Trần Văn Mãnh
A/ Hoàn cảnh ra đời của ngôi nhà nghĩa học ở Hà Tiên:
Khi người Pháp chiếm Hà Tiên vào năm 1867, hai năm sau, năm 1869 họ vẽ một bản đồ với tiêu đề “Dựng theo mắt thấy xứ Hà Tiên, Nam Kỳ và những vùng phụ cận nằm trong vòng bờ đồn thứ 2” (1).
Trên bản đồ nầy ta còn thấy có ghi chữ Ecole tức là Trường Học, tọa lạc ở hướng Đông Nam so với trung tâm Hà Tiên (2) và ngó ra đường Bưu Điện (tức đường Tô Châu). Ta không biết ngôi trường nầy có từ bao giờ nhưng đã xuất hiện trên bản đồ năm 1869 nói trên, cũng không biết rõ trường do nhà Nguyễn hay người Pháp thiết lập. Tuy nhiên sau đó, tức là từ năm 1869 trở đi, người Pháp có thiết kế lại một vài nơi: chợ, trường học, nhà bưu điện đều thay đổi vị trí. Trường học được dời về phía Tây Bắc so với trung tâm Hà Tiên, trường nhìn ra đường Đống Đa. Ngôi trường nầy gồm 3 cụm kiến trúc, có một dãy 5 lớp học dọc theo đường Mạc Tử Hoàng, có một nhà Hiệu Trưởng và một dãy phố 5 căn cho gia đình giáo viên theo đường Hàng Dương (đường Mạc Công Du). Ngôi trường nầy chỉ tồn tại từ đó cho đến năm 1946 thì bị phá hủy vì chiến dịch tiêu thổ kháng chiến chống Pháp. Rồi đến năm 1947 người ta tái thiết lại trường học mới gọi là trường Tiểu Học, không có nhà riêng của Hiệu Trưởng như trước, chỉ có một văn phòng làm việc của ban Giám Hiệu, cửa trước trường nhìn ra đường Mạc Công Du, cửa sau nhìn ra đường Đống Đa, đó chính là ngôi trường mang tên Trường Tiểu Học Cộng Đồng Hà Tiên trong những thập niên 60 – 70 cho đến nay (3).
Trở lại ngôi trường trước năm 1947, đó là ngôi trường do chánh quyền Pháp lập ra, mang tên Trường Sơ Đẳng Tiểu Học Pháp Việt (4), dạy tiếng Pháp và tiếng Việt, tiếng là như vậy nhưng giờ Việt Văn rất ít so với giờ Pháp Văn. Lúc ban đầu, vào các thập niên đầu thế kỷ thứ 20, khoảng những năm 1910 trở đi, trường chỉ có 2 lớp, dạy sơ đẳng chỉ tới lớp ba, học sinh muốn lên bậc cao hơn thì có ông thầy Trần Minh Đạo đưa đường cho học sinh lên tận Gia Định học để có thể thi vào Trung Học. Quý vị giáo viên ở trường gồm có: Ông Nguyễn Văn Tinh (vốn là quan Đốc Học), ông Huỳnh Thoại Bang chuyên về khoa Hán Học và Luân Lý, ông Lư Sanh Nho (5)…….
Lúc bấy giờ, có hai người học trò còn rất trẻ tuổi, Lâm Tấn Phác và người cháu kêu bằng cậu, tên là Trần Thiêm Thới đều có theo học các lớp sơ đẳng của ngôi trường Pháp Việt Hà Tiên nầy. Theo ông Trọng Toàn (6) viết trong bài “Một người có công với Quốc Văn – Ông Đông Hồ” đăng trên Nam Phong tạp chí số 173 xuất bản năm 1932, hai người học trò Lâm Tấn Phác và Trần Thiêm Thới đều học rất giỏi, sau đó học trò Lâm Tấn Phác lên Cần Thơ tiếp tục học trường tư Võ Văn Học Đường, tiếp đến vì hoàn cảnh việc nhà nên thôi học trở về Hà Tiên, theo lời bác phải cưới vợ và một hai năm sau trở thành thầy giáo cũng dạy lại chính ở ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học ở Hà Tiên, đó là ông giáo có tên hiệu Đông Hồ, tiếp đó nổi tiếng là thi sĩ, nhà viết báo…Còn học trò Trần Thiêm Thới thì thi đậu vào học bậc Thành Chung trường Trung Học Cần Thơ, nhưng vì tham gia viết báo tường mang nội dung ái quốc nên bị nhà trường cho thôi học phải trở về Hà Tiên tự rèn luyện Quốc Văn với ông Đông Hồ, rồi Trần Thiêm Thới cũng trở thành nhà thơ, viết báo,…với tên hiệu Trúc Hà rất có tiếng. (7).
Từ năm 1924, 1925 trở đi tại ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học Hà Tiên ngoài các thầy giáo khác, còn có hai ông giáo dạy ở đó, thầy giáo Nguyễn Văn Kiêm tức nhà báo Trọng Toàn, dạy lớp nhứt và thầy giáo Lâm Tấn Phác tức thi sĩ Đông Hồ dạy lớp Ba. Chính trong giai đoạn nầy, ông Đông Hồ vì đã bắt đầu đọc Nam Phong Tạp Chí từ lúc 1922 và cũng đã hưởng ứng phong trào cổ súy cho tiếng Việt nên có tham gia viết bài thường xuyên gởi cho tạp chí nầy vốn là một tờ báo xuất bản ở ngoài Bắc do Phạm Quỳnh làm chủ bút. Thầy Đông Hồ nhận thấy học sinh được học rất ít giờ về tiếng Việt, với tinh thần trân trọng yêu quý tiếng Việt, thầy đã cố gắng dạy tận tâm về môn nầy cho các học sinh bằng cách tăng thêm chút ít về thời gian giảng dạy tiếng Việt, tuy vẫn theo đúng chương trình do nhà cầm quyền Pháp đặt ra trong sự giáo dục ở nhà trường.
Đến năm 1926, thầy Đông Hồ nhận thấy những giờ dạy Quốc Văn (tiếng Việt) ở nhà trường của chánh quyền Pháp quả thật quá ít và học trò không thể nào tiến bộ được nên ông quyết định mở ra một ngôi trường riêng, đặt tại nhà ông ở mé Đông Hồ (cũng là nhà của bác của ông là ông Hữu Lân – Lâm Tấn Đức), đầu tiên lấy tên là “Khai Trí Tiến Đức Học Xá” (qua năm sau 1927 thì đổi tên gọn lại là “Trí Đức Học Xá”) và mở rộng cửa cho các học trò và mọi người ai muốn thì cứ đến học, trường tạo trên khu đất rất rộng có cả chỗ cho học sinh ở xa đến ở tại trường (8).
B/ Vị trí nhà nghĩa học ở Hà Tiên:
Như trên đã viết, ngôi nhà nghĩa học do ông Đông Hồ thành lập tọa lạc tại căn nhà của gia đình tổ tiên của ông, tại mé sông Hà Tiên, nhìn ra phía đầm Đông Hồ, đối diện bên kia sông là đầu phía Đông của ngọn núi Tiểu Tô Châu. Ngôi nhà ở ngay nơi giáp của hai con đường cặp theo mé sông, thời Pháp mang tên Quai Doceul (bến Doceul) và Quai Rach Gia (Bến Rạch Giá), một thời gian sau đổi tên là Bến Trần Hầu và bến Nguyễn Văn Hải, nếu theo bản đồ mới nhất thì địa chỉ hiện tại ngay nơi tọa lạc nhà nghĩa học đó là số 46 đường Đông Hồ, Hà Tiên (9).
Khu đất của tổ tiên ông Đông Hồ ngày xưa rất rộng, diện tích lên đến hơn vài ngàn mét vuông, toàn bộ ngôi nhà ngói dùng làm trường Trí Đức Học Xá cũng rất rộng, diện tích cũng trên một ngàn mét vuông, gổm có 5 gian làm chỗ cho học sinh học và tạm trú, ngoài ra còn có một gác mái gọi là Gác Nam Phong là nơi ông Đông Hồ, làm thơ, viết văn, viết sách, viết báo…Căn nhà đó cũng là nơi sinh hoạt ăn ở của gia đình ông Đông Hồ vì lúc đó ông đã có vợ (từ năm 1921).
Bước vào trong căn nhà nghĩa học, bên vách phải có treo câu của ông Phạm Quỳnh (10):
“Quốc ngữ, Quốc gia”
“Tiếng là nước, tiếng còn thì nước còn, tiếng mất thì nước mất…Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn…. ”.
Bên vách trái có treo câu cách ngôn cổ của ông Chu Hi (11):
“Ba điều đáng tiếc”
“Ở đời có 3 điều đáng tiếc; một là hôm nay bỏ qua; hai là đời nầy chẳng học; ba là thân nầy lỡ hư”.
Ngoài ra trên vách còn có hai cặp câu đối của ông Đông hồ:
1/ “Trí rắp khai thông, mở lối đưa dàn hậu giác
Đức mong tiến hóa, sửa mình theo bậc tiên tri”.
2/ “Trí thức làm nước, đạo đức làm phân, chất văn học tưới vun chồi Quốc Ngữ
Đông Hồ là nghiên, Tô Châu là bút, màu gió mây trang điểm bức Phương Thành”
C/ Nhân sự giảng dạy ở nhà nghĩa học Hà Tiên:
Về nhân sự dạy học ở nhà nghĩa học thì có rất ít tài liệu nêu rõ tên họ những ai đã dạy ở đây, có điều chắc chắn là thầy Lâm Tấn Phác đóng vai trò “trưởng giáo” của ngôi nhà nghĩa học nầy. “Trưởng giáo” tức là thầy giáo trưởng, vậy có thể phải có một số giáo viên dạy học mà ông Đông Hồ là người đứng đầu (giống như vai trò “Tổ trưởng” ở trường học về một môn nào đó vậy), tuy nhiên không có tài liệu nào nêu hết danh sách các thầy dạy ở đây. Ta hãy xét các điểm sau đây:
a/ Ông Phạm Quỳnh trong phần giới thiệu loạt bài đăng “Cảnh vật Hà Tiên” trên báo Nam Phong tạp chí số 150 xuất bản năm 1930 có viết là:
«Ở Hà Tiên có một trường tư thục tên là “ Trí Đức Học Xá “, do mấy nhà giáo dục nhiệt thành về Quốc Văn khởi xuớng lên, mục đích là dùng Quốc Văn để dạy học trò, muốn bày tỏ cho thiên hạ biết rằng tiếng nước nhà có thể dạy được con em nước nhà, bất tất phải mượn đến tiếng ngoại quốc vậy …..
…… Mấy năm nay, thầy trò cùng biên tập, được mấy trăm trương giấy đầy, khảo về phong cảnh nhân vật đất Phương Thành, đề là “Cảnh vật Hà tiên“. Vì hâm mộ cái chủ nghĩa chân chính Quốc Văn, phụng sự Quốc Gia của báo Nam Phong này, nên gửi cả tập ra đăng báo. Bản chí sẽ lựa lọc mà đăng dần, trước là để đáp lại cái thịnh tình của các bạn đồng chí ở Hà Tiên, sau là để biểu dương cái gương tốt của Trí Đức Học Xá cho quốc dân được biết và mong sẽ có người noi theo vậy. (Phạm Quỳnh) ».
Ông Phạm Quỳnh dùng chữ “mấy nhà giáo dục” vậy có nghĩa là tại trường tư thục nầy có ít nhất vài thầy giáo dạy, ngoài ra dưới bài đăng “Cảnh vật Hà Tiên” có ghi rõ là do Đông Hồ và Nguyễn Văn Kiêm biên soạn.
b/ Trong bài “Gia đình giáo dục ký” đăng trên Nam Phong tạp chí số 115 xuất bản năm 1927, có bài đăng lại nguyên bản bài diễn thuyết do thầy Đông Hồ đọc vào ngày 19/11/1926 để ghi nhận lần khai giảng thứ nhất của học xá đã mở cửa trước đó vào ngày 30/10/2026, sau khi thầy đọc xong bài dài ngót một tiếng đồng hồ với sự có mặt của học sinh, phụ huynh học sinh và một vị giáo viên có mặt ở đó, có một học trò nữ còn rất trẻ thay mặt anh em chị em học sinh đọc một bài cảm tạ. Trong các câu mở đầu có đoạn như sau :
« Thưa các ngài (là chỉ vào các phụ huynh học sinh). Thưa hai thầy (trỏ vào Nguyễn quân và ký giả), tôi mạn phép thay mặt anh em trân trọng tỏ lời cám ơn các ngài đã có lòng hạ cố đến chứng cho cuộc nói chuyện hôm nay được thêm long trọng. Tôi lại mạn phép thay mặt anh em chị em trân trọng tỏ lời cảm ơn hai thầy đã thương đến anh em chị em chúng tôi chẳng ngại công lao dạy bảo cho, kỳ vọng cho, mà mong gây dựng cho chúng tôi sau nầy được có đủ tư cách làm người để làm vẻ vang cho nhà họ, cho xóm làng».
Như vậy rõ ràng là đội ngũ thầy giáo của ngôi nhà học xá là có hai thầy giáo. Danh hiệu « Nguyễn quân và ký giả » trong ngoặc đơn nói trên là do ông Đông Hồ chú thích lúc viết bài tường thuật lại, điều nầy chứng tỏ lúc đó học xá có ít nhất là hai thầy dạy.
c/ Trong bài « Nhớ tiết Hạ Nguyên – (Gia đình giáo dục ký) » đăng tiếp theo trên Nam Phong tạp chí số 135, xuất bản năm 1928, ông Đông Hồ có kể lại cuộc nói chuyện giữa ông với người bạn tên Mộng Viên khi người bạn nầy hỏi thăm tình hình hoạt động của học xá. Trong buổi nói chuyện thầy Đông Hồ có đưa cho ông Mộng Viên đọc một bài văn của một người học trò của học xá, nhân ngày lễ Chu Niên tròn một năm khai giảng, nội dung nói lên lời cảm ơn « hai thầy » và nhân đó nói lên lời từ giã thầy và bạn vì người học trò nầy phải rời Hà Tiên trở về quê ở Biên Hòa. Lời lẽ đều nhắc đến hai chữ « hai thầy » như các đoạn trích sau đây :
« Tình thế đã như thế thì người dạy cũng khó mà người học cũng khó, nhưng dù thế nào cảnh tượng học xá trong một năm nay cũng vẫn hoạt động luôn, công việc học xá cũng vẫn tiến hành luôn cái chí chăm lo dạy bảo của hai thầy cũng vẫn sốt sắng luôn ».
……..
« Về phần học sinh, riêng tôi, thì tôi há dám tự phụ là có khai trí tiến đức hay sao, nhưng nói ra là để tỏ cho hai thầy được biết rằng cái công phu của hai thầy không phải là cái công phu không đâu mà không có hiệu quả gì, nói cho đáng thì dẫu chẳng được nhiều cũng được ít, chớ há có thành không cả hay sao ».
………
« Cái kết quả ấy ai bảo không phải là cái công phu của hai thầy rất nhiều, mà như trên đã nói, như cái tình thế trong nước ngày nay thì đó không phải là một việc dễ…. ».
d/ Theo như bà Mộng Tuyết thuật lại thì trong 8 năm hoạt động của học xá (từ năm 1926 đến năm 1934), có ba lần khai giảng các khóa học, lần thứ nhất lớp dành cho các học sinh học lớp nhất là lớp do thầy Nguyễn Văn Kiêm tức nhà văn, nhà báo Trọng Toàn phụ trách, hai lần khai giảng sau dành cho các học sinh lớp ba do thầy Lâm Tấn Phác tức nhà thơ Đông Hồ phụ trách. (12)
Như vậy theo các điểm trên, ta có thể suy ra danh xưng « hai thầy » trong các bài văn của học trò đọc ở nhà nghĩa học nói trên là để chỉ hai nhà giáo đã dạy học Quốc Văn ở học xá, người trưởng giáo tên là Lâm Tấn Phác (tức thầy Đông Hồ), và người thứ hai là thầy giáo Nguyễn Văn Kiêm tức là nhà văn, nhà báo có tên hiệu là Trọng Toàn (xem chú thích số 6). Hơn nữa, trong thời gian dạy học thêm ở học xá, hai thầy cũng chính thức là giáo viên của ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học Pháp Việt Hà Tiên như đã nói ở phần vào bài. Cho đến ngày hôm nay, trong văn phòng Hiệu Trưởng của ngôi trường Tiểu Học Hà Tiên đường Mạc Công Du còn có một bàn thờ Tiền Vản trên đó có một bảng ghi đầy đủ tên họ của quý thầy cô đã từng dạy học ở đó và đã qua đời, tên hai thầy Lâm Tấn Phác và Nguyễn Văn Kiêm vẫn còn.
Ta có thể thêm một yếu tố nữa về nhân sự thuộc « nhóm Trí Đức Học Xá » như sau :
Trong bài viết « Trúc Hà, nhà văn Hà Tiên khởi nghiệp trên đất Bắc » của Tiến Sĩ Nguyễn Thị Phương Thúy (13), có đoạn như sau :
« ….. là nhà văn, nhà báo, Trúc Hà đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ tiếng Việt. Ông đã giúp Đông Hồ ở Trí Đức Học Xá, viết sách hướng dẫn rèn luyện Quốc Ngữ …».
Như vậy để tóm tắt về nhân sự của nhà nghĩa học, khái niệm « mấy nhà giáo dục nhiệt thành » hay « nhóm Trí Đức Học Xá » được hiểu theo nghĩa rộng là nhóm gồm có ba thầy giáo : Lâm Tấn Phác tức Đông Hồ là trưởng giáo, Nguyễn Văn Kiêm tức Trọng Toàn là giáo viên và Trần Thiêm Thới tức Trúc Hà (xem chú thích 6) mặc dù không có dạy trực tiếp ở học xá nhưng ông có viết bài giáo khoa, thơ văn để học trò có tài liệu giáo khoa để học.
Trong các thư từ do ông Đông Hồ liên lạc với học trò ở các tỉnh xa theo lối học hàm thụ, trên đầu thư luôn có bốn câu thơ gốc tiếng Pháp của nhà thơ Frédéric Mistral (14) do Trúc Hà dịch ra tiếng Việt :
« Ríu rít đàn chim kêu
Cha truyền con nối theo
Huống là tiếng mẹ đẻ,
Ta lẽ nào không yêu? »
D/ Học trò của nhà nghĩa học Hà Tiên :
Vì nhà nghĩa học là ngôi trường duy nhất ở Nam Kỳ trong thời điểm thập niên 1925 – 1935, lấy tiếng Việt để giảng dạy, dưới ảnh hưởng của tờ tạp chí Nam Phong được phổ biến vào Nam, học sinh ở khắp nơi như Đồng Tháp, Mỹ Tho, Biên Hòa, Sài Gòn, Tây Ninh,… không quản ngại xa xôi, cách trở đã đến Hà Tiên ghi danh vào trường học để được theo học về Quốc Văn, tiếng Việt của đất nước…Tuy nhiên khó có thể tìm ra một tài liệu ghi lại đầy đủ danh sách tên họ các học sinh theo học ở nhà nghĩa học Hà Tiên nầy trong các năm ngôi trường hiện hữu.
Ta có thể căn cứ vào các bài viết về ngôi trường « Trí Đức Học Xá » do nhiều tác giả viết, nhất là qua các bài văn đọc tại trường nhân các dịp lễ kỷ niệm mà thầy Đông Hồ thường viết ký sự tường thuật lại đăng trên Nam Phong tạp chí để có cái nhìn bao quát về số lượng và tên họ học sinh trong thời điểm sinh hoạt của trường.
a/ Trong bài viết « Linh Phượng – Tập lệ ký của Lâm Trác Chi – Tự ngôn » của thầy Đông Hồ, đăng trên báo Nam Phong số 128, xuất bản năm 1928 có đoạn như sau :
« Các nam nữ học sinh, học sinh Trí Đức Học Xá, đều có mặt, ngót bốn năm chục người đến viếng. Lễ điếu : hương đăng trà quả, một tấm lụy bốn chữ : Hoa tàn nguyệt khuyết »
Đây là lúc nhà thầy Đông Hồ có việc tang vì người vợ đầu tiên tên Lại Linh Phượng của ông vừa mất sau 7 năm chung sống (thời gian 1921 đến 1928), thời gian nầy thầy đã có hoạt động vừa dạy học tại trường nhà nước Sơ Đẳng Việt Pháp vừa dạy học tại nhà nghĩa học được hai năm, vì thế nên có nhóm học sinh hai trường công và tư đều đến viếng tang và chia buồn với thầy. Như vậy ta có thể nói là số lượng học sinh theo học tại nhà nghĩa học lên đến vài chục người, đây có lẽ là con số cao nhất trong hai năm hoạt động của trường vừa qua (từ năm 1926 đến 1928).
b/ Ngoài ra căn cứ theo các hoạt động hội họp của nhà nghĩa học từ lúc bắt đầu cho đến lúc đóng cửa thực sự, trong các dịp đó các học sinh có đọc nhiều bài văn tỏ lòng cảm ơn quý thầy đã bỏ công dạy học, những lần chúc mừng tuổi thầy vào dịp cuối năm, học trò thường ký tên dưới mỗi bài văn mà thầy Đông Hồ đã có dịp đăng lại các bài văn nầy dưới dạng phóng sự ký thuật trên báo Nam Phong tạp chí như loạt bài : «Gia đình giáo dục ký» (1927); «Nhớ tiết Hạ Nguyên» (1928) ; «Bài ký về giáo dục» (1930) ; hoặc những bài tập làm văn của học trò mà thầy Đông Hồ đã biên soạn như loạt bài « Bông hoa đầu mùa » (1927) ; « Bông hoa đua nở » (1930) ; « Bông hoa cuối mùa » (1931)…v…v… , ta có được danh sách một phần nào tên họ của học sinh nhà học xá Hà Tiên như sau :
Huỳnh Giũ Giư, Trần Văn Quyên, Đỗ Văn Tỉ, Lưu Tiểu Muội, Nguyễn Văn Sĩ, Lý Kim Anh, Tạ Văn Lục, Tăng Bá Khương, Huỳnh Văn Ti, Thái Văn Phước, Thái Tiến Mai, Nguyễn Văn Xinh, Lưu Văn A, Nguyễn Đạm Cúc, Nguyễn Kim Dung, Vương Tú Điều, Nguyễn Thanh San, Phạm Văn Ký, Giang Dương, Trần Văn Cối, Lư Văn A, Đỗ Văn Tư, Trần Văn Tường, Đường Ngọc Thạch, Trần Tuyết Mai .…
c/ Ngoài ra điều đặc biệt không thể quên được là nói đến ngôi trường Trí Đức Học Xá và thầy giáo Đông Hồ thì ta không thể không nhắc đến một người học trò nữ có tên là Thái Thị Sửu, người nữ sinh nầy cũng cùng quê ở Hà Tiên như thầy Đông Hồ, biết làm thơ lúc 12 tuổi, đã nhiệt tình ủng hộ và theo học tại ngôi nhà học xá của thầy, cùng với nhiều người khác ở thế hệ ấy, nữ sinh Thái Thị Sửu đã tham gia vào cuộc luyện tập khả năng diễn đạt bằng chữ Quốc Ngữ qua các bài văn, bài thơ mà thầy Đông Hồ đã nhuận sắc trong tập văn « Bông hoa đua nở » và gởi đăng trên báo Nam Phong tạp chí năm 1930. Người nữ sinh tài năng vượt trội so với các bạn học đồng thời đó chính là nữ sĩ Mộng Tuyết với khá nhiều tác phẩm văn thơ làm tỏ rạng gương sáng của một cây bút nữ vốn khá hiếm hoi vào thời đó.
E/ Phương pháp giảng dạy ở nhà nghĩa học Hà Tiên :
a/ Theo ông Nguyễn Hiến Lê viết trong bài tưởng niệm ông Đông Hồ (xem chú thích số 12), nhà nghĩa học chỉ dạy vào ban đêm, chắc ban ngày dành thời giờ cho học sinh đi học trường công hay có việc riêng, mỗi tuần hai hoặc ba đêm. Ông Nguyễn Hiến Lê còn viết rằng :
« Và tôi đoán, lối dạy của ông chắc cũng không khác lối dạy của các cụ Đông Kinh Nghĩa Thục non hai chục năm trước : lấy một vài bài thơ, một áng văn, hoặc một thời sự, một truyện cổ, làm đầu đề giảng của mỗi buổi, rồi liên miên bàn về cách xử thế, tu thân, về lòng yêu nước, và cách đặt câu, dùng chữ..v..v…Chắc mỗi tuần có một bài luận Quốc Văn mà ông chịu khó sửa kỹ (đặc biệt chú ý tới chánh tả), tuyển những bài khá nhất để giới thiệu trên báo Nam Phong ».
b/ Trong bài tường thuật của ông Đông Hồ về buổi đọc bài văn lúc khai giảng học xá đêm Hạ Nguyên năm Bính Dần (19/11/1926), xem cách tổ chức trong nhà ta có một nhận xét về cách giảng dạy trong học xá đúng như sự dự đoán của ông Nguyễn Hiến Lê : Học xá là một gian rộng, trước có đặt một bàn mây tròn, trên có bình hoa nhỏ, có bộ trà, có đôi đèn nến, phía sau thì đặt bàn theo gian nhà, để ghế dài hai bên, có hai ngọn đèn dầu, là chỗ các học sinh ngồi nghe, ghế diễn giả thì đặt ở giữa, đó là cách tổ chức cho một buổi lễ có quan khách, có phụ huynh và học trò để nghe thầy trưởng giáo đọc diễn văn, tuy nhiên ta cũng có thể suy luận ra cảnh vào những buổi tối học sinh học cũng gần như thế, chỉ không có mặt quan khách mà thôi.
c/ Về nội dung bài giảng thì thầy trưởng giáo có viết nhiều bài với các đề tài khác nhau và cứ đem ra giảng giải và bình luận với học trò. Có ba bài văn giáo khoa trong tập « Lời Trác Chi » do ông Đông Hồ viết một cách giản dị, ngắn gọn để cho học sinh học :
Bài 1 : « Lời ton hót và lời khuyên răn ». Đại ý bài là lời ton hót như thứ rượu ngọt dễ làm cho người ta say mê tự uống mà không biết là lâu ngày sẽ làm hại tạng phổi, trí não. Còn lời khuyên răn như vị thuốc đắng cay gắt khó uống nhưng dần dần sẽ bồi dưỡng tâm hồn, làm cho tinh thần mạnh mẽ.
Bài 2 : « Lừa lọc lòng người ». Đại ý ví lòng người như núi non, núi non dễ thấy mà tránh còn lòng người thì ngấm ngầm kín đáo không sao tránh được. Bởi vậy ra đời nên dò xét người đời cho đến nơi chốn, chớ vội tin, chứ nếu thiệt thà mà tin thì có khi hư lỡ công việc, thiệt hại thanh danh.
Bài 3 : « Lòng trung thành ». Đại ý nói trung là hết lòng, hết sức, còn thành là thực tình không giả dối. Người có lòng trung thì dù khó khăn, trở ngại đến đâu cũng lo cho tròn nhiệm vụ. Người có lòng thành thì luôn giữ vững một lòng trước mọi tình huống cay nghiệt. Người bất trung, bất thành thì không ai dùng, không ai giao thiệp.
d/ Về bài tập luận văn, ông Đông Hồ thường ra đề tài cho học trò viết, các chủ đề bài văn rất phong phú, thực tế và rất gần với hoàn cảnh sống của học sinh, Một vài học trò viết khá đã sưu tập các bài học làm văn trong thời gian học ở học xá, viết ra thành tập rồi cuối năm đem tặng cho thầy dạy, nhờ thầy đặt tựa cho, nhân đó thầy Đông Hồ nhận thấy được sự tiến bộ của học trò và nhuận sắc các bài viết trước khi gởi lên cho tòa soạn báo Nam Phong lần lượt đăng trong các lần xuất bản báo. Ta có thể liệt kê vài tập với các đề tài bài văn như sau:
1/ Đầu bài: Tả một chị hàng hoa.
2/ Đầu bài: Nhà có khách. Tả người khách và kể lại câu chuyện.
3/ Đầi bài: Tả một người đi ăn xin.
4/ Đầu bài: Tả một ông cụ già thuộc về lối nhà Nho.
5/ Đầu bài: Tả cảnh sông nước Hà Tiên lối gần thành phố.
6/ Đầu bài: Tả bến đò Tô Châu sang chợ buổi sáng sớm.
7/ Đầu bài: Tả cảnh chợ Hà Tiên và nói cái vẻ đặc biệt của cảnh chợ.
8/ Đầu bài: Tả một chiếc thuyền buồm đang đánh cánh chạy ở cửa biển.
9/ Đầu bài: Tả một ngày mưa thu.
10/ Đầu bài: Kể một đêm chơi trăng.
11/ Đầu bài: Tả cây mảng cầu (quả na).
12/ Đầu bài: Tả một bụi trúc và nói cái tính cách, cái công dụng của giống cây ấy.
13/ Đầu bài: Trò đó có em bé. Trò thấy ai đưa hát cho nó ngủ thế nào?
14/ Đầu bài: Kể lại một đêm xem hát.
15/ Đầu bài: Kể lại một buổi đi câu cá.
16/ Đầu bài: Sắp thi Sơ học yếu lược. Nói cảm tưởng đối với cuộc thi ấy.
17/ Đầu bài: Làm con phải ăn ở thế nào cho cha mẹ vui lòng?
18/ Đầu bài: Thơ gởi cho người bạn thân, kể chuyện mình, chuyện nhà trong tháng vừa qua.
19/ Đầu bài: Diễn bài thơ “Đi học xa nhớ nhà” của ông Song An ra lời tản văn.
20/ Đầu bài: Diễn bài thơ “Cây hoa và đám mây” của ông Trúc Hà ra lời tản văn.
21/ Đầu bài: Tả một cảnh đẹp ở Hà Tiên.
22/ Đầu bài: Nói cái ý mình nghĩ thế nào mà học Quốc Ngữ, vì có người bảo trò: “Học Quốc Ngữ không ích lợi gì cả”.
23/ Đầu bài: Học trò chơi là để cho giải trí, không chơi là không nên. Nhưng nên chơi về lúc nào cho khỏi hại đến sự học hành.
24/ Đầu bài: Bình giải câu cổ ngữ: “Kẻ học trò mà ba ngày không xem sách, coi gương mặt mũi đáng ghét, nói chuyện lạt lẻo khó nghe”.
25/ Đầu bài: Tả một đêm mưa dầm gió bấc ở học xá.
………..
Tập học làm văn trên gồm có 30 bài làm và chép vào một tập có tên « Bông hoa cuối mùa », của học trò ký tên là Nguyễn Nữ Thanh San (15).
Trong một tập học làm văn khác có tên « Bông hoa đầu mùa » của học trò ký tên Tuyết Mai, gồm có 24 bài văn với vài chủ đề như : « Cảm tưởng khi mới bắt đầu học Quốc Ngữ », « Khi nào nên nói dối, khi nào không nên nói dối », « Vì sao ta nên bảo tồn lễ Tết Nguyên Đán »… (16)
Trong tập « Bông hoa đầu mùa » thứ hai, cũng của học sinh Tuyết Mai, gồm 12 bài làm văn với vài chủ đề như: « Chơi Thạch Động », « Hoa sen », « Cảm tưởng khi sắp biệt Hà tiên », « Hoa lan nguyệt dạ »…(17)
Trong tập học học làm văn « Bông hoa đua nở » của học trò ký tên Thái nữ Mộng Tuyết, gồm 23 bài làm văn với vài chủ đề như : « Nhớ chuyện chơi cảnh bãi biển », « Thơ gởi cho bạn nhắc lại cuộc đi hái hoa trên Bình San », « Cảnh chiêu dương trên Đông Hồ », « Viếng đền thờ họ Mạc »…. (18)
e/ Ngoài ra có một điểm rất đặc biệt và đáng được nêu lên trong việc bàn về phương pháp dạy học của ngôi nhà nghĩa học Hà Tiên :
Quê hương của trưởng giáo Lâm Tấn Phác là ở Hà Tiên, một nơi khá cô lập vào đầu thế kỷ trước nên còn giữ được nề nếp cổ, ít chịu ảnh hưởng của phương Tây, lại là nơi có nhiều phong cảnh thanh tao, xinh đẹp, có đủ cả sông, núi, ao, hồ, động đá như là một tiểu vũ trụ, thêm với một quá khứ văn hóa Chiêu Anh Các lẫy lừng từ thời chủ soái Mạc Thiên Tích.
Từ thuở nhỏ vì cha mẹ mất sớm nên ông được người bác nuôi dạy trong một tinh thần Nho Khổng, có người bác là người yêu chữ Nôm, văn hay chữ tốt nên thầy giáo Lâm Tấn Phác đã có hai luồng ảnh hưởng rất tốt là quê hương và gia tộc.
Đến lúc biết viết văn, làm thơ và đi dạy học, ông lại nghe nói đến thi hào Rabindranath Tagore (19), người Ấn Độ, qua tạp chí Nam Phong. Ông Tagore có trải qua một thảm kịch gia đình vì cái chết của cha ông, vợ ông và ba người con, tuy nhiên ông đã biết biến sự đau buồn thành ý chí, niềm vui để thành lập một trung tâm giáo dục quốc tế đặt tên là Santiniketan tại vùng Tây Bengale (1901). Ở đây ông dạy cho nhiều thanh niên cách thức tự thoát tinh thần, sống với thiên nhiên ngoài trời, theo một kiểu dạy và học tự nhiên của phương pháp Montessori (20) rất khác biệt với nền giáo dục sư phạm thời đó. Ngôi trường nầy còn được gọi là Nhà Hòa Bình hay Nhà Tự Do. Ngoài ra Đông Hồ còn được biết là thi hào Tagore đã dùng tiếng Bengal, một bản ngữ của vùng để sáng tác nhiều tác phẩm bất hủ đưa đến giải Nobel văn chương cho Tagore (1913). Đây là nguồn ảnh hưởng thứ ba góp phần cho trưởng giáo Lâm Tấn Phác vững tin với chủ trương mở trường nghĩa học của mình với sự ca tụng câu nói của thi hào Tagore :
« Có học bằng tiếng nước nhà thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được »
Như thế ngoài những buổi học tối trong nhà, ngày nghỉ lễ hay chủ nhật thầy trưởng giáo thường dắt học trò đi thăm những cảnh đẹp ở Hà Tiên, những nơi có di tích lịch sử, qua đó sống gần với thiên nhiên của quê hương và nhân tiện bàn thảo, dạy học về thi phú, lịch sử cha ông ngày trước.
Thầy Lâm Tấn Phác còn sáng tác nhiều bài ca để trong những dịp đi du ngoạn ngoài trời thì cùng ca hát với học trò, vui hưởng thú cảnh thiên nhiên, hoặc cũng có bài ca ngợi lúc nghỉ hè vui chơi : « Bài hát nghỉ hè » gồm ba bài (1928), « Chơi núi Tượng Sơn » (1929), « Cảnh học đường ân giáo dục », (1929), « Xuân Trí Đức » (1929).…
Về lối xưng hô giữa thầy và trò cũng có phần khác hơn với trường lớp bình thường. Học trò mặc dù học các lớp nhỏ nhưng tuổi có phần lớn hơn tuổi trung bình, có nhiều em 13, 14 tuổi, thậm chí có học trò tuổi cũng suýt soát với tuổi của thầy. Vì thế trong lúc giảng bài hay viết bài văn đọc trước học sinh, thầy Lâm Tấn Phác thường dùng cách xưng hô « anh em chị em », còn học trò thì phần nhiều cũng xưng « em » hay « chúng em » và gọi ông bằng thầy, cũng có các học trò tuổi lớn xưng « tôi » hoặc « chúng tôi » với thầy. Tuy nhiên trong cách sinh hoạt và qua các bài viết thì thấy rõ học trò luôn kính trọng và lễ phép với thầy trong học xá.
Về phương pháp dạy, cũng có một yếu tố mới lạ so với thời bấy giờ, có lẽ vì nhu cầu học tiếng Việt và hoàn cảnh của những học trò ở xa, không có điều kiện đến tận nơi để theo học, vả lại cũng không có ngôi trường nào chuyên dạy tiếng Việt ở các tỉnh khác, nên quý thầy ở học xá có dùng lối dạy qua trao đổi thư từ theo cách gọi là học hàm thụ : học trò làm bài văn và gởi đến thầy, thầy xem bài, chỉnh sửa và gởi lại cho trò …Cách dạy học nầy còn phổ biến nhiều luôn cả sau khi học xá đóng cửa.
F/ Tiến trình sinh hoạt và dạy học của học xá trong giai đoạn 1926 – 1934 :
Nghiên cứu nhiều tài liệu, thông tin về ngôi trường « Trí Đức Học Xá », ta thấy các thông tin thường nêu lên khoảng thời gian hiện hữu của học xá là từ năm 1926 đến năm 1934. Ta hãy xem các mốc thời gian được nêu lên trong các bài phóng sự do thầy trò nhà học xá viết trên báo Nam Phong trong thời kỳ nầy như sau :
1/ Ngày 30-10-1926 : Ngày mở cửa trường cho học sinh đến học.
Hầu hết các tài liệu đều nêu ngày 30 tháng 10 năm 1926 nhằm ngày 24 tháng 9 năm Bính Dần là ngày khai giảng nhà học xá Hà Tiên. Tuy nhiên các bài viết lại không tường thuật về buổi lễ khai giảng trong ngày nầy, tức là không có các bài phóng sự kể lại chuyện thầy trò, phụ huynh học sinh và học sinh tham dự buổi lễ, nghe diễn văn nói lên lý do mở trường Trí Đức Học Xá vào ngày 30-10-1926. Thật ra ngày nầy chỉ là ngày trường bắt đầu mở cửa hoạt động và cũng là ngày đầu tiên học sinh đến học, nhưng không có buổi lễ long trọng nào trong ngày nầy, ít nhất cho đến hiện tại, chưa có bài nghiên cứu nào nói rõ về một buổi lễ (nếu có) diễn ra trong ngày 30-10-1926 để ghi dấu ngày khai giảng học xá.
2/ Ngày 19-11-1926 : Ngày hội họp có tiệc trà, có quan khách, phụ huynh học sinh, học sinh và có đọc diễn văn khai giảng học xá.
Sau khi mở cửa học xá và bắt đầu dạy học từ ngày 30-10-1926, qua 20 ngày sau, vào ngày 19 tháng 11 năm 1926, đúng ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần tức ngay Tiết Hạ Nguyên, ở học xá có tổ chức một buổi lễ khá long trọng, có tiệc trà, có đủ quan khách, phụ huynh học sinh và học sinh tham dự. Mọi việc bắt đầu vào đầu hôm ban đêm, thầy trưởng giáo qua lời giới thiệu của thầy Nguyễn văn Kiêm (Nguyễn Quân) bắt đầu đọc bài diễn văn nói lý do mở học xá và giải nghĩa các chữ « khai trí và tiến đức »…
Trong báo Nam Phong tạp chí số 115 xuất bản năm 1927 có bài phóng sự « Gia đình giáo dục ký » do ông Đông Hồ viết thuật lại đủ chi tiết buổi lễ nầy và có đăng nguyên văn bài diễn thuyết của ông đọc trong đêm đó. Bài phóng sự mở đầu như sau :
« Đêm Hạ Nguyên năm Bính Dần (19-11-1926) nhà “Khai Trí Tiến Đức học xá“ ở bờ Đông Hồ có thiết tiệc trà họp tập các học sinh trong làng đến nghe diễn thuyết. Học xá có mời cả các phụ huynh học sinh đến chứng kiến ».
…….
« Vừa chập tối thì tề tựu đủ mặt. Khăn áo chỉnh tề, bông hoa rực rỡ, đèn đuốc sáng choang, biểu được cái tinh thần Đông phương, cái phong vị cổ thời. Trông vào học xá có vẻ nghiêm trang mà tươi tỉnh ».
Bài diễn thuyết của thầy trưởng giáo Lâm Tấn Phát viết rất dài, đọc xong ngót tiếng đồng hồ, gồm có bốn tiêu đề như sau : Lời nói đầu, Rằm tháng mười, Khai Trí Tiến Đức và học Quốc Ngữ.
« Lời nói đầu » : Đại ý ông nói đây là buổi nói chuyện chứ không phải hội thuyết giảng điều chi, buổi nói chuyện như người anh kể chuyện hằng ngày, giản dị, thân mật, chuyện « hôm nay », xung quanh mình anh em đây.
« Rằm tháng mười » : Đại ý ông so sánh thời gian một năm cũng như một con đường dài, muốn đi hết mà không mệt thì phải chia ra nhiều đoạn đường, một năm có nhiều giai đoạn như Thượng Nguyên là rằm tháng giêng, Thanh Minh là tháng ba, Đoan Ngọ là tháng năm, Thất tịch là tháng bảy,…v…v…, rồi đến Hạ Nguyên là rằm tháng mười đây là đoạn đường cuối trong năm. Vậy ta phải cố gắng rảo bước nhanh chân cho theo kịp thời gian. Ấy câu chuyện « rằm tháng mười » hôm nay là thế.
« Khai Trí Tiến Đức » : Ông bắt đầu đoạn nầy bằng câu :
« Từ hôm hai mươi bốn tháng chín (30-10-1926) rồi là ngày học xá nầy khai giảng đến nay, anh em vô ra đã thấy luôn chữ « Khai trí tiến đức học xá ». Anh em cũng định được đó là cái danh hiệu của nhà học xá nầy, nhưng anh em chắc cũng có người chưa được rõ hết ý nghĩa. Vậy tôi xin để tôi giảng cho được tường tận hơn thêm. Bốn chữ « Khai trí tiến đức học xá » đó là cái danh hiệu của học xá mà đó cũng là cái mục đích tôn chỉ của học xá muốn gây dựng cho anh em, và muốn cho anh em theo đòi bốn chữ ấy ».
Đại ý ông nói khai trí là mở mang trí thức, tiến đức là tăng tiến đạo đức. Con người phải có cả hai thứ, trước hết phải có trí thức, sau đó đào luyên đạo đức, chữ « khai trí » sắp trên chữ « tiến đức ». Học xá kỳ vọng cho anh em học sinh đạt trí thức thông suốt và đạo đức thuần tương, chừng đó sẽ thành người có tư cách hoàn toàn vậy.
« Học Quốc Ngữ » : Đại ý ông nói một nước thì phải có riêng một thứ chữ, bởi thế phải thuận với đạo tự nhiên, gìn giữ học tập Quốc Ngữ của mình. Nước Nam ta đang ở vào cảnh ngộ biến, nhiều thế lực bên ngoài muốn làm cho tiêu diệt cái bản chất, mục đích của các nhà trí thức là phải ngăn cản cái phong trào ở ngoài đó mà bảo tồn cho nước giữ được cái bản tính, vì thế phải lo lắng, bênh vực cho chữ Quốc Ngữ là vậy. Phong trào bên ngoài đó là phong trào học chữ Pháp, người ta muốn học chữ Pháp để có bằng cấp ra làm quan chức, nhưng người học giả học là để lĩnh hội cao xa rộng rãi hơn nhiều, muốn học chữ nước người thì trước phải thông thuộc chữ nước mình đã. Ấy câu chuyện học Quốc Ngữ là thế.
Khi nói xong bài diễn thuyết ông nói câu cuối :
« Tôi nói từ nãy đến giờ, chắc anh em đã lĩnh hội được ít nhiều. Vậy xin mời anh em chén nước, cùng nhau chung cuộc xum họp vui vẻ nầy để ghi lấy đêm nay mà ghi nhớ lấy câu chuyện hôm nay ».
Như vậy ngày học xá bắt đầu mở cửa dạy học sinh học là ngày 30-10-1926 nhưng ngày làm lễ khai giảng đầu tiên của học xá lại diễn ra 20 ngày sau, tức là ngày 19-11-1926 nhằm ngay ngày rằm Tiết Hạ Nguyên năm Bính Dần.
3/ Ngày 25-01-1927 : Ngày học cuối cùng của năm Bính Dần, học trò đọc bài văn cám ơn và mừng tuổi thầy dạy, học xá tạm đóng cửa nghỉ ăn Tết Đinh Mảo.
Vào ngày 25 tháng 1 năm 1927, nhằm ngày 22 tháng chạp năm Bính Dần, học trò ở học xá có tổ chức ngày đọc các bài văn cảm ơn và mừng tuổi thầy nhân dịp Tết Đinh Mảo sắp đến. Đây cũng là ngày học cuối cùng ở học xá vì sau đó học xá sẽ tạm đóng cửa sau gần ba tháng học tập để học trò chuẩn bị ăn Tết Đinh Mảo.
Theo ý thầy trưởng giáo thì ông không muốn làm buổi lễ nầy vì thấy rằng thời gian học tập cũng chưa được bao nhiêu mà cứ lễ mãi thì mất thời giờ, tuy nhiên do ý muốn của các học trò, đã sắp xếp viết trước các bài văn và cũng để tập làm văn luôn thể nên xin phép thầy nhận cho ý định nầy. Thế là thầy trưởng giáo chủ tọa buổi lễ , số học trò đọc bài văn cũng hơn cả chục người, đa phần là các ý viết đều tương tự nhau, thường nói về mục đích của học xá, nói về sự tiến bộ của bản thân học trò, nói lên lòng biết công ơn dạy của thầy, nói lên những hy vọng cho ngày mai xa xôi sẽ đến…
Đặc biệt thầy Lâm Tấn Phác chú ý đến một câu trong một bài văn mà trong các bài văn khác không có viết :
« …Tôi chúc cho thầy được mạnh khỏe sống lâu, lo học tập chữ Quốc Ngữ thêm nữa mà dạy bảo lại cho chúng tôi… » (Lời văn trò Tạ Văn Lục)
Chính vì câu viết đặc biệt đó mà khiến thầy đứng lên đáp lời có câu khởi đầu như sau :
« Thưa anh em chị em học sinh, cái danh dự cho tôi hôm nay đây thực tôi không dự tưởng được. Tôi không dự tưởng được thì tôi lại càng quý hóa cái lòng biết phải của anh em chị em. Mấy lời anh em chị em mới vừa chúc tặng cho tôi đó làm cho tôi cảm động vô cùng… ». (21)
Sau buổi lễ đó, học trò và thầy giáo nghỉ Tết Đinh Mảo (mùng một Tết Đinh Mảo là ngày 02-02-1927).
4/ Ngày 13-07-1927 : Ngày tạm đóng cửa học xá trong mùa hè vì học sinh phải chuẩn bị lo việc thi cử trường nhà nước.
Sau khi nghỉ Tết Đinh Mảo, thầy trò học xá trở lại họp và học lại như bình thường, một mùa xuân trôi qua lớp học có vẻ khả quan lắm. Đến mùa hè tiếp tới là mùa trường nhà nước có thi cử ; học xá bắt đầu vắng bóng học sinh vì học sinh phải lo việc ôn bài để thi cử, số người đến học vắng dần, sau đó học xá phải tạm đóng cửa. Đó là ngày 13 tháng 7 năm 1927 , nhằm ngày rằm tháng 6 năm Đinh Mảo. Trong dịp nầy cũng có vài học sinh đọc bài làm văn để nói lên cảm tưởng của mình. Có một bài văn của một học trò quê ở tận Biên Hòa, đã đến Hà Tiên ở nhiều năm, theo học ở học xá từ lúc khai trường, ngay dịp học xá đóng cửa mà cũng đúng lúc phải trở về quê Biên Hòa luôn không còn ở lại Hà Tiên được nữa vì lý do gia đình, nên trong bài văn đọc lên có lời từ biệt rất buồn tiếc :
« Thôi từ đây, xuân qua thu lại, cảnh tình thay đổi còn nhiều… »
Trong câu đó chữ « thôi” ở đầu câu thầy cho là buồn quá không được hợp với cảnh… (22)
5/ Ngày 26-09-1927 : Ngày thầy trưởng giáo thông báo đợt khai giảng học xá sắp tới sau khi học xá tạm đóng cửa trong mùa hè thi cử.
Từ ngày 13-07-1927, sau khi học xá tạm đóng cửa qua mùa hè và cũng để học sinh lo việc thi cử ở trường nhà nước, không thấy tài liệu nào nói ngày họp học trở lại là ngày nào, nhưng theo bài viết « Nhớ Tiết Hạ Nguyên – Gia đình giáo dục ký » do thầy Đông Hồ viết trên tờ Nam Phong số 135, xuất bản năm 1928 thì có kể lại vào ngày 26 tháng 9 năm 1927 nhằm ngày mùng một tháng 9 năm Đinh Mảo, thầy trưởng giáo có đọc một bài văn trước lớp học có nhắc lại việc học xá đang học mà phải tạm đóng cửa , lấy làm tiếc nhưng không thể làm khác hơn được, tiếp đó thầy cũng nói là học xá vì phải « một ngày một tiến » nên sẽ mở cửa lại và mỗi tuần họp bốn buổi tối : tối thứ tư, tối thứ năm, tối thứ bảy và « tối thứ nhất » (nguyên văn trong bài đọc, có lẽ là tối chủ nhật, TVM chú thích), sau đây trích một đoạn như sau :
« Vậy có lời đạt cùng các học sinh hay, ai vui lòng tự nguyện muốn học thì ghi tên mình để cho học xá biết trước. Ngày họp sẽ cho hay sau ».
………
« Tên học xá nay cũng đổi vắn lại là “Trí đức học xá“. Nay đạt. Học xá trưởng giáo ».
Sau khi có thông báo nầy của thầy trưởng giáo, học sinh có hưởng ứng ghi tên học, số lượng khoảng 20 người, công việc của học xá cũng tuần tự mà tiến, không có gì trở ngại cả.
6/ Ngày 08-11-1927 : Ngày lễ chu niên kỷ niệm ngày khai giảng học xá.
Vào ngày 07-11-1927 nhằm ngày 14 tháng mười năm Đinh Mảo, thầy giáo Quốc Văn của học xá (tức thầy Lâm Tấn Phác) có đọc bài văn thông báo cùng với học trò mới, cũ của học xá về sự tổ chức ngày lễ chu niên kỷ niệm ngày khai giảng học xá được tròn một năm sẽ diễn ra ngày mai, ngày 8 tháng 11 năm 1927, tức là ngày rằm tháng mười năm Đinh Mảo, ngay Tiết Hạ Nguyên.
Theo sự tổ chức nầy, trước hết thầy trưởng giáo sẽ đọc lại bài văn khai giảng năm rồi, sau đó phần học trò thì mỗi người sẽ đọc một bài văn tự viết nói về cảm tưởng của mình. Kế tiếp thầy giáo Quốc Văn hát bài hát kỷ niệm. Học trò đều đem bông hoa đẹp tươi tốt đến trang trí cho học xá. Cuộc lễ sẽ cử hành đúng 6 giờ rưỡi chiều, mời tất cả nam nữ học sinh cũ mới đến dự lễ cho đông.
Ngay đêm Hạ Nguyên năm Đinh Mảo đó, học xá có treo bức hoành phi ghi chữ « Trí đức học xá khai giảng chu niên kỷ niệm nhật ». Nhân dịp nầy thầy giáo Lâm Tấn Phác có nhận xét các bài văn của học trò có vẻ tiến bộ hơn năm rồi tuy cũng không sao tránh khỏi cái lề lối sáo cũ, đó là cái bệnh của học trò.
Cuối buổi lễ thì thầy trưởng giáo có nói vài lời kết luận, đại ý nói lời cảm ơn học trò đã đến dự lễ đông đủ, qua các bài văn của học trò người thầy thấy trò có nhiều tiến bộ, ấy là cái kết quả của học xá, rồi người thầy khuyên học trò là không bao giờ quên học tập chữ Quốc Ngữ và nói lên lòng ước ao học xá vẫn được bình an để mỗi năm đều được làm cái lễ kỷ niệm nầy mãi.
Theo đúng chương trình, thầy trưởng giáo hát hai bài ca, một bài hát kỷ niệm của học xá và một bài hát tống biệt vì trong dịp lễ nầy sau đó có một học trò phải từ giả thầy bạn trở về quê mà không được dịp tiếp tục học ở học xá nữa.
Bài hát kỷ niệm có câu trích ra đây :
« Tiết Hạ Nguyên Bính Dần năm ấy
Kỷ niệm ngày khai giảng Quốc Văn nhà
Đốt lò hương, trang điểm vẻ bông hoa
Phong vị cũ, bài văn xưa đem đọc »
Bài hát tống biệt có câu trích ra đây :
« Cảnh trời đất gợi màu tình tứ
Khí non sông chuốt vẻ văn chương
Lúc biệt ly âu cũng ngẩn ngơ dường
Mối hoài cảm ngổn ngang chiều bút mặc… »
Thầy trưởng giáo ca xong hai bài hát đó thì xong cuộc lễ kỷ niệm đêm Hạ Nguyên.
7/ Ngày 07-01-1928 : Ngày nghỉ Tết Nguyên Đán năm Mậu Thìn.
Thể theo ý muốn của học trò, Trí Đức Học Xá có làm lễ nghỉ Tết năm Mậu Thìn, buổi lễ vào ngày 7 tháng 1 năm 1928, nhằm ngay ngày rằm tháng chạp năm Đinh Mảo. Cảnh học xá đêm ấy không được đông đủ ấm áp như mọi lần họp trước. Học trò theo lệ cũ cũng đọc mỗi người một bài văn mùng thầy, tuy nhiên chỉ có 9 bài văn mà thôi. Trích ra vài đoạn như sau :
« …Nhưng nhớ đến cảnh xưa chuyện cũ chừng nào thì lại cảm động chừng nấy, vì năm nay lại có vẻ khác hơn năm ngoái là bởi anh em phần nhiều ai cũng bận việc nọ việc kia, đi chỗ nầy chỗ khác, còn lại học chẳng mấy người… ». (Lời văn trò Nguyễn Văn Xinh)
« ….Cái công thầy dạy dỗ chăm chút cho như thế đã có mấy ai, tôi lấy làm tiếc cho mấy anh mới cắp sách đến trường mà đã nản chí. Từ đây phải vậy cũng đành, nhưng ước ao sao cho học xá còn bền như hôm nay, thì anh em chúng tôi cũng không sao dám bỏ qua việc học Quốc Ngữ được… ». (Lời văn trò Nguyễn Văn Xinh)
« … Năm ngoái nhà Trí đức học xá càng ngày càng tăng thêm lên, năm nay lại dần dần ít hơn, mỗi đêm thường chỉ vài ba người đến học, tôi lấy làm buồn… ». (Lời văn trò Tạ Văn Lục)
Sau buổi lễ nầy thì học trò nghỉ học để ăn Tết Mậu Thìn, qua Tết sẽ họp lại học tiếp (mùng một Tết Mậu Thìn là ngày 23-01-1928).
8/ Ngày 26-01-1930 : Ngày nghỉ Tết Nguyên Đán năm Canh Ngọ.
Sau khi nghỉ Tết Mậu Thìn, thầy trò học xá trở lại họp và học lại như bình thường, thời gian cứ trôi qua, điểm lại năm tháng hoạt động : khai giảng học xá lần đầu vào năm 1926, khai giảng đợt hai kế tiếp vào năm 1928, rồi cứ thế giảng dạy, có các đợt nghỉ ăn Tết Nguyên Đán, rồi làm lễ kỷ niệm ngày khai trường ngay Tiết Hạ Nguyên mỗi năm,….Tiếp tục cho đến năm 1930, tính ra học xá tiến triển được 4 năm.
Vào ngày 26 tháng 01 năm 1930, nhằm ngày 27 tháng chạp năm Kỷ Tỵ, như thường lệ các năm, thầy trưởng giáo có tổ chức ngày lễ nghỉ Tết Nguyên Đán Canh Ngọ sắp đến. Buổi lễ nghỉ Tết theo sắp xếp chương trình như sau : Thầy trưởng giáo nói về ý nghĩa Tết Nguyên Đán. Học sinh lần lượt đọc bài văn Tết. Đại diện nam học sinh đọc bài cám ơn thầy (trò Lưu Văn A). Đại diện nữ sinh đọc bài cám ơn thầy (trò Nguyễn Đạm Cúc). Thầy giáo hát bài hát « Xuân Đức Trí ». Nam học sinh hát bài hát « Mừng tuổi tiếng nước Nam » và « Xuân Đông Hồ ». Nữ học sinh hát bài hát « Ngày xuân mừng tuổi thầy học ». Buổi lễ bắt đầu lúc 7 giờ tối.
Học xá vẫn trang trí với hoa tươi do học trò mang đến, trước cửa có treo câu đối Tết :
« Uẩy kìa ai vặn máy tuần hoàn, đưa thoi ngọc để xoay trời đất lại,
Ừ mới biết là tay tạo hóa, tuôn then xuân cho rạng nước non ra ».
Trong bài diễn văn của thầy trưởng giáo, có các điểm mở đầu đáng chú ý như sau :
« Trí đức học xá chúng tôi khai giảng lần nầy là lần thứ ba, vừa gặp Tết Nguyên Đán năm Canh Ngọ đặt cuộc lễ nầy là để đón chào cảnh đẹp và nhân đó mà khiến nghĩ tưởng đến việc học hành. ».
………
« Mới vừa khai giảng lại, các học sinh cũ đã nghỉ cả, lần nầy toàn là những học sinh còn ít tuổi lắm và mới bắt đầu tập luyện, nên công việc dạy dỗ, học hành cũng chưa có gì đáng trình, duy đã là lễ mừng đón tân xuân, thì cái ý nghĩa cảm tình ngày Tết xin phải tự nói qua ».
Như vậy ta biết được là trong năm 1929 vừa qua đã có lần khai giảng thứ ba dành cho các học sinh lớp nhỏ (tuy không có tài liệu nào nói rõ ngày tháng chính xác của lần khai giảng nầy, đây cũng là lần khai giảng cuối cùng trước khi học xá đóng cửa nghỉ).
Sau khi thầy giải nghĩa xong về ý nghĩa Tết Nguyên Đán thì đến phiên học trò lần lượt đọc bài văn mừng thầy, có tất cả 11 bài văn cá nhân được đọc, và 2 bài văn tập thể đại diện nam và nữ học sinh lần lượt chúc mừng thầy. Đến 9 giờ rưỡi tối thì buổi lễ chấm dứt.
G/ Trí Đức Học Xá ngừng hoạt động vào năm 1931 hay năm 1934 ?
Có rất nhiều tài liệu nói về thời gian hoạt động của Trí Đức Học Xá, đa số đều ghi là học xá hoạt động trong 8 năm, từ 1926 đến 1934 thì đóng cửa, tuy nhiên một số tài liệu khác lại ghi học xá hoạt động trong 5 năm, từ 1926 đến 1931. Ta hãy xét các thông tin sau :
a/ Ông Nguiễn Ngu Í trong bài « Sống và viết với Đông Hồ » đăng trên tạp chí Bách Khoa số 193, xuất bản năm 1965 có viết :
« …khi anh tuổi mới hai mươi : không đua đòi học tiếng Pháp ; mà chú tâm trau dồi tiếng Việt, tập tành viết Quốc Văn, lại mở trường – Trí đức học xá – để thực hiện cái mộng : chuyên dạy bằng tiếng nước nhà trong suốt tám năm trời ….» ( có chú thích từ 1926 đến 1934).
b/ Ông Nguyễn Hiến Lê qua bài « Hồn Đại Việt Giọng Hàn Thuyên Tưởng niệm Đông Hồ », đăng trên tạp chí Bách Khoa số 317 xuất bản năm 1970, có viết :
« Học xá mở được tám năm, từ 1926 đến 1934 ».
…….
« Học xá ngưng giảng nhưng lớp hàm thụ thì vẫn còn : ai thích văn thì cứ gởi thư hỏi han và gởi văn thơ cho ông sửa ».
Tuy nhiên theo vài tác giả khác, lại viết học xá chỉ hoạt động trong 5 năm :
c/ Ông Trọng Toàn tức nhà giáo Nguyễn Văn Kiêm dạy chung với trưởng giáo Lâm Tấn Phác ở Trí Đức Học Xá, Hà Tiên, có viết trong bài « Một người có công với Quốc Văn – Ông Đông Hồ », đăng trên tạp chí Nam Phong số 173, xuất bản năm 1932 như sau :
« Hiện, tuy học xá đã thôi giảng nơi gần mà vẫn còn giảng tập ở nơi xa. Các chỗ cũng có người gởi thơ đến học như lối dạy các nhà học bằng thơ bên Âu Châu ».
d/ Ông Đông Hồ, tức trưởng giáo học xá, trong bài tựa giới thiệu tập học làm văn « Bông hoa cuối mùa » đăng trên tạp chí Nam Phong số 162, xuất bản tháng năm, năm 1931 có nhiều lời lẽ chua chát, than vãn cho việc đóng cửa của học xá như sau :
« T.Đ.H.X. thôi giảng, kẻ có lòng với tương lai nước nhà nghe qua ai cũng muốn biết vị cớ gì ? Than ôi ! Vị cớ gì ? Câu hỏi muốn trả lời mà não dạ ! Nào có vị cớ gì xa xôi đâu, chỉ vì không ai thích học đó mà thôi ! Học trò thưa vắng, giảng tập bất thường, buổi học đến chỉ còn một thầy và một trò thì làm gì mà không bãi ».
…….
« « T.Đ.H.X. khai giảng năm Bính Dần, nay là năm Tân Vị đã trải qua năm năm mà trong năm năm ấy đã phải bãi đi họp lại đến ba lần. Một lần thất bại chưa nản, hai lần thất bại cũng chưa nản, nay đã đến ba lần thất bại, có nản hay không ? Câu hỏi xin hỏi ở tương lai ».
Năm Tân Vị tức là năm Tân Mùi, từ năm Bính Dần (1926) đến năm Tân Mùi (1931) là năm năm.
Rồi ông viết tiếp :
« Học xá từ nay thôi giảng, học trò tuy đã xa thầy, nhưng riêng lòng tôi đối với học xá, đối với học trò, tình cũ duyên xưa chưa dễ mà phai nhạt… ».
Cuối lời giới thiệu nói trên, thầy có kèm theo hai bài thơ nói lên lòng tiếc nhớ Trí Đức Học Xá. Trong bài « Thấy tập Bông hoa cuối mùa cảm nhớ T.Đ.H..X. » có bốn câu cuối :
« Thôi đành chịu người thua cảnh ngộ,
Cảnh không may thực khó mà nên;
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên,
Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng! » (23)
Dưới bài tựa ông ghi : « Gác Nam Phong, ngày cuối xuân năm Tân Vị ».
Như vậy xét các điểm trên, ta có thể kết luận một cách khá rõ là trong vòng 5 năm (1926 – 1931), học xá mở cửa dạy học trò ngay tại lớp học tức là các đêm giảng tập diễn ra ngay tại nhà ông trường giáo Đông Hồ, trong thời gian nầy vẫn có các học trò ở xa gởi bài đến học theo lối học hàm thụ.
Đến trước tháng 5 năm 1931, học xá ngưng hoạt động giảng tập tại nhà, tức là học xá đã đóng cửa, học trò không còn đến học trực tiếp như trước nữa, vì lý do gì ? Các tài liệu bài viết nghiên cứu đều đưa ra lý do là vì nhà cầm quyền Pháp luôn dòm ngó, làm áp lực thậm chí bắt buộc ông Đông Hồ phải đóng cửa học xá, tức không cho phép hoạt động mở trường lớp như vậy. Tuy nhiên không có tài liệu hay bằng chứng cụ thể có nguồn chính xác nào được đưa ra cho các lý giải đó, ta có thể hiểu đó là cách suy đoán hợp lý của thời cuộc là như vậy.
Tuy học xá ngưng giảng dạy trực tiếp tại nhà, nhưng thầy giáo Đông Hồ vẫn còn dạy qua lối hàm thụ cho các học trò ở các tỉnh xa qua lối gởi thư, và cách hoạt động nầy kéo dài thêm được 3 năm nữa rồi mọi hoạt động dạy chữ Quốc Ngữ do thầy Đông Hồ chủ xướng tại nhà ông mới chấm dứt thật sự, đó là một giai đoạn quan trọng và có nhiều ý nghĩa của cuộc đời ông trong vòng 8 năm (1926 – 1934).
H/ Ảnh hưởng và tiếng vang của Trí Đức Học Xá.
1/ Trí Đức Học Xá gây được một tiếng vang tương đối trong nước lúc bấy giờ vì nhờ những bài giới thiệu và các bài viết tập làm văn của học trò đăng trên Nam Phong tạp chí (các số 115, 118, 125, 135, 157,…), tuy nhiên dù tạp chí nầy đã được phổ biến cả ba kỳ trong nước cho mọi độc giả nhưng vì tính chất trí thức cao của bài báo biên tập nên người bình dân chưa đọc nhiều về các bài trên tạp chí nầy.
2/ Khi trường Trí Đức Học Xá mới được mở ra, chỉ là một lớp nhỏ với mục đích luyện tập và cổ động Quốc Văn, tuy nhiên có một vài nhà báo, nhà văn nghe tin khi qua chơi Hà Tiên đều biết việc đó, như các ông : Trần Bá Hùng, Phan Hữu Bích, Bùi Thế Mỹ, Lê Quang Liêm…v…v…(24).
3/ Ông Trúc Hà có nói :
« Cái nhà máy đào tạo tinh thần của ông Đông Hồ nó chẳng khác nào cái nhà máy xay gạo của Alphonse Daudet ở truyện Le secret de maître Cornille (Lettres de mon moulin, quyển 1) ».
Truyện của nhà văn Pháp Alphonse Daudet kể lại cuộc đấu tranh của một người chủ nhà xay gạo ở vùng Provence để giữ thể diện vì nhà xay gạo của ông chạy theo cách thủ công dần dần ế ẩm không có khách hàng, không cạnh tranh nổi với các máy móc hiện đại… Ý nói học xá của ông Đông Hồ luôn phải phấn đấu với trào lưu mới học tiếng Pháp để bảo vệ tiếng Quốc Ngữ (24).
4/ Trong quyển hạ « Việt Nam thi nhân tiền chiến » NXB Sống Mới, 1969, tác giả Nguyễn Tấn Long có ghi :
« Thành tích văn hóa đáng ghi nhớ hơn hết là từ năm 1926 đến năm 1934, mở nhà nghĩa học trên bờ sông Đông Hồ, lấy tên là Trí Đức Học Xá, tự mình làm trưởng giáo, chủ trương chuyên dạy toàn tiếng Việt…. »
« Trường mở cả lớp hàm thụ để cho học trò ở xa Hà Tiên cũng có thể tập luyện tiếng Việt, cho nên, trong mấy năm, đã gây được ảnh hưởng ở miền Nam ».
5/ Theo Nữ sĩ Mộng Tuyết, lúc ông Đông Hồ có cộng tác với một tờ báo (không biết chính xác báo nào) tờ báo nầy có đăng quảng cáo là trong tòa soạn có sự tham gia của ông Đông Hồ, có in cả hình ông và giới thiệu là thầy giáo dạy học xá (trường tư) ở Hà Tiên. Điều nầy khiến cho ông Đông Hồ suýt bị rắc rối vì một quan đốc học Pháp xuống tận Hà Tiên để điều tra, rốt cuộc thì nhờ ông giải thích là dạy văn học chứ không làm chánh trị nên việc được bỏ qua (25).
6/ Trong tạp chí Bách Khoa số 43, xuất bản năm 1958, tác giả Sào Phủ Việt và NTMTD trong bài viết « Vào Đại Ẩn Am thăm thi sĩ Đông Hồ », có đoạn như sau:
« Thành tích văn hóa đáng ghi nhớ hơn hết là từ năm 1926 đến năm 1934 mờ nhà học xá trên bờ Đông Hồ lấy tên là Trí Đức Học Xá, tự mình làm trưởng giáo, chủ trương chuyên dạy toàn bằng tiếng Việt, luôn luôn cổ động khuyến khích cho học trò và bè bạn tin tưởng ở tương lai Việt Ngữ…
.…. Trường lại mở cả lớp hàm thụ để cho học trò ở xa cũng có thể tập luyện tiếng Việt, cho nên trong mấy năm, đã gây được ảnh hưởng văn hóa không ít ở miền Nam ».
7/ Trong một số sách nghiên cứu về Văn Học Việt Nam, khi bàn về sự phát triển của chữ Quốc Ngữ, các tác giả thường nêu cao vai trò và sự đóng góp của báo chí trong thời kỳ 1913 trở đi với hai tờ báo Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí, mà quên đi hoặc không thẩy rõ sự đóng góp của ngôi trường nghĩa học ở nơi xa xôi Hà Tiên của ông Đông Hồ, có lẽ đó chỉ là một công trình có tính cách địa phương, chưa đủ gây tiếng vang trong mọi giới.
Mặc dù có sự tham gia theo học của một số học sinh ở nhiều tỉnh khác nhưng học xá của ông Đông Hồ không gây nổi một phong trào rộng lớn, vì nhiều lý do dần dần rồi ngôi trường thiếu học sinh, chính ông đã viết một cách ngậm ngùi những câu văn và thơ nêu lên cái tâm trạng chua chát như sau :
« Khi T.Đ.H.X. thành lập, tôi có bài thơ thuật hoài còn nhớ hai câu :
Muốn sang biển học ai ai đó ?
Trí đức thuyền đây đã sẳn chờ.
Tiếng gọi kia đồng vọng, nước mây man mác nào ai là kẻ tri âm ? Nay thì đã đến cái tình cảnh :
Đưa sang biển học đành không khách,
Trí đức thuyền ai luống hững hờ !
Muốn đưa, không khách, tình cảnh kia dễ não khách chở thuyền, muốn dạy, không người, cảnh ngộ nọ dễ buồn người giảng học. Không khách sang, thuyền buông neo, không người học, tràng đóng cửa ».
(Nam Phong số 162, năm 1931).
I/ Ký ức về ngôi trường Trí Đức Học Xá ở Hà Tiên.
Mình dành phần nầy để kết thúc bài viết về ngôi trường nghĩa học của ông Đông Hồ ở Hà Tiên. Thật là một sự tình cờ và cũng rất tuyệt vời là trong những năm theo học trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (khoảng 1964 – 1970), mình đã có dịp tới lui rất thường xuyên, gần như mỗi ngày, cùng vui chơi với các bạn học cùng lớp ngay tại căn nhà xưa của ông Đông Hồ, tức là ngay tại ngôi trường Trí Đức Học Xá của ngày xưa…
Phải nói qua một chút về quá khứ : Năm 1934, sau khi trường nhà đóng cửa, nghỉ hoạt động giảng dạy tiếng Việt, người bác kính yêu Lâm Tấn Đức vừa mới qui tiên, thầy trưởng giáo Đông Hồ cũng thôi việc làm giáo viên Tiểu Học Sơ Đẳng trường nhà nước, ông cùng các bạn nhóm Trí Đức lập ra tờ báo « Sống » vào đầu năm 1935. Chưa đầy một năm tờ báo đình chỉ vì lý do chính là tài chánh. Đến năm 1945, tình hình bất an, ông Đông Hồ rời Hà Tiên lên Sài Gòn làm báo và xuất bản sách. Từ đó căn nhà của gia tộc ở Hà Tiên không ai chăm lo.
Cho đến những năm 60-70, căn nhà nầy được cho thuê cho người ta ở, đúng ngay thời gian nầy thì gia đình của người bạn cùng lớp với mình, bạn tên là Lý Văn Tấn, đã thuê căn nhà của thầy Đông Hồ để cho ông bà ngoại của bạn Tấn đến ở. Do đó như trên đã nói, vì bạn Tấn thường xuyên đến chơi nhà ông bà ngoại nên cũng kéo theo nhóm bạn trong đó có mình, đến ngôi nhà nầy cùng vui chơi văn nghệ, tập dợt đàn ca…
Vào thời đó, mình hoàn toàn không biết gì cả về tên tuổi ông Đông Hồ và cái tên Trí Đức Học Xá,…Thật là một sự thiếu hiểu biết về quê hương không thể tưởng tượng được, đôi khi chỉ nghe người ta nói là ngôi nhà mà ông ngoại bạn Tấn Lý đang ở đó chính là nhà của ông Đông Hồ, và ngày xưa cũng là trường học dạy tư tiếng Việt,…Vậy thôi mình và các bạn cũng không tìm hiểu gì thêm, chỉ lo ngày ngày nhóm bạn đến chơi đàn ca vui vẻ …
Vậy là mình không ngờ rằng mỗi ngày khi đến chơi căn nhà ông ngoại bạn Tấn Lý, mình đã có dịp nhìn thấy bàn ghế trong nhà, nơi mà bao nhiêu học sinh của ba kỳ khai giảng của học xá đã từng ngồi trong nhà đó, đang học tập làm văn, mình cũng không ngờ trong bầu không gian trầm ấm, cổ kính của ngôi nhà, đâu đây còn tiếng rì rào như là tiếng một học sinh nào đó đang đọc bài văn kỷ niệm Tiết Hạ Nguyên năm xưa nào đó,…, rồi các câu đối, các bình hoa ngày lễ có còn đâu đây không…Tại sao mình không nhìn qua nhìn lại để tìm xem đâu là gác Nam Phong, đâu là phòng của thầy Đông Hồ, đâu là cái bàn trên đó có còn « nghiên Đông Hồ » và « bút Tô Châu » của hơn 30, 40 năm trước… ?
Tóm lại mình đã có ấn tượng rất mạnh khi tìm hiểu được lai lịch căn nhà xưa của ông ngoại bạn Tấn Lý và nhất là khi mình thấy được bức hình căn nhà của ông Lâm Tấn Đức đăng trong một bài báo về lịch sử ông Ngô Văn Chiêu, người sáng lập ra Đạo Cao Đài, khi nhìn thấy hình căn nhà trong bài viết và có chú thích là nhà của ông Đông Hồ từng ở ngày xưa, mình rất hoang mang đồng thời cũng rất thú vị và cũng không kém phần xúc động…, vì căn nhà đó là nơi mà mình và các bạn đã một thời lui tới vui chơi. Ngày nay mình rất hảnh diện đã từng đặt chân tới lui căn nhà là ngôi trường Trí Đức Học Xá của ông Đông Hồ, cũng như mình rất tự hào là con cháu hậu duệ của họ Mạc, người sáng lập ra vùng đất Hà Tiên quê hương mình.
Rốt cuộc các bạn biết sao không, mình cũng không rõ tình tiết nhưng về sau nầy, rất xa sau năm 1975, người vợ cuối cùng của ông Đông Hồ là bà Nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội từ Sài Gòn và sau khi ông Đông Hồ mất đi, vào năm 1995 bà trở về Hà Tiên mua chuộc lại căn nhà xưa và xin phép cất lại thành « Nhà lưu niệm thi sĩ Đông Hồ »…thật là kỳ diệu thay, thế là căn nhà xưa bao nhiêu năm về trước của người bác chồng là ông Lâm Tấn Đức đã hoàn trở lại thành nhà lưu niệm để tưởng nhớ thi sĩ Đông Hồ, người mà thời niên thiếu đă từng ở và dạy học trong căn nhà nầy…(26).
Chú thích:
(1): Vòng Bờ Đồn thứ hai nầy người Hà Tiên gọi là Bờ Đồn nhỏ, tức lũy Phù Dung hay lũy Phù Anh. Lũy nầy ôm sát trấn lỵ Hà Tiên, bắt đầu từ đồi Kim Dự (đồi Pháo Đài), bao vòng 2 ngọn núi Bình San và Phù Dung (tức núi Đề Liêm) đến bờ sông Thủy Trường (tức Rạch Ụ chỗ gặp đầm Đông Hồ). Lũy nầy có chiều dài trên dưới 3 cây số.
(2): Trung tâm Hà Tiên thời đó được xem như phần giới hạn trong các con đường Mạc Tử Hoàng, Mạc Công Du, Bạch Đằng và Trần Hầu.
(3): Theo tài liệu “Nghiên cứu Hà Tiên – Họ Mạc với Hà Tiên”, tác giả Trương Minh Đạt, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2017.
(4): Theo bài viết “Chuyện giáo dục ở Phương Thành”, tác giả Đông Hồ đăng trong Nam Phong Tạp Chí số 144 xuất bản năm 1929.
(5): Theo bài viết “Cảnh vật Hà Tiên IV” do Nguyễn Văn Kiêm biên tập, đăng trên Nam Phong tạp chí số 153, xuất bản năm 1930.
(6) Trọng Toàn là nhà văn, nhà báo, tên là Nguyễn Văn Kiêm (1902-1976), sinh ra tại Long An. ông có một thời gian dạy học ở ngôi trường Sơ Đẳng Tiểu Học Hà Tiên nói trên. Ông có nhiều bài viết đăng trên các báo từ những năm 1920, nội dung chủ yếu nói về ca dao tục ngữ miền Nam, sưu tầm ca dao tục ngữ đăng trên các báo. Sau 25 năm nghiên cứu và sưu tầm, công trình của ông đã được in thành sách mang tên “Hương hoa đất nước” (sách gồm hai tập). (Theo site Văn Nghệ Long An).
(7): Đầu nửa trước thế kỷ 20, giới văn học gọi danh xưng “Hà Tiên Tứ Tuyệt” để chỉ nhóm gồm 4 người thi sĩ, nhà văn, nhà báo rất nổi tiếng cùng quê quán ở Hà Tiên, xếp theo thứ tự tuổi tác đó là: Đông Hồ – Lâm Tấn Phác (1906-1969), Trúc Hà – Trần Thiêm Thới (1909 – 1943 hay 1944?), Mộng Tuyết – Thái Thị Sửu (1914 – 2007) và Lư Khê – Trương Văn Em (1916 – 1950). Ngoài ra Trúc Hà còn có liên hệ gia đình với ông Đông Hồ, Trúc Hà là cháu gọi Đông Hồ là cậu. Cả hai người đều được người bác Lâm Tấn Đức nuôi khi còn nhỏ tuổi.
(8): Theo bài viết “Đông Hồ ký sự” của nhóm TAG:
(https://donghokysu.wordpress.com/)
(9) Hiện nay nơi nầy chính là “Đông Hồ thi nhân kỷ niệm đường”, tức là nhà lưu niệm Đông Hồ, nhà lưu niệm nầy do bà Mộng Tuyết cất lên và hoàn thành năm 1995 ngay tại vị trí của nhà nghĩa học Trí Đức Học Xá ngày xưa, nhưng diện tích chỉ chiếm một phần nhỏ khoảng 350 mét vuông của khuôn viên nhà nghĩa học ngày xưa, phần đất còn lại có thời gian làm trường mẫu giáo.
(10): Phạm Quỳnh (1892 – 1945), là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan Đại Thần nhà Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc Ngữ, dùng tiếng Việt thay thế chữ Nho, chữ Nôm và chữ Pháp để viết văn, làm thơ, viết báo. Tên hiệu của ông là Thượng Chi. Ông làm chủ nhiệm, chủ bút tạp chí nổi tiếng Nam Phong trong thời gian 1917 đến 1934, viết bằng tiếng Việt và tiếng Hán.
(11): Chu Hi (1130 – 1200) là một nhà thư pháp, nhà sử học, nhà triết học, chính trị và nhân văn người Trung Hoa, thời Nam Tống.
(12): Theo bài viết “Hồn Đại Việt Giọng Hàn Thuyên Tưởng niệm Đông Hồ”, tác giả Nguyễn Hiến Lê đăng trên tạp chí Bách Khoa số 317 xuất bản năm 1970.
(13): Nguyễn Thị Phương Thúy sinh năm 1987, đạt học vị Tiến Sĩ năm 2020, giảng viên khoa Văn Học, Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại Học Quốc Gia TPHCM.
(14): Frédéric Mistral (1830 – 1914) là nhà văn, nhà thơ, nhà Tự Điển học người Pháp vùng Provence. Ông đoạt giải Nobel Văn Học năm 1904.
(15) : Bài « Bông hoa cuối mùa – (Tập học làm văn) » ký tên tác giả Nguyễn Nữ Thanh San, đăng trên tạp chí Nam Phong số 162, xuất bản năm 1931.
(16) : Bài « Bông hoa đầu mùa – (Tập học làm văn) » ký tên tác giả Tuyết Mai, đăng trên tạp chí Nam Phong số 118, xuất bản năm 1927.
(17) : Bài « Bông hoa đầu mùa – (Tập học làm văn) » tập thứ 2, ký tên tác giả Tuyết Mai, đăng trên tạp chí Nam Phong số 125, xuất bản năm 1928.
(18) : Bài « Bông hoa đua nở – (Tập học làm văn) » ký tên tác giả Thái nữ Mộng Tuyết, đăng trên tạp chí Nam Phong số 146, xuất bản năm 1930.
(19) : Rabindranath Tagore (1861 – 1941) là một nhà thơ, nhà Triết học, nhà viết kịch, nhạc sĩ và người theo chủ nghĩa dân tộc người Ấn Độ. Năm 1901 ông lập ra ngôi nhà tịnh xá Santiniketan để giáo dục thanh niên. Năm 1913 ông đoạt được giải thương Nobel về văn chương.
(20) : Maria Montessori (1870 – 1952) là một bác sĩ và nhà giáo dục người Ý. Nhờ trải nghiệm tiếp xúc với trẻ em, bà trở nên quan tâm sâu sắc đến giáo dục và phát triển phương pháp của mình. Theo phương pháp Montessori (1906), trẻ em sẽ học cách sống chung với người khác, trong một nhóm trẻ em ở nhiều độ tuổi khác nhau. Những người lớn tuổi hơn sẽ làm gương cho những người trẻ tuổi hơn, từ đó phát triển sự tự tin, cũng như ý thức đoàn kết, tương trợ và gắn bó lẫn nhau trong một nhóm.
(21) và (22) : Theo bài viết « Nhớ Tiết Hạ Nguyên – Gia đình giáo dục ký » ”, tác giả Đông Hồ đăng trong Nam Phong Tạp Chí số 135 xuất bản năm 1928.
(23) : Đại Việt là danh hiệu của nước ta có từ đời nhà Lý tính từ năm 1054 đến năm 1400 và sau đó từ năm 1428 đến năm 1804. (từ năm 1400 đến năm 1407 nhà Hồ đổi tên nước là Đại Ngu, từ năm 1407 đến năm 1427 nước ta bị nhà Minh xâm chiếm và trở lại thành một tỉnh tên Giao Chỉ thuộc nhà Minh, đến khi vua Lê Lợi đánh thắng quân Minh năm 1428 và lập nhà Hậu Lê thì tên nước đổi lại là Đại Việt).
Hàn Thuyên (1229 – ?) tên thật là Nguyễn Thuyên, làm quan dưới thời vua Trần Nhân Tông. Ông giỏi chữ Nôm, được xem là người phát triển và phổ biến chữ Nôm, ông là người đầu tiên dùng chữ Nôm để làm thơ theo thể Đường luật. Thơ Đông Hồ nhắc đến tên Hàn Thuyên để nói lên cái gương bỏ chữ Hán theo chữ Nôm của Hàn Thuyên cũng như ông Đông Hồ cũng cố súy cho việc dùng tiếng Quốc Ngữ thay cho chữ Hán và chữ Pháp…
« Năm năm ba bận » : có lẽ ông Đông Hồ muốn nói năm năm dạy học ở học xá nhà ông và ba lần khai giảng lớp học ở học xá.
(24) : Theo Nam Phong tạp chí số 173, năm 1932.
Bùi Thế Mỹ (1904 – 1943) là nhà báo, nhà văn, chủ bút các tờ báo : Đông Pháp thời báo (1927), Trung Lập, Tân Thế Kỷ, Thần Chung, Điện Tín, Dân Báo…
Lê Quang Liêm (1881 – 1945) là nhà báo, nhà văn, tốt nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat, Sài Gòn; sau đó làm thư ký tại Phủ thống đốc Nam Kỳ, thư ký Phủ Toàn quyền tại Hà Nội (1899-1906), tri huyện (1909-13), tri phủ (1913-14). Chủ bút tờ báo : Đại Việt tạp chí, cố vấn tuần báo Lục Tỉnh tân văn.
(25) : Bách Khoa tạp chí số 317, năm 1970.
(26) : Từ khi ông Đông Hồ và người vợ thứ ba là bà Mộng Tuyết dời lên Sài Gòn ở năm 1945, ông không có dịp về Hà Tiên nữa, ngôi nhà đã từng làm học xá cho người ta thuê ở, giai đoạn đầu trong những năm 60-70 có ông ngoại của bạn Lý Văn Tấn, bạn học cùng lớp với mình ở đó, thời gian sau có gia đình của bà con của bạn cùng trường Hà Tiên là Huỳnh Ngọc Tuyết ở đó và sau đó có gia đình của bạn cùng trường Hà Tiên là Trang Lệ Thủy cũng ở đó. Sau khi không còn ai ở trong căn nhà học xá nầy, đến những năm thập niên 90, bà Mộng Tuyết có xin lại miếng đất và ngôi nhà nầy thì ngôi nhà « huyền thoại » nầy đã hư hao rất nhiều. Hiện nay chính ngay nơi nầy là « Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường », nhà lưu niệm do bà Mộng Tuyết cho xây cất lên năm 1995, nay do địa phương Hà Tiên quản lý.
Trần Văn Mãnh, Paris, viết xong ngày 22 tháng 4 năm 2025