi số lượng ấy nhanh chóng hồi phục và đạt lại mức ổn định.

Chính nhờ vậy mà người sau này được gọi là Cụ Sáu đã được nhận vào trường học tại nhà xứ Bạch Bát, và tại đó, dưới sự hướng dẫn của cha Tiếu, ngài tiếp tục sống và gìn giữ những truyền thống anh hùng của cộng đoàn Kitô hữu An Nam. Người ta đã tận dụng một giai đoạn tạm lắng để cho ngài nhập học – đó là thời kỳ trùng với cái chết của vua Minh Mạng và triều đại ngắn ngủi của con ông là vua Thiệu Trị (1841–1847).

Vị tân vương dường như không kế thừa tâm địa tàn bạo của phụ hoàng của mình. Có thể là vì sự khôn ngoan về chính trị, hoặc cũng có thể vì tính tình vốn ôn hòa, ông đã nới lỏng phần nào áp lực lên các thần dân Công giáo.

Đáng tiếc thay, triều đại của ông quá ngắn, và chỉ đủ để các Kitô hữu được thở đôi chút.

Một tia sáng le lói giữa hai cơn giông bão – nhưng cũng đủ để vị anh hùng của chúng ta được bước vào Tiểu Chủng viện Vĩnh Trị vào năm 1845, khi ấy ngài vừa tròn hai mươi tuổi.

Chương II

Nền giáo dục anh hùng

Người học trò mới bước vào Tiểu Chủng viện Vĩnh Trị với hành trang đơn sơ khiêm tốn.
Tất cả tư trang của ngài gói gọn trong một chiếc khăn vải bông vắt qua vai. Ngài đã quen với đời sống nghèo khó, và suốt đời vẫn giữ được tinh thần ấy; thật ra, đó chỉ là hy sinh nhỏ nhất trong số những điều ngài sẵn lòng hiến dâng.

Tên gọi Vĩnh Trị sẽ còn nhiều lần xuất hiện trong các trang sau. Đây là một địa điểm rất quen thuộc đối với các Kitô hữu An Nam, không chỉ vì là nơi đặt Chủng viện của giáo phận, mà còn bởi vì đó là nơi cư ngụ của giám mục địa phận Tây Đàng Ngoài.

Hãy hình dung một ngôi làng chỉ vài trăm dân cư, tất cả đều là Kitô hữu, nằm giữa đồng bằng phì nhiêu, cách Phát Diệm khoảng 20 km, nhưng được nối liền với sông Hồng bằng mạng lưới kênh rạch và sông ngòi như mê cung, vô cùng thuận tiện cho việc ẩn náu và tẩu thoát vào ban đêm. Những ngôi nhà đất lợp lá, xây dựng không theo trật tự nào cả, chen chúc nhau, ngăn cách bởi những ngõ hẹp hoặc sân nhỏ có trồng vài cây còi cọc.

Ở cuối làng là Chủng viện, không có gì phân biệt với các ngôi nhà dân, bên trong có khoảng năm mươi chủng sinh, cùng với Đức Giám mục, các thầy giảng, và các thừa sai ghé qua.

Chính Đức cha Retord đã mô tả “cung điện giám mục” của mình như sau:

“Một túp lều nhỏ, bên cạnh có một hầm ngầm để tôi có thể chui xuống nếu quan quân truy bắt; hai thầy giảng giúp tôi trả lời thư từ – thư viết bằng tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng An Nam và cả tiếng Hán; không có nhà thờ chính tòa, không có kinh sĩ, không có thư ký như các giám mục bên Pháp; một cha tổng đại diện thì ở rất xa, lẩn khuất trong núi rừng – đó là nơi ở và nhân sự của tôi.”

Bây giờ là phần mô tả chủng viện và chương trình học, được ghi lại bởi một thừa sai đương thời, cha Theuret, người đã đến Đàng Ngoài cùng thời với chân phước Théophane Vénard, và tên tuổi của ngài sẽ còn xuất hiện nhiều lần trong những trang sau:

“Người ta không nên tưởng rằng cái tên hoa mỹ ‘chủng viện’ này gợi lên hình ảnh một công trình giống như các trường trung học bên Pháp. Ở đây, mọi thứ được làm đơn sơ hơn nhiều. Ngoại trừ việc chia học sinh thành sáu hay bảy lớp như ở Pháp, thì các chủng viện của chúng tôi chẳng giống gì với trường học của các bạn. Hãy hình dung vài căn lều tre nhỏ ẩn mình trong những lùm cây rậm rạp, tụ lại xung quanh một căn lều chính – nơi ở của cha bề trên. Mỗi lớp được điều hành bởi một hoặc hai học trò cũ – gọi là thầy giảng – những người đã hoàn tất chương trình Latinh. Thiếu sách, lại không có từ điển, nên việc học hành vừa dài dòng vừa vất vả: mọi thứ đều phải viết tay và ghi nhớ bằng trí nhớ.”

Tuy vậy, khi các chủng sinh của chúng tôi đã đạt đến một trình độ học vấn nhất định, họ nói và viết tiếng Latinh còn giỏi hơn cả chúng tôi. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi các ngôn ngữ phương Đông không có bất kỳ điểm tương đồng nào với tiếng Latinh, vốn là một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với họ. Họ chỉ có thể sử dụng nó bằng cách tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc, trong khi chúng tôi – những người Âu châu – luôn bị ảnh hưởng bởi tiếng mẹ đẻ, điều này khiến chúng tôi thường xuyên pha lẫn vào tiếng Latinh những cấu trúc hoàn toàn trái ngược với tinh thần của ngôn ngữ ấy. Cái gọi là “Latinh nhà bếp” thì không hề tồn tại ở Đàng Ngoài, hoặc nếu có, thì chỉ người Pháp mới dùng đến thôi!

Bạn hỏi rằng trình độ học vấn cao nhất mà các chủng sinh xuất sắc đạt được là gì?
Trước hết, họ nắm vững đức tin Công giáo, có thể đọc hiểu các tác phẩm của các Giáo phụ Latinh, có khả năng viết bằng tiếng Latinh hoặc tiếng An Nam các bài kể chuyện, thuật lại biến cố, hoặc diễn văn về nhiều đề tài khác nhau liên quan đến tôn giáo, luân lý và lịch sử Giáo hội. Như bạn có thể hình dung, chúng tôi tránh cho họ những môn học “duyên dáng” về thần thoại cổ, thứ đã tiêu tốn biết bao thời gian của tuổi trẻ ham học ở châu Âu. Các chủng sinh của chúng tôi không biết gì về những kỳ tích của thần Jupiter, sự trinh khiết của nữ thần Diana, hay chiến tích của thần Mars và sắc đẹp của nữ thần Venus. Nhưng bù lại, họ biết rất rõ về Đức Giêsu Kitô, Thánh Luca và Thánh Phaolô – thậm chí còn rõ hơn nhiều tân khoa của các trường trung học của các bạn. Chúng tôi còn dạy họ môn địa lý, toán học căn bản, và một chút thiên văn học – một môn mà người phương Đông từ lâu đã có hứng thú đặc biệt. Từng ấy cũng đủ để cho thấy: cuộc tranh luận về chương trình giáo dục kinh điển – thứ đã làm tốn biết bao bút mực tại bờ sông Seine – thì tại bờ Sông Cả hoàn toàn không ai bận tâm đến!

Chúng ta cũng cần lưu ý rằng các vị thừa sai đã không hề lơ là trong việc cung cấp cho các chủng sinh của mình những tài liệu và nền tảng vững chắc cho việc học hành, bằng cách dịch ngày càng nhiều các sách nhập môn thuộc nhiều ngành khoa học khác nhau. Trong khi cha Vénard chuyển ngữ sang tiếng An Nam chuẩn cuốn Concordance Evangelique do Abbé Migne xuất bản – dành cho những học trò nâng cao, và cũng đang hoàn tất bản dịch sách Công vụ Tông đồ, các Thư và Khải Huyền cho các em nhỏ hơn – thì cha Theuret lại trao cho học trò của mình bản dịch đầy đủ của cuốn Cosmographie của Desdouits, và dành cho các thầy giảng cuốn Cours de Liturgie pratique của cha Falise.

Cha Néron, vị tử đạo tương lai – người đã được các bạn đồng môn gán cho biệt hiệu “hiệu trưởng đại học An Nam” vì năng khiếu đặc biệt với các môn khoa học chính xác – đã làm giàu cho sứ vụ bằng một khóa học trọn vẹn, tổng hợp những kiến thức chính xác nhất trong các sách toán học của thời ấy, như của Montferrier, Borde và Poirier, bao gồm số học, đại số và hình học.

Tuy nhiên, ngài đã bị tử đạo trước khi kịp hoàn chỉnh chương trình hình học của mình.

Còn Phêrô Hữu của chúng ta thì được đánh giá là đủ năng lực để theo học lớp Tứ (tương đương lớp 8 hiện nay). Nhưng giờ đây ngài không còn mang tên Phêrô Hữu nữa! Ở An Nam, điều đó chẳng có gì là quan trọng, vì không có hệ thống hộ tịch như ở châu Âu, nên việc thay đổi tên theo từng giai đoạn, chức vụ hay công trạng là điều phổ biến và có lợi. Trùng hợp là trong chủng viện Vĩnh Trị lúc ấy đã có một người khác mang tên Hữu, nên cha giám đốc quyết định rằng tân chủng sinh sẽ từ nay mang tên là Phêrô Triêm.

Ngay từ đầu, Phêrô Triêm đã đứng đầu lớp và nhanh chóng nổi tiếng vượt ra ngoài hàng ngũ bạn học. Mọi người dần quen với việc tìm đến ánh sáng hiểu biết của cậu, đến mức thời gian nghỉ ngơi của cậu cũng trở thành những buổi ôn tập tự nguyện cho người khác. Chương trình học chính thức không đủ đáp ứng nhu cầu học hỏi của cậu, nên cậu đã siêng năng nghiên cứu thêm văn học Hán, điều mà về sau sẽ giúp ích cho ngài nhiều hơn ngài tưởng vào thời điểm đó.

Trong thời kỳ gian khó ấy, nền nếp học tập tất nhiên không tránh khỏi nhiều thiếu sót.
Không cần phải nói, lao động chân tay chiếm một phần đáng kể trong ngày của Phêrô Triêm và các bạn học. Vào mùa gặt, các chủng sinh phải thu hoạch lúa, gom rơm và chất vào kho – vì ở vùng này, rơm gần như là chất đốt duy nhất cho bếp núc. Mỗi ngày, ai cũng phải phụ giúp việc bếp núc, kho lẫm hoặc vườn rau, và luôn trong tâm thế sẵn sàng chạy trốn khi cần.

Một điều kiện quá thiếu thốn cho việc học hành nghiêm túc! Nhưng ngược lại, đó là một trường đào luyện tuyệt vời cho nhân cách và nghị lực.

Năm 1845, năm mà người sau này được gọi là Cụ Sáu bước vào Tiểu Chủng viện Vĩnh Trị, thì tại Đàng Ngoài cũng đang tưng bừng mừng đón một chứng nhân anh dũng của đức tin trở về – cha Charrier, được chỉ huy Favin-Lévêque giải thoát khỏi nhà lao Thiên Trị, và sau vài tháng ở Pháp, ngài đã xin được trở lại chính nơi chiến tuyến xưa.

Thỉnh thoảng, Đức cha Retord – vị giám mục anh hùng đang lèo lái Giáo phận Tây Đàng Ngoài – lại về nghỉ tại Vĩnh Trị sau những chuyến tông du mục vụ, và thắp lại lửa hăng say nơi các chủng sinh bằng hơi thở bừng cháy từ lời giảng đầy nhiệt huyết của ngài.

Ngọn lửa bách hại lại bùng lên từng đợt. Các cuộc bắt bớ diễn ra rải rác khắp nơi, và tuy người Âu châu mới chỉ bị kết án trên nguyên tắc, thì các linh mục bản xứ đã bị lưu đày.
Bầu trời đang dần phủ mây đen. Đức cha Retord, ghi nhớ những khó khăn mà ngài từng trải qua khi được tấn phong giám mục, đã quyết định phòng xa cho mọi tình huống, bằng cách chuẩn bị người kế vị cho sứ vụ giám quản địa phận của ngài. Để việc này được bảo đảm hơn, ngài xin chia tách Địa phận của mình. Một sắc lệnh Tòa Thánh, đề ngày 27 tháng 3 năm 1846, đã nâng Địa phận Nam Đàng Ngoài thành một giáo phận độc lập, với Đức cha Gauthier được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi.

Đức cha Retord vẫn tiếp tục lãnh đạo Địa phận Tây Đàng Ngoài, nơi mà chỉ riêng mình ngài đã phải chăm sóc một trăm ngàn Kitô hữu, cùng với hơn sáu mươi linh mục bản xứ và khoảng hai trăm chủng sinh. Ngài ngay lập tức chọn một vị phụ tá mới, là Đức cha Jeantet khả kính, vốn là giám đốc Đại Chủng viện, người mà ngài gọi một cách trìu mến là: “thợ đẽo đá của chúng ta” – ám chỉ những linh mục mà ngài đào tạo, những viên đá sống xây nên đền thánh. Vị giám mục này, như thể nhờ một phép lạ, đã thoát khỏi mọi cuộc bách hại, và sau này chính Cụ Sáu sẽ cứu mạng ngài. Lễ tấn phong giám mục ấy là một sự kiện mà Vĩnh Trị chưa từng chứng kiến và sẽ còn lâu mới có dịp chứng kiến lại:
đó là đại lễ cuối cùng của thời kỳ hòa bình tương đối, mà ngay sau đó sẽ nhường chỗ cho triều đại đẫm máu của vua Tự Đức.

Từ bao đời nay, người Công giáo Đàng Ngoài chưa từng chứng kiến một buổi lễ nào rực rỡ như vậy. Đức cha Retord là người tổ chức, và dưới sự điều phối của ngài, mọi sự đều mang tầm vóc vĩ đại.

“Buổi lễ kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ,” – ngài kể lại – “Chúng tôi hiện diện nơi đó: hai giám mục – chưa kể vị tân giám mục được tấn phong – cùng với hai thừa sai Âu châu, hơn hai mươi linh mục bản xứ, trên một trăm chủng sinh học tiếng Latinh, tất cả đều mặc áo lễ hoặc áo surplis, ai cũng đảm nhận vai trò xướng lễ hoặc phục vụ bàn thánh.
Có đội trống và dàn nhạc đầy đủ, và ít nhất mười ngàn Kitô hữu quy tụ, chưa kể một số đông lương dân. Sau lễ tấn phong, chúng tôi đã khoản đãi tất cả mọi người bằng một bữa tiệc lớn, và để làm được điều đó, phải dựng tới một ngàn chín trăm bàn, mỗi bàn sáu người! Một bữa tiệc như thế hẳn đã gây tốn kém lớn, nếu các lễ vật mà các Kitô hữu mang đến nhân dịp này không đủ – hoặc gần đủ – để chi trả mọi chi phí. Cuối ngày, khi màn đêm buông xuống, buổi lễ kết thúc bằng một màn pháo hoa do chính các chủng sinh của chúng tôi chế tạo, mở đầu và kết thúc bằng những tràng pháo nổ vang trời và nhiều chùm pháo sáng bay vút lên đầy táo bạo.”

Than ôi! Ngày huy hoàng ấy đã trở thành một lễ hội không có ngày mai cho các chủng sinh Vĩnh Trị. Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà, và Tự Đức kế vị ngai vàng.

Một lệnh đại xá ban hành vào lúc khởi đầu triều đại mới ban đầu đã thắp lên ít nhiều hy vọng cho các tín hữu Công giáo. Các linh mục bản xứ được phép trở về từ nơi lưu đày.
Đức cha Retord nhân cơ hội ấy bổ nhiệm một vị anh hùng của thời bách hại trước đây – cha Phaolô Tịnh – làm giám đốc chủng viện. Cha Tịnh rồi đây sẽ còn bước vào cuộc tử đạo, nhưng trước mắt, các môn sinh có thể chiêm ngưỡng tấm gương lẫm liệt của ngài. Ngài là cựu học sinh của các trường giáo sĩ tại Đàng Ngoài, từng năm lần bị kết án tử, chịu hai mươi đến ba mươi trận đòn, bị đeo gông suốt bảy năm và xiềng xích tám năm, tất cả chỉ vì là một thầy giảng. Đức cha Retord cho rằng từng ấy là một “thời gian thử thách” đủ xứng đáng trước khi chịu chức linh mục. Cha Phaolô Tịnh được truyền chức từ chức nhỏ, phó tế đến linh mục – tất cả trong vòng một tuần, và được giao nhiệm vụ điều hành Chủng viện Vĩnh Trị, chờ đợi những cuộc chiến mới.

Những người thầy như thế đâu cần phải thuyết giảng dài dòng để thuyết phục các chủng sinh về những hy sinh mà ơn gọi linh mục đòi hỏi.

Chính tại ngôi trường ấy, sau khi đã hoàn tất chương trình Latinh, Phêrô Triêm tiếp tục được đào luyện từ năm 1850 đến 1855. Vì sao lúc đó ngài chưa được gửi đến Đại Chủng viện? Như đã nói trước, tập tục thời ấy tại Đàng Ngoài đòi hỏi các chủng sinh phải có một thời gian “thử luyện” làm thầy giảng trước khi bước vào giai đoạn cuối cùng để tiến đến chức linh mục. Ở tuổi hai mươi lăm, sau khi hoàn tất chương trình và nhận danh hiệu thầy giảng, Phêrô Triêm đã làm thời gian thử luyện ấy trong vai trò giáo sư tại Vĩnh Trị. Ngài sẽ ở đó năm năm bên cạnh vị đáng kính là cha Tịnh.

Tại đây, ngài bộc lộ là một nhà giáo xuất sắc, như trước đó ngài từng là một học trò gương mẫu. Rất nhân hậu với học sinh, luôn nhã nhặn và bao dung với đồng nghiệp, ngài chiếm được sự tín nhiệm đầy trìu mến của các bề trên.

Trong lớp học, mọi người đều chăm chú lắng nghe Phêrô Triêm giảng dạy, vì với tư duy sáng suốt và phương pháp mạch lạc, ngài biết cách khơi gợi sự hứng thú nơi học trò.
Để hoàn thành trọn vẹn trách nhiệm của một người thầy, ngài không quản ngại bất kỳ vất vả hay phiền toái nào.

Vào giờ lao động, ngài đặc biệt biết cách khuyến khích những học trò lười biếng hoạt động, thậm chí sẵn sàng làm gương bằng cách tự tay cầm liềm, xẻng hoặc quay cối xay lúa thật mạnh mẽ.

Tuy nhiên, các học trò của ngài còn đón nhận được những bài học lớn lao hơn nhiều.

Ngày 21 tháng 3 năm 1851, các chủng sinh cùng nhau nghe đọc sắc dụ đầu tiên của vua Tự Đức, chính là chiếu chỉ khôi phục lại truyền thống bạo lực của ông nội ông là vua Minh Mạng, mà Tự Đức rồi đây sẽ còn vượt qua về mức độ tàn bạo:

“Các linh mục Âu châu phải bị ném xuống vực sâu ngoài biển hoặc sông, để tôn vinh chánh đạo.”

“Các linh mục An Nam, bất kể có đạp lên Thánh Giá hay không, đều phải bị chém làm đôi ngang người, để cho mọi người biết luật pháp nghiêm khắc ra sao.”

“Vậy, từ nay về sau, nếu có linh mục Âu châu nào lén lút vào vương quốc chúng ta, đi lại khắp các tỉnh để lừa gạt và mê hoặc lòng dân, thì ai tố cáo hoặc giao nộp họ cho quan sẽ được thưởng tám lạng bạc, và một nửa tài sản của người chứa chấp linh mục ấy. Nửa còn lại sung vào công khố.”

“Còn những người chứa chấp – dù là người lớn hay nhỏ – bất kể họ giữ linh mục Âu châu lâu hay chỉ vài ngày, tất cả đều sẽ bị chém làm đôi ngang lưng và quăng xác xuống sông, ngoại trừ những trẻ em chưa tới tuổi khôn: các em sẽ bị lưu đày đi nơi thật xa.”

“Đó là thánh ý của trẫm – phải nghiêm chỉnh tuân theo.”

Vài ngày sau, câu chuyện tử đạo của chân phước Schoeffler (ngày 1 tháng 5 năm 1851) đã chứng minh rằng lần này, người ta không còn dừng lại ở những bản án trên nguyên tắc nữa.

Năm sau, đúng ngày 1 tháng 5 năm 1852, đến lượt chân phước Bonnard – ngài chỉ mới đến Đàng Ngoài vài tháng trước đó – bị hành quyết. Đức cha Retord đã cho đưa di hài đẫm máu của ngài về ngôi nhà thân thương tại Vĩnh Trị.

Những người khiêng xác đến chủng viện vào khoảng một giờ sáng.

Khi được báo tin rằng báu vật thiêng liêng đã được đưa về, Đức cha Retord ra lệnh đặt thi hài vào quan tài, mở nắp để lộ khuôn mặt, và trưng bày ngay giữa nhà thờ.
Chính ngài cũng đến túc trực bên cạnh, và dâng lời cầu nguyện sốt sắng từ đáy lòng lên người con mà mình từng phong chức, và nay gọi là vị bảo trợ của mình.

“Ôi! – ngài thốt lên – ngài đẹp biết bao khi nằm trong quan tài, mặc phẩm phục linh mục; người ta có cảm giác như đang nhìn một tượng thánh tạc bằng ngà tinh tuyền nhất. Đầu ngài được đặt gọn ghẽ nơi cổ, trông như đang ngủ một giấc bình an, hay đúng hơn, như đang xuất thần, chiêm ngắm một thị kiến thiên quốc khiến môi mỉm cười.”

Thầy trò trong Chủng viện thay phiên nhau túc trực, giữ nghi thức canh thức bên thánh tích quý báu ấy. Sau đó, trong sự thinh lặng tuyệt đối, và chỉ một vài tín hữu rất đáng tin được biết trước, một thánh lễ âm thầm đã được cử hành, rồi thi hài được an táng trong khuôn viên của Chủng viện, chờ đến ngày được tôn phong trên bàn thờ Hội Thánh.

CHƯƠNG III
Việc Truyền Chức Cho Vị Tuyên Xưng Đức Tin

Chân phước Théophane Vénard, người đến Đàng Ngoài vào thời điểm mà chúng ta đang thuật lại trong lịch sử này, đã viết trong một lá thư gửi cha mẹ để xin lỗi vì chỉ kể cho họ nghe “những điều đau thương và buồn thảm: phong tỏa, bách hại, trốn chạy và cái chết.” (Thư số 5, gửi cha, tháng 6 năm 1857).

Và đó cũng sẽ là nét chủ đạo của chương này. Liệu chúng ta có cần phải xin lỗi chăng?
Có điều gì cao quý hơn trong lịch sử của Hội Thánh chiến đấu nơi trần thế? Những trang sử này, được viết bằng máu và nước mắt, chẳng đáng được ghi lại bằng chữ vàng sao?

Hàng giáo sĩ bản xứ, với bốn mươi vị tử đạo, đã thể hiện một tinh thần anh dũng thật xứng đáng để an ủi các nhà truyền giáo đang dẫn đầu họ trên con đường khổ nạn mới này. Những ai thoát chết cũng mang trong mình, từ những thử thách không thể tưởng tượng nổi, một vẻ nghiêm trang và khí phách cao quý – đó chính là dấu ấn không thể xóa nhòa nơi các vị tuyên xưng đức tin.

Trong số đó có Phêrô Triêm, người mà vào năm 1855 đã được vị giám mục của ngài quyết định cho vào Đại Chủng viện Kẻ Non. Lúc ấy, ông đã ba mươi tuổi. Một ơn gọi ở tuổi đó, lại sau những thử thách như thế, hẳn là đã được cân nhắc rất kỹ lưỡng. Ông mặc tu phục vào đúng lúc một chiếu chỉ bách hại mới được vua Tự Đức ban hành, nhắm đến toàn thể Kitô hữu (ngày 18 tháng 9 năm 1855).

Sau những biến cố đẫm máu năm 1852, người ta quả thực đã cảm nhận được một chút chần chừ trong các sắc lệnh triều đình Huế. Vì sợ hãi trước các chính phủ châu Âu, trong các năm 1853, 1854 và 1855, vua Tự Đức đã nhiều lần chủ trì các buổi thiết triều để bàn bạc về vấn đề tôn giáo. Sau cùng, ông quyết định tham khảo ý kiến của tất cả các đại thần trong nước để biết “nên theo chính sách nào là tốt nhất nhằm xóa bỏ tà đạo Giêsu”.

Không thể nào kể xiết những lời phi lý và phạm thượng mà các quan lại lớn nhỏ của xứ An Nam đã thốt ra trong dịp này, khi mỗi người đưa ra kế hoạch bách hại riêng của mình.
Tuy vậy, trong số họ cũng có hai luồng ý kiến: một số người công khai ủng hộ bạo lực, số khác – như tổng trấn Nam Kỳ và tổng đốc Đàng Ngoài – thì nghiêng về sự ôn hòa.
Nhưng cuối cùng, hận thù đã thắng thế.

Sau ba năm bàn luận, đề xuất rồi lại phản đề xuất, một chiếu chỉ bách hại toàn diện cuối cùng đã được ban hành vào ngày 18 tháng 9 năm 1855:

“Các quan lại theo Kitô giáo ở Huế có một tháng để bỏ đạo; ở các tỉnh thì có ba tháng; sau thời gian đó, sẽ bị cách chức và trừng phạt. Binh lính và dân thường có sáu tháng; nếu không tuân theo cũng sẽ bị xử phạt như tội phạm nghiêm trọng. Các tín hữu Công giáo không được dự thi văn chương, không được giữ bất kỳ chức vụ nào.
Những ai đưa các nhà truyền giáo vào nước, hay che giấu họ, sẽ bị xử tử. Các nhà truyền giáo sẽ bị chém đầu, thi thể và đầu sẽ bị ném xuống sông; các thầy giảng của họ cũng sẽ bị xử trảm. Các linh mục An Nam sẽ bị chém đầu; các thầy giảng sẽ bị khắc dấu trên mặt và bị lưu đày.
Các nhà nguyện, nhà xứ đều phải bị thiêu hủy.”

Và vì nhà vua biết rõ các mưu kế mà các nhà truyền giáo dùng để tránh bị truy bắt, nên ngài còn thêm:

“Phải lấp các hầm trú ẩn, chặt sạch các lùm cây quanh làng mạc.”

Nhưng chưa hết. Để khích lệ sự nhiệt tình của đám gián điệp và kẻ chỉ điểm, một phần thưởng đã được hứa hẹn – cao hơn trước rất nhiều. Trước đây là 64 quan, nay phần thưởng tăng lên đến 2.400 quan cho ai bắt được một nhà truyền giáo, và 800 quan cho ai bắt được một linh mục bản xứ. Ngoài mồi nhử là vàng bạc, Tự Đức còn muốn tăng thêm nỗi sợ bằng lời đe dọa:

“Nếu một nhà truyền giáo bị phát hiện bởi người khác chứ không phải là quan lại trong địa hạt nơi ông ta cư ngụ, thì tất cả quan chức trong tỉnh đó – từ trên xuống dưới – sẽ bị trừng phạt nặng nề để làm gương.”

Những lời đe dọa ấy lại chẳng hề làm nhụt chí những Kitô hữu kiên cường như Phêrô Thiêm. Ngày ông bước vào Đại Chủng viện Kẻ Non, thì em trai út của ông là Gioan Pháp liền đến thay ông tại Tiểu Chủng viện Vĩnh Trị. Thế là, thay vì chỉ một người dâng mình cho cuộc tử đạo, gia đình người nông dân khiêm hạ ở Mỹ Quan đã dâng cho Giáo Hội hai ứng viên tử đạo — cả hai, như chúng ta sẽ thấy, đều xứng đáng với ơn gọi của mình.

Đức cha Retord quyết định mở đầu cho giai đoạn đầy thử thách sắp tới bằng một cuộc tĩnh tâm trọng thể, chính ngài sẽ giảng phòng, và ngài triệu tập về tại nhà chung Vĩnh Trị tất cả các nhà truyền giáo, linh mục bản xứ và chủng sinh trong địa phận.

Đó là lần quy tụ sau cùng của “gia đình truyền giáo” trước khi phải tan tác khắp nơi.
Nhiều năm sau, người ta vẫn nhớ mãi bầu khí thánh thiêng và hân hoan của dịp ấy trong toàn miền truyền giáo.

Tuần tĩnh tâm đầu tiên được dành riêng cho các nhà truyền giáo trong giáo phận. Có tám trong chín người đã kịp về dự. Quây quần quanh vị “Tổng Chỉ Huy” — như người ta vẫn gọi Đức cha Retord — cùng với giám mục phụ tá của ngài là Đức cha Jeantet, là các vị: Cha Vénard, vị tử đạo thánh thiện như thiên thần; Cha Theurel, cùng đến Đàng Ngoài với cha Vénard, sau này sẽ được tấn phong giám mục khi mới hai mươi chín tuổi; Cha Charbonnier và Cha Mathéron, cả hai đều là những vị tuyên xưng đức tin, người thì sẽ chết trong chức giám mục, người thì qua đời trong cảnh bệnh phong.

jhkglm Đức cha Retord đã vẽ nên chân dung của một nhà truyền giáo lý tưởng trong một bài huấn đức – một hình ảnh mà Chân phước Théophane Vénard sau này đã nhắc lại trong thư gửi gia đình:

“Một nhà truyền giáo tốt lành và sốt sắng! – vị giám mục thốt lên – chỉ cần nói thế thôi là đủ cho những ai hiểu được một tông đồ phải có biết bao phẩm chất và nhân đức cao vời: Sự kiên định không lay chuyển, lòng mạnh mẽ không gì khuất phục, đức khiêm nhường sâu thẳm, đời sống trong sạch gương mẫu, lòng kiên nhẫn vượt mọi thử thách, sự từ bỏ tuyệt đối mọi sự trần thế, sự từ khước hoàn toàn bản thân và ý riêng, sự phó thác trọn vẹn theo thánh ý Thiên Chúa, lòng yêu mến thánh giá và đau khổ, sự căm ghét dứt khoát với mọi lạc thú xác thịt và thế gian; Sự đơn sơ như trẻ nhỏ, lòng nhiệt thành của tuổi trẻ, sự từng trải của người trưởng thành, sự khôn ngoan của tuổi già; Lòng dịu dàng như thiên thần, tính khí vững vàng trong mọi hoàn cảnh; Đức tin mạnh mẽ đi đôi với sự an nghỉ trọn vẹn nơi chân lý mặc khải; Niềm hy vọng không gợn chút nản lòng, ngay cả khi mọi sự xem ra đã mất; Đức bác ái bao la với trái tim vàng rộng lớn như vũ trụ; Lòng mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, với một linh hồn rực cháy – ngọn lửa ấy tỏa sáng nơi trần gian và bốc cao tới tận trời. Đó là những phẩm chất của một nhà truyền giáo đích thực và tốt lành.”

Thầy phó tế Triêm đã được nghe những lời rung động ấy, cũng như nhiều bài giảng khác từ cha Vénard, người mà Đức cha Retord đã giao phó nhiệm vụ giảng huấn nhiều lần cho các linh mục và chủng sinh bản xứ.

Thầy giữ mãi những kỷ niệm ấy trong lòng suốt đời. Mà thật ra, chính lúc đó thầy đang sống kỳ tĩnh tâm cuối cùng trước khi lãnh chức linh mục – dù thầy chẳng hề hay biết.

Vì giờ phút của những trận chiến lớn đã điểm. Một hành động vụng về do ông de Montigny thực hiện nhằm gây sức ép với triều đình Huế, không những phá vỡ uy tín của nước Pháp, mà còn làm trầm trọng thêm tình thế của các tín hữu An Nam. Chân phước Théophane Vénard đã kể lại điều này trong một lá thư gửi thân phụ của ngài (tháng 6 năm 1857):

Vị đặc sứ toàn quyền, thực lòng mà nói, là người rất tận tâm với chúng ta, nhưng ông chỉ đến với một chiếc corvette và hai chiếc tàu hơi nước nhỏ, lại không có quyền lực thực sự để đàm phán. Và điều gì đã xảy ra? Vua An Nam từ chối tiếp chuyện, còn người Pháp của chúng ta thì đành nhục nhã nhổ neo và quay thuyền rút lui.

Cả nước – cả người Kitô hữu lẫn lương dân – khi thấy tàu chiến cập bến, đã vỗ tay hân hoan, hy vọng vị vua bạo ngược của họ sẽ bị đánh bại. Nhưng khi thấy người Pháp chẳng làm được điều gì “phi thường”, rốt cuộc họ quay sang chế giễu họ. Và nỗi ê chề ấy phần nào rơi lại trên chúng con – những nhà truyền giáo nghèo hèn, xuất thân từ nước Pháp cao quý.

Những cuộc viễn chinh nhỏ mọn như thế không xứng với nước Pháp, quốc gia có tấm lòng rộng lớn và quảng đại. Nếu nước Pháp muốn hành động trước thế giới, thì phải hành động thật lớn lao, xứng với tầm vóc và bản chất của mình.

Cuộc tấn công đầu tiên được nhắm trực tiếp vào cộng đoàn Kitô hữu và chủng viện Vĩnh Trị, nơi từ trước đến nay vẫn được tổng trấn âm thầm bảo vệ, giúp tránh được sự tàn sát của vua Tự Đức.

Ngày 27 tháng 2 năm 1857, lúc 8 giờ sáng, Vĩnh Trị bị bao vây. Đức Đại diện Tông Tòa, Đức cha Retord, lúc ấy đang có mặt tại đó cùng với hai vị thừa sai: cha Charbonnier và cha Vénard.

Các linh mục nhanh chóng lẩn vào một chỗ ẩn giữa hai bức tường, còn Đức cha thì vội vàng chui xuống một hầm ngầm. Cuộc lục soát kéo dài hai tiếng đồng hồ. Một người lính đã lần tới vườn hoa trong khuôn viên nhà giám mục. Thật may mắn, đúng vào lúc ấy, kèn lệnh của quan quân vang lên, gọi quân rút lui, và tên lính quay bước, “chỉ kịp ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của các loài hoa, và ngây ngất bởi hương thơm ngào ngạt của chúng.”

Một lần nữa, ba vị thừa sai người Pháp đã thoát nạn trong gang tấc. Tuy nhiên, cha Phaolô Tịnh, linh mục An Nam đang làm Bề trên Chủng viện, thì không may mắn như vậy. Cha bị bắt và bị giải về Nam Định.

Nhưng năm ngày sau, một cuộc tấn công mới lại xảy ra. Khoảng một ngàn binh lính, được yểm trợ bởi hai con voi và hai khẩu đại bác, đã vây chặt cả làng. Được báo trước kịp thời, Đức cha Retord, cùng với cha Charbonnier và cha Vénard, đã vội nhảy xuống một chiếc thuyền nhỏ, chèo ngược dòng sông lên vài trăm thước.

Các ngài đã trải qua một ngày đau buồn – ngày 2 tháng 3 – và cả đêm hôm đó trên chiếc thuyền nhỏ, giữa dòng. Khi bình minh vừa hé, ba vị thừa sai liền quay trở lại với cộng đoàn của mình. Để tránh bị phát hiện, mỗi người chọn một lối đi khác nhau để tiến về nhà chung. Một sự im lặng tang tóc bao trùm lên đống tro tàn của Nhà Chúa. Những cột gỗ từng chống đỡ mái nhà thờ giờ nằm ngổn ngang trên đất, bị voi húc đổ. Cửa ra vào và cửa sổ các dãy nhà bị đập vỡ bằng rìu và búa…

Ba người lặng người vì kinh hoàng, dán mắt nhìn cảnh đổ nát. Bất chợt, vị giám mục siết chặt tay hai bạn đồng hành, một tiếng nấc nghẹn đau đớn bật lên từ ngực ngài, rồi ngài quỳ gối sụp xuống. Hai mươi năm lao nhọc và hy sinh giờ đây đã chìm sâu trong cảnh hoang tàn tuyệt vọng.[3]

Thế nhưng đó mới chỉ là khởi đầu của những nỗi đau.

Cha Phaolô Tịnh, Bề trên của chủng viện Vĩnh Trị – người mà chúng ta đã từng nhắc đến với cuộc chuẩn bị tử đạo đầy anh dũng – đã kết thúc hành trình đời mình ngày 6 tháng 4 tại Nam Định, khi đón nhận triều thiên tử đạo. Ngài sẽ được tuyên chân phước cùng với Chân phước Théophane Vénard, vào ngày 11 tháng 4 năm 1909.

Từng đợt, các cuộc bắt bớ và kết án tiếp tục gia tăng không ngừng. Ngày 20 tháng 7, Đức cha Diaz, giám mục của Hội Thừa sai Tây Ban Nha, bị chém đầu.

Rồi đến ngày 16 tháng 1 năm sau (1858), tiểu chủng viện Kẻ Bàng, nơi các chủng sinh Vĩnh Trị đã lánh nạn, bị vây hãm bởi quan tổng đốc Nam Định, với đoàn quân hộ tống 700 binh lính. Cuộc vây bắt và lục soát kéo dài suốt 16 tiếng đồng hồ. Lửa được phóng vào nhà xứ, chủng viện, nhà thờ và cả tu viện của các nữ tu bản xứ – Dòng Mến Thánh Giá.

Người dân trong làng phần lớn đã bỏ trốn. Chỉ còn lại 14 tín hữu và 4 chủng sinh bị bắt.
Trong số này có Gioan Pháp, em trai của thầy phó tế Triêm. Tất cả đều bị gông cổ nặng nề và giải về Nam Định giam cầm.

Rồi một cảnh tượng tuyệt đẹp đã diễn ra – một biến cố mà khi được kể lại hẳn đã làm người anh trai của vị tiểu tử đạo ấy rơi nước mắt vì tự hào.

Một ngày kia, khi thầy phó tế Triêm đang sống trong cảnh trốn tránh (chúng ta sẽ trở lại sự kiện này sau), thầy nghe tin có một người trẻ xin được gặp mặt. Đó là một chủng sinh của Tiểu Chủng viện, bạn đồng hành của Gioan Pháp trong cuộc chiến anh dũng – nhưng than ôi, không được đồng hành cùng cậu trong chiến thắng vinh quang của tử đạo.

Khi trông thấy thầy Triêm, cậu bật khóc nức nở và thốt lên:

Con cho gặp Đức Thầy… (các Kitô hữu thường gọi giám mục như thế). Con đã hư mất rồi… con đã giẫm lên Thánh Giá!

Phêrô Triêm phải rất cố gắng mới có thể khiến người khách trẻ ấy kể lại mạch lạc những gì đã xảy ra ngày 16 tháng Giêng. Thầy biết cậu – Phanxicô Bột, 17 tuổi, học lớp đệ thất tại Tiểu Chủng viện. Từng chút một, qua những câu nói đứt quãng, thầy dần nghe được câu chuyện đau thương. Các chủng sinh bị tách ra khỏi các Kitô hữu khác để xét xử riêng.

Chúng con bị điệu ra trước tòa quan, cậu kể, rồi bị buộc phải giẫm lên Thánh Giá đặt giữa pháp đình… Tạ ơn Thiên Chúa, chẳng ai trong chúng con ngã lòng…  Sau đó, người ta trói chúng con vào bốn cọc, úp mặt xuống đất, rồi quan sai đánh mỗi người 40 roi.
Vài ngày sau, chúng con bị dẫn ra xét xử lần thứ hai. Lại là lời buộc ép cũ. Và cũng lại là lời từ chối như trước. Lần nữa, chúng con bị đánh đòn…

Nhưng thế thì… người anh em ơi, sao còn khóc? Em chẳng có gì phải hổ thẹn cả!

Là vì… lần thứ ba, vị quan, thấy không lay chuyển được ai bằng sự sợ hãi, đã đổi cách: “Vì thương các con còn trẻ, ta sẽ không bắt các con phải giẫm lên Thánh Giá nữa,” ông nói. “Chỉ cần để người ta bế các con đi qua dấu thánh ấy vẽ dưới đất, mà các con không nói gì là được…”

Phêrô Triêm lặng người.
Thầy đã hiểu.

Và rồi sao nữa? — thầy hỏi, giọng nghẹn lại nơi cổ họng.

Thế là… ba người trong chúng con đã để mặc cho bọn lính nhấc bổng qua các đầu gông, rồi họ khiêng chúng con băng qua dấu Thánh Giá… Con… con là một trong số đó. Con đã chối bỏ Thiên Chúa của con!

Phêrô Triêm lặng người, không dám hỏi thêm điều gì.

Một lúc lâu sau, thầy mới khẽ thì thầm:

Còn Gioan…?

– Gioan Pháp là người duy nhất đã phản kháng! Khi đám lính của quan lại tiến đến để nhấc cậu lên cùng chiếc gông, cậu vùng vẫy hết sức mình…Ấy vậy mà cậu lại là người nhỏ tuổi nhất trong bốn chủng sinh – mới chỉ mười bốn tuổi. Bọn lính cười cợt, nhấc bổng cậu lên. Nhưng cậu co rút hai chân lại, vùng vẫy dữ dội và gào to hết sức: “Không, tôi không giẫm lên Thánh Giá! Không, tôi không chối bỏ Thiên Chúa của tôi!”

Thầy Phêrô Triêm rơi nước mắt trong lặng thinh.

Vậy… họ đã làm gì em? – thầy hỏi nhỏ, giọng run rẩy.

Tiếng nức nở của người kể càng thêm nghẹn ngào:

Họ không giết cậu ấy ngay… nhưng trước khi đày đi, họ đã tra tấn dã man. Quan bắt em quỳ trên một tấm ván đầy đinh nhọn… Cậu ấy vẫn không chịu thua. Cậu ấy nói: “Tôi thà chết còn hơn chối bỏ Đức Giêsu Kitô.”

Chỉ vậy thôi sao…?

Không… Quan ra lệnh giải cậu ấy về lại ngục và đánh roi lần nữa. Rồi lại truyền dẫn ra trước công đường một lần cuối. Lần này, tên đao phủ cầm trên tay một chiếc kẹp nung đỏ…

“Nếu mày không giẫm lên dấu Thánh Giá, tao sẽ lột da mày ra.” – quan quát.

Gioan tiến thẳng tới chỗ tên đao phủ và giơ tay ra… Người ta giải cậu về lại nhà tù, toàn thân bê bết máu, ngất lịm đi, nhưng vẫn thanh sạch không vương tội chối đạo. Giờ đây, cậu đang sống cùng những người bị lưu đày ở Lạng Sơn…

Thầy Triêm quỳ xuống, vừa cầu nguyện vừa mỉm cười qua làn nước mắt.
Khi đứng dậy, thầy nhẹ nhàng đặt tay lên trán người bạn trẻ đang nằm sấp dưới chân mình:

Còn con, hỡi đứa con bất hạnh… từ ngày ấy con đã ra sao?

Con đã trốn về làng quê… Nơi mẹ con – một người góa phụ – đang sống một mình…

Đến đây, một tiếng nấc nghẹn ngào cắt đứt lời cậu.

Thầy Triêm đỡ đầu cậu dậy, và dịu dàng buộc cậu tiếp tục kể:

Mẹ… mẹ con đã nguyền rủa con…
“Ta sẽ không bao giờ cho một kẻ phản đạo – dù là con ta – được sống dưới mái nhà này. Nếu con đã chết, hỡi con trai của ta, ta sẽ khóc con như một vị tử đạo. Nhưng hôm nay, ta chỉ biết khóc vì nhục nhã đã sinh ra một đứa chối đạo…”

Cậu bé đáng thương Phanxicô Bột đã tha thiết nài xin thầy phó tế Triêm đưa mình đến gặp Đức Giám mục, để có thể xin ơn tha thứ và đền bù lỗi phạm. Với sự thận trọng thường có, Phêrô Triêm nhẹ nhàng giải thích cho người bạn trẻ rằng: sự tha thứ của Đức Giám mục không phải là điều kiện bắt buộc, rằng cậu có thể lãnh ơn tha thứ từ bất kỳ linh mục nào và chỉ cần chu toàn việc đền tội là đủ. Và việc đền tội ấy thật anh hùng.

Vài tuần sau, thầy Triêm nhận được thư của Phanxicô Bột, kể rằng cậu đã xưng tội và được giao hòa với Hội Thánh, nhưng vẫn cảm thấy cần làm điều gì hơn nữa. Cậu xin phép: liệu mình có thể trở lại trước mặt quan ở Nam Định để công khai tuyên xưng đức tin, như một hành vi chuộc lại lỗi lầm. Người nhận thư lập tức hồi âm: nếu Phanxicô đã chu toàn mọi việc theo chỉ dẫn của cha giải tội, thì lương tâm cậu có thể bình an.
Nhưng nếu cậu cảm thấy được Thiên Chúa thúc đẩy, và muốn tuyên xưng đức tin trước công đường, thì hành vi ấy sẽ tôn vinh Hội Thánh cách anh dũng.

Ngay khi nhận thư hồi đáp, chàng chủng sinh trẻ mặc y phục đẹp nhất, rồi lên đường đến Sơn Miêng, nơi mẹ cậu đang sống.

Con kính chào mẹ, cậu nói. Vài tuần trước, ở Nam Định, con đã hèn nhát: con đã để người ta khiêng mình qua dấu Thánh Giá. Hành vi ấy khiến mẹ buồn khổ biết bao. Con xin mẹ tha lỗi, như con đã xin Thiên Chúa thứ tha. Con đã làm trọn việc đền tội, nhưng hôm nay, con muốn trở lại thành phố, đến trước mặt quan lớn, và hủy bỏ điều mà ông ta đã buộc con làm bằng mưu mô. Con đến đây, mẹ ơi, để kính chào mẹ và xin mẹ cho phép con ra đi.

Rồi bốn lần liên tiếp, cậu quỳ lạy sát đất – theo nghi lễ tôn kính dành cho bậc trên trong những hoàn cảnh hệ trọng tại An Nam.

Con có thể đi và làm điều con nói, hỡi con trai của mẹ, người mẹ anh hùng ấy đáp lại. Mẹ đã dâng con cho Thiên Chúa từ lâu để trở thành linh mục của Người – con thuộc về Thiên Chúa. Nguyện xin Người nâng đỡ con!

Ngày hôm sau, quan lớn ở Nam Định vừa yên vị trên ghế xét xử thì một chàng trai trẻ bước vào vội vã, đứng thẳng trước mặt ông và dõng dạc nói:

Con kính chào quan lớn! Con là chủng sinh Bột. Cách đây vài tuần, ngài đã khiến con phản đạo bằng cách lừa con. Binh lính của ngài đã khiêng con qua Thánh Giá. Nhưng hành vi ấy – con không chấp nhận! Con không muốn giữ điều đó trong lòng. Con đem nó đến để trao trả lại cho ngài.

Quan tòa sững sờ, ra lệnh đuổi kẻ láo xược ấy ra khỏi công đường. Nhưng chàng trai dũng cảm lại bước vào lần nữa, và một lần nữa lớn tiếng tuyên bố. Lần này, vị quan ra lệnh đánh đòn thật nặng, trong khi người thanh niên quả cảm cứ lặp đi lặp lại: Hành động đó không phải là của con, mà là của quan lớn. Con chỉ đến để trả lại.

Cuối cùng, vì không thể làm cậu im lặng, quan lớn nổi giận, truyền trói cậu lại và ném vào chuồng voi.

Khi vị tử đạo cao quý ấy bị trói chặt tay chân và đặt xuống đất trong chuồng voi, những con thú khổng lồ từ từ tiến lại gần. Thông thường, những con voi ấy sẽ nghiền nát nạn nhân ngay lập tức. Nhưng với Phaolô Bột, lại không như thế. Dường như chúng tỏ lòng kính trọng. Suốt hai tiếng đồng hồ, chúng chỉ quan sát chàng thanh niên nằm bất động dưới đất, trong khi người ta nghe thấy cậu thầm thì cầu nguyện hoặc lặp đi lặp lại:

Hành động đó không phải của con. Con đến để trao trả lại cho quan lớn.

Cuối cùng, vị quan, mất kiên nhẫn, bắt đầu kích động bọn voi. Một trong những con thú khổng lồ tiến sát đến người tử đạo, rồi giơ lên một chân trước khổng lồ và đặt ngay lên ngực cậu bé. Một lời cầu nguyện sau cùng, một tiếng kêu, tiếng xương vỡ nát, máu trào ra, một thân xác nát vụn, tơi tả… Hội Thánh An Nam lại có thêm một vị chứng nhân nữa!

Trong khi chờ đợi phán quyết chính thức từ Hội Thánh, thì thi hài của cậu chủng sinh nhỏ bé, Phaolô Bột – người đã sám hối và anh dũng tử đạo – nay đang yên nghỉ trong nhà nguyện của Tiểu Chủng viện thuộc Hội Thừa sai Phát Diệm…

*

Trở lại với thầy đại chủng sinh Phêrô Triêm, người cũng đã phải rời bỏ Kẻ Non. Ba năm ngắn ngủi mà thầy vừa sống ở đó đã trải qua trong biết bao biến động, nhưng cũng chính là ba năm cuối cùng trong hành trình huấn luyện chức thánh của thầy. Trước sự đe dọa ngày càng gia tăng từ các biến cố bên ngoài, Đức cha Jeantet, người đang điều hành chủng viện, đã quyết định đẩy nhanh tiến trình truyền chức cho những chủng sinh ưu tú nhất. Thầy Phêrô Triêm được truyền chức phụ phó tế, rồi phó tế, trước khi chủng viện bị giải tán.

Ngay sau khi chịu chức, thầy lánh nạn cùng với vị giám mục tại làng La Mát. Thế nhưng, biện pháp ấy hóa ra không đủ.

Ngày 13 tháng 7 năm 1858, từ tờ mờ sáng, làng bị bao vây bất ngờ. Nguy hiểm cực độ: mọi lối ra vào đều đã bị binh lính chiếm giữ, được dẫn đường bởi bọn chỉ điểm…

Thầy phó tế Triêm hiểu rất rõ hiểm họa đang rình rập Đức cha Jeantet. Với óc thực tế sắc bén và cái nhìn nhanh nhạy – những nét sẽ còn tỏa sáng trong suốt đời thầy – thầy lập tức đứng ra chỉ huy cuộc phòng thủ trong tình thế khẩn cấp.

Làng La Mát nằm giữa một bên là núi, một bên là sông. Phêrô nhanh chóng nhìn ra lợi thế có thể tận dụng từ địa hình này. Thầy trình bày ngắn gọn cho nhóm tín hữu đang hoảng sợ. Không cần nói thêm lời nào với Đức cha, thầy âm thầm giao ngài cho một nhóm tín hữu trung thành, rồi bí mật đưa đoàn người lặng lẽ rút về phía núi.

Còn chính mình, thầy mặc vào chiếc áo dòng đẹp nhất, đeo thánh giá lớn ngay ngực, và đường hoàng bước ra phía bờ sông – nổi bật một cách cố ý giữa khung cảnh hiểm nghèo.

Vừa ra khỏi làng, thầy lập tức bị nhóm lính mai phục lao tới bắt giữ.

Các ông tìm ai? – thầy hỏi, giọng điềm tĩnh.

Chúng tôi tìm tên đầu lĩnh của tà đạo!

Chính là tôi. Các ông cần gì ở tôi?

Người phó tế can đảm bị trói nghiến lại bằng dây thừng, giữa tiếng hò reo cuồng nhiệt, trống chiêng vang dội khắp vùng như báo hiệu chiến thắng.

Từ phía núi, đám quân đang bao vây làng tưởng rằng cuộc truy bắt đã thành công, rằng đồng đội của họ đã bắt được giám mục. Tất cả đổ xô về phía bờ sông – đúng như những gì mà cha Triêm đã tính trước. Đức cha Jeantet được cứu thoát.

Còn người phó tế trẻ ấy – cuộc thương khó của thầy giờ mới chính thức bắt đầu.

Các quan không mất nhiều thời gian để phát hiện ra sự lừa dối. Vị phó tế khiêm nhường, bị đánh đập tàn nhẫn, bị ném xuống đáy một chiếc thuyền buồm, rồi bị áp giải đến phủ Phủ Lý, cách La Mát vài cây số.

Một biến cố cảm động đã đánh dấu cuộc hành trình ấy.

Chiều đến, bọn lính trói đã neo thuyền gần một ngôi làng để kiếm lương thực. Trên bờ, vài người phụ nữ, tò mò, đến nhìn vào trong thuyền. Họ nhìn thấy người tù Kitô hữu tiều tụy vì đói khát, đang kêu xin chút cơm từ lòng bác ái.

Ban đầu, các bà hoảng hốt khi nghe tiếng nói của một người tù Kitô, liền vội vã bỏ chạy. Nhưng một lát sau, một bà quay lại, trao cho người khốn khổ một bát cơm nhỏ, chan thêm chút nước mắm ruốc tôm – sản vật quê mùa từ những cánh đồng lúa. Hành động ấy, tưởng như nhỏ bé, đã không bị quên lãng… Ba mươi năm sau, Phêrô Triêm, cha sở Phát Diệm, đã trở thành một vị đại quan triều đình An Nam. Một ngày nọ, tại phủ Ninh Định, có một bà cụ đến quỳ dưới chân ngài, khẩn khoản xin tha cho hai người con trai đang bị giam giữ cách oan ức. Vừa nghe giọng nói và nhìn gương mặt khắc khổ, ngài bỗng nhận ra: chính là người phụ nữ năm xưa, vào tối ngày 13 tháng 7 năm 1858, đã không ngại ngần bố thí chút cơm cho người tù bị truy nã đang hấp hối vì đói… Không cần nói cũng hiểu, hai thanh niên kia lập tức được trả tự do.

Người tù của chúng ta chỉ dừng chân tại Phủ Lý một thời gian ngắn. Ngày hôm sau khi đến, ông lại bị áp giải về Hà Nội và bị giam trong ngục thất của Tổng Trấn… chính nơi đây, hai năm sau, sẽ giam giữ Thánh Théophane Vénard và là nơi ngài viết những bức thư cảm động nổi tiếng của mình.

Vài ngày sau khi đến nơi, Phêrô bị đưa ra trước tòa án của quan tổng trấn Hoàng Văn Phủ (?). Quan tra hỏi ông về quê quán, về quá khứ, và nhất là về vị Giám mục, các cha thừa sai, các linh mục bản xứ cùng những nơi họ đang ẩn náu. Người tù trả lời bằng những câu mà ai cũng đoán được — những lời không tiết lộ điều gì quan trọng đối với vị quan.

Tức giận vì không moi được bí mật nào, viên quan ra lệnh cho trói ông lại, bắt nằm xuống đất để chịu trận đòn roi tàn bạo theo thông lệ. Người bị kết án được khiêng về ngục thất trong tình trạng bất tỉnh.

Nhiều lần sau đó, ông bị triệu ra tòa. Lần nào cũng vậy, ông bị ép phải chối bỏ Thiên Chúa và giẫm đạp lên Thánh giá. Nhưng mỗi lần, dù phải chịu những cực hình đau đớn, ông vẫn không hề lay chuyển: máu ông đổ xuống dưới những đòn roi mây, da thịt bị xé toạc vì đòn tra tấn, thậm chí ông còn phải chịu hình phạt ghê rợn nhất – kìm sắt lạnh. Người ta không dám kể chi tiết cảnh tượng kinh hoàng ấy. Tên lý hình dùng kìm sắt kẹp lấy một mảng thịt của nạn nhân, rồi vừa xoắn vừa giật mạnh để xé toạc ra. Hành động đó có thể được lặp đi lặp lại năm hoặc sáu lần.

Người ấy nói với một niềm xác tín sâu sắc, với một nghệ thuật hùng biện tuyệt vời đến nỗi những người nghe ông đều bị thuyết phục.

— Thật đáng tiếc, họ nói, người này lại là Kitô hữu! Với học vấn như vậy, ông ta hẳn đã trở thành một vị quan lớn!

Nhiều lần, họ còn hứa sẽ giúp ông đạt tới những chức vị cao nhất, nếu ông chịu chà đạp lên thánh giá.

— Tôi không muốn chà đạp lên bất kỳ ký tự nào trong chữ Hán, — ông đáp — vì tôi kính trọng tất cả chúng; nhưng riêng chữ “thập” thì tôi càng không thể, vì nó biểu tượng cho thánh giá, nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chấp nhận chịu chết để cứu chuộc chúng ta và đưa chúng ta vào thiên đàng.

Cuối cùng, các quan tòa, tuyệt vọng vì không khuất phục được lòng trung kiên ấy, đã tuyên án lưu đày cho bị cáo. Bản án được gửi đến Huế để nhà vua phê chuẩn và đã được chuẩn y. Vào đầu năm 1859, thầy phó tế Triêm, sau sáu tháng bị giam tại Hà Nội, bị áp giải đến Lạng Sơn — nơi lưu đày — cùng với một đoàn tù nhân.

Lạng Sơn, nằm sát biên giới Trung Hoa, nổi tiếng là một vùng đất hoang vu và độc hại. Các vua nước An Nam đã biến nơi đây thành đất lưu đày và thuộc địa khai hoang cho vương quốc của họ. Điều đó có nghĩa là, tuy những người bị lưu đày phải chịu sự giám sát của chính quyền, nhưng họ vẫn được hưởng một mức độ tự do tương đối — mức tự do ấy thậm chí có thể được nới rộng, nếu biết “trả giá” thích đáng.

Một niềm vui dịu dàng chào đón Phêrô Triêm khi ông đến Lạng Sơn: tại đây, ông gặp lại người em trai anh dũng của mình, Gioan, người vẫn chưa trút hơi thở cuối cùng dù mang nhiều thương tích.

Sự Quan phòng của Thiên Chúa đã dành cho vị tử đạo trẻ tuổi niềm an ủi được ra đi trong vòng tay người anh thân yêu, người đã túc trực bên giường bệnh và chăm sóc những giây phút hấp hối của em bằng sự dịu dàng như một người mẹ. Gioan Pháp đã nhẹ nhàng từ giã cõi trần để bay về trời, miệng không ngừng chúc tụng Thiên Chúa vì đã sai thiên thần của Người đến nâng đỡ những giây phút cuối đời.

*

Thế là thầy phó tế của chúng ta đã được an cư giữa một cộng đoàn Kitô hữu đông đảo, và — do một diễn biến bất ngờ của thời cuộc — được che chở khỏi những cuộc bách hại đang tàn phá các nơi khác trong cả nước. Nhiều người bị lưu đày nơi đây mang một cách tự hào trên khuôn mặt mình những dấu tích vinh quang của lòng trung thành với đức tin: họ bị khắc lên má những ký tự Hán có nghĩa là “thuộc về tà đạo.”

Nhưng nhờ cái giá đó, họ có thể tương đối tự do làm việc để kiếm sống. Tại Lạng Sơn cũng như các nơi khác, người ta phải chuẩn bị, dẫn thủy, gieo trồng lúa — vì nếu không có ruộng lúa, thì không thể sống ở Đàng Ngoài. Phêrô Triêm nhanh chóng gây được sự kính trọng và yêu mến từ đồng bào, những người đã dành cho ông một vị trí đặc biệt giữa họ. Họ kính trọng nơi ông không chỉ là phẩm cách tôn giáo mà còn cả trí tuệ của ông. Chính lúc ấy, ông nhận được biệt danh mà từ đó gắn liền với ông cho đến ngày qua đời: “Cụ Sáu”.

Điều này cần được giải thích ngắn gọn. Ở Đàng Ngoài, người ta thường thêm vào tên các chủng sinh một con số tương ứng với cấp chức thánh đã lãnh nhận: một thầy nhỏ tên là Thành sẽ được gọi là “Thầy Tư Thành” nếu đã lãnh nhận bậc thứ tư; nếu là phụ phó tế thì gọi là “Thầy Năm”; còn nếu là phó tế chính thức thì gọi là “Thầy Sáu”.

Vì thế, Phêrô Triêm đương nhiên được gọi là “Thầy Sáu Triêm” hay đơn giản là “Cụ Sáu.” Biệt danh này gắn liền với ông đến nỗi, khi đã trở thành linh mục, người ta cũng chỉ gọi ông là “cha Sáu” mà thôi.

Các viên chức dân sự cũng nhận ra tầm ảnh hưởng của người mới đến, và dần quen việc nhờ cậy ông. Người ta phát hiện ông có kiến thức xuất sắc về chữ Hán. Với nét chất phác của người dân Đông phương, thỉnh thoảng họ mời ông phiên dịch hoặc soạn thảo một vài văn bản hành chính bằng Hán văn.

Quả thật, như các quan ở Hà Nội đã nói, người có học thức như ông chính là nhân tài có thể làm quan. Chính cơn bách hại lại đang mở đường danh dự cho “Cụ Sáu”!

Tổng đốc tỉnh nghe tin về tài năng của ông, liền mời thầy phó tế làm gia sư cho các con mình.

Vậy là “Cụ Sáu” bước vào phủ quan. Ông đủ khôn ngoan để không lạm dụng vị thế ấy. Ông thể hiện là một gia sư tận tụy nhất… và âm thầm dõi theo biến động của thời cuộc.

Ông không phải chờ đợi lâu.

Năm 1858 đã khép lại trong tang tóc đối với Đàng Ngoài. Ngày 22 tháng 10, Đức cha Retord — vị tông đồ can trường — đã qua đời một cái chết thánh thiện như thánh Phanxicô Xaviê, giữa cảnh cô đơn trong một túp lều tồi tàn giữa rừng sâu của miền truyền giáo.

Khi được báo tin về biến cố trọng đại ấy, Đức cha phụ tá của ngài, Giám mục Jeantet, lúc ấy đã 67 tuổi — và còn mệt mỏi hơn vì 39 năm tông đồ miệt mài — đã quyết định không trì hoãn việc đảm bảo sự kế vị cho ngôi giám mục của Giáo hội.

Ngài cho gọi một nhà truyền giáo trẻ mới 29 tuổi tên là cha Theurel, người đã đến Đàng Ngoài cùng với Théophane Vénard, và báo cho ngài biết rằng cần chuẩn bị để tiếp nhận danh hiệu và sứ mạng của vị giám mục vừa qua đời.

Chúng ta hãy để chính Đức cha Theurel kể lại biến cố này:

“Một ngày nọ, khi tôi đang ở trong chuồng trâu, tôi nhận được lệnh phải tĩnh tâm ngay lập tức, rồi đến gặp Đức cha. Sau khi hoàn tất kỳ tĩnh tâm được truyền, tôi đi suốt hai đêm để đến địa điểm hẹn, là thôn Kẻ Trù. Ngày hôm sau, cuộc bầu chọn diễn ra; hôm kế tiếp là lễ truyền chức. Đó là ngày 6 tháng 3 năm 1859.

“Buổi lễ không có vẻ gì là long trọng cả. Vì không có linh mục Tây nào ra khỏi nơi ẩn náu được, hai linh mục An Nam thay thế làm giám mục phụ phong. Tôi cầm gậy mục tử là một cành tre cắt vội trong bụi rậm gần đó, được quấn giấy vàng và gắn một sợi rơm thắt vòng ở đầu. Tôi không có vớ; cũng không sao tìm được găng tay. Buổi lễ kết thúc hơn hai tiếng trước khi mặt trời mọc.”

Và thế đấy, ở Đàng Ngoài người ta truyền chức giám mục là như vậy.[4]

Việc Đức cha Jeantet đã làm cho Đức cha Theurel cũng gợi cho ngài một quyết định tương tự đối với thầy Triêm. Ngài đã biết rõ những hành trình đầy quan phòng của thầy phó tế ấy, và lập tức nghĩ đến việc truyền chức linh mục cho thầy, để âm thầm đặt thầy làm cha sở cho những người bị lưu đày ở Lạng Sơn.

Vào cuối năm 1859, một ngày nọ, “Cụ Sáu” đón tiếp một người phụ nữ từ đồng bằng lên, mang đến cho ngài một bức thư mật của Đức cha Jeantet… cùng với ba thỏi bạc để “mua” sự tự do cần thiết cho chuyến đi về làng Kẻ Trù.

Nhờ vào sự tín nhiệm mà “Cụ Sáu” có được nơi chính quyền địa phương, cộng thêm ba thỏi bạc, mọi trở ngại đều được gỡ bỏ. Tháng Giêng năm 1860, một chàng kỵ sĩ trẻ tuổi thản nhiên cưỡi ngựa từ núi rừng Lạng Sơn xuống đồng bằng. Đó chính là “Cụ Sáu”, vẫn điềm đạm và nghiêm trang như thường lệ. Chuyến đi đến Kẻ Trù mất ba ngày, và ông không khó khăn gì trong việc tìm đến nơi ẩn náu của Đức cha.

Có mọi lý do để tin rằng lễ truyền chức linh mục cho người mà từ nay gọi là “cha Sáu” đã diễn ra với sự đơn sơ chẳng khác gì lễ tấn phong giám mục của Đức cha Theurel, và có lẽ người ta lại dùng cây gậy tre làm gậy mục tử và mũ miện bằng giấy như trước.

Những cảm xúc chan chứa giữa hai bên, tuy mãnh liệt nhưng ngắn gọn. Ngay ngày hôm sau, sau khi chịu chức, cụ Sáu lại cưỡi ngựa trở về Lạng Sơn, mang theo toàn quyền để thi hành các bí tích trong khắp cả tỉnh.

Sứ vụ mục tử của ngài chính thức bắt đầu.

CHƯƠNG IV – VỊ LINH MỤC

Trong một bức thư tuyệt đẹp đề ngày 31 tháng 1 năm 1860, gửi cho cha Charrier — một vị tuyên xưng đức tin — tân giám mục của Đàng Ngoài, Đức cha Theurel, đã viết với nỗi buồn pha lẫn niềm tự hào: “Bất cứ ai muốn làm Kitô hữu tại xứ sở này đều phải là một anh hùng.”

Từ tháng Chín năm 1858 đến tháng Sáu năm 1859, riêng Địa phận Tây Đàng Ngoài đã có mười ba vị tử đạo, trong đó có sáu linh mục người An Nam… Chỉ riêng trong tháng Mười Hai, năm linh mục của chúng tôi đã bị bắt và giam cầm… Ở Đàng Trong, kể từ khi người Pháp đặt chân lên bờ biển, đã có mười sáu linh mục tử đạo… Các tỉnh giáp ranh với Trung Hoa đầy ắp những vị tuyên xưng đức tin bị lưu đày, mà một nửa trong số họ là con cái của Nhà Chúa — nghĩa là những chủng sinh của các đại chủng viện.

Chỉ trong vài dòng ngắn ngủi, Đức cha Theurel đã phác hoạ chính xác phẩm chất và tầm quan trọng của cộng đoàn Kitô hữu đang được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ của cha Sáu tại chốn “lao tù” Lạng Sơn. Dù là chủng sinh hay giáo dân, tất cả đều thuộc dòng dõi những anh hùng vô danh mà vị giám mục của họ hết lòng khâm phục, và dường như được Thiên Chúa Quan Phòng giữ lại như hạt giống cho sự phục sinh mai ngày của Giáo Hội An Nam.

Số người lưu đày ở đó không ngừng tăng lên, bởi từ năm 1860 đến 1862, cuộc bách hại do vua Tự Đức phát động đã lên đến đỉnh điểm. Nguyên do là vì ngai vàng của nhà vua đang lung lay. Pháp và Tây Ban Nha đã quyết định chấm dứt những cuộc thảm sát nhắm vào công dân của họ. Từ năm 1833 đến 1858, đã có bảy giám mục — một người Pháp và sáu người Tây Ban Nha — cùng với chín nhà truyền giáo (sáu Pháp, hai Tây Ban Nha và một Ý) bị giết hại.

Cuối năm 1858, một hạm đội liên quân Pháp–Tây Ban Nha dưới quyền Phó đô đốc Rigault de Genouilly đã cập bến Tourane (cảng Đà Nẵng). Chỉ trong vài ngày, bán đảo đã rơi vào tay quân đồng minh.

Kinh đô Huế lúc ấy hoàn toàn nằm trong tầm tay. Nhưng viên đô đốc đã chọn dồn sức vào Nam Kỳ và chiếm lấy Sài Gòn.

Tự Đức rùng mình vì sợ hãi, và còn phẫn nộ hơn. Bởi lẽ, khi đang run sợ vì nguy cơ mất các tỉnh phía Nam, một mối đe doạ không kém phần nghiêm trọng lại đang rình rập miền Bắc: một hoàng thân thuộc vương triều bị Gia Long lật đổ — tức là hàng ông  của Tự Đức — tên là Lê Phùng (?), đã lợi dụng những sai lầm của người cháu nội vị minh quân năm xưa và sự hiện diện của thuỷ quân ngoại quốc để tập hợp tất cả những người bất mãn đứng về phía mình.

Năm 1860, Lê Phùng đã khởi nghĩa tại Đàng Ngoài — đặc biệt là ở vùng trung và đông — chống lại sự chuyên chế của Tự Đức, đồng thời tìm cách lôi kéo người Pháp về phía mình.

Những biến cố này lẽ ra đã có thể phục vụ cho chính nghĩa của cha Sáu và đoàn chiên của ngài, nhưng không theo cách mà người ta có thể tưởng tượng.

Đây không phải lần đầu tiên vấn đề lương tâm trong việc chống lại bạo quyền được đặt ra giữa các Kitô hữu An Nam. Vấn đề này đã có từ thuở khai sinh Hội Thánh, và luôn được giải quyết theo cùng một hướng. Trước đây, Đức cha Retord đã từng nhắc lại điều ấy cho các linh mục của mình, nhân một cuộc nổi dậy do một hoàng thân khác tên là Hoàng Bảo khởi xướng.

Trong một bức thư gửi cho toàn thể các linh mục, ngài đã trình bày cách rõ ràng: “sự phản loạn là một hành động tội lỗi, cơ hội thành công là điều không tưởng, và cuộc nổi dậy là một hành vi liều lĩnh.” Và ngài còn thêm: “Tạ ơn Thiên Chúa, tôi chưa từng nghe nói rằng có tân tòng nào của chúng ta gia nhập vào hàng ngũ phiến loạn.”

Chính thái độ ấy của Đức cha Retord và của Đức cha Gauthier — người phụ tá cũ của ngài tại Đàng Trong — đã góp phần giữ vững quyền lực cho vua Tự Đức. Quả thật, nếu các giám mục của các Hội Thừa sai Pháp và Tây Ban Nha đã quyết định huy động bốn đến năm trăm ngàn Kitô hữu — những người được tổ chức chặt chẽ, được đào tạo kỹ lưỡng, được điều động bởi các thầy giảng — thì các quan lại triều đình hẳn đã bị cuốn bay như rơm rạ giữa cơn lốc xoáy.

Thế nhưng, trung thành với bổn phận mục tử và sẵn sàng chịu chết như các vị chủ chăn thuở ban đầu, các vị lãnh đạo Hội Thánh tại Đàng Ngoài đã giảng dạy và sống trọn vẹn tinh thần vâng phục đối với bậc quân vương đang bách hại và sát hại chính họ.

Đó chính là đức ái Kitô giáo đích thực — thứ đức ái chỉ biết chiến thắng bằng thập giá.[5]

Năm 1860, tình hình đối với Tự Đức lại càng nguy kịch hơn. Lê Phùng — vị hoàng thân nổi dậy — đã làm chủ các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ. Binh lính của ông ta bất ngờ tràn vào tỉnh Lạng Sơn và tiến sát đến tỉnh lỵ, bao vây thành trì.

Trong tình cảnh ấy, nếu người Kitô hữu đưa tay ra trợ giúp quân nổi loạn, thì quan tổng đốc còn có thể làm được gì? Thái độ của cha Sáu sẽ quyết định phản ứng của phần còn lại của dân chúng.

Quan tổng đốc liền kêu gọi lòng trung thành của cha, và đề nghị trao cho các Kitô hữu phụ trách bảo vệ một phần của thành.

Cụ Sáu là người có con mắt nhìn xa và trí khôn thực tế. Ngài đã ghi nhớ các bài học từ Đức cha Retord và không hề do dự. Tuy phẩm vị linh mục không cho phép ngài đứng ra làm tướng cầm quân, nhưng cũng không cấm ngài triệu tập cộng đoàn và truyền cho họ tinh thần yêu nước của mình.

Thật vậy, chính những người bị bách hại — cha Sáu và các Kitô hữu bị lưu đày ở Lạng Sơn — lại trở thành những thần dân trung thành nhất của Tự Đức. Nhờ họ, cuộc tấn công vào thành đã thất bại, và điều đó lại càng vẻ vang hơn, vì Lê Phùng vốn hy vọng sẽ có sự thông đồng âm thầm từ phía Kitô hữu, nên đã dồn toàn lực vào mặt trận này. Nhưng ông ta buộc phải rút lui. Ngày hôm sau, Lê Phùng rời khỏi Lạng Sơn — và chẳng bao lâu sau, rút khỏi cả Đàng Ngoài.

Cụ Sáu đã giành được một thắng lợi to lớn! Từ đó, quan tổng đốc cho phép ngài hoàn toàn tự do đi lại trong toàn tỉnh để thi hành quyền bính mục vụ, vốn đã mang lại nhiều lợi ích cho trật tự công cộng.

Và thế là tại Lạng Sơn đã hình thành một nghịch lý kỳ lạ: giữa thời kỳ bách hại khốc liệt đang thiêu đốt toàn cõi An Nam, lại có một cộng đoàn Kitô hữu được tổ chức ổn định, sống yên bình ngay trong chốn lưu đày của vương quốc.

Bởi vì lúc này, Tự Đức bắt đầu trả thù. Mức độ tàn bạo của những biện pháp trấn áp phản ánh chính xác cường độ nỗi sợ hãi mà ông từng phải trải qua, cũng như nỗi cay đắng vì đã để mất Sài Gòn.

Và để trả đũa, bất chấp việc có thể khiến các tỉnh rối loạn đến tận gốc rễ, Tự Đức nghĩ ra một hình thức bách hại mới: chia cắt và phân tán các gia đình Kitô hữu.

Dưới đây là chiếu chỉ mới, được gợi hứng từ lòng thù hận của ông, mà trong các năm 1860 và 1861 đã phủ lên toàn cõi An Nam một màn nước mắt và đổ nát.

Chiếu chỉ của vua Tự Đức (1860–1861)

Điều 1. — Tất cả những ai mang danh là Kitô hữu, dù là nam hay nữ, giàu hay nghèo, người già hay trẻ nhỏ, đều sẽ bị phân tán đến các làng ngoại giáo.

Điều 2. — Mỗi làng ngoại giáo sẽ chịu trách nhiệm quản thúc số Kitô hữu được gửi tới, theo tỷ lệ cứ một Kitô hữu thì phải có năm người ngoại giáo giám sát.

Điều 3. — Tất cả các làng Kitô giáo sẽ bị triệt hạ và phá hủy hoàn toàn; đất đai, vườn tược và nhà cửa sẽ được chia cho các làng ngoại giáo lân cận, với điều kiện các làng này sẽ thay mặt nộp thuế cho nhà nước.

Điều 4. — Nam và nữ sẽ bị tách rời; nam giới sẽ bị đày sang một tỉnh, nữ giới bị đày sang một tỉnh khác, để họ không thể đoàn tụ. Trẻ em sẽ bị chia cho những gia đình ngoại giáo nào tự nguyện nhận nuôi.

Điều 5. — Trước khi rời đi, tất cả Kitô hữu — nam, nữ và trẻ em — sẽ bị khắc dấu trên mặt: bên má trái khắc hai chữ Hán Tà Đạo (nghĩa là “tôn giáo xấu”), còn bên má phải sẽ khắc tên tổng và phủ nơi họ bị đưa đến, để họ không thể trốn thoát.

Chính vào thời điểm đó đã xảy ra những vụ thảm sát kinh hoàng khiến cả thế giới văn minh rúng động. Có những ngày, người ta chứng kiến tới sáu trăm Kitô hữu bị xử trảm chỉ trong một ngày; có đến ngàn hai hay ngàn rưỡi người bị nhốt chật cứng trong những nhà giam chật hẹp, rồi bị lính bao vây bằng rơm, tre, bụi rậm và thiêu sống[6].

Tại Tây Đàng Ngoài, trong số mười nhà truyền giáo, chỉ còn ba người tránh được bàn tay bách hại của quan lại. Các cha Vénard và Néron đã bị chém đầu; các cha Charbonnier và Mathévon bị giam tù; những người còn lại thì chết vì kiệt sức.

Thế nhưng, trong khi toàn cõi An Nam chìm trong bão tố, tỉnh Lạng Sơn lại được hưởng một sự bình yên tương đối. Những người bị lưu đày tiếp tục đổ về nơi đây, mang trên khuôn mặt dấu khắc đau thương — minh chứng cho “tội lỗi” của họ — nhưng họ tìm thấy nơi các cộng đoàn Kitô giáo do cha Sáu tổ chức niềm an ủi và bình an, những điều dường như đã biến mất khỏi phần còn lại của đế quốc.

Không chỉ các bí tích được cử hành cách đều đặn, mà nhờ vào số đông các giáo lý viên và chủng sinh mà cha Sáu đang có bên mình, việc giảng dạy giáo lý và cử hành phụng vụ được tổ chức cách bài bản và quy củ.

Tuy nhiên, vị mục tử nhiệt thành ấy đã dốc toàn sức lực cho sứ vụ đến mức chóng mặt. Ngài ngã bệnh — một cơn bạo bệnh đến nỗi người ta tưởng không thể qua khỏi.

Với đức tin và sự đơn sơ quen thuộc, cha Sáu đã hướng lòng về trời và khấn với Đức Mẹ rằng: nếu được khỏi bệnh, ngài sẽ dâng kính Mẹ một nguyện đường đẹp nhất có thể, tuỳ theo khả năng của mình.

Ngài đã được chữa lành, và trở lại công việc mục vụ với một lòng nhiệt thành mới mẻ. Một sự kiên tâm như thế hẳn phải được thưởng công.

Ngày 5 tháng 6 năm 1862, nước Pháp đã buộc vua Tự Đức ký hiệp ước bảo đảm quyền tự do tôn giáo cho các Kitô hữu.

Giáo Hội An Nam bắt đầu đứng dậy từ đống tro tàn, và cụ Sáu đáng kính trở thành một trong những người góp phần lớn lao vào cuộc phục hưng ấy.

Công cuộc tái thiết cộng đoàn Kitô hữu An Nam là một nhiệm vụ khổng lồ, đòi hỏi nơi những người đảm trách một ý chí kiên cường và tài năng phi thường.

Hãy tưởng tượng mà xem! Suốt bao năm trời, người Kitô hữu bị đặt ra ngoài vòng pháp luật! Mọi hành động chống lại họ đều được xem là hợp pháp. Nhà cửa của họ có thể bị thiêu rụi, ruộng vườn bị chia cho người ngoại giáo, gia đình bị ly tán, con cái bị bán đi. Mọi khiếu nại nhằm chống lại họ đều được xử thắng.

Đối với những làng toàn tòng Kitô giáo, cuộc bách hại càng khốc liệt hơn. Chẳng hạn, tại Vĩnh Trị — một địa danh bị xem là “thành phố bị nguyền rủa” — một chiếu chỉ năm 1857 đã ra lệnh phải phá huỷ hoàn toàn nơi này. Ngôi làng đã bị san bằng: nhà cửa, hàng rào, hoa màu đều bị voi giày nát. Trên đống hoang tàn, người ta rắc muối, và cái tên Vĩnh Trị bị xoá khỏi bản đồ hành chính của cả vương quốc.

Những đổ nát tinh thần cũng tàn khốc không kém gì những đống tro tàn vật chất. “Để giữ được đức tin Kitô giáo tại đất nước này, người ta phải là một anh hùng” — đó là lời xác quyết của vị Giám mục Đàng Ngoài.

Thế nhưng, không phải ai cũng là anh hùng. Và vì thế, sứ vụ đầu tiên mà các linh mục và nhà truyền giáo tại Đàng Ngoài phải thực hiện, chính là sứ vụ hòa giải — dành cho những ai đã phản bội hoặc chỉ đơn giản là đã lơ là, bỏ quên bổn phận của mình.

Một bức thư của Đức cha Theurel cho thấy phần nào gánh nặng mục vụ mà các ngài phải mang. Có người từng trách ngài đã dành tới mười một ngày và mười một đêm liên tục để giải tội.

Ngài trả lời:

“Tôi cũng muốn xem nếu ông ở vào chỗ tôi thì liệu có làm tốt hơn chăng. Khi mang trái tim của một linh mục và đức tin của một Kitô hữu đơn sơ, liệu có thể bỏ rơi những linh hồn đang khao khát ơn cứu độ không? Dù có phải chết vì kiệt sức, ông cũng biết rằng ta sẽ không lùi bước. Khi tôi định bước ra khỏi túp lều của mình để duỗi chân đôi chút, tôi buộc phải băng qua một đám đông những con người khốn khổ, đang quỳ hoặc nằm rạp dưới đất, van xin: ‘Thưa cha, con đã đi ba mươi, bốn mươi, sáu mươi dặm đường để đến đây!’ — ‘Cha ơi, xin thương xót linh hồn con, đừng từ chối một kẻ tội lỗi đáng thương.’

Tôi không đành lòng bước tiếp. Và hãy nhớ rằng, những người cất lên lời van nài ấy phần lớn là những vị tuyên xưng đức tin. Họ đã phải chịu đựng hình phạt bằng sắt nung đỏ, và trên trán hay má họ vẫn còn khắc sâu hai chữ ‘Tà Đạo’. Những dấu tích ấy đủ khiến vị giám mục của họ phải đỏ mặt vì hổ thẹn, nếu như ngài dám để cảm xúc cá nhân lấn át lòng xót thương.”

Tất cả các linh mục và nhà truyền giáo đều phải làm như vậy. Trước khi tổ chức lại các cộng đoàn Kitô hữu, họ phải bắt đầu bằng việc quy tụ lại các tín hữu, giúp họ tái chiếm lại mái ấm và ruộng đồng của mình, bảo đảm cho họ có được nắm gạo cần thiết để sinh sống.

Một bức thư của cha Puginier — người sau này sẽ kế nhiệm Đức cha Theurel — cho thấy rõ hoàn cảnh phức tạp mà mỗi người phải xoay sở để thi hành sứ vụ:

“Dân chúng vẫn chưa yên tâm chút nào. Ở nhiều nơi, người ta không dám đến tìm linh mục, ngay cả khi có người bệnh nặng; rất ít cộng đoàn dám mời ngài đến để cử hành các bí tích. Nhưng ở nơi khác thì việc mục vụ lại được tiến hành khá long trọng. Chúng tôi nằm trong tay các quan lại nhiều hơn là dưới quyền nhà vua. Ở nơi này, nếu quan tốt, thì gió thuận chiều, con thuyền có thể giăng buồm mà lướt nhanh trong vùng biển tự do; nhưng ở nơi khác, nếu quan có ác ý, thì gió trở nên nghịch, ta buộc phải hạ buồm và đề phòng cẩn thận. Thường thì đó chỉ là một cơn mưa thoáng qua đổ xuống boong tàu, nhưng cách đó không xa, biển lại yên, nắng lại lên và trời lại trong.”

Cha Sáu đã tỏ ra là một tay lèo lái tài ba bậc nhất. Từ thời điểm ấy, tên tuổi của ngài bắt đầu lan rộng, và kể từ đó, Giáo hội, Đàng Ngoài và cả nước Pháp đều biết được giá trị vô giá của sự đóng góp nơi con người khôn ngoan ấy.

Ngay sau khi từ Lạng Sơn trở về, Đức cha Jeantet đã giao cho ngài nhiệm vụ kinh lý địa hạt Thanh Hóa, nơi bảy linh mục bản xứ trước đó đều đã tử đạo.

Thanh Hóa lúc ấy là một vùng đầy bất trắc đến nỗi, khi quan lại Ninh Bình nghe tin có linh mục đi ngang qua, liền ra lệnh bắt giam. Cha Sáu chỉ vừa kịp phóng ngựa chạy thoát và lên đường sang chặng tiếp theo.

Nhưng điều đó là một phần tất yếu trong “luật chơi”. Cụ Sáu chấp nhận di chuyển vào ban đêm và ẩn náu ban ngày trong những ngôi nhà mà ngài biết rõ chủ nhân. Những ngọn núi ở Mỹ Quam — quê hương ngài — luôn sẵn sàng trở thành nơi trú ẩn và nghỉ ngơi mỗi khi có biến.

Một thời gian sau, Đức cha Đàng Ngoài lại trao cho cha Sáu những nhiệm vụ khó khăn hơn. Trong tất cả các mối bận tâm của ngài, việc tái thiết Vĩnh Trị là điều đau đáu và ám ảnh nhất. Những người sống sót bị lưu đày từ Vĩnh Trị còn có thể làm được gì trên những đống đổ nát của một ngôi làng mà tên gọi chính thức đã bị xóa sổ? Có thể hy vọng gì rằng triều đình Huế sẽ hồi tâm chuyển ý và phục hồi danh dự cho “thành phố tử đạo” ấy?

Đây là một cuộc thương lượng đòi hỏi sự khéo léo của một nhà ngoại giao tài tình. Và cha Sáu — với tài ứng biến của mình — được chọn đảm nhận trọng trách này.

Một chọn lựa thật chính xác.

“Trần Văn Lục” — một tên gọi khác của cha Sáu, nhưng lần này là tên chính thức của ngài[7]— không còn là người xa lạ đối với triều đình Huế. Nhiều quan chức từng quen biết ngài ở Lạng Sơn lúc này đang giữ chức vụ tại triều, và họ đã kể lại những công trạng đặc biệt mà ngài từng cống hiến cho quốc gia.

Ngài tận dụng điều đó, bắt đầu bằng cách làm thân với một số quan lại có thế lực, và khéo léo trình bày thỉnh nguyện thư với một cung cách thận trọng, uyển chuyển. Sự xuất hiện của ngài gây nhiều ấn tượng. Người ta tiếc rẻ nói: “Thật đáng tiếc một con người như thế lại chỉ là một linh mục!” Kiến thức, sự tinh tế, thái độ lịch thiệp và sự kiên định của ngài xứng đáng với một số phận cao quý hơn.

Kết quả của cuộc thương lượng khéo léo này là một chiếu chỉ của triều đình: phục hồi tên gọi Vĩnh Trị, trả lại quyền lợi, tài sản và cho phép các cư dân cũ được trở về.

Để đáp lại công trạng đó, vị giám mục của ngài không có gì lớn để ban thưởng, ngoài việc giao phó cho cha Sáu một sứ mạng mà từ đây sẽ làm rạng danh ngài, và là công trình mà ngài sẽ dâng hiến trọn ba mươi lăm năm cuối đời mình: tái thiết giáo xứ Phát Diệm, nơi mà ngày nay đã trở thành tòa giám mục Phát Diệm.

Cụ Sáu được bổ nhiệm làm cha sở Phát Diệm vào năm 1865. Giáo xứ này đã hai năm không có chủ chăn. Thật ra, từ khi được thành lập, Phát Diệm chỉ mới có hai linh mục quản xứ — và cả hai đều đã chết vì đạo.

Phát Diệm là một giáo xứ còn non trẻ. Mới chỉ một trăm năm rưỡi trước, vùng đất nơi giáo xứ này mọc lên vẫn còn là mặt biển. Một hiện tượng địa chất lý thú giải thích nguồn gốc của vùng đồng bằng sông Hồng: chính là do phù sa của con sông này. Dần dần, nhờ lượng phù sa cực kỳ dồi dào của sông Hồng, đáy biển được bồi lắng, nâng cao và trồi dần lên mặt nước. Quá trình này vẫn đang tiếp diễn đến ngày nay.

Mỗi năm, vùng châu thổ sông Hồng lại mở rộng ra thêm khoảng 25 cây số chiều ngang và trung bình 100 mét chiều sâu. Như vậy, trong mười năm, đất liền có thể lấn thêm một cây số — điều đó lý giải tại sao ngày nay Phát Diệm đã nằm cách bờ biển hơn mười cây số.

Chúng ta không cần phải mô tả chi tiết tình trạng bi đát mà cha Sáu đã thấy khi nhận giáo xứ này — một giáo xứ cũng đã chịu chung số phận như mọi làng Công giáo khác, bị kết án tiêu diệt hoàn toàn.

Đợt tấn công đầu tiên xảy ra ngày 2 tháng 2 năm 1857, do tỉnh trưởng đích thân chỉ huy. Mục tiêu là bắt sống hay giết chết cha sở tiên khởi của Phát Diệm, cha Thomas Kỳ, một người mà danh tiếng đã trở thành huyền thoại.

Cha Kỳ, một con người cứng cỏi không kém gì cha Sáu, chẳng ngại gì việc trêu chọc hay thậm chí qua mặt các quan lại.

Hãy xét câu chuyện này thì rõ: một hôm, khi cha bị quân lính của tỉnh trưởng truy đuổi ráo riết và tưởng như sắp sa vào tay họ, ngài bất ngờ rẽ vào một trang trại.

Ngay trước mặt là một chiếc váy phụ nữ đang phơi trên dây… (Nhân đây cũng nên biết rằng, ở Đàng Ngoài, một người chồng bị vợ xúc phạm có quyền “dạy vợ” — bằng cách đánh đòn trực tiếp, hoặc… đánh tượng trưng bằng cách dùng vật tượng trưng như váy áo, và, theo người ta nói, hiệu quả vẫn như nhau!)

Cha Thomas Kỳ nhanh chóng nắm bắt tình huống. Khi toán lính tràn vào sân trại, họ phá lên cười khi thấy một “ông chồng hiền lành” đang ra sức “dạy vợ,” vừa đánh vào chiếc váy, vừa tuôn ra những lời chửi rủa bằng tất cả sự “hùng hồn” của tiếng An Nam.

Họ buông lời châm chọc người chồng khốn khổ ấy — mà chẳng ai tỏ chút thương hại nào — rồi rút lui, tiếp tục cuộc truy lùng lên phía núi. Thế là cha Kỳ ung dung quay về Phát Diệm.

Tuy nhiên, một sự phản bội đã khiến ngài rơi vào tay quân lính vào ngày 21 tháng 7 năm 1861. Ngài bị xử trảm vào ngày 5 tháng 12 cùng năm — chỉ vài tuần trước khi hòa ước được ký kết.

Không gì minh họa rõ hơn tình cảnh của người Công giáo thời bấy giờ bằng số phận bi thảm của người kế nhiệm cha Kỳ: cha Dũng khả kính. Dù hòa ước đã được chính thức ký kết, cuộc bách hại vẫn tiếp tục hoành hành, theo ý thích của các quan địa phương, như chúng ta đã thấy.

Ngày 20 tháng 5 năm 1863, cha Dũng bị bắt và giải về Ninh Bình, nơi ngài bị tống giam. Viên tổng đốc rất muốn xử trảm ngài ngay lập tức, nhưng một bản án như thế sẽ vi phạm điều khoản của hiệp ước tháng Bảy năm 1862, vốn cấm xử tử các tín hữu Kitô.

Nhưng điều đó cũng chẳng sao! Chỉ cần người bị kết án chết trong tù là đủ. Điều đó hoàn toàn có thể. Viên cai ngục nhận được lệnh thi hành. Hắn bắt người khốn khổ phải nằm đất, cổ đeo gông, chân bị cùm, tay chân bị trói chặt đến nỗi không thể cử động. Mọi thức ăn và nước uống đều bị từ chối cách không thương xót. Trong mười ba ngày đọa đày kinh hoàng ấy, vị chứng nhân thánh thiện đã vật vã trong hấp hối.

Thế là người ta giữ được “tinh thần” của hiệp ước.

Một ngày kia, cụ Sáu sẽ quy tụ những di hài quý báu của các vị tiền nhiệm (những người đang được tiến trình phong chân phước tại Tòa Thánh Roma) và cung kính an táng các ngài trong một hầm mộ gần nhà thờ chính tòa ngày nay.

Người ta có thể hình dung được trọng trách mà người kế vị các ngài phải đảm nhận.

Ngày nay, khách lữ hành đi qua Phát Diệm — một thành phố thực thụ với 15.000 dân, có tòa giám mục, chủng viện, những nhà thờ uy nghi và các cơ sở buôn bán lớn — khó lòng tưởng tượng được nơi mà cụ Sáu đã đặt chân đến khi xưa chỉ là một xóm nghèo tả tơi đến thế nào.

Thời ấy, Phát Diệm chỉ là một vùng đầm lầy lau sậy, cách biển bốn cây số. Những cư dân đầu tiên đã liều mình đặt chân lên vùng đất hoang ven đầm ấy, sống lay lắt nhờ vài thửa ruộng lúa nghèo nàn khai phá tạm bợ. Không có đê ngăn lũ, không có kênh dẫn thủy canh tác. Chỉ toàn nghèo khổ, bệnh sốt rét và thường xuyên đói kém!

Những năm đầu đời mục tử của vị cha sở mới được dồn trọn vào việc lập lại trật tự từ chính tình trạng hỗn độn ấy. Ngài có đầu óc tổ chức của một nhà quản trị, và là người con của tầng lớp bình dân, ngài thấm thía rằng không thể tách biệt đời sống đạo với đời sống xã hội của người nghèo. Chúng ta sẽ còn trở lại với khía cạnh này trong sứ vụ của ngài.

Chỉ xin nói ngắn gọn rằng, từ năm 1865 đến 1873, cụ Sáu âm thầm và bền bỉ làm việc tại đó theo cách rất đặc trưng của mình — lặng lẽ mà kiên trì. Nhưng số phận không dành cho ngài một thời gian nghỉ ngơi lâu dài. Bất ngờ, những biến cố nghiêm trọng lại xảy đến, làm rung chuyển toàn xứ Đàng Ngoài và một lần nữa đưa cụ Sáu trở lại vũ đài chính trị của quê hương mình.

CHƯƠNG V
Nhà Ngoại Giao

Không thể cường điệu quá mức tầm quan trọng và tiếng vang của cuộc viễn chinh do Francis Garnier thực hiện tại Đàng Ngoài vào tháng 10 năm 1873.

Hãy cùng điểm lại vắn tắt sự việc.

Một thương nhân người Pháp, ông Dupuis, muốn ngược dòng sông Hồng để lên tới tỉnh Vân Nam. Triều đình Huế từ chối cho thông hành. Để giải quyết tranh chấp này, phó đô đốc Dupre, lúc đó là Thống đốc Nam Kỳ, đã cử một sĩ quan hải quân là trung úy Francis Garnier ra Bắc. Khi gặp phải sự gian dối của triều đình An Nam, Garnier đã bất ngờ ra tay, thực hiện một cuộc đánh úp táo bạo, chiếm thành Hà Nội, rồi cùng các sĩ quan tài ba chiếm đóng vùng châu thổ và tuyên bố mở cửa sông Hồng cho việc buôn bán. (theo A. Launay)

Đây là khởi đầu cho một cơn hoảng loạn thực sự. Các quan lại bỏ trốn khỏi nhiệm sở, để mặc bộ máy hành chính rơi vào tình trạng tê liệt.

Người ta biết rằng, tại phương Đông, nội chiến luôn là hậu quả tất yếu của tình trạng hỗn loạn.
Hơn nữa, chính sách của nước Pháp tại Đông Dương vào cuối thế kỷ XIX lại đầy mâu thuẫn và thiếu nhất quán. Trong trường hợp thất bại, không chỉ các nhà truyền giáo, vốn được tuyên bố là đối tượng được bảo vệ, mà ngay cả binh lính Pháp cũng sẽ rơi vào cảnh nguy hiểm — mà diễn biến sau này đã minh chứng điều đó.

Trước tình thế ấy, Garnier buộc phải tự lập một chính quyền địa phương. Trong cơn bối rối, ông quay sang cầu cứu các nhà truyền giáo, và họ, một cách khôn ngoan, đã hướng ông đến những người bản xứ.

Một người có thể đứng vững giữa cơn biến loạn này: chính là cụ Sáu, người mà trước đây, trong một hoàn cảnh tương tự, thống đốc tỉnh Lạng Sơn đã phải viện tới — và không ai có thể nghi ngờ lòng trung thành yêu nước của cụ.

Cụ Sáu đến Hà Nội, vẫn giữ được sự điềm tĩnh như thường lệ, và nhận lời làm trung gian giữa hai thế lực đối nghịch. Việc đầu tiên cụ làm là niêm phong các kho lương thực công ở Hà Nội và Nam Định, nhằm ngăn chặn mọi hành vi cướp phá. Cụ tiếp xúc với các quan chức triều đình An Nam, và khi không thể thuyết phục được các vị quan đang bỏ mặc trách nhiệm, cụ tìm đến những người đại diện có uy tín trong dân chúng.

Cụ cẩn thận tránh không trực tiếp tham gia bộ máy cai trị dân sự, nhưng lại hết lòng ủng hộ bằng uy tín đạo đức và những lời khuyên đầy trọng lượng.

Trong khi đó, Garnier tiếp tục chiếm các thành trì lớn nhỏ trong vùng châu thổ, và chỉ trong vòng vài ngày, đã thống lĩnh gần một nửa lãnh thổ Đàng Ngoài.

Triều đình Huế, trong nỗi kinh hoàng, cũng cầu viện đến các nhà truyền giáo và phái một phái đoàn đến Hà Nội gồm bốn vị quan cùng với Đức cha Sohier, Giám mục Công giáo ở Huế, để đàm phán hòa bình.

Cụ Sáu, lúc ấy đang cư ngụ tại Ninh Bình, nơi ngài vẫn có thể giữ liên lạc với giáo xứ của mình, đã đón tiếp phái đoàn và hộ tống họ đến Hà Nội, nơi họ tới nơi vào ngày 17 tháng 12. Giờ đây hơn bao giờ hết, sự hiện diện của cụ trở nên thiết yếu, vì chỉ vài ngày sau, vào ngày 21 tháng 12, trung úy Garnier, do một hành động liều lĩnh đầy anh dũng, đã ngã xuống trong một cuộc phục kích.

Nhờ vào các nhà truyền giáo, các cuộc thương lượng vẫn tiếp tục. Đến ngày 2 tháng 1 năm 1874, mọi sự đã sẵn sàng để ký một hiệp ước có lợi, thì một biến chuyển bất ngờ trong chính sách của Pháp đã khiến cho việc ký kết phải trì hoãn đến mười năm sau.

Sáng hôm đó, ngày 2 tháng 1, người ta đã tụ họp tại nhà của các vị sứ thần để thực hiện nghi thức ký kết, thì một bức điện từ Hải Phòng được chuyển đến, mang chữ ký của Philastre, ra lệnh đình chỉ mọi cuộc đàm phán cho đến khi ông tới.

Tên của vị đặc phái viên mới này đã đủ cho thấy một sự thay đổi hoàn toàn trong đường lối ngoại giao.

Quả thật, ngay sau khi đến, ông ra lệnh cho quân đội Pháp rút khỏi tất cả các thành lũy đang chiếm đóng, tập trung về Hà Nội. Ông tuyên bố rằng Garnier đã hành động không theo lệnh và coi như chưa từng có bản thỏa thuận đã được thương thuyết với phái đoàn của triều đình An Nam. (theo A. Launay)

Mặc cho mọi nỗ lực trình bày với ông Philastre về những hậu quả hoàn toàn có thể tiên liệu từ quyết định rút quân không điều kiện, và cho dù người ta đã chỉ rõ rằng các tín hữu Kitô, dù đúng hay sai, đều bị xem là phe thân Pháp và sẽ trở thành nạn nhân đầu tiên, thì ông vẫn không lay chuyển: ông lạnh lùng trả lời rằng không điều gì có thể làm thay đổi quyết định của ông.

Hậu quả đã đến ngay lập tức.

Khi biết được lập trường của đặc sứ Pháp, giới nho sĩ An Nam đã thỏa sức trút cơn thù hận lên các tín hữu Kitô. Trong suốt mười ngày, các tay sai của họ tràn vào các xứ đạo trù phú nhất, tàn sát giáo dân, cướp bóc và thiêu hủy nhà cửa.

Cụ Sáu, người hiểu rõ tình hình hơn ai hết và cũng đã lường trước được tai họa, vội vã trở về Phát Diệm để bảo vệ đoàn chiên của mình. Và ngài đã thành công nhờ một mưu kế thông minh, chứng tỏ tài ứng biến thiên phú của cụ.

Lúc đó, các toán quân được quan lại thuê mướn đã tàn phá các tỉnh Hà Nội và Nam Định, chuẩn bị tiến ra ven biển, thì đột ngột rút lui. Điều gì đã xảy ra?

Thì ra, cụ Sáu đã khéo léo tung tin rằng sẽ có sự kháng cự quyết liệt, rằng tàu chiến Pháp và thuyền chiến Trung Hoa đang chuẩn bị tiến vào sông Hồng, và ít nhất tại Phát Diệm, trật tự sẽ được giữ vững.

Chừng đó thôi cũng đủ. Chỉ cần nhắc đến tên “cụ Sáu” cũng đã là bảo chứng vững chắc, nếu cần thì còn là một lời cảnh cáo.

Thật ra, cha sở Phát Diệm không hề có ai đứng sau lưng mình cả. Ngài đã đến vịnh Hạ Long để cầu cứu hải quân Pháp, nhưng vị chỉ huy tại đó chỉ có thể mời ngài lên tàu trú ẩn, không dám làm gì hơn.

“Nếu nhiệm vụ của ngài là ở lại đây,” — cụ Sáu trả lời — “thì nhiệm vụ của tôi là trở về để chia sẻ số phận với đoàn chiên của mình.”

Và ngài trở lại Phát Diệm, nơi mà chỉ riêng sự hiện diện của ngài cũng đã bằng cả một tiểu đoàn.

Chính vào thời điểm đó, cụ khấn một lời khấn thứ hai trong đời: nếu giáo xứ của ngài không bị giặc xâm phạm, ngài sẽ xây dựng một nhà thờ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Lời khấn ấy đã được Thiên Chúa nhận lời, và như chúng ta sẽ thấy, cụ đã giữ trọn lời hứa.

Nhưng An Nam một lần nữa rơi vào vòng chia rẽ và chiến tranh.

Lần này, chính quyền chính thức tuy không công khai thừa nhận, nhưng đã làm ngơ để cho những toán quân lương không rõ ràng — đa phần là người ngoại đạo — tự do hoành hành, và quy trách nhiệm cho các tín hữu Kitô về những biến cố gần đây.

Phải đọc các thư của các giám mục thời ấy mới hiểu được mức độ nghiêm trọng của tình hình và cái nan giải về lương tâm mà các ngài phải đối mặt.

Đức cha Puginier, giám mục Đàng Ngoài (Tây), viết cho Đô đốc Dupre:

“Tôi sẽ phải chịu nỗi nhục khi nghe người ta trách đất nước tôi: ‘Người Pháp đã làm chúng tôi khốn đốn; họ là nguyên nhân của các cuộc tàn sát anh em chúng tôi, của những vụ thiêu hủy nhà cửa, của sự tiêu vong hoàn toàn của chúng tôi; họ đã không làm gì để ngăn chặn tai họa; thay vì bảo vệ và nâng đỡ chúng tôi, họ lại khiến chúng tôi bị coi là kẻ phản loạn với triều đình mình.’”

Còn Đức cha Gauthier, khi cho phép giáo dân tự vệ trước những toán quân bất hợp pháp, đã gửi đến chính quyền An Nam một tuyên bố đanh thép sau đây:

“Các tín hữu cầm vũ khí, không phải để nổi loạn chống lại nhà vua, mà chỉ để bảo vệ mạng sống mình trước kẻ thù, những kẻ mà họ đã bị bỏ mặc cho muốn làm gì thì làm; hàng ngàn người trong số họ đã bị tàn sát. Các quan lại đã làm gì để ngăn chặn các cuộc tàn sát và cứu người vô tội? Chính sự thờ ơ của họ đã đẩy các Kitô hữu vào hoàn cảnh buộc phải tự lo cho sự sống còn của mình. Nếu quý vị bảo vệ họ cách hữu hiệu, họ sẽ chẳng cần đến vũ khí nữa; nhưng trong trường hợp đó, hãy bắt đầu bằng việc buộc những kẻ đã tấn công chúng tôi trước, và đã thề quyết tiêu diệt chúng tôi, phải hạ vũ khí, bằng không, quý vị đang kết án chúng tôi đến chỗ chết chắc. Nếu mục tiêu của quý vị là tiêu diệt các Kitô hữu, thì cần gì phải quanh co? Hãy nói thẳng ra một cách chính thức, và chúng tôi — giám mục và các nhà truyền giáo đi đầu — sẽ tự ra nộp mình cho đao phủ. Quý vị biết rõ rằng, ngay cả trong những ngày đen tối nhất của bách hại, chúng tôi chưa bao giờ chống lại quyền bính chính đáng. Nếu đó không phải là ý định của quý vị, thì xin hãy bảo vệ chúng tôi — không phải bằng lời nói, mà bằng hành động thực sự, nếu không, chúng tôi sẽ tự vệ!”

Một lần nữa, cụ Sáu lại được chọn làm người phân xử cho một tình thế rối như tơ vò.
Lần này, chính các quan lại là những người cầu xin cụ can thiệp. Vai trò mà cụ sắp đảm nhận thật sự hết sức tế nhị và hiểm nguy.

Khi thấy cụ lên đường đi Ninh Bình, giáo dân của cụ không giấu nổi sự lo lắng… Chính tại Ninh Bình ấy, hai cha sở tiền nhiệm của họ đã bị sát hại: vậy lần đi này sẽ mang đến điều gì cho vị mục tử tận tụy của họ? Người ta kể lại rằng, họ đã tiễn cụ ra tận bến sông trong nước mắt, và dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền nhỏ chở cụ Sáu — vẫn bình thản và kiên định, chỉ có một người đầy tớ đi cùng.

Cuộc đến nơi tại Ninh Bình diễn ra đầy kịch tính.
Các quan lại đích thân ra đón cụ, được hộ vệ bởi một đoàn binh lính đông đảo. Nhưng cụ Sáu không hề nao núng, cụ bước xuống thuyền, đi giữa hai hàng lính, tiến thẳng về phía những người mà chỉ cần một cơn thịnh nộ là có thể biến thành đao phủ của mình.

— “Chuyện gì vậy?” — cụ bình thản lên tiếng —
“Sao lại có lính thế này? Nhìn xem: tôi chỉ đi một mình, và hành lý của tôi chỉ là chiếc khăn tay…”

Không, đó không phải là trận phục kích — mà là một nghi lễ tiếp đón long trọng, được dành cho cha sở Phát Diệm.

Sau vài lời chào mừng nồng hậu, cụ được long trọng đưa vào dinh quan tổng đốc.

Một lần nữa, cụ Sáu đã chứng tỏ mình là một nhà ngoại giao khôn ngoan. Cụ hứa sẽ làm trung gian để tái lập quan hệ, xoa dịu căng thẳng, và về phía triều đình, cụ đã đạt được các biện pháp cần thiết để vãn hồi trật tự.

Cụ trở về Phát Diệm trong vinh quang. Và không lâu sau đó, cụ nhận được từ chính vua Tự Đức một sắc phong long trọng, đóng ấn đại ấn đỏ, với những lời khen ngợi trang trọng ghi trong chiếu chỉ triều đình:

“Trần Văn Lục[8] đã đứng ra hòa giải và tái lập hòa bình giữa lương dân và các tín hữu Kitô tại Đàng Ngoài, hoàn toàn nhờ sự chính trực của ông, điều mà mọi người đều đã biết rõ.
Nhà vua và toàn thể quan lại trong triều đều tin tưởng nơi ông.
Hãy kính trọng người này!”

CHƯƠNG VI
Người Kiến Tạo

Từ năm 1873 đến 1883, những biến động chính trị tạm lắng xuống, mang lại cho cụ Sáu khoảng mười năm yên ổn.

Cụ đã tận dụng thời gian ấy để xây dựng lại đời sống tinh thần lẫn vật chất cho giáo xứ, và biến đầm lầy Phát Diệm khi xưa thành một vùng kinh tế có tiềm năng, chuẩn bị cho sự hình thành một trung tâm tôn giáo, công nghiệp và thương mại — điều mà người ta hôm nay vẫn còn khâm phục ngưỡng mộ.

Chúng ta có thể hình dung được thành quả của công cuộc kiến thiết này nếu biết rằng năm 1875, vùng Phát Diệm chỉ có dưới 3.000 dân, thì ngày nay đã nuôi sống hơn 30.000 người.

Vị quản nhiệm Phát Diệm bắt đầu công trình của mình bằng việc chinh phục đất đai từ biển cả. Như đã nói trước, việc bồi đắp phù sa khổng lồ từ sông Hồng đã đều đặn mở rộng đất liền mỗi năm khoảng 100 mét, trên một dải bờ dài 25 cây số. Sự bồi đất đều đặn đến mức người ta mua bán trước cả phần đất còn đang ngập dưới biển.

Một bài toán kép cần được giải quyết: đó là thoát nước và tưới tiêu có hệ thống cho vùng đầm lầy mênh mông ấy.

Cụ Sáu giải quyết vấn đề đầu tiên bằng cách xây dựng các con đê liên tiếp, cả phía biển lẫn phía sông, những công trình mà người ta vẫn còn có thể nhìn thấy ngày nay khi đi từ ven biển vào sâu trong đất liền. Nhờ đó, cụ đã khai hoang và cải tạo được hàng ngàn mẫu đất, có khả năng trồng được hai vụ lúa mỗi năm, với điều kiện là phải đảm bảo hệ thống tưới tiêu phù hợp.

Thật vậy, vấn đề thủy lợi là vấn đề sống còn tại Đàng Ngoài, vì việc trồng lúa đòi hỏi một lượng nước khổng lồ. Trước tiên là để làm mềm đất, vốn đã nứt nẻ dưới nắng, nhờ đó có thể cày bừa được. Sau đó, khi các mạ non — vốn được gieo ở nơi khác — được cấy xuống ruộng, thì mặt ruộng phải luôn được giữ mực nước ngọt từ 15 đến 20 phân, đều đặn cho đến khi lúa trổ bông và chín. Chỉ cần vài ngày thiếu nước, cây lúa sẽ khô héo đến mức mất trắng, nếu hạn tiếp diễn, đất sẽ cứng lại và nứt toác, khiến lúa vàng úa rồi chết. Người ta cho rằng, chỉ một đợt hạn kéo dài mười ngày cũng đủ để hủy hoại mùa màng hoàn toàn nếu ruộng không có hệ thống tưới tiêu.

Khó mà nói cho hết được cụ Sáu đã phải kiên cường, vất vả và chịu đựng khổ cực đến mức nào trong giai đoạn khai hoang gian khổ ấy.

“Những người Âu châu đến Đông Dương — đặc biệt là Đàng Ngoài — ngày nay,” một cựu sĩ quan từng tận mắt chứng kiến công trình của cụ Sáu đã viết, “khó có thể hình dung được mọi điều đã phải thực hiện để có được một vùng đất kiên cố, hiếu khách và cần cù như ngày nay khiến họ ngạc nhiên ngay từ cái nhìn đầu tiên.” Hải Phòng, giờ đây là một thành phố sôi động và rực rỡ, khi ấy chỉ có vài căn nhà của người Hoa kín đáo nằm xen giữa một rừng nhà tranh vách đất, vây quanh là những đầm lầy hôi hám, đầy muỗi mòng. Cửa ngõ Hà Nội cũng chẳng khá hơn: một trong những khu phố chính của thành đã có tên là “phố Đầm Lầy” — và quả thực cái tên ấy hoàn toàn chính xác.

Trong các trại đóng quân, tất cả thời gian rảnh của chúng tôi đều dành cho việc đào mương thoát nước và lấp lại các hố lầy, những cái hố lại liên tục xuất hiện sau mỗi trận lụt. Tôi được giao đặc trách công việc nặng nhọc và vô vọng ấy, và tôi đã làm hết sức mình, dưới quyền một viên sĩ quan công binh — một người mà sau này nhiều người sẽ nghe nhắc đến tên. Do bộ lông mày rậm rạp nổi bật, người dân Đàng Ngoài, vốn có óc khôi hài và thích đặt biệt danh, đã gọi ông ta là “ông râu mày”. Còn tên thật của ông ấy là đại úy Joffre. Về sau, ông đã tiến xa trên con đường binh nghiệp.

Cuộc sống trong vùng châu thổ sình lầy này, khi ấy còn rất ít người biết đến và khai phá, còn vô cùng nguyên thủy, nếu xét về các nhu cầu cơ bản của đời sống. Về mặt tiện nghi, thì gần như hoàn toàn bằng không. Những túp lều dựng bằng tre và đất trộn rơm, nền là đất nện, mái lợp lá dừa nước, giường chỉ là một tấm chiếu, bàn ghế thì là những tấm ván thô sơ, và cái ao gần nhà thì kiêm luôn vai trò phòng tắm và nhà vệ sinh!

Giống như thời nguyên thủy của con người, ưu tiên hàng đầu là tìm được cái gì để ăn. Thực phẩm quân đội không phải lúc nào cũng sẵn có, nên chúng tôi phải đi săn và tự trồng rau quả trong vườn, những khu vườn mà thỉnh thoảng lại đem đến cho chúng tôi những bất ngờ khá kỳ dị.[9]

Vâng! Ngay giữa vùng đầm lầy ấy, cụ Sáu không chỉ nghĩ đến việc gieo mạ cấy lúa, mà còn mơ ước dựng nên những cung điện và nhà thờ. Và cụ đã thực hiện được điều tưởng chừng không thể ấy — một kỳ công mà đến nay vẫn làm kinh ngạc mọi du khách.

Nếu có khi nào từ “sáng tạo” được dùng để mô tả một công trình của con người, thì chính ở đây là nơi xứng đáng nhất để dùng từ ấy. Giữa những vùng đầm lầy của Phát Diệm, cụ Sáu không có gỗ, không có đá, không có gạch, không có máy móc, không có kiến trúc sư — chỉ có tre nứa, sức người, trí óc và ý chí bền bỉ của mình.

Chừng đó thôi cũng đủ để làm nên điều kỳ diệu. Những thân cây nặng tới mười tấn được chuyển về Phát Diệm từ khoảng cách hai trăm cây số; những tảng đá lớn, có tảng dài đến bảy mét khối, được tách ra từ núi và đưa về tận công trình, vượt qua chặng đường ba mươi cây số; những tấm đá cẩm thạch nặng sáu đến bảy tấn được dựng lên cao năm, mười, thậm chí mười hai mét trên cửa nhà thờ, mà không có bất kỳ thiết bị nâng nào. Tất cả đều như một phép lạ. Hãy thử xem cách cụ đã làm điều đó như thế nào.

Cụ bắt đầu bằng những công trình nhỏ, như những thử nghiệm khiêm tốn, vừa để học lấy kinh nghiệm, vừa để đào tạo các cộng sự quý giá.

Năm 1871, cụ bắt đầu xây nhà nguyện đầu tiên. Khi đó, Phát Diệm chỉ có một túp lều tranh tạm bợ để cử hành phụng vụ, dựng lên vội vã sau cuộc bách hại khốc liệt năm 1858–1862.

 Cụ quyết định thay thế nó bằng một ngôi nhà nguyện rộng rãi và xứng đáng hơn, ngôi nhà nguyện này sẽ biến mất khi cụ khánh thành nhà thờ Mân Côi tráng lệ vào năm 1891, công trình về sau sẽ trở thành nhà thờ chính tòa Phát Diệm.

Năm 1875, cụ tiến xa hơn, xây một công trình kiên cố hơn, để học cách đặt móng trên nền đất phù sa mềm yếu. Đó chính là hang đá mộ Thánh, nơi vẫn được dùng để cử hành các nghi thức Tuần Thánh về Cuộc Thương Khó Chúa Kitô — một tập tục rất phổ biến ở Phát Diệm, mà ta sẽ nhắc lại sau.

Người dân gọi hang đá ấy là “núi đá”, vì thực chất nó là một khối đá khổng lồ chồng lên nhau, cao khoảng 12 mét.

Phương pháp xây dựng của cụ Sáu thực sự đáng lưu ý.
Vùng đất ở Phát Diệm, như ai cũng biết, chẳng gì khác ngoài một bãi bùn nhão nhớt. Cần phải làm cho nền đất yếu ấy trở nên vững chắc. Cụ Sáu bắt đầu bằng cách cắm xuống đất một rừng tre, sau đó xếp lên trên những bè gỗ lớn, những bè này trong lớp bùn ướt sẽ bảo quản được lâu dài, như nền móng vĩnh cửu.

Trong lúc đó, một lực lượng nhân công đông đảo làm việc miệt mài tại các mỏ đá ở Thiên Đường, cách Phát Diệm 30 cây số, hoặc trong các khu rừng ở Bến Thủy, cách đó tới 150 cây số.

Những tảng đá được tách rời chậm rãi, bằng vô số đòn bẩy bằng gỗ. Sau đó, hàng trăm phu khuân vác mới kéo những khối đá khổng lồ này lăn trên các trục gỗ, tiến dần đến kênh nước, nơi đã chuẩn bị sẵn những chiếc bè khổng lồ chờ đón.

Khó khăn hơn nữa chính là việc vận chuyển gỗ, loại gỗ quý phải đưa từ tận Bến Thủy, cách đó 150 cây số, nơi có loại gỗ lim hay gỗ “jer” nổi tiếng ở An Nam, vì nó không bị thời tiết hay mối mọt làm hư hại.

Loại cây này rất lớn, cho ra gỗ đỏ sẫm tuyệt đẹp, vừa cứng đến nỗi phải dùng dụng cụ đặc biệt để xẻ, lại vừa nặng đến mức chìm dưới nước (tỷ trọng: 1,2).

Vậy mà, ngày nay, khi bước vào nhà thờ lớn Phát Diệm, điều đầu tiên khiến khách viếng thăm phải ngẩng đầu kinh ngạc, chính là bốn mươi tám cột gỗ lim khổng lồ, chu vi mỗi cột tới 2m40, chống đỡ cho các vòm mái đồ sộ của ngôi thánh đường — riêng tại gian giữa, mỗi cột cao đến mười hai mét!

Làm sao có thể đưa được những cột gỗ ấy về tới công trình, giữa vùng không có đường đất lẫn đường thủy thuận tiện? Cụ Sáu đã cho trâu kéo chúng ra đến tận biển, rồi buộc từng đôi một vào các thuyền buồm Trung Hoa cỡ lớn, những chiếc thuyền ấy, nặng trĩu bởi các thân gỗ gần mười tấn, vẫn căng buồm rẽ sóng, Thiên Chúa phù hộ cách nào không ai rõ, mà cuối cùng cũng vào được cửa sông Hồng!

Cứ như thế, trong suốt nhiều năm, cụ Sáu từng bước tích lũy vật liệu cần thiết để hiện thực hóa các dự án lớn lao mà cụ ấp ủ. Với ngôi nhà của Thiên Chúa, cụ không mơ ước gì khác hơn là một công trình có thể sánh ngang với các cung điện hoàng gia mà cụ từng chiêm ngưỡng tại kinh thành Huế.

Tuy nhiên, để đạt đến điều ấy, cụ vẫn còn thiếu một yếu tố quan trọng: đá cẩm thạch.
Và đối với bất kỳ ai khác, việc kiếm được thứ vật liệu ấy là điều gần như bất khả. Gần Thanh Hóa, tại núi Giới (?), có những mỏ đá cẩm thạch nổi tiếng, nhưng đó là khu mỏ hoàng gia, chỉ dành riêng để phục vụ cho các công trình chính thức của triều đình.
Không thể mong gì ở các quan tỉnh, lại càng khó hơn khi họ đều là người ngoại đạo, việc xin phép lấy đá để xây một nhà thờ Kitô giáo là điều vô vọng.

Nhưng rồi, sự quan phòng — và cả chiến tranh — lại đến tiếp tay cho cụ Sáu.

Năm 1883, khi nước Pháp tiến hành cuộc chinh phục Đàng Ngoài lần thứ hai, các quan lại ở Thanh Hóa, muốn ngăn tàu chiến Pháp tiến vào thành, đã ra lệnh chặn lối vào con kênh nối thành với sông lớn.

Họ làm điều ấy bằng cách thả xuống lòng kênh những khối đá cẩm thạch khổng lồ, lấy từ chính các mỏ đá ở núi Giới. Không tàu nào có thể vượt qua được rào chắn, nhưng điều ấy cũng không ngăn được việc quân Pháp chiếm đóng thành phố.

Khi chiến tranh kết thúc, bức tường đá nhân tạo kia trở thành vật cản lớn cho việc lưu thông đường thủy, và không còn lý do gì để tồn tại.

Cụ Sáu, người luôn biết nắm bắt thời cơ theo ánh sáng quan phòng, nhận ra ngay đây chính là một mỏ đá tuyệt vời để khai thác. Cụ tình nguyện dọn dẹp lòng kênh, và chỉ xin đổi công sức ấy lấy những khối đá vớt được, cùng với một ít đá khác cụ được phép lên núi lấy thêm.

Sau vài tháng, con kênh đã được khơi thông trở lại, tàu bè có thể lưu thông, và cụ Sáu đã gom đủ vật liệu cần thiết cho những công trình mơ ước của mình.

Ngay khi hoàn cảnh trở nên thuận lợi, cụ bắt tay vào xây dựng các công trình mà cụ hằng mong ước dâng tặng cho đoàn chiên của mình: một nhà thờ giáo xứ, cùng với hai nhà nguyện khấn hứa mà cụ đã nguyện xây dựng từ lâu, ngay khi có điều kiện.

Cụ bắt đầu từ các nhà nguyện.

Nhà nguyện đầu tiên được dâng kính Đức Mẹ. Công trình hoàn thành vào năm 1888, và cụ dâng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria. Ngôi nhà nguyện dài 18 mét, rộng 9 mét, cao 8 mét. Các cột và khung sườn đều bằng đá. Hai bên được bao bọc bởi lan can đá, và những tấm đá cẩm thạch chạm khắc hoa văn hình lá tre đục lỗ, thoáng và nhẹ như tranh thủy mặc.

Để có thể xây và chạm khắc mà không cần giàn giáo, người kiến trúc sư không chuyên – tức cụ Sáu – đã áp dụng một phương pháp cổ xưa, được cho là phát xuất từ thời Trung Cổ ở Âu Châu: cụ cho đắp đất thành một ngọn đồi bao phủ toàn bộ công trình, nhờ đó các thợ xây và thợ chạm có thể làm việc dễ dàng như đang đứng trên mặt đất.

Khi công trình hoàn tất, người ta dỡ bỏ ngọn núi đất ấy đi, và toàn bộ nhà nguyện hiên ngang trụ vững giữa trời đất. Từ năm 1888 đến nay, biết bao cơn bão, lốc xoáy, bão lớn đã quét qua Phát Diệm, làm bật gốc cây, xô ngã nhà cửa, nhưng nhà nguyện Trái Tim Đức Mẹ vẫn đứng vững nguyên vẹn. Suốt bốn mươi năm qua, viên ngọc kiến trúc An Nam ấy vẫn làm say lòng mọi người viếng thăm, vừa ca ngợi vinh quang của Đức Trinh Nữ, vừa làm chứng cho lòng hiếu thảo sâu thẳm của cụ Sáu. Không nghi ngờ gì, công trình ấy sẽ còn tiếp tục sứ mạng ấy trong nhiều thế hệ mai sau.

Ngay sau khi hoàn tất nhà nguyện khấn hứa hồi ở Lạng Sơn, cụ Sáu lập tức bắt tay xây dựng nhà nguyện thứ hai — nhà nguyện mà cụ đã khấn dâng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu từ năm 1874.

Lần này, cụ không dùng đá, mà chọn gỗ làm vật liệu chính.
Nhà nguyện Thánh Tâm dài 25 mét, rộng 12 mét, cao 9 mét. Toàn bộ công trình được làm bằng gỗ lim, và mọi cột trụ, vì kèo, xà ngang đều được chạm khắc công phu.

Đặc biệt nổi bật là cánh cửa chính — chiếm gần trọn chiều ngang của mặt tiền, được chạm lọng hoàn toàn với hoa văn tinh xảo đến mức chính Thống sứ Huế, khi có dịp ghé thăm Phát Diệm, đã ngỏ ý xin cụ Sáu cho đưa cánh cửa này về Paris để trưng bày tại Hội chợ Quốc tế năm 1889.

Cụ Sáu tuy rất lấy làm vinh dự, nhưng lại sợ không bao giờ nhìn thấy được cánh cửa quý giá ấy một lần nữa, nên đã giữ nó lại tại Phát Diệm.

Lúc ấy, cụ đã sẵn sàng để bắt đầu dự án lớn nhất đời mình: nhà thờ giáo xứ, công trình mà ngày nay chính là nhà thờ chính tòa Phát Diệm.

Việc xây dựng bắt đầu vào năm 1891. Ngay từ cuối năm trước đó, cụ đã sai những giáo dân tháo vát nhất tỏa đi khắp Đàng Ngoài, để tuyển mộ hàng trăm thợ cưa và thợ mộc lành nghề.

Cụ tổ chức thành 10 đội, mỗi đội phụ trách xây một gian. Toàn thể giáo dân trong vùng đều được huy động, trở thành nguồn lao động thường trực cho công trình vĩ đại ấy.

Bản thiết kế của cụ Sáu thật sự táo bạo: dài 80 mét, rộng 24 mét, cao 16 mét. Phong cách kiến trúc là sự hòa quyện giữa basilica Rôma và cung điện Trung Hoa, với phần mái gỗ lộ thiên theo cấu trúc hai tầng mái chồng lên nhau. Mặt tiền nhà thờ là một tiền sảnh đồ sộ, với năm gian lớn, mỗi gian dài 9 mét, dẫn đến năm cánh cửa chính của ngôi thánh đường.

Khi xây dựng tiền sảnh này, cụ Sáu đã sử dụng những khối đá khổng lồ. Một khối dài 4,20 mét, cao 1,20 mét, dày 0,60 mét; một khối khác dài 2,10 mét, cao 1,50 mét, dày 0,75 mét — và các khối còn lại cũng đồ sộ không kém.

Phía trên tiền sảnh, ba ngọn tháp cao vút vươn lên, theo phong cách Trung Hoa, với nhiều tầng mái uốn cong mềm mại. Tháp giữa cao tới 22 mét, trên đỉnh là thánh giá vươn cao giữa trời.

Bộ khung mái đồ sộ hai tầng được làm hoàn toàn bằng gỗ lim. Như đã nói, phần mái được đỡ bởi 48 cột gỗ lim, chia thành sáu hàng, với chiều cao 12 mét, 7 mét và 5 mét, chu vi mỗi cột là 2m40.

Hai bên hông nhà thờ được đóng bằng các tấm vách gỗ di động, có thể tháo rời mỗi khi số người tham dự quá đông, vì trong những ngày lễ lớn, người ta đổ về Phát Diệm từ khắp cả quận.

Ấn tượng mà ngôi thánh đường độc đáo này tạo ra với du khách thật sự sâu sắc.
Người ta có thể cảm nhận điều đó qua lời chứng thực của một khách hành hương mà tôi sẽ trình bày ngay sau đây:

Cuối cùng, tôi đã tới Phát Diệm, nơi có những kênh mương thủy lợi chia vùng đất phù sa lầy dẻo ấy thành những dải dài 12 cây số, rộng 300 mét, mỗi dải là một ngôi làng, đều đặn và trật tự như nét thước kẻ.

Sự dịu dàng của miền đất đầm lầy này đôi khi khiến tôi liên tưởng đến một vài vùng ao hồ của nước Pháp: có lúc là nỗi ngái ngủ mơ hồ của Aigues-Mortes, có lúc lại là sự lặng lẽ của mặt nước Sologne, hay cả vẻ thơ mộng không thể quên của Ermenonville… Tôi không ngờ mình lại có thể tìm thấy những điều ấy ở cách Pháp ba ngàn dặm đường.

Và rồi, điều không ngờ tới bỗng hiện ra trước mắt, như một khối đá sừng sững: bên kia một cái ao nhỏ, tôi nhìn thấy ngôi “chùa” trong giấc mơ của tôi — vươn mình lên trời cao. Nhưng không, đó không phải là chùa, mà là nhà thờ chính tòa Công giáo Phát Diệm, được xây dựng vào thế kỷ trước bởi một người An Nam, cụ Sáu, người đã khéo léo kết hợp phong cách kiến trúc truyền thống quê hương mình với chiều cao và không gian rộng lớn đặc trưng cho phụng vụ Kitô giáo.

Cũng giống như ở Florence, nơi nhà rửa tội che một phần mặt tiền nhà thờ, thì tại Phát Diệm, phía trước là một tháp chuông đồ sộ, gần như rộng bằng cả nhà thờ, được xây dựng như một tiền cảnh hùng tráng. Bên trong tháp chuông ấy là chiếc chuông lớn nhất toàn Đông Dương. Bên dưới ba mái vòm của tháp, ta thấy những tấm đá lớn, nhẵn bóng và sẫm màu, đặt sát nền. Đó là “giường đá” kiểu chùa An Nam, nơi các quan lại có thể ngồi uống trà, đàm đạo và lắng nghe kinh lễ từ xa.
Cụ Sáu không nỡ loại bỏ tập tục có phần ngông nghênh này, để khỏi làm những tân tòng cảm thấy xa lạ, nhưng ngài đã dạy họ yêu mến đức khiêm nhường Kitô giáo đến mức — không một vị quan Công giáo nào dùng đến những “giường đá” ấy. Ngay cả người quyền thế nhất cũng bước vào bên trong nhà thờ và lắng nghe Thánh lễ cách khiêm tốn.

Vượt qua tháp chuông, theo trục chính, là nhà thờ chính tòa, với năm gian tiền đường, mỗi gian được chạm trổ tinh vi, thể hiện rõ nét sự giao thoa giữa hai nền nghệ thuật.

Hai cổng bên uốn lượn như những mảnh lụa bay, trong khi cổng trung tâm lại mang họa tiết hoa lá pha trộn giữa Ấn Độ giáo và Gothic: nào hoa sen, cây cau, cây chuối tỏa bóng trên những cảnh Kinh Thánh, nơi con bò mang cặp sừng trâu, và các nhân vật trông giống như tranh thời sơ khai, nhưng lại mang rõ gương mặt của tượng Phật Á Đông. Còn các thiên thần trên đỉnh mái cong thì có khuôn mặt phẳng và an nhiên — hệt như những pho tượng thần châu Á.

Bên trong nhà thờ chính tòa Phát Diệm, kiến trúc mang dáng dấp cổ điển, với gian chính (nef) và hai dãy gian phụ (bas-côtés) chạy song song. Nhưng điều khiến nơi đây trở nên đặc biệt độc đáo là mười sáu cột gỗ lim, cao đến 13 mét, đường kính 1 mét, được đẽo từ một thân gỗ duy nhất, đều đặn từ gốc đến ngọn.
Liệu những cây gỗ lim ấy cao đến chừng nào, mà có thể cho ra những thân gỗ thẳng, liền khối và hoàn hảo như vậy?

Cuối nhà thờ, sừng sững là bàn thờ chính sơn son thếp vàng, như một trận mưa vàng đổ xuống, sáng rực, chói ngời giữa những gian phụ trầm mặc. Trái Tim Cực Thánh của Đức Giêsu và của Mẹ Maria, có lẽ không ở đâu trên thế giới có được một nơi tôn vinh rực rỡ hơn nơi này — một chuỗi không gian thu hẹp dần, mỗi gian sau lại càng rực rỡ hơn gian trước.

Nhưng điều khiến người ta thán phục hơn cả là: Làm sao một vùng đất yếu ớt, chỉ mới được bồi đắp chưa lâu, lại chịu nổi sức nặng khủng khiếp của cả ngôi thánh đường, tháp chuông và tiền sảnh đồ sộ này?

Ngày xưa, người ta kể rằng những người xây dựng thánh đường phải ký khế ước với ma quỷ. Cụ Sáu thì chỉ “ký giao kèo” với… thời gian. Nếu có một phép lạ, thì đó là phép lạ của lòng kiên nhẫn.

Trước cả khi viên đá đầu tiên được đặt, nghĩa là trước năm 1875, cụ đã cho người đóng xuống đất lớp lớp các cọc gỗ, từng thanh gỗ bị đóng sâu dần, cứ lún mãi trong bùn mềm. Khoảng ở độ sâu 30 mét, những chiếc cọc mới bắt đầu dừng lại đôi chút, và người ta vẫn tiếp tục đóng cho đến khi ở độ sâu 32 hay 35 mét, chúng hoàn toàn ổn định, tự nén chặt thành một nền móng bất di dịch. Một công trình khổng lồ!

Trên nền móng ấy, người ta đổ đá cuội dày thành tầng tầng lớp lớp, trâu bò kéo đi kéo lại liên tục trên bề mặt, sức nặng ấy khiến đá lún chặt vào bùn, và theo năm tháng, nền đất ấy trở nên cứng rắn đến mức có thể đỡ được cả nhà thờ chính tòa và năm nguyện đường xung quanh, được xây dựng từ năm 1878 đến 1895, khi Thánh lễ đầu tiên được cử hành.

Năm nguyện đường ấy giống như năm nữ tu nhỏ đứng quanh vị Bề Trên, mà mỗi người mang một vẻ đẹp riêng biệt và duyên dáng.

Nguyện đường phía sau nhà thờ, kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, có hai tháp nhỏ dạng lồng, hoa văn xuyên sáng, trông rất lạ mắt. Còn nhà nguyện thánh Phêrô, với những cột gỗ mít nhỏ khắc chạm tinh vi, màu nâu ấm mềm mại, là một niềm hoan lạc cho thị giác. Đây là nơi giải tội, và các tòa giải tội đã bị “xé rách” bởi các hối nhân nôn nóng tranh nhau xưng tội, níu vào vách đến mức làm bung cả gỗ…

Nhà nguyện thánh Giuse, với các cột gỗ lim trai, là một tác phẩm ren thêu bằng gỗ: nào là màn rèm, chùm hoa, hoa thị, tua rua, rủ xuống như một vũ điệu thánh thiêng. Loại gỗ có màu hạt dẻ ấy, mềm mại như đăng ten, dịu dàng như làn lụa và tấm voan. Đó là vải tu hành đã hóa thành đăng ten quý phái.

Nhưng “nữ tu thần tiên” nhỏ nhất, chính là nhà nguyện Thánh Tâm. Ẩn dưới lớp vôi trắng rêu phong, giống như các ngôi chùa Phật giáo luôn được quét vôi mới, là một mặt tiền khác bằng gỗ lim, nơi các họa tiết được chạm lọng xuyên sáng — hoa sen, cành lá, dây leo, là cả một vườn sáng tạo tinh tế của Đông phương.

Bên trong, gỗ lim ấy mang màu nâu nhung như các nguyện đường khác, nhưng lại có dáng dấp như một hộp nữ trang Nhật Bản. Thật tiếc, ảnh chụp không thể nào truyền tải được sự mềm mại và vẻ yêu kiều kỳ diệu của những đóa hoa, trái cây, đường xoắn, vỏ sò — nơi nghệ thuật uốn lượn của Viễn Đông đã được tự do bay bổng.

Rời khỏi nhà nguyện, bước ra ngoài, ta lại thấy những đường nét hùng vĩ của thánh đường chính. Dưới chân nó, những cây vải sum suê, đẹp như những bóng khói trầm hương Nhật Bản, tỏa mát một vùng đất đã được thánh hiến bằng niềm tin, tài trí và bàn tay của một người cha – cụ Sáu.

Bên kia nữa là Chủng viện, rồi đến khu vườn xinh mát cạnh nhà xứ… và tu viện — nơi các Nữ tu Đức Bà Truyền Giáo chăm sóc cho các trẻ khiếm thính. Họ là những tâm hồn tận hiến, cao quý và đơn sơ, như hoa huệ giữa đồng nội…

Nhưng chính về phía các nguyện đường kia, lòng chúng tôi lại thổn thức hướng về. Chính các nguyện đường đã tỏ lộ cho chúng tôi biết, đâu mới là phong cách đích thực của các nhà thờ trên mảnh đất này. Chỉ có các nguyện đường mới chạm đến chân lý ấy.

Các bạn không gượng ép mang về đây cây kế a-can hay đỉnh nhọn Gothic vốn xa lạ…Một cách khôn ngoan và hài hòa, các bạn đã chọn đặt hoa sen và cây cau lên thềm cửa nhà thờ, và các thiên thần của các bạn, ừ thì đúng vậy, có gương mặt nở nang như những vị Phật an vui, đang tựa mình dưới vòm trời ngọc thạch của đất Đàng Ngoài.[10]

Người ta dễ hiểu vì sao danh tiếng của cha sở Phát Diệm lại ngày càng vang xa, khi những công trình kỳ công như thế liên tục được hoàn thành dưới bàn tay của ngài.

Vua Tự Đức lúc này không ngừng ban phát những dấu chỉ quý trọng dành cho cha Sáu.
Trên những huân chương vàng do nhà vua gửi tặng, người ta đọc thấy những dòng chữ khắc theo lối An Nam cổ kính, như:

“Lời nói của ông gieo niềm tin. Ông đem lại bình an.”
“Người biết cách giáo hóa dân, đem đến hạnh phúc cho họ.”
“Người chính trực tuyệt đối.”

Chính phủ Pháp cũng lấy làm vinh dự khi trao tặng cha sở Phát Diệm huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh, bậc Hiệp sĩ.

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu. Giờ vinh quang thực sự của cụ Sáu còn đang đến gần.
Cơ hội ấy sẽ đến từ những biến loạn sau cái chết của vua Tự Đức, trong một thời kỳ chuyển giao ngai vàng đầy bất ổn.

CHƯƠNG VII
Khâm sai triều đình, hay Phó Vương

Khi cụ Sáu, cha sở Phát Diệm, đã gần sáu mươi tuổi, thì ngày 15 tháng 7 năm 1883, vua Tự Đức băng hà. Cái chết ấy, mở ra một thời kỳ hỗn loạn, cũng đồng thời đánh dấu sự chấm dứt trên thực tế nền độc lập chính trị của nước An Nam. Cụ Sáu từng là một trong những thần dân trung thành nhất của vị quân vương ấy. Thế nhưng, với tư cách là một tín hữu Kitô và một người dân, cụ cũng đã phải chịu đựng những trở ngại mà chính sách bảo thủ và phản động của nhà vua và giới cận thần gây ra cho sự tiến bộ về trí thức và kinh tế của đất nước.

Về phần mình, cụ luôn âm thầm góp sức cho một cuộc chuyển mình cần thiết, bằng cách hết lòng cộng tác với những ai thực tâm mưu cầu trật tự và phát triển.

Cụ Sáu là hiện thân cho xu hướng tiến bộ của mọi người yêu nước chân chính — những người muốn bảo toàn danh dự quốc gia, nhưng đồng thời cũng muốn đưa An Nam tiến về phía trước, sẵn sàng cộng tác với nước Pháp trong tinh thần kính trọng và tin tưởng lẫn nhau.

Và trong suốt sáu năm qua, cụ đã nhiều lần chứng minh lòng trung tín của mình với các sĩ quan và đại diện của chính quyền Pháp.

Tại Phát Diệm, một sĩ quan phụ tá của chỉ huy Rivière đã viết: “Tôi đến để cảm ơn vị linh mục An Nam, cụ Sáu, vì luôn duy trì hệ thống đánh dấu luồng sông Đáy[11] cho các thuyền của chúng tôi. Ông là một nhà nho xưa được các quan lại cũng như các giám mục hết sức kính trọng, và nay đã gần như độc lập hoàn toàn trong vùng đầm lầy của mình, nơi ông sẽ vượt qua toàn bộ thời kỳ khủng hoảng mà không bị động đến.”[12]

Chính tinh thần độc lập và lòng yêu nước khôn ngoan ấy sẽ một lần nữa giúp cụ Sáu cống hiến cho đất nước những đóng góp to lớn.

Sau cái chết của vua Tự Đức, An Nam rơi vào tình trạng vô chính phủ.

Đảng Nho sĩ — tức đảng bảo thủ ngoại đạo xưa cũ — nắm trọn quyền lực trong triều đình. Họ liên minh với Trung Hoa, nhằm đánh bại người Pháp và các tín hữu Kitô.
Tàn quân Cờ Đen và Cờ Vàng từ Vân Nam tràn xuống tiếp ứng cho các toán quân An Nam bán chính quy.

Huế liên tục xảy ra đảo chính, khiến triều đình rơi vào tình trạng tê liệt hoàn toàn.
Cháu trai của Tự Đức, người kế vị đầu tiên, chỉ ngồi trên ngai vàng vài ngày rồi bị bỏ đói đến chết trong ngục.

Hiệp Hòa, lên ngôi vào tháng 7 năm 1883, bị đầu độc chết vào tháng 11 cùng năm.
Kế đó, vua Kiến Phúc, cũng là cháu vua, chịu cùng số phận vào tháng 7 năm 1884.

Trong khi ấy, các cuộc viễn chinh của Pháp nối tiếp nhau, với sự chần chừ và thiếu nhất quán, vô tình tiếp thêm hy vọng kháng cự cho phe đối lập, và nhiều lần, chỉ nhờ sự anh dũng phi thường, quân Pháp mới thoát khỏi hiểm họa cận kề.

Quân viễn chinh, lúc đầu chỉ gồm vài trăm lính hải quân, nay đã tăng lên mười ngàn, rồi hai mươi ngàn binh sĩ.

Tháng 7 năm 1884, Đô đốc Courbet đã chinh phục xong Đàng Ngoài và buộc triều đình Huế ký hòa ước. Nhưng rồi mọi chuyện lại bắt đầu lại từ đầu: vua Hiệp Hòa bị đầu độc, vua Hàm Nghi lên ngôi, và bắt tay với phe Nho sĩ bảo thủ.

Ngày 28 tháng 3, thất bại ở Lạng Sơn khiến nội các J. Ferry sụp đổ; Courbet qua đời vào tháng 6, và đến tháng 7, một âm mưu đảo chính được khởi động tại Huế, với sự tiếp tay của chính nhà vua, người đã bỏ trốn khỏi kinh thành để tổ chức cuộc nổi dậy công khai trên toàn quốc… Thời kỳ tàn sát lại bắt đầu. Người ta ước tính có tới bốn mươi đến năm mươi ngàn Kitô hữu ở vùng Qui Nhơn và Quảng Trị bị sát hại, nạn nhân của lòng căm thù dã man của những kẻ ngoại đạo.

Cuộc nổi dậy và sự bỏ trốn của Hàm Nghi đã khiến triều đình Huế rơi vào tình trạng hỗn loạn tột độ. Các quan đại thần không biết tìm ai để tham khảo, cũng chẳng biết nên theo phe nào.

Một lần nữa, người ta lại nghĩ đến cha sở Phát Diệm. Người ta sẽ hỏi ý kiến cụ về nhiều vấn đề cần giải quyết, và trước hết là vấn đề cấp bách nhất: chọn ai làm hoàng đế kế vị. Chỉ trong hai năm, ba vị vua đã lên ngôi rồi mất. Quan lại triều đình không còn biết nghĩ ra giải pháp nào để vừa giữ được tính chính danh, vừa thuận theo tình hình chính trị hiện tại.

Một ngày đẹp trời, một đại thần cao cấp trong triều đình đến Phát Diệm và trình bày vấn đề nhức nhối với cụ Sáu:  “Làm sao có thể tấn phong một vị hoàng thân mới theo cách khiến dân chúng vừa kính phục vừa sẵn lòng tuân phục?”

Cụ Sáu, vốn là người am tường pháp luật An Nam một cách hiếm có, đáp lời cách bình thản:  “Giải pháp theo tôi thì đơn giản thôi. Chỉ cần xin lễ tấn phong từ Thái hoàng Thái hậu (tức là người mẹ nhiều tuổi nhất trong các bà mẹ của các vị vua), như được ghi trong sách Luật rằng:

Khi nhà vua băng hà, chính vị mẫu hậu sẽ chọn người kế vị, và các quan lại phải cúi đầu vâng theo lựa chọn ấy.”

Lập tức, ý kiến ấy được thi hành. Thái hậu của vua Tự Đức, người sẽ sống gần trăm tuổi, khi ấy vẫn còn tại thế, 78 tuổi, và được toàn dân tôn kính như bậc thánh mẫu. Ngày 12 tháng 9 năm 1885, bà ký một chiếu chỉ công bố với toàn dân về việc thay đổi triều đại, chính thức công nhận vua Đồng Khánh — em trai của vua Hàm Nghi — lên ngôi. Danh dự triều đình được cứu vãn!

Người ta kể rằng, khi trở lại kinh thành Huế, vị đại thần đã lặn lội đến hỏi ý cụ Sáu đã thốt lên:

— “Tôi đã tốn đến năm trăm đồng piastre chỉ để đốt than chạy máy ra tới Phát Diệm bằng tàu nhỏ… Nhưng không hề uổng phí!”

Dù vậy, đó mới chỉ là phần đầu của sứ mạng: Chính quyền mới giờ đây phải đối mặt với việc dẹp yên quân nổi loạn… hoặc tìm cách hòa giải với họ.

“Phe chống Pháp”, Đức cha Puginier viết, “hoạt động mạnh mẽ, âm thầm khuấy động dân chúng. Họ lan truyền tin đồn về việc Pháp sắp rút khỏi Bắc Kỳ, về việc giảm mạnh quân viễn chinh, rồi lại thêm vào đó là những thắng lợi dễ dàng của giới nho sĩ khi tấn công các tín hữu Kitô không vũ khí, không được bảo vệ; sự khoan dung khó hiểu dành cho kẻ thù của chúng ta, dù họ gây ra những tội ác kinh hoàng, sự dễ dãi khi người ta đón nhận những lời vu khống trắng trợn chống lại các nhà truyền giáo và giáo dân…
Tất cả những điều đó, gộp lại, đã vẽ nên một tương lai khiến chúng tôi không thể không lo lắng. Với bất kỳ ai am hiểu tình hình đất nước này, người ta có thể dễ dàng tiên đoán rằng, nếu không có những biện pháp khẩn cấp, khôn ngoan và hữu hiệu, phong trào nổi loạn chắc chắn sẽ lan rộng khắp Bắc Kỳ, và lúc ấy, chúng tôi sẽ phải đối diện với tai họa mới, không thể tránh.”

Và quả đúng như thế: Ngày 12 tháng 3 năm 1886, một ngàn quân phiến loạn mở một cuộc đột kích tại tỉnh Thanh Hóa. Họ bị đẩy lùi bởi sự kháng cự kiên cường của quân Pháp, nhưng các nho sĩ liền trả thù bằng cách tàn phá giáo xứ Cửa Bạng, cướp bóc toàn bộ tài sản.

Ngày 28 tháng 4, xứ đạo Kẻ Vạc (?) bị phá hủy hoàn toàn, hơn hai mươi tân tòng bị mổ bụng giết chết. Đầu tháng 5, ba ngôi làng Công giáo khác cũng bị phân tán và tiêu diệt.

Triều đình Huế, trong nỗ lực vãn hồi trật tự, quyết định phái một Khâm sai đại thần đến vùng bất ổn — một vị Khâm sai với quyền hạn như Phó Vương. Nhưng tìm ai cho xứng đáng với trách nhiệm ấy? Không ai khác, người ta cho rằng không có lựa chọn nào tốt hơn là trao sứ mệnh ấy cho chính cụ Sáu – cha sở Phát Diệm!

Một buổi sáng tháng Tư năm 1886, Đức cha Puginier, đang ở tại tòa giám mục Kẻ Sở, thấy xuất hiện vị linh mục nhỏ bé đến từ Phát Diệm, tay cầm một cuộn sắc phong lớn màu vàng, được niêm bằng đại ấn đỏ son. Đó chính là sắc chỉ bổ nhiệm cha Sáu làm Phó Vương, đặc trách ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.

— “Giờ con phải làm sao đây?” — cụ Sáu bình thản hỏi.

Vị giám mục, thoáng bối rối trước tình huống kỳ lạ này, xin một đêm để suy nghĩ. Một sự thăng chức như vậy thật sự vượt quá khuôn khổ của phẩm trật Giáo hội và giáo luật.

Thế nhưng, tình hình đất nước lúc ấy lại quá bất thường. Sáng hôm sau, cụ Sáu được phép chấp nhận, với điều kiện là sứ mạng này chỉ mang tính tạm thời và ngắn hạn nhất có thể — như một cử chỉ tin tưởng đặc biệt từ triều đình.

Thế là cụ Sáu được thiết triều tại Thanh Hóa, trung tâm của chính quyền mới thành lập,
và được hưởng mọi vinh dự dành cho một Phó Vương trong Vương quốc. Từ nay, cụ không còn đi lại một mình, mà luôn có lính hộ tống, dẫn đầu bởi các biểu trưng vương quyền, và che lọng lớn của hàng quan lại cao cấp. Cụ chấp nhận tất cả điều đó, không vì danh vọng, mà vì ý thức sâu sắc về trách nhiệm, và hiểu rõ tầm quan trọng của các nghi lễ truyền thống trong văn hóa An Nam.

Theo phong cách quen thuộc, cụ thi hành quyền lực với sự cứng rắn cần thiết, nhưng luôn cố gắng chinh phục lòng tin của người dân trong ba tỉnh.

Các quan lại cấp dưới nhận được chỉ thị rõ ràng, hệ thống an ninh được tái lập, một số toán phiến loạn bị giải tán hoặc đẩy lùi.

Đồng thời, Phó Vương cho niêm yết tại tất cả các làng mạc thuộc ba tỉnh một bản tuyên cáo khéo léo, trong đó: Ngài kêu gọi những người dân lương thiện hãy sống trong tinh thần hòa thuận, và gửi đến những kẻ gây rối một lựa chọn dứt khoát: Hoặc là đón nhận một sự tha thứ quảng đại, hoặc là phải chịu một hình phạt không khoan nhượng.

Chữ ký của cụ Sáu, cha sở Phát Diệm, với tư cách Khâm sai triều đình cho ba tỉnh, đã ban cho bản tuyên cáo ấy một giá trị vô cùng lớn lao.

Đức cha Puginier theo dõi mọi hành động và bước đi của vị linh mục dưới quyền mình với sự cẩn trọng cao độ. Cách rất khôn ngoan, ngài lo ngại – và chính cụ Sáu cũng ý thức rất rõ – rằng: một sứ mạng kéo dài quá lâu sẽ gây ra lòng đố kỵ và thù hằn nơi các quan lại cấp cao trong triều đình. Vì vậy, chỉ sau 35 ngày, Đức cha khuyên cụ nên xin từ nhiệm chức vụ và trở về Phát Diệm.

Cụ Sáu vâng lời với một sự khiêm nhường đáng khâm phục, và trở về xứ đạo của mình,
trong vòng vây của những lời tung hô, tôn kính và chào đón nồng nhiệt. Mặc dù rời khỏi chính quyền, cụ vẫn giữ danh hiệu Khâm sai, cùng với những đặc quyền gắn liền với chức vị ấy.

Chính danh hiệu, uy tín ấy, và nhất là quyền lực đạo đức gắn liền với tên tuổi cụ, sẽ giúp cụ cống hiến những đóng góp còn lớn hơn nữa trong những năm tới. Thế nhưng, cụ vừa mới rời bỏ quyền lực thì bạo loạn lại bùng phát. Các quan lại địa phương, không giấu được sự bực tức, tìm cơ hội trả thù “vị phó vương bất ngờ” kia. Và thế là, trong vùng giữa Phát Diệm và Thanh Hóa, có đến ba mươi giáo xứ bị thiêu rụi, hơn bảy trăm tín hữu Kitô bị tàn sát.

Những người sống sót sau các vụ thảm sát đổ dồn về Phát Diệm, và khẩn khoản cầu xin sự giúp đỡ của vị Khâm sai, người mà họ vẫn tin tưởng và yêu mến. Cụ Sáu, với lòng nhân hậu của một người cha, đón nhận họ đầy trìu mến. Cụ viết cho Đức cha Puginier một bức thư ngắn nhưng đau đớn:

“Con đã nhìn thấy những con người bất hạnh ấy… Con không dám tả lại tình cảnh mà họ đang rơi vào. Thật là kinh hoàng.”

Dù vậy, cụ vẫn cố gắng làm điều gì đó. Cụ nỗ lực phối hợp với quân đội Pháp để tổ chức phòng thủ vùng đồng bằng. Tiếc thay, nhiều sĩ quan Pháp lúc ấy vẫn ảo tưởng, và không phải ai cũng biết trân trọng các lời cảnh báo từ “vị linh mục nhỏ bé người An Nam” này.

Tháng 9 năm 1886, cụ Sáu cảnh báo viên chỉ huy đồn lính gần Phát Diệm rằng quân Pháp đang bị kẻ địch bao vây. Chỉ huy liền gửi một trung sĩ cùng vài lính đi do thám.
Họ tiến sâu vào tỉnh Thanh Hóa khoảng hai giờ đường, được tiếp đón tử tế ở khắp nơi,
rồi trở về và quả quyết rằng tình hình yên ổn.

Nhưng chỉ vài ngày sau đó, năm, sáu binh lính Công giáo trong đồn phát hiện điều đáng ngờ: một số đồng đội ngoại đạo đang bí mật tụ họp vào ban đêm và tiếp xúc với các sứ giả từ Thanh Hóa. Không dám báo cáo trực tiếp với chỉ huy, họ đến gặp cụ Sáu.Cụ lập tức viết thư cảnh báo chỉ huy, khẩn khoản xin đề phòng cuộc tấn công đang được âm mưu chuẩn bị. Khi viên chỉ huy đang đọc lá thư viết bằng tiếng La-tinh của cụ Sáu,
một tiếng súng nổ vang lên: đó chính là tín hiệu mở màn cho cuộc tấn công! Ông ta chỉ kịp ra lệnh cho các binh lính Công giáo lập tức di chuyển đến các vị trí trọng yếu,
và chính nhờ sự cảnh giác và nhanh nhạy của họ, cuộc đột kích đã bị chặn đứng trước khi kịp bùng phát.

Sau đó, quân đội Pháp phải tiến hành giải tỏa các công sự cố thủ tại Ba Đình — một nhiệm vụ không hề dễ dàng.

Ngày 18 tháng 12 năm 1886, các đợt tấn công do đại tá Metzinger và trung tá Dodds chỉ huy đã bị quân nổi dậy đẩy lùi. Ngày 6 tháng 1 năm 1887, lại một cuộc tấn công mới — và lại thất bại.

Lúc này, buộc phải yêu cầu tiếp viện. Người chỉ huy đơn vị công binh được cử đến là đại úy Joffre, chính là người sau này sẽ trở thành Thống chế Joffre nổi tiếng.

Với sự cẩn trọng vốn có, Joffre đã tìm đến Phát Diệm để xin ý kiến của Khâm sai, và yêu cầu sự hỗ trợ về nhân lực bản xứ cho việc tiếp vận và đào hào bao vây.

Cụ Sáu lập tức huy động một “đội quân hậu cần thực thụ”: hơn 5.000 phu khuân vác, kèm theo ba chiếc thuyền buồm lớn của người Hoa!

Lần này, cuộc tấn công được chuẩn bị cực kỳ kỹ lưỡng. Trước mặt thành Ba Đình, quân Pháp triển khai: 2.250 lính, 25 khẩu đại bác, và 4 thuyền chiến để kiểm soát mạng lưới kênh rạch phức tạp, vốn rất thuận tiện cho các cuộc phục kích.

Dù thế nào đi nữa, kết quả của chiến dịch lần này là hoàn toàn thắng lợi. Quân nổi dậy bị tiêu diệt, thành lũy Ba Đình bị san phẳng, và trật tự dần được vãn hồi trên toàn cõi An Nam. Thời kỳ đẫm máu của các cuộc tàn sát tín hữu Kitô đã khép lại.

Không rõ về sau, Thống chế Joffre có còn nhớ đến người cộng sự khiêm nhường và quý báu thuở ban đầu ấy không — người đã viết cho ông những bức thư bằng tiếng La-tinh mà dòng mở đầu chắc hẳn khiến ông bật cười:

“Dux illustrissime!” — Hỡi vị thủ lĩnh rạng rỡ! — đó là cách cha sở Phát Diệm ranh mãnh xưng hô với ông, người mà chắc chắn viết tiếng La-tinh không lưu loát bằng cụ Sáu, một học trò xưa của Cicéron.

Lúc ấy, Joffre có thể nghĩ đó chỉ là một kiểu tâng bốc lịch sự của người An Nam. Nhưng không phải thế. Đó chỉ là một lời tiên báo sớm. Khâm sai Phát Diệm đã có con mắt nhìn người sắc bén.

CHƯƠNG VIII
Vị Mục Tử Nhân Lành

Tài năng hiếm có và những thành công vượt bậc của cha Sáu trong nhiều lĩnh vực chính trị và kinh tế của thời đại hẳn đã gợi lên trong lòng không ít độc giả một câu hỏi, mà giờ đây, chính chúng ta cũng phải thẳng thắn đối diện:

Con người kỳ lạ ấy — nhỏ bé, nhưng rõ ràng mang khí chất của một vị đại thần — chẳng lẽ đã chọn nhầm ơn gọi? Phải chăng ông sinh ra để làm tổng trấn, chứ không phải để làm một linh mục xứ?

Xin trả lời, không chút do dự: không. Cụ Sáu, trước hết và trên hết, là một linh mục đơn sơ và thánh thiện, đầy lòng đạo đức, nhiệt thành, và trọn vẹn hiến thân cho Thiên Chúa và phần rỗi các linh hồn.

Điều gây ấn tượng sâu đậm nhất, khi nhìn lại cuộc đời linh mục dài lâu của ngài, chính là sự khiêm nhường. Các Giám mục Tây Đàng Ngoài từng cộng tác đều nhìn nhận rằng: Họ chưa từng có một cha sở nào vâng lời hơn, ít tự cao hơn, và tận tụy chu toàn bổn phận mục vụ hơn vị linh mục bé nhỏ ấy, dù trong cơ cấu hành chính quốc gia, ông từng nắm giữ tước vị Phó Vương.

Trong phẩm trật Giáo hội, cụ Sáu thậm chí không giữ chức vị cha quản hạt (curé doyen).
Các vị thừa sai châu Âu, vốn rất ít ỏi, vẫn giữ quyền quản hạt theo quy định, và vào thời ấy, người ta chưa từng nghĩ tới chuyện truyền chức giám mục cho người bản xứ.

Quả thật, trong thời kỳ bách hại, việc học thần học tại các chủng viện ở Đàng Ngoài còn đơn sơ và thiếu sót, thế nhưng Cụ Sáu có thể viết tiếng La-tinh một cách dễ dàng, và thích đọc các tác phẩm của các Giáo phụ thời đầu. Tuy vậy, ngài chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lợi dụng trí tuệ hay học thức của mình để tự nâng mình lên khỏi vai trò khiêm tốn mà Thiên Chúa Quan Phòng đã an bài cho ngài.

Không phải vì ngài không ý thức được giá trị của bản thân. Ngài hiểu rất rõ ý nghĩa của những vinh dự mà mình đã nhận được, nhất là trong một môi trường truyền thống như quê hương ngài, nơi vinh dự gắn liền với phẩm giá và tiếng nói. Ngài sẵn sàng sử dụng những đặc quyền ấy, nhất là trong các dịp trọng thể, để bảo vệ danh dự của Giáo hội, và để tạo điều kiện thuận lợi cho các công việc tông đồ, mục vụ, hay xã hội của mình.

Hơn nữa, dù là người bạn lớn của nước Pháp, và luôn ủng hộ một chế độ bảo hộ sáng suốt, mang lại những yếu tố phát triển kinh tế, văn hóa, tri thức mà ngài thấy cần thiết cho đất nước, ngài tuyệt đối không bao giờ chấp nhận để người ngoại quốc khinh rẻ dân tộc mình. Một lần, có một sĩ quan Pháp buông lời xúc phạm các tín hữu An Nam, cụSáu nghiêm khắc đặt ông ta vào đúng chỗ:

— “Ông cười nhạo những người đồng bào của tôi, thưa ông, chỉ vì cha mẹ chúng tôi sinh chúng tôi ra ở đất An Nam, thay vì để chúng tôi chào đời trên đất Âu châu. Xin thưa, tôi xem đó là một sự sỉ nhục cá nhân. Và để ông rõ: nếu tôi sinh ra tại Âu châu, thì chắc gì ông đã xứng đáng để xỏ chân vào đôi giày tôi mang, chứ đừng nói đến việc bắt tay tôi…
Còn nếu lời nói của tôi làm ông nổi giận, thì xin mời, ông có súng lục, ngực tôi đây!”

Lời đáp trả ấy thật đanh thép. Kẻ hỗn xược kia, may thay, đã đủ tỉnh táo để lên tiếng xin lỗi cụ Sáu, và cụ, với lòng bao dung, đã không chấp lỗi một định kiến chủng tộc vốn rất phổ biến nơi người phương Tây.

Thật ra, cụ Sáu chính là mẫu người mà nước An Nam không thiếu: kiệm lời, sâu sắc, tế nhị, và bên dưới vẻ ngoài tưởng như yếu đuối ấy, là những thứ vũ khí thầm lặng mà người Âu ít khi hiểu được giá trị: sự im lặng, con mắt quan sát, và một sự bền gan không gì lay chuyển.

Dưới đây là một chuyện nhỏ — nhưng đủ làm người ta suy nghĩ rất nhiều.

Một viên quan người Pháp, hoặc vô tâm, hoặc thiếu lễ độ, đã tiếp cụ Sáu mà để cụ đứng suốt buổi, không mời ngồi.

Đúng lúc ấy, một vị quan An Nam bước vào. Viên quan Pháp vội vã chào đón, mời ngồi niềm nở.

Nhưng vị quan ấy khiêm tốn từ chối. Viên chức Pháp ngạc nhiên, nài nỉ. Cuối cùng, ông ta mới điềm đạm đáp:

— “Vị đang hiện diện nơi đây là Khâm sai triều đình. Xin hãy mời cụ Sáu ngồi trước.
Nếu ngài cho phép tôi được ngồi sau, thì đó sẽ là vinh dự lớn lao cho tôi.”

Những chuyện như thế cho thấy người Pháp thật khó thích nghi với một đất nước
nơi mà nghi lễ và phẩm trật được tôn trọng hơn cả lời nói. Và càng rối ren hơn, khi tinh thần bài giáo sĩ từ nước ngoài bị đem sang, thì chuyện gì cũng có thể xảy ra — kể cả sự thô lỗ… khoác áo văn minh.

Cụ Sáu là vị linh mục của dân mình, hoàn toàn hòa nhập vào nhịp sống và tâm thức sâu thẳm của người An Nam. Một dân tộc mà nếu muốn dẫn đến văn minh thật sự, trước hết phải học cách hiểu họ, thay vì đem văn minh áp đặt, khi chính họ chưa hề cảm thấy cần.

Tại Đông Dương, một người quan sát am hiểu vùng đất này từng nhận xét: nơi đây có một dân tộc đơn sơ và tuyệt vời. Họ nhút nhát vì họ không mạnh; họ uyển chuyển, kín đáo và khôn khéo, bởi từ bao đời nay, họ luôn sống trong thân phận yếu đuối giữa những láng giềng hùng mạnh. Nhưng khi người ta đủ kiên nhẫn để hiểu họ và tạo được lòng tin, thì điều nhận lại sẽ là một bất ngờ đầy quyến rũ. Vùng đất lặng lẽ này là nơi của những con người không màng danh lợi. Ta có thể cảm thấy rằng, những thế kỷ dài đằng đẵng đã gọt giũa nên mảnh đất này và vẻ hiền hòa hiếu khách của nó, và chính sự luân phiên nhẹ nhàng của các mùa trong năm đã khiến cho thiên nhiên nơi đây trở nên tròn đầy và vững chãi như thể không thể khác đi được. Phong cảnh ấy như thấm đẫm tinh thần tổ tiên, những bậc tiền nhân mà con cháu ngày nay không muốn thay đổi bất cứ điều gì so với những gì họ đã truyền lại. Mọi thứ nơi đây đều mang trong mình một quá khứ an hòa và những giấc mộng bình yên. Con người ở đây sống trong chiều sâu — mặc những bộ y phục giản dị, rộng rãi, gần như không đổi khác qua bao thế hệ, chăm nom âm thầm một mái nhà bình lặng mà họ hiếm khi rời xa, vì những chuyến đi với họ là mệt mỏi và vô ích; họ đứng đầu một gia đình nơi mọi phụ nữ đều khiêm nhường, yên lặng và gần như vô hình; và họ rút ra nguyên tắc sống cũng như nguồn động lực cho hành vi của mình từ một nền triết lý cổ xưa — huyền nhiệm và sâu sắc theo năm tháng.[13]

Cụ Sáu chính là vị linh mục được Quan Phòng gửi đến cho dân tộc này, một dân tộc mà cụ hiểu rất rõ, và với họ, cụ biết cách dùng ngôn ngữ sao cho hợp lòng người.

Cốt lõi trong hoạt động mục vụ của cụ là việc tôn thờ Thánh Thể, một hình thức đạo đức đã làm nảy sinh cách kỳ diệu trong tâm hồn người tín hữu niềm cảm thức về sự hiện diện, sự thân mật với Thiên Chúa, cũng như lòng biết ơn và tình yêu dâng hiến, điều này đã ban cho lòng đạo Công giáo một sức sốt sắng không gì sánh được.

Những năm đầu thừa tác vụ của cụ, vào thời ấy ở Đàng Ngoài, rất ít nhà thờ có nhà tạm.
Đó là giai đoạn vừa thoát cơn bách hại dữ dội, và các nơi thờ phượng gần như chỉ là những túp lều tranh trống trải giữa đồng, nơi người ta chỉ có thể dâng lễ mà không thể để lại bất cứ vật thánh nào vì sợ mất mát.

Phải đến năm 1889, khi nhà nguyện Thánh Tâm được xây dựng, Phát Diệm mới được đặc ân lưu giữ Mình Thánh Chúa. Không một giáo xứ nào trong vùng lúc ấy có được kho tàng này! Và không giáo xứ nào dám tự hào như Phát Diệm.

Giáo dân ở đây đã chứng tỏ mình xứng đáng. Lúc ấy, Giáo hội chưa ban hành sắc lệnh của Đức Piô X về rước lễ thường xuyên (1905), vậy mà từ thời điểm đó, Phát Diệm đã trở thành “giáo xứ Thánh Thể” – một danh xưng mà ngày nay vẫn được nhắc đến khắp Đông Dương.

Từ bốn giờ sáng đến chín giờ tối, các tín hữu liên tục thay phiên nhau chầu Thánh Thể.
Thánh lễ mỗi ngày đều đông đảo, và số người rước lễ ngày càng thường xuyên hơn.

Nếu ngày nay, tại Phát Diệm, mỗi tín hữu trung bình rước lễ đến bốn mươi lần mỗi năm (một con số vượt xa nhiều giáo xứ tại châu Âu), thì công trạng đầu tiên và lớn nhất chắc chắn phải thuộc về vị mục tử khôn ngoan và đạo đức, người đã khởi xướng truyền thống cốt lõi này cho giáo xứ của mình.

Vì người giáo dân đơn sơ thường không nghiêng về cầu nguyện trong thinh lặng, mà lại rất yêu thích các kinh nguyện đọc to và công khai, nên cụ Sáu đã sáng tác nhiều lời nguyện Thánh Thể để giáo dân mình sử dụng — những kinh nguyện ấy về sau trở nên kinh điển trên khắp đất An Nam. Một trong số đó, được viết bằng những vần thơ bốn chữ, đã trở nên rất thịnh hành ở vùng Đàng Ngoài. Khi cộng đoàn cất lên bài kinh ấy, với giai điệu than vãn đặc trưng của các điệu hát dân gian An Nam, hiệu quả thiêng liêng và cảm động mà nó tạo ra thật sâu sắc.

Nhà giáo dục vĩ đại này — người hiểu rằng các dân tộc, cũng như trẻ nhỏ, học được nhiều hơn bằng mắt và trí tưởng tượng hơn là bằng diễn từ — đã khéo léo điều chỉnh các hình thức đạo đức quen thuộc theo tâm lý của đoàn chiên mình, những điều họ gắn bó sâu xa, cũng như ngài gắn bó với chúng: lòng sùng kính các linh hồn nơi luyện ngục, lòng sùng kính Đức Mẹ, và lòng sùng kính Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.

Mỗi năm, lễ Các Đẳng linh hồn đều được dọn đường bằng một tuần cửu nhật cầu nguyện, trong thời gian đó, cụ Sáu giảng hai lần mỗi ngày. Ngài cũng đã soạn các bài suy niệm riêng cho từng buổi cầu nguyện trong tuần cửu nhật ấy — nhiều bài trong số đó đến nay vẫn còn được sử dụng.

Người ta vẫn còn nhớ mãi một nghi thức cảm động mà một ngày kia, chính cụ Sáu đã nghĩ ra. Trước thời điểm ấy, Phát Diệm chưa có nghĩa trang riêng: những người qua đời, theo thông lệ xưa nay, vẫn được chôn cất rải rác đây đó trên các thửa ruộng.

Cụ Sáu đã mua một khu đất lớn có tường bao quanh, rồi thông báo cho đoàn chiên biết rằng từ nay, gia đình giáo xứ sẽ được đoàn tụ với nhau trong cái chết, như đã từng sống bên nhau lúc sinh thời. Cụ mời gọi các gia đình khai quật hài cốt của người thân đã khuất, để quy tụ và an táng lại trên mảnh đất thánh đã được làm phép. Đó là một nghi lễ không thể nào quên. Đúng ngày đã định, hơn 2.000 tiểu quan bằng đất nung được rước đến nhà thờ, bao quanh bởi mọi gia đình trong giáo xứ. Cụ Sáu chủ sự một thánh lễ Requiem trọng thể, và sau đó là một đoàn rước khổng lồ, đưa những di hài đáng kính ấy đến an nghỉ nơi nghĩa trang giáo xứ.

Tháng Hoa dâng Đức Mẹ và Tuần Thánh tại Phát Diệm thời cụ Sáu đã trở thành những lễ hội nổi tiếng khắp vùng. Cho đến hôm nay, nhiều hình thức đạo đức độc đáo vẫn còn được duy trì, như cuộc rước hoa trong tháng Năm, hay màn tái hiện Cuộc Thương Khó của Chúa vào cuối Mùa Chay — tất cả được tổ chức một cách tự phát bởi giáo dân, không cần đến sự can thiệp của linh mục.

Păng, păng, păng!… Trống đại à? Gì thế kia?
Đó là đoàn rước hoa sắp bắt đầu.

Mỗi ngày trong tháng Năm, lại có một họ đạo từ vùng lân cận đến dâng hoa kính Đức Mẹ.

Người ta đổ xô về nhà thờ. Ôi, thật là một cảnh tượng tuyệt đẹp! Trời đã tối, nhưng ánh sáng rực rỡ khắp nơi; trống đại vang dội, những em nhỏ gõ trắc theo nhịp, những em khác đánh những chiếc chuông nhỏ, chập chõa, các lá cờ bay phần phật trong gió.

Những thiếu nữ trẻ mang trên tay những chén hoa, bên trong cắm đầy hoa tươi,
ở giữa lấp lánh một cây nến sáng.

Các em gái mặc những chiếc váy lụa đủ màu sắc rực rỡ. Khi bước vào nhà thờ, các em bắt đầu hát những bài thánh ca. Hai em tiến lên phía trước, đến gần ảnh Đức Mẹ; đến một câu hát nhất định trong bài, cả bốn cánh tay nhỏ bé cùng giơ lên, dâng hoa về phía ảnh Mẹ; rồi đến một câu khác, những bông hoa được nhẹ nhàng đặt trên bàn thờ. Sau đó, hai em nhỏ cúi chào với dáng vẻ trang trọng, đẹp như hai công chúa nhỏ nơi triều đình vua Louis XIV, cúi đầu chào nhau, rồi lùi về, cầm lại hoa và nhường chỗ cho hai bạn kế tiếp. Đến cuối buổi, tất cả các em cùng quây quần xung quanh cô bé lớn nhất, em này đội trên đầu một bó hoa thật to. Các em lớn đứng gần em ấy, các em nhỏ hơn xếp vòng tròn bên ngoài, quay lưng lại với em đứng giữa — tất cả cùng tạo nên một bó hoa sống tuyệt đẹp nhất mà tôi từng thấy. Tất cả các cánh tay giơ cao, dâng hoa kính Đức Mẹ, trong khi mọi giọng hát cùng vang lên: Ave Maria! Ave Maria!

Các lễ nghi trong Tuần Thánh còn gây ấn tượng mạnh hơn nữa. Cụ Sáu chuẩn bị cho cộng đoàn bằng việc giảng dạy hằng ngày suốt Mùa Chay, và những lễ nghi này kết thúc với một sự sốt sắng đến nỗi, ba mươi năm sau, người ta vẫn có thể quả quyết rằng không đâu trên thế giới mừng Tuần Thánh cách sốt sắng và long trọng như ở Phát Diệm.

Chúng ta hãy đọc thêm vài ghi chép từ một nhân chứng về việc tái hiện Mầu nhiệm Cuộc Thương Khó:

Tất cả các vai diễn đều được đảm nhận bởi các thành viên của một hội đoàn, do cụ Sáu sáng lập, mang tên “Hiệp hội Thương Khó”. Các vai nam và nữ đều do đàn ông thủ vai, và những người này phải là những người có đời sống đạo đức và hạnh kiểm gương mẫu, không ai có thể nghi ngờ.

Tuy nhiên, có ba vai không tuân theo quy tắc chung: Trước hết là vai Chúa Giêsu và vai Đức Mẹ Maria — không ai dám cho mình xứng đáng để đóng những vai ấy. Thay vào đó, người ta dùng tượng, và một thành viên trong hội sẽ khiêm tốn đọc lời thoại thay cho các ngài. Còn lại là vai Giuđa Iscariôt — không thể nào tìm được một tín hữu Công giáo tốt lành nào sẵn lòng nhận vai ấy. Vì thế, người ta thường mời một lương dân hạng thấp, người sẵn sàng “bị cám dỗ” bởi ba mươi đồng bạc…

Và đây là cách tái hiện Cuộc Thương Khó – một thánh kịch linh thánh – diễn ra tại Phát Diệm.

Tối thứ Năm Tuần Thánh, bốn pho tượng được đặt trong một trong ba hang đá do cụ Sáu dựng nên: tượng đầu tiên là Chúa Giêsu quỳ gối cầu nguyện, ba tượng còn lại là ba tông đồ đang chìm vào giấc ngủ sâu. Suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau, các ca viên từ các họ đạo trong xứ lần lượt đến canh thức bên hang đá, đọc kinh, cầu nguyện và hát những bài thánh ca do chính cụ Sáu sáng tác cho dịp này.

Chiều thứ Sáu Tuần Thánh, khoảng 4 giờ, đông đảo tín hữu tụ họp tại quảng trường trước hang đá, để dự khán cảnh Chúa bị bắt. Bất ngờ, những người lính mô phỏng các binh sĩ An Nam xưa, mặc quần áo đỏ và xanh, mang theo súng với lưỡi lê bằng gỗ, xông vào “hang đá”, áp giải tượng Chúa Giêsu, và khiêng tượng Người đặt lên một chiếc cáng. Trong khi đó, toàn thể cộng đoàn quỳ gối, cầu nguyện, xưng thú, và khóc than thảm thiết, như thể đang tận mắt chứng kiến Cuộc Thương Khó đang diễn ra ngay trước mặt mình.

Và rồi, một đoàn rước được hình thành, một đoàn rước khải hoàn, bởi tại Phát Diệm, mỗi lần Chúa Giêsu hiện diện trong đoàn rước thì không thể là gì khác ngoài khải hoàn. Đoàn rước tiến bước long trọng đến “phủ quan lớn”, tức quan Philatô. Trước mặt quan, có một đoạn độc thoại ngắn, nhắc lại vắn tắt những gì đã xảy ra. Sau đó, tượng Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu được thay bằng tượng Chúa vác Thánh giá. Đoàn rước lại tiếp tục, tiến quanh nhà thờ lớn dâng kính Đức Mẹ Mân Côi, men theo lối đi truyền thống của các cuộc rước, và như thế, cuộc thương khó – đường lên Núi Sọ – chính thức bắt đầu.

Chỉ có hai hoặc ba chặng Đàng Thánh Giá được minh họa cụ thể. Tại các điểm ấy, đoàn rước dừng lại, và một nhân vật đọc một bài thơ vần, với giọng buồn bã và ai oán, nhưng trang nghiêm và đầy xúc cảm.

Cảnh chính được tái hiện, không nghi ngờ gì nữa, chính là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Cứu Thế và Mẹ Maria. Cảnh này kéo dài khá lâu; lúc ấy, đoàn rước dừng lại trước cửa nhà thờ.
Hai giáo dân mặc áo trắng tiến đến bên chiếc cáng khiêng tượng Chúa: một người đóng vai Chúa Giêsu, người kia đóng vai Đức Mẹ Maria. Trong một bài độc thoại dài, Đức Mẹ khẩn khoản nài xin Con đừng đi đến cái chết, xin Người thương xót Mẹ mà tránh khỏi nỗi đau này. Chúa Giêsu đáp lời, và cuối cùng Mẹ Maria chấp nhận lễ tế — chấp nhận cái chết hy sinh của Con mình. Chắc chắn rằng, bài đối thoại này là do chính cụ Sáu biên soạn, và cụ đã đặt vào đó tất cả tấm lòng của mình.

Sau đó, đoàn rước tiến vào trong nhà thờ, lúc ấy đã khoảng 8 giờ tối. Đám đông giáo dân lấp đầy ngôi thánh đường rộng lớn, và còn tràn cả ra hai bên hành lang. Có khoảng mười ngàn, mười lăm ngàn, thậm chí nhiều hơn, vì họ đến từ khắp các họ đạo trong vùng. Ngay cả những lương dân cũng có mặt, vì các nghi lễ này không ai có thể dửng dưng.

Giữa lòng thánh đường, những giáo dân có giọng tốt, được huấn luyện kỹ lưỡng, luân phiên nhau đọc lên với giọng ngâm rất bi thương, mười lăm mầu nhiệm Thương Khó. Đó là mười lăm bài độc thoại khá dài, kể lại với lòng đạo sâu sắc cuộc Thương Khó của Đấng Cứu Thế. Sau mỗi bài, cộng đoàn cùng đọc:năm Kinh Lạy Cha, năm Kinh Kính Mừng và năm Kinh Sáng Danh. Nghi thức này kéo dài gần ba tiếng, và giáo dân cảm thấy thời gian trôi quá nhanh. Họ nói: “Không có điều gì làm bừng cháy lòng chúng con như chính việc suy gẫm các mầu nhiệm Thương Khó này.”

Khi phần đọc kinh sốt sắng ấy kết thúc, thì đã gần 11 giờ đêm. Lúc đó, nghi thức đóng đinh vào Thánh giá được cử hành. Phía sau một tấm màn lớn che kín cung thánh,
các hội viên trong “Hội Thương Khó” đóng đinh một pho tượng lớn của Chúa Chịu Đóng Đinh lên một thánh giá cũng rất lớn, đúng với kích thước người thật. Tiếng búa nện vào gỗ vang lên đau thương, nhưng còn vang vọng hơn trong trái tim của các tín hữu. Họ kêu khóc nức nở, phủ phục đầu xuống đất, đấm ngực, và đọc kinh ăn năn cùng những lời khẩn cầu sốt mến. Cảnh tượng ấy thật xúc động: không ai chứng kiến mà không thấy lòng mình nghẹn lại.

Khi Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, thánh giá được dựng giữa lòng nhà thờ, đối diện với đoàn tín hữu. Hai nhân vật tiến đến gần, diễn lại cuộc đối thoại cuối cùng giữa Chúa và Mẹ Sầu Bi — Đức Mẹ nhận lấy những lời trăn trối của Con Mình. Sau cùng, Chúa tắt thở,
và đó là cảnh tháo xác xuống khỏi Thánh giá.

Đức Mẹ vẫn ở đó, mặc tấm khăn tang dài màu trắng — tại An Nam, đó là màu tang tóc.
Mẹ bế lấy xác Con yêu dấu (tượng Chúa chịu nạn), ngả đầu xuống trên Con, và cất lên những tiếng than van dài dằng dặc, đầy đạo đức và thảm thiết. Đám đông lặng thinh, nghe Mẹ Sầu Bi than khóc, tim ai nấy se thắt, nhiều người không cầm được nước mắt.

Cuối cùng, vào khoảng 12 giờ rưỡi đêm, thân xác Đấng Cứu Độ được đặt trên cáng,
và một đoàn rước long trọng tiến hành — đó là nghi thức an táng Chúa Kitô, diễn ra trong đêm khuya dưới ánh sáng rực rỡ của hàng ngàn ngọn đuốc. Người ta biết rằng, tại An Nam, các đám tang luôn được tổ chức trọng thể, và tang lễ dành cho Chúa thì càng không thể đơn sơ. Hàng ngàn người tham dự; mọi người đều mặc đồ trắng (dấu hiệu tang phục), và mỗi người đều cầm một cây đuốc trong tay.

Chậm rãi, đoàn rước dài đầy ánh lửa ấy di chuyển vòng quanh hồ lớn trước nhà thờ.
Hàng ngàn ánh đèn lung linh, phản chiếu lấp lánh trên mặt nước.  Như trong những đám tang lớn, tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng kèn tang vang vọng khắp không gian. Ban nhạc trỗi lên những khúc nhạc buồn, và mọi người cùng cầu nguyện thành tiếng. Những bó đuốc lớn cháy sáng từ khắp nơi, chiếu rọi hoàn hảo toàn bộ cảnh tượng. Cảnh tượng của đoàn rước huyền ảo ấy — một dòng người trắng toát, rực sáng giữa đêm đen, di chuyển quanh một hồ nước mênh mông, trong khi lời cầu nguyện của cả một dân tộc dâng lên trời cao — thật sự kỳ diệu. Đó chắc chắn là một trong những khung cảnh đẹp nhất mà người ta có thể chiêm ngưỡng tại đất An Nam. Ai đã một lần chứng kiến, sẽ không bao giờ quên được.

Sau khi rước quanh hồ lớn, đoàn rước quay lại hang đá Mồ Thánh, và thi hài Đấng Cứu Thế được an táng tại đó. Sau đó, khoảng một giờ rưỡi sáng, mọi người trở về nhà, để vài giờ sau lại quay trở lại nhà thờ, tham dự các nghi lễ dài của Thứ Bảy Tuần Thánh và rước lễ.

Chiều cùng ngày, khoảng 5 giờ, diễn ra cảnh tượng Phục Sinh. Ngôi mộ được canh giữ bởi các lính gác, mang súng và lưỡi lê (tất cả đều bằng gỗ, tất nhiên là vậy). Một đám đông khổng lồ tụ họp trước quảng trường giữa nhà thờ lớn và các nhà nguyện hai bên,
đối diện hang đá Mồ Thánh. Tất cả trẻ em trong xứ đạo Phát Diệm đều có mặt. Vào một thời điểm nhất định, một “nhân vật có thẩm quyền” trong xứ cầm loa hô lớn: “Chúa Giêsu Kitô đã sống lại!” Ngay lập tức, pháo nổ vang trời, ban nhạc trỗi lên, bọn lính canh ngôi mộ hốt hoảng bỏ chạy tán loạn, quăng cả vũ khí mà chạy trốn. Lúc ấy, tượng Chúa Phục Sinh được các tín hữu rước ra từ hang đá, đặt lên một cáng, và được cung nghinh cách trọng thể về nhà thờ.

Và đó chính là cách cụ Sáu giáo dục đoàn chiên của mình: Cụ đánh thức trí tưởng tượng của họ, cảm xúc của họ, thị giác của họ cũng như trí khôn của họ.

Tác phẩm văn chương của cụ cũng không kém phần đáng chú ý. Là một người có tài làm thơ, cụ đã sáng tác nhiều bài thơ Công giáo, góp thành một khóa học giáo lý sống động bằng thi ca.

Năm 1910, người ta quyết định tập hợp các bài thơ ấy để in thành sách. Bộ sách gồm bốn tập khổ nhỏ, mỗi tập khoảng 100 trang: Tập thứ nhất: ca ngợi vẻ huy hoàng của Đức Mẹ Maria; Tập thứ hai: trình bày cuộc đời và các mầu nhiệm của Chúa Kitô; Tập thứ ba: nói về các ngày lễ kính các thánh; Tập thứ tư: rất gần gũi với truyền thống người An Nam,
là bài suy niệm dài về điều răn thứ bốn: “Thảo kính cha mẹ.” Trong tập này, trẻ em được dạy cách yêu thương và chu toàn bổn phận trong gia đình bằng những bài thơ đầy cuốn hút. Một chi tiết đặc biệt đáng chú ý: trong vòng mười năm, tập sách này đã được tái bản đến bốn lần — một thành công hiếm thấy trong một đất nước mà việc in ấn và đọc sách thường ít được ưa chuộng.

Nhưng nơi người mục tử chân chính, điều tỏa sáng nơi cụ Sáu lại chính là đức tính nền tảng của một người mục tử: lòng nhân hậu.

Cụ hiền lành với mọi người, nhưng đặc biệt dịu dàng và gần gũi với những người nhỏ bé và nghèo hèn. Họ có thể đến gặp cụ bất cứ lúc nào, và cụ luôn tiếp đón họ bằng sự tử tế chân thành, dù có đang bận rộn với công việc khẩn cấp. Cụ lắng nghe kiên nhẫn những nỗi niềm của họ, và chỉ tiễn họ ra về sau khi đã an ủi bằng những lời khích lệ dịu dàng. Nếu người nghèo đến xin lễ, cụ luôn kín đáo hoàn lại bổng lễ, thậm chí cho nhiều hơn nữa, như một món quà bác ái từ tấm lòng quảng đại.

Xin cho phép chúng tôi kể lại một giai thoại vừa dí dỏm vừa thấm đẫm tinh thần giáo huấn.

Một hôm, một người đầy tớ già của cụ Sáu tự ý ra ngoài mà không xin phép, và rồi không cưỡng lại nổi cám dỗ của rượu nếp, ông ta uống quá chén. Mãi đến khuya, trong tình trạng say mềm, ông mới về tới nhà xứ. Cửa đã khóa. Tội nghiệp ông già, ông gõ cửa thật mạnh và la hét ầm ĩ để người ta ra mở. Chỉ có một người còn thức – đó là cụ Sáu.
Cụ dậy và nói vọng ra:

“Anh cẩn thận nhé! Đừng làm ồn, vào khẽ thôi. Nếu cụ Sáu mà biết anh về khuya, lại còn say thế này, thì chắc chắn cụ sẽ phạt rất nặng đấy! Thôi nào, mau lên, tôi sẽ dẫn anh đi ngủ.”

Thế là cụ Sáu – vị cha sở đáng kính – nắm tay ông đầy tớ già, dẫn ông vào phòng, giúp ông cởi áo, đỡ ông nằm xuống giường nghỉ.

Khi cụ định đi ra, ông say gọi lại:

“Cha ơi, cho con xin ly nước mát… Con khát khô cổ rồi!”

Không nói một lời, cụ Sáu lặng lẽ quay lại mang cho ông ly nước như lời ông xin.

Và hình phạt duy nhất mà cụ Sáu dành cho người đầy tớ ấy là: hôm sau, cụ nhẹ nhàng kể lại toàn bộ câu chuyện cho chính ông ta nghe, nhưng không nói với bất kỳ ai khác. Phải đến sau khi cụ qua đời, người ta mới biết được câu chuyện này từ chính miệng người đầy tớ năm xưa, vẫn còn xấu hổ và xúc động, và từ đó đã hoàn toàn thay đổi đời sống mình. Phải chăng, người ta cũng kể một câu chuyện gần như y hệt về thánh Phanxicô Salêsiô?

Những giờ phút thử thách, vốn xảy ra thường xuyên tại xứ Bắc Kỳ, nơi đời sống vật chất luôn bị đe dọa bởi những trận lụt kéo dài, luôn gây cho cụ Sáu những nỗi ưu tư sâu xa.

Những lúc ấy, cụ chỉ muốn ăn như người nghèo nhất trong các giáo dân. Bữa ăn của cụ luôn thanh đạm, đến mức chẳng khác gì của một ẩn sĩ. Chỉ vài củ khoai luộc, ít bắp hạt, và may lắm một bát cơm trắng luộc bằng nước, mà cơm ấy cũng thường được xem là xa xỉ và bị thay bằng bắp. Nếu cụ có sẵn lương thực, cụ liền phân phát hết cho những người khốn khổ hơn mình. Có biết bao câu chuyện cảm động liên quan đến điều ấy. Một lần, cụ nghe tin một thanh niên trong giáo xứ sắp cưới vợ ngày mai, nhưng quá nghèo, không thể tổ chức bữa tiệc cưới theo truyền thống. Cụ lập tức gọi người đầy tớ của mình,
ra lệnh: “Lấy một con heo nhỏ trong chuồng, rồi đem một bao gạo từ kho ra cho gia đình ấy.” Đám cưới ấy diễn ra vui vẻ, và tên tuổi của cha xứ tốt lành tràn ngập trong lời chúc lành của dân làng.

Khi cần nghiêm khắc, cụ Sáu cũng có cách riêng để thi hành quyền bính. Dưới đây là một ví dụ: Tại Phát Diệm, đánh bạc và say rượu là điều bị cấm gắt gao. Thế nhưng, con quỷ cờ bạc thường hay cám dỗ con người vào dịp Tết Nguyên Đán, và nhiều người đã không ngần ngại sa ngã. Năm 1891, năm khởi công xây dựng nhà thờ Mân Côi, tất cả những ai bị bắt quả tang đánh bạc đều bị phạt phải vận hành cối xay lúa trong vòng một, hai hoặc ba tuần lễ, để xay gạo nuôi các thợ xây đang làm việc tại công trường nhà thờ.

Người ta kể lại rằng, năm ấy cụ Sáu không tốn bao nhiêu tiền cho việc mua gạo nuôi thợ xây nhà thờ Phát Diệm!

Đó chính là cụ Sáu trong sứ vụ mục tử của mình. Khi cụ qua đời, số tín hữu trong giáo xứ đã tăng từ hai ngàn lên hơn mười ngàn người.

Liệu cụ có thể làm tốt hơn thế nữa không?
Có thể có người lấy làm lạ rằng, với uy tín phi thường mà cụ có nơi đồng bào mình, tại sao cụ không làm nên “phép lạ” cải đạo hàng loạt?

Nhưng chính vì điều này: hoạt động tôn giáo đích thực thường không diễn ra bằng phép lạ.

Từ năm 1875 đến 1900, dân số Công giáo của Tây Đàng Ngoài chỉ tăng từ 140.000 lên 220.000 người, dù có 20 nhà truyền giáo tận tụy và hơn 100 linh mục bản xứ nhiệt thành.

Điều đó cho thấy rằng không ai làm tốt hơn — hay thậm chí bằng — cha sở Phát Diệm.
Và cũng cho thấy rằng: việc hoán cải thế giới lương dân là một công trình kiên nhẫn,
đòi hỏi nhiều thợ gặt, và rằng nơi cần hàng ngàn người,[14] một nhúm nhà truyền giáo dẫu thánh thiện đến đâu cũng không thể đủ cho sứ mạng ấy.

Ước gì các giám mục truyền giáo có được thật nhiều cộng sự viên xứng tầm như vị cha sở thánh thiện của Phát Diệm!

CHƯƠNG IX
Phần Thưởng

Cụ Sáu, người sẽ qua đời vào năm 1899, khi đã bước sang tuổi thất thập, đã sống đủ lâu để được hưởng hoa trái từ những công trình lao nhọc của mình, cũng như vinh quang bao phủ lấy cả con người lẫn sự nghiệp của cụ.

Danh tiếng của cụ nơi đồng bào mình thật không ai sánh được. Dưới đây là một minh chứng thú vị trong muôn vàn dẫn chứng khác.

Năm ấy là năm 1895. Đức cha Gendreau, Giám mục Đàng Ngoài, tấn phong tại Hà Nội vị phụ tá của mình là Đức cha Marcou. Nhà thờ chính tòa chật kín người, và bầu không khí có phần náo động. Một chút trễ nải trong buổi lễ khiến đám đông trở nên xôn xao, đến mức ban tổ chức không còn biết làm sao để lập lại trật tự. Họ cho Đức cha Phó Đại diện, một người nổi tiếng nhờ vóc dáng to lớn và khả năng diễn thuyết, lên giảng đài, nơi ông, với giọng oang oang, ra lệnh im lặng.

Kết quả thật thảm hại! Lời kêu gọi của ngài chỉ làm yên được vài hàng ghế gần, còn đám đông thì ngày một ồn ào hơn.

Có người đề nghị mời cụ Sáu can thiệp. Người ta đưa cụ lên giảng đài. Cụ xuất hiện trong thinh lặng, chỉ giơ tay lên như thể sắp nói điều gì… Ngay lập tức, một sự im lặng kỳ diệu bao trùm cả đám đông.

— Cụ Khâm sai đó!… Cụ Khâm sai! — những tiếng thì thầm vang lên đầy kính trọng.

Cả biển người dõi mắt về bóng dáng thân yêu vừa xuất hiện. Sự kính nể, lòng cảm phục, nỗi sợ pha lẫn yêu mến – tất cả đã chinh phục mọi tâm hồn.

Chỉ với vài lời được thốt ra bằng một giọng nhỏ nhẹ và điềm tĩnh, cụ Sáu, cha sở Phát Diệm, đã nhắc nhở mọi người trở lại tâm tình sốt sắng cần thiết. Chừng đó là đủ. Buổi lễ diễn ra trong sự yên tĩnh và đạo đức như mong đợi.

Một vị thừa sai cao niên, chứng kiến tận mắt cảnh ấy, đã kết luận:

Thật xúc động và không thể quên được. Không ai trong chúng tôi có thể mơ đến một sức ảnh hưởng như vậy!

Các giới chức cao cấp người Pháp đều biết rõ điều này và không tiếc lời bày tỏ lòng kính trọng đối với cha sở Phát Diệm. Sau đây là một vài nét minh hoạ tiêu biểu:

Năm 1893, ông de Lanessan báo trước với cụ Sáu rằng ông sẽ đến xin nghỉ lại nhà xứ.
Một nỗi bối rối lớn! Cho tới lúc đó, cha sở Phát Diệm chưa hề nghĩ đến việc xây một nhà xứ đàng hoàng. Nhưng không thể nào tiếp đón Thống đốc toàn quyền Đông Dương trong một túp lều tre kiểu An Nam được!

Chuyện ấy thì nhằm gì! Cụ Khâm Sai chẳng cần nhiều thời gian để làm mọc lên từ đất một ngôi nhà. Cụ ra lệnh huy động, cả trăm thợ được triệu tập, và chưa đầy ba tuần sau, một bungalow xinh xắn hai tầng, — mà đến nay người ta vẫn còn gọi là “nhà ông de Lanessan” — đã sẵn sàng đón tiếp vị khách quý.

Năm 1896, một Toàn quyền Đông Dương khác, ông Rousseau, cũng đã đến ghé thăm Phát Diệm.

Ông đến vào ngày 6 tháng 7, trên chiếc thuyền máy Tuyên Quang, đi cùng là một sĩ quan tùy tùng — không ai khác chính là chỉ huy trưởng Lyautey, người sau này trở thành Thống chế của nước Pháp. Trong các bức thư viết từ Bắc Kỳ, vị học giả tương lai đã kể lại ấn tượng sâu đậm mà chuyến thăm này để lại. Hãy để ông ấy lên tiếng. Chúng ta khó có thể tìm thấy một lời khen ngợi nào xứng đáng và uy tín hơn về cụ Sáu và công trình khai hóa của cụ:

“Vừa rẽ vào sông Đáy,” ông viết, “là chúng tôi bước vào vùng đất Công giáo: hai tỉnh Ninh Bình và Phủ Lý là nơi tập trung các xứ đạo kiên cường và phồn thịnh nhất; những trung tâm đích thực của cuộc truyền giáo cổ kính, mà hai đầu não chính là Kẻ Sở — nơi chúng tôi sẽ đến vào ngày mai — và Phát Diệm, nơi chúng tôi vừa trải qua buổi tối và dự bữa ăn tối.

Phát Diệm, tức là Cụ Sáu! Cụ Sáu là một linh mục cao niên người An Nam, một trong những vị anh hùng thầm lặng, những tâm hồn khao khát hành động và sáng tạo, người có thể lay chuyển tất cả những gì cụ chạm đến, sinh ra cho một sân khấu lớn, và nếu không có sân khấu lớn thì cụ tự mình tạo ra một sân khấu lớn từ mảnh đất nhỏ bé. Cuộc đời của cụ giờ đây đã trở thành truyền thuyết… Cụ được lần lượt thăng lên các phẩm hàm cao nhất trong giới quan lại. Cụ là Khâm sai, và ở Bắc Kỳ lúc ấy chỉ có ba vị Khâm sai: Kinh Lược, Tổng Đốc Sơn Tây, và cụ. Còn trước kia, danh vị Khâm sai của cụ còn xếp trước cả Kinh Lược.

Cụ là vị phân xử tối cao. Cụ có thể xét lại và hủy bỏ mọi phán quyết của các quan lại khác. Cụ được hưởng mọi vinh dự bề ngoài cao nhất: lọng lớn, kiếm lệnh, biểu tượng quyền lực… Hãy tưởng tượng xem một linh mục Công giáo tuyệt vời như vậy sẽ có sức mạnh thế nào trong con mắt của người An Nam. Cụ không từ chối vinh dự nào thuộc về mình, vì cụ dành tất cả để phục vụ đức tin, công trình và đồng đạo của mình. Chính vì thế, khi đón tiếp chúng tôi lúc 4 giờ tại bến, cụ đã hiện diện với tất cả vẻ uy nghi rực rỡ nhất. Con đường dẫn đến nhà xứ thật đẹp, chạy dọc một con kênh sống động đầy thuyền tam bản, bắc ngang là một trong những cây cầu có mái cong bằng gỗ — nét đặc trưng của vùng đất này. Ông bà Rousseau và cô tiểu thư Rousseau được rước đi bằng kiệu lớn mạ vàng, trông chẳng khác gì tượng các vị thánh hay tượng Đức Mẹ trong các cuộc rước lễ. Còn chúng tôi thì theo sau bằng những chiếc võng lụa treo trên hai cung ngà voi.

Và đây là khu Truyền giáo – công trình của Cụ Sáu, huyền thoại của toàn xứ Bắc Kỳ: một thành phố tôn giáo được tổ chức chung quanh năm nhà thờ lạ lùng đến khó tin — trong đó có nhà thờ chính tòa ba gian, xây dựng bằng những khối đá hoa cương nguyên khối và những thanh gỗ lim khổng lồ. Những vật liệu khổng lồ ấy — như bàn thờ chính cao sáu bậc, được đục từ một khối đá duy nhất, bao gồm cả bàn thờ, bậc thang và bục nâng — đã được vận chuyển, nâng lên và lắp ráp mà không cần một công cụ hiện đại nào, chỉ bằng hàng đoàn nhân công. Đó là tuyệt đỉnh của lao động thủ công. Kỹ sư trong ông Rousseau bừng tỉnh dậy; ông hoàn toàn sững sờ, và lập tức nói rằng phải cử ngay một kiến trúc sư đến đây để vẽ lại chi tiết kỹ thuật của công trình kỳ diệu này, thứ công trình khiến người ta có cảm giác như bị ném trở về thời Ai Cập cổ đại, hay đúng hơn là thời Trung cổ, khi đức tin của những dân tộc nô nức dựng nên các đại giáo đường mà không hề có sự trợ giúp nào của máy móc hiện đại.

Và điều tuyệt diệu là: lao động này còn là một nghệ thuật. Cách trang trí của công trình thật rực rỡ, nhưng không phải kiểu rực rỡ theo nghĩa thế kỷ XVI, vì không còn kiểu kiến trúc nào quen thuộc ở đây nữa. Cụ Sáu, với trí tưởng tượng vô cùng phong phú, đã mượn từ mọi nơi chốn mà cụ từng thấy, từ ảnh chụp cho tới tranh vẽ: Nghệ thuật Trung Hoa và An Nam trong các điêu khắc trên xà nhà và chi tiết trang trí; Phong cách gothic trong sự rực sáng của các đầu cột; Ảnh hưởng Babylon trong phần đế và thân cột; Phong cách Phục hưng Ý trong các cổng nhà nguyện và các dãy hành lang. Và chúng tôi đều đồng tình rằng, dù rất lạ lẫm, rất bất ngờ, nhưng nó không hề xấu xí hay chói mắt. Cụ Sáu đã hòa trộn, phối hợp tất cả lại với nhau một cách hài hòa — thật sự là cụ đã sáng tạo ra một phong cách riêng!

Tôi đã nói chưa nhỉ? Cụ chỉ là một ông già nhỏ bé, người khom lại, đôi mắt lấp lánh sau cặp kính gọng vàng, đeo thánh giá trước ngực, mặc áo dài màu xanh đậm, vừa giống một vị quan vừa giống một linh mục…

Nhưng nếu như năm nhà thờ kia là niềm vui và niềm giải trí của cụ Sáu, thì công trình lớn nhất, đích thực nhất của cụ, chính là chiến công chinh phục biển cả — trong suốt ba mươi năm, cụ đã biến mười cây số đất ngập mặn thành những cánh đồng lúa trù phú. Chúng tôi đã đi dọc những cánh đồng này trước khi lên bờ: những con đê từng bị bỏ lại, chạy song song với biển, như những vết tích của từng năm tháng khai khẩn, cho tới con đê cuối cùng hiện vẫn còn bị sóng biển vỗ vào, đằng sau đó là lớp đất mới hình thành, mà chẳng bao lâu nữa, nó cũng sẽ chỉ còn là dấu vết cũ nằm sâu trong đất liền.

Đây là lời chứng của một người hành động, người có con mắt tinh tường về những bậc kiến tạo, và lời ấy đủ để làm rạng danh vị sáng lập Phát Diệm.

Bạn muốn có một lời chứng khác, khách quan hơn nữa? Đây là một lời chứng đến từ một người Anh – tuy có vài sai sót dễ hiểu về tôn giáo Công giáo, nhưng lại vẽ nên một chân dung của cụ Sáu đầy sống động và ấn tượng.

Lord Curzon, sau này là Phó vương Ấn Độ, đã có dịp đi ngang qua Phát Diệm. Ông trở về trong ấn tượng sâu đậm, và đã chia sẻ những ghi chép sau đây trên tờ National Observer. Dù có những điểm sai lệch về thần học, bài viết vẫn để lại một cảm giác chân thực đáng suy ngẫm.

Người viết đặt một tiêu đề khá thiên kiến nhưng cũng rất biểu cảm: “Một vị Giáo hoàng nhỏ ở An Nam”.

“Tại Phát Diệm,” – ông viết – “nằm ở góc tây nam xứ Bắc Kỳ, bên một trong những kênh đào mà sông Hồng xả dòng nước đỏ quạch ra biển cả, có một làng An Nam hiện lên gần như giống hệt một ngôi làng thời Trung Cổ, một hình ảnh mà khó ai ngờ lại có thể xuất hiện vào thế kỷ XIX, ở một vùng tỉnh lẻ xa xôi của An Nam như thế.

Ấy vậy mà tại Phát Diệm, hiện tượng ấy vẫn hiện hữu trong con người một vị quan lớn bậc nhất trong hàng ngũ quan lại triều đình, đồng thời là một linh mục Công giáo và một địa chủ quyền thế. Người đàn ông phi thường ấy mang cái tên trong giới Âu Tây là Cha Six. Ông đã hơn bảy mươi tuổi, đã sống gần nửa thế kỷ tại Phát Diệm, và có thể gọi ông là người đã khai sinh ra nơi ấy – vì ông đã giành lại đất từ biển cả bằng một hệ thống đê điều, mương máng và kênh đào rộng lớn. Trong tất cả các làng mạc An Nam mà tôi từng đi qua, Phát Diệm gây ấn tượng mạnh mẽ bởi vẻ trù phú và nền nông nghiệp thịnh vượng vây quanh.

Tuy vậy, đáng ngưỡng mộ hơn cả những công trình khai hoang ấy, là những bằng chứng vững bền của lòng trung thành với đức tin Công giáo, vốn là truyền thống lâu đời của gia tộc ông. Ngay gần nơi ở của ông, có một khoảng đất rộng lớn, nơi hiện lên không dưới bốn nhà thờ, tất cả đều do chính ông thiết kế và giám sát xây dựng.

Trong các nhà thờ đó, một nhà thờ đá nổi bật lên, nổi bật nhất là phù điêu khắc họa Chúa Kitô – tất cả những tác phẩm điêu khắc ấy đều được các nghệ nhân bản xứ thực hiện, theo bản vẽ của người bản xứ. Kiểu dáng có phần thô mộc, nhưng với mức độ khả năng của những nông dân An Nam sống ở góc xa xôi này của thế giới, thì cũng không thể mong đợi gì hơn. Tuy mộc mạc nhưng vẫn có sự trang nghiêm chừng mực.

Khi rời Phát Diệm, tôi cảm thấy rằng hiếm có hành trình nào mang lại cho tôi một ấn tượng sâu sắc đến vậy. Khó có ai sánh được với hình ảnh “vị Giáo hoàng nhỏ của An Nam”. Cầu mong ánh hào quang của ngài sẽ không tắt lịm sớm!.

Thế nhưng, đoạn kết của một cuộc đời rực rỡ đang đến gần.

Cho đến tận những ngày cuối cùng, trí tuệ và ý chí của cụ Sáu vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng từ năm 1898, thể lực của cụ bắt đầu suy yếu.

Một hôm, trong khi đang trông coi công trình xây tháp chuông nhà thờ xứ,
cụ đột ngột ngã quỵ, và người ta vội khiêng cụ về nhà xứ.

Đức cha Gendreau, vị giám mục của cụ, gửi cha tổng đại diện P. P. Schicklin đến chăm sóc cụ với mọi phương tiện cần thiết. Cũng chỉ là một hồi chuông cảnh báo, và sau vài tuần nghỉ ngơi, cụ lại trở lại với công việc mục vụ.

Nhưng đến Mùa Chay năm 1899, ai cũng thấy rõ: những gì còn sót lại nơi thân xác gầy yếu ấy cũng đang dần cạn kiệt. Một ngày, sau khi giảng dạy, giải tội, và dâng lễ như thường lệ, cụ bước ra khỏi nhà thờ thì suýt ngã quỵ ngay giữa tiền đường.

Giáo dân vội vàng chạy đến, muốn bế cụ vào trong, nhưng vị mục tử kiên cường ấy liền đứng thẳng dậy, và trong giọng nói mạnh mẽ, cụ thốt lên những lời được khắc ghi mãi tại Phát Diệm:

— “Linh hồn tôi và linh hồn đoàn chiên của tôi là một. Họ không thể thiếu tôi, và tôi cũng không thể sống nếu không có họ. Nếu cần, tôi sẵn sàng chết ngay trên bậc cửa nhà thờ này để được ở lại với họ. Đó sẽ là một ân huệ lớn cho tôi — xin đừng ngăn tôi nếu Thiên Chúa ban điều ấy!”

Lời nói ấy đã gây xúc động sâu sắc khắp xứ An Nam, và viễn cảnh mất đi vị cha sở Phát Diệm khiến ai cũng bàng hoàng nhận ra sự mất mát quá lớn đang chực chờ.

Hoàng đế liền sai gửi tới vị mục tử khả kính một tuyên sắc mới đầy long trọng, bày tỏ lòng tri ân của triều đình và toàn dân. Theo sắc chỉ ngày 23 tháng Tư năm 1899, cụ được phong tặng tước vị và đặc quyền của một “Thượng thư Lễ bộ danh dự” — tước hiệu cao nhất trong hệ thống quan lại triều đình Huế.

Về phía mình, Toàn quyền Đông Dương cũng thông báo rằng ông đã gửi yêu cầu về Paris
để cụ được trao Huân chương Bắc đẩu Bội tinh cấp sĩ quan (Officier de la Légion d’honneur).

Đó là những tia sáng vinh quang cuối cùng. Cụ Sáu đón nhận chúng với lòng biết ơn và nụ cười hiền hòa của một người mà giờ đây chỉ còn mong đợi một phần thưởng duy nhất: phần thưởng đời đời.

Vị linh mục hiền lành mà cụ luôn là suốt đời, giờ đây bừng sáng trong tất cả sự đơn sơ thánh thiện của một đức tin trẻ thơ. Chẳng bao lâu, sức lực hao mòn khiến cụ phải nằm liệt trên chiếc giường khiêm nhường của mình. Cụ đón nhận thử thách ấy trong tâm tình khiêm nhường, phó thác hoàn toàn cho thánh ý Thiên Chúa. Không ai nghe thấy một lời than phiền từ miệng cụ. Trong tay cụ là một thánh giá Chúa Giêsu, mà cụ không muốn rời xa nữa. Môi cụ thường xuyên thầm thì những lời cầu nguyện đơn sơ hướng về Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria.

Trong đêm mồng 5 rạng sáng mồng 6 tháng Bảy, cụ cảm thấy giờ sau hết của mình đã đến, và chính cụ xin được lãnh nhận các Bí tích sau cùng. Cụ đón nhận các Bí tích ấy với một đức tin sâu xa và lòng khiêm nhường thẳm sâu. Khi trời vừa hửng sáng, cụ nói với những người đang túc trực bên mình: — Hãy đánh chuông lên, để cả giáo xứ dâng lời kinh sáng hôm nay cho ý chỉ của tôi. Đó là những lời cuối cùng của cụ.

Khi tiếng chuông báo tử vang lên, mọi người trong giáo xứ Phát Diệm đều hiểu rằng:
vị cha sở thân yêu của họ đang ở vào giờ lâm chung. Từ khắp nơi, người dân bỏ dở công việc, đổ ra đường, tụ tập đầy kín quảng trường trước nhà xứ, lặng thinh và cầu nguyện.

Vào lúc sáu giờ rưỡi sáng, cụ Sáu nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, trao linh hồn lại cho Thiên Chúa. Ngày ấy là 6 tháng 7 năm 1899. Một trong các linh mục hiện diện, quay sang đám đông im lặng, chỉ nói một cách đơn sơ:

— Cha chúng ta vừa tắt thở. Thánh lễ an táng sẽ được cử hành ngay sau đây. Xin mọi người hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn ngài.

Một tiếng khóc dài thổn thức vang lên từ đám đông, rồi mọi người — trong nước mắt — tràn vào đại thánh đường Mân Côi.

Cả giáo xứ chìm trong tang lễ. Mọi sinh hoạt thường nhật đều được đình lại. Tối ngày 6 tháng 7, linh cữu của cụ được nhập quan. Sáng hôm sau, nhiều vị quan trọng trong giáo quyền và xã hội đã tới, trong đó có Đức cha Marcou, phụ tá của Đức cha Gendreau, Cha Schicklin, Tổng đại diện, và nhiều nhà truyền giáo trong vùng.

Chiều ngày 7 tháng 7, quan tài được rước long trọng vào nhà thờ, để cho đông đảo tín hữu – cả Kitô hữu lẫn lương dân – đến kính viếng thi hài vị Khâm Sai khả kính.

Sáng ngày 8, Cha Schicklin cử hành thánh lễ an táng đầu tiên, và đọc vài lời tưởng niệm về một đời sống đầy trọn vẹn của người tôi tớ lớn lao đã ra đi.

Ngày 9 tháng 7, thánh lễ an táng trọng thể được cử hành, do Đức cha Marcou chủ sự.
Đó là một trong những tang lễ long trọng và cảm động nhất từ trước tới nay. Đông đảo các nhà truyền giáo, các linh mục bản quốc, các thầy giảng, nhiều viên chức người Pháp, các quan lại An Nam, — tất cả đều có mặt. Thống sứ Pháp tại Bắc Kỳ, tuy không thể đích thân đến Phát Diệm, đã gửi lời chia buồn đến Đức cha Gendreau, và ủy quyền cho viên công sứ Pháp tại Ninh Bình thay mặt tham dự tang lễ. Vị đại diện này đã thay mặt nước Pháp đọc lời điếu văn vinh danh người đã khuất. Triều đình Huế cũng cử Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa đến tham dự, bày tỏ lòng thành kính trước vị linh mục đáng kính.

Lực lượng lính bảo hộ người bản xứ đã thực hiện nghi thức danh dự quân sự. Nhưng vượt trên tất cả những vinh dự chính thức ấy, chính là làn sóng người khổng lồ vây quanh linh cữu của cụ Sáu, nói lên rõ ràng hơn hết địa vị mà cụ chiếm giữ trong lòng dân chúng An Nam. Phát Diệm chưa từng chứng kiến một đám tang nào đông đảo đến thế. Người ta nói rằng có đến bốn mươi ngàn người tham dự lễ an táng ấy, khiến toàn bộ tang lễ trở thành một cuộc tiễn đưa đầy hùng tráng và xúc động.

Một cỗ xe tang đồ sộ được dựng riêng cho dịp này. Đoàn người rước linh cữu diễu qua những con đường chính của Phát Diệm, như thể cho người đã khuất được đi một vòng từ biệt trên mảnh đất mà cụ đã tận hiến đời mình, rồi trở lại nhà thờ, nơi thánh lễ an táng được Đức cha Marcou cử hành. Ngài Marcou, hai năm sau sẽ trở thành giám mục tiên khởi của giáo phận Phát Diệm, đã đọc bài điếu văn, nhấn mạnh nhất đến đức tính hiền lành và yêu thương của người quá cố.

Và sau đó, giữa một biển người lặng lẽ rơi lệ, thi hài cụ Sáu được an táng tại ngôi mộ mà chính cụ đã chuẩn bị từ trước, ngay ngưỡng cửa nhà thờ thân yêu của mình, nơi cũng là phần mộ dành cho các bậc tiền bối anh hùng của cụ. Và chính nơi đó, giữa những công trình cụ xây dựng, giữa đoàn chiên cụ đã dẫn dắt, cụ Sáu an nghỉ — đợi ngày sống lại vinh quang trong ánh sáng phục sinh.

LỜI CUỐI

Có một quy luật phổ quát của bản tính con người: Cái chết của đồng loại thường là điều kiện cần thiết để ta có thể đưa ra một phán đoán khách quan, độc lập về giá trị và tầm vóc thực sự của công trình họ để lại.

Sau khi cụ Sáu qua đời, người ta mới như được mạc khải về sự cao cả trong công trạng của cụ, và niềm hy vọng mà công trình ấy đã chính đáng gieo vào tương lai.

Ba mươi năm đã trôi qua: Hôm nay người ta vẫn nói đến cụ Sáu như một thiên tài. Có người từng bảo rằng: An Nam chưa từng có một vị đại thần nào vĩ đại hơn cụ Sáu.

Ngay khi các vấn đề thuộc địa đang được bàn luận với sự cấp bách cao độ, đáng để chúng ta dừng lại và suy gẫm về những bài học từ cuộc đời cụ Sáu.

Nếu quả thật rằng chính trị tương lai, tại các quốc gia văn minh, là một nền chính trị cộng tác, thì việc khích lệ, đào tạo và sử dụng những cộng sự có tầm vóc như cha sở Phát Diệm chẳng phải là điều thiết yếu sao?

Những con người như cụ Sáu sẽ không phản bội thiên tài và truyền thống của dân tộc mình, khi họ mở rộng tầm nhìn trí thức hoặc đào sâu đời sống tâm linh, một đời sống mà họ hoàn toàn có lý khi xem là báu vật quý giá nhất của dân tộc họ.

Hội Thánh Công giáo không hề phủ nhận điều ấy. Theo lời của một người anh em chúng ta đã diễn tả cách hạnh phúc: “Hội Thánh sử dụng chính những đặc thù văn hoá của các xã hội khác nhau để làm phong phú cho chính mình.”[15]

Ước gì những cái nhìn rộng lượng và thận trọng ấy cũng hướng dẫn tất cả những ai đang có nhiệm vụ tiếp xúc với người bản xứ. — Một viên sĩ quan từng chỉ huy tại Bắc Kỳ vào thời cụ Sáu đã viết: “Chính nhờ ảnh hưởng luân lý của mình, cụ đã bảo đảm được sự an toàn cho cả một vùng.”

“Giữa Thanh Hóa — nơi tôi vừa mới rút quân sau sáu tháng đồn trú và nơi hiện vẫn còn đang trong tình trạng nổi loạn — và vùng Bắc Kỳ, nơi bọn cướp tung hoành khắp nơi, thì cái góc nhỏ Phát Diệm này là chốn duy nhất có được một sự yên bình tuyệt đối.
Để tới thăm cụ, tôi đã đi khoảng 60 cây số bằng chiếc sampan, không gặp bất kỳ sự cố nào, và chỉ có cậu bé giúp việc đi theo làm hộ vệ duy nhất.”

“Một vị quan cai trị tỉnh Ninh Bình từng giao cho cụ Sáu 70 khẩu súng để phòng vệ trong trường hợp bị tấn công. Cụ nhận súng, chỉ để tránh làm phật lòng viên quan. Nhưng cụ tin chắc mình chẳng cần dùng tới, đến nỗi không hề cho người đi lấy đạn.”

“Chính cụ kể lại điều này với nụ cười hiền hậu và còn nói thêm rằng: Không một tên cướp nào dám bước vào vùng đất có người Công giáo trú ngụ.”

— Đã có lúc, người ta nghĩ đến việc (tôi nghe điều này từ một vị quan) phong cho cụ Sáu làm Phó Vương của Bắc Kỳ. Việc đó sẽ là một cuộc vãn hồi trật tự trong hòa bình, không đổ máu, chỉ bằng uy tín đạo đức của một vị Missus Imperialis thời xưa. Nhưng bạn cũng có thể hình dung điều ấy sẽ bị một số chính trị gia đón nhận như thế nào…

Không — chúng ta không mong muốn những người kế vị cụ Sáu phải đóng vai trò chính trị chính thức. Hãy chỉ cố gắng nâng đỡ họ hoàn thành sứ mạng luân lý của mình.
Mọi điều khác sẽ đến như một hoa trái tự nhiên.

Để kết thúc, ta hãy nói đến những gì đã xảy ra với Phát Diệm sau khi cụ Sáu qua đời.

Trước tiên, Phát Diệm được nâng lên hàng địa phận. Miền truyền giáo Đàng Ngoài Tây, vốn đã được chia đôi vào năm 1895 để thiết lập một giáo phận mới là Địa phận Tông Tòa Thượng Đàng Ngoài, lại được phân chia thêm lần nữa vào năm 1901 để thành lập Địa phận Tông Tòa Phát Diệm, bao gồm hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa.

Cụ Sáu, tuy chưa từng nghĩ đến việc trở thành giám mục, nhưng đã đặt nền móng vững chắc cho một giáo phận mới. Nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi mà cụ xây dựng dễ dàng trở thành một nhà thờ chính tòa tráng lệ, và nhà xứ của cụ là một nơi cư trú hoàn toàn xứng đáng dành cho vị giám mục ở đất truyền giáo.

Ngày nay, giáo phận này do 33 nhà truyền giáo và 127 linh mục bản xứ coi sóc, với 125.000 tín hữu Công giáo trong tổng dân số khoảng hai triệu người.

Gần tòa giám mục, vào năm 1912, đã xây dựng Đại Chủng viện của Giáo phận mới.
Lúc đầu, chủng viện này có 24 chủng sinh; con số ấy đã nhiều lần vượt quá 50 và đến niên khóa 1927, đã có 55 chủng sinh. Trong vòng 16 năm, cơ sở đào tạo này đã cung cấp 88 linh mục cho Giáo phận.

Tiểu Chủng viện được đặt tại Phúc Nhạc, một trung tâm Công giáo nằm cách Phát Diệm khoảng 10 cây số. Một trường học đã được thành lập tại đây ngay sau cuộc bách hại lớn năm 1858, và thường xuyên có từ 130 đến 150 học sinh học tiếng Latinh. Cho đến gần đây, các cơ sở vật chất vẫn chỉ là những lều tranh đơn sơ từ thời bị bách hại. Nhờ lòng quảng đại của các ân nhân thuộc hội Thánh Phêrô Tông Đồ, những lều tranh đó nay đã được thay thế bằng một công trình kiên cố, xứng đáng với cộng đoàn Công giáo đang đào luyện những người sẽ trở thành chủ chăn tương lai của họ.

Trên tất cả những thành tựu ấy, cùng với bao kỳ vọng mà chúng biểu trưng, luôn thấp thoáng tên tuổi của cụ Sáu, người đã trở thành biểu tượng và kết tinh của nỗ lực từ những thế hệ linh mục tiên phong của Đàng Ngoài.

Trước ngưỡng cửa Nhà thờ Chính tòa Phát Diệm, người ta hoàn toàn có thể dựng tượng cụ để tôn vinh. Nhưng ở đất An Nam, người ta không dựng tượng. Dù vậy, đặt mộ phần của cụ tại chính nơi ấy là điều vô cùng xứng đáng.

Thật vậy, chính trên những ngôi mộ – và là mộ của các tông đồ – mà thành phố Kitô giáo được xây dựng nên. Các tín hữu Phát Diệm đã hiểu điều ấy. Ngay cả lương dân – nếu xét qua sự kiện sau đây – hẳn cũng đã phần nào cảm nhận được điều đó.

Hai mươi lăm năm sau ngày cụ Sáu qua đời, một nghi lễ đặc biệt đã diễn ra tại tiền đường nhà thờ chính tòa Phát Diệm. Sau đây là tường thuật lại, dựa theo Bản tin của Hội Thừa sai Paris:

Ngày 17 tháng 7 năm 1925, một đoàn rước lớn gồm các quan lại từ tỉnh Thanh Hóa cùng đoàn tùy tùng đông đảo khởi hành đến Phát Diệm và tới nơi vào ngày hôm sau.
Tại đây, trước sự hiện diện của Đức cha Marcou, Đức cha Cooman, đông đảo các nhà truyền giáo, các linh mục bản xứ, cùng một biển người gồm cả tín hữu lẫn lương dân, quan Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa, được cử làm đại diện hoàng gia, đã long trọng tuyên đọc một sắc chỉ của Hoàng đế Khải Định.

Theo đó, Nhà vua truy tặng cho cụ Sáu danh hiệu “Nam Tước Phát Diệm”.
Sắc chỉ cũng nhắc đến công trạng của cụ quá cố, đặc biệt là đóng góp to lớn của cụ trong việc bình định vùng đất Đàng Ngoài và khai phá những vùng bờ biển khi ấy còn hoang vu.

Ngay sau đó, vị đại diện hoàng gia đã trao sắc phong cho người cháu trai của cụ Sáu. Người cháu đã lập tức cúi đầu, dâng lên những lời chào và cảm tạ, thay mặt cho cả gia tộc, bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước vinh dự to lớn mà Hoàng thượng đã truy tặng.

Cao cả hơn mọi phần thưởng trần gian, là phần thưởng mà Chúa Quan Phòng dành cho những người thợ trung tín của Tin Mừng. Cụ Sáu hẳn đã không thiếu những phần thưởng ấy. Từ trời cao, cụ đang chiêm ngắm sự nở hoa của công trình mà cụ đã dày công vun đắp trong âm thầm, và đang thấy nó dần tiến tới vinh quang viên mãn.

Sau khi các giám mục bản xứ của Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ lần lượt được tấn phong,
ngày tấn phong những Giám mục bản xứ đầu tiên của Đàng Ngoài cũng sẽ không còn xa nữa, có thể ngay tại Phát Diệm này.

Nền móng của Giáo hội tại An Nam thực sự vững chắc và sâu thẳm. Đã gần ba thế kỷ qua, người ta không ngừng làm việc trên mảnh đất ấy, và hàng ngàn tông đồ cùng các vị tử đạo đã đổ biết bao mồ hôi và máu đào để xây đắp nên.

Sau những cuộc hành hương cảm động đến mộ phần các vị tử đạo, các giám mục tiền nhiệm, chắc chắn vị giám mục bản xứ đầu tiên của Đàng Ngoài sẽ dừng lại lâu nhất bên mộ cụ, người mà Giáo hội vùng này mang ơn sâu nặng, người sẽ còn mãi trong ký ức hậu thế như một hình mẫu trọn vẹn nhất của hàng giáo sĩ bản xứ.

Những vị linh mục bản địa ưu tú, những con người sống để phục vụ chứ không phải để được phục vụ, sẽ mãi là thành phần thiết yếu của nền văn minh Kitô giáo đích thực.

In bởi: R. Bussière
Tại: Saint-Amand (Cher), Pháp
Ngày: 22 tháng 4 năm 1941


[1] PlOLET, Les Missions Galhollques au XIX siecle,t. II p. 423.

[2] Ngày nay, toàn bộ vùng Đàng Ngoài – với khoảng 900.000 Kitô hữu trên tổng dân số gần 8 triệu người – chỉ có khoảng một trăm nhà truyền giáo phục vụ, được phân bổ trong bốn địa phận Tông tòa.

May mắn thay, các ngài được hỗ trợ bởi gần 500 linh mục bản xứ!

[3] Vie du bienheureux Théophane Vénard, par l’abbe Trochu. p. 297.

[4] Lettre au R. P. Ansclme, Carino ddchausee, prieur du convent de Montigny-les-Vesoul (Hauto-Sadne).

[5] Launay, Vie de Mgr Retord, p. 293.

[6] Vie de Mgr Theurel^par M. I’abbe Morey, p. 140

[7] Mỗi người An Nam chính thức mang ba tên: họ, tên đệm và tên gọi.

  1. Họ (nom patronymique) thường được lấy từ tên các triều đại hoàng gia hoặc các dòng họ danh giá — mà chính các tên đó lại vay mượn từ tiếng Hán. Ở An Nam có khoảng một trăm họ như vậy. Họ của cha Sáu là Trần, được lấy từ triều đại nhà Trần từng trị vì An Nam vào thế kỷ XIII và XIV.
  2. Tên đệm (prénom) thường thể hiện một đặc điểm thể chất hoặc trí tuệ. Có khoảng tám đến mười tên đệm phổ biến. Tên đệm của cha Sáu là Văn, nghĩa là “người có học” hay “kẻ sĩ.”
  3. Tên gọi (nom propre) thì vô cùng phong phú, được chọn từ các danh từ, tính từ hoặc động từ trong tiếng Việt và Hán-Việt. Tên gọi của cha là Lục, nghĩa là “Sáu” trong tiếng Hán.

Vì vậy, tên chính thức đầy đủ của cha Sáu là Trần Văn Lục — và tên “Lục” này cũng chính là nguồn gốc của biệt danh “Cụ Sáu.”

[8] Người ta biết rằng đó chính là tên gọi chính thức của cụ Sáu.

[9] De Pouvourville, L’Indo-Chine d’hier et d’aujourd’hui.

[10] Yvonne Schultz, Illustration du 9 novembre 1929.

[11] Day. Branche Sud du delta du Fleuve Rouge

[12] De Marolles, « Journal de I’expddilion Rividre », 31 octobre 1882, Revue des Deux Mondes, lor ddcembre 1929.

[13] (1) De FOUFOURVILLE. L’Indo-Chine d’hier et d’aujourd’hu

[14] Với tỉ lệ một linh mục cho mỗi một ngàn Kitô hữu thực hành đạo và một nhà truyền giáo cho mỗi năm mươi ngàn người lương dân, thì chỉ riêng vùng Tây Đàng Ngoài thôi cũng cần tới hơn bốn trăm linh mục hoặc nhà truyền giáo!

[15] M. Eugène Duthoit, Semaine sociale de Marseille

One thought on “Cụ sáu Trần Lục -Cha sở Phát Diệm Phó vương ở An Nam

Bình luận về bài viết này