Những ngày cuối cùng của Hitler (Bài 5)

Bill O’Reilly

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 13

TỔ ĐẠI BÀNG

LANGENHAIN-ZIEGEN-BERG, ĐỨC * NGÀY 24 THÁNG 12 NĂM 1944 * 1 GIỜ CHIỀU

GÃ ĐÀN ÔNG CÒN 127 NGÀY ĐỂ SỐNG gần như không thể nhìn thấy gì.

Ánh nắng mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên khuôn mặt nhợt nhạt, kiệt sức của Adolf Hitler khi y ngước nhìn chằm chằm hơn 1000 chiến đấu cơ-oanh tạc cơ Đồng mình bay đến để hủy diệt Tổ quốc vào đêm Giáng sinh. Führer đứng cách nơi Patton quỳ xuống cầu nguyện 123 dặm về phía đông, ẩn mình trong một khu phức hợp boongke xám xịt được gọi là Adlerhorst (Tổ Đại bàng), và tiếng ù ù của máy bay ném bom đã kéo ông ra khỏi phòng ăn Haus 1. Trong khi bữa trưa của y nguội dần, Hitler quan sát mối nguy hiểm phía trên mình.

“Führer của tôi,” Christa Schroeder, thư ký riêng của y, thở hổn hển, “chúng ta đã thua cuộc chiến rồi, phải không?”

Hitler đảm bảo với cô rằng  không phải thế. Vì vậy, ngay cả khi Pháo đài Bay B-17 và oanh tạc cơ hạng nặng Liberator B-24 tiếp tục cuộc hành trình chết chóc của chúng vào vùng trung tâm của Đức, Hitler vẫn  ung dung trở lại bên trong để ăn tiếp, đi ngang qua một cây thông Noel được trang trí đẹp mắt sắp được thắp sáng bằng ánh nến.

Bom phát nổ ở khu công nghiệp Berlin. Bức ảnh này được chụp bởi một máy bay ném bom.

Thể chất của Führer tiếp tục xấu đi vì lối sống căng thẳng và hay sử dụng ma tuý của ông. Dáng đi không vững của y giống như của một ông lão. Bữa trưa thường ngày của y gồm rau và trái cây – măng tây và ớt là những món y ưa thích được phục vụ với salad và cơm. Một chục nữ chuyên gia nếm thử thức ăn đã nếm thử để đảm bảo Hitler không bị đầu độc. Hitler hầu như không đủ sức để cầm nĩa bằng tay phải, bàn tay này đã trở nên quá yếu đến nỗi không còn có thể ký các văn bản chính thức nữa – giao nhân viên của y ký giả chữ ký của mình.

Bàn tay trái của Hitler còn tệ hơn. Y không thể ngăn được những cơn run rẩy tê liệt của nó, và giờ nó đang nằm trên đùi y. Führer ăn một cách máy móc, thậm chí còn cúi đầu xuống đĩa để xúc rau vào nhanh hơn. Y lướt ngón trỏ tay phải dọc theo bộ ria mép đen ngắn của mình giữa các lần cắn. Führer lơ đãng nhai móng tay; phép lịch sự trên bàn ăn của y, theo lời một nhân chứng, “gần như gây sốc”.

Führer đã ẩn náu trong Adlerhorst từ trước khi Chiến dịch Watch on the Rhine bắt đầu và chỉ đạo trận chiến từ pháo đài bí mật này. Khu phức hợp này  gồm bảy ngôi nhà thực sự là một sở chỉ huy quân sự được che giấu khéo léo. Nằm giữa những vách đá của dãy núi Taunus, Tổ Đại bàng  được xây dựng dưới bóng của Lâu đài Kransberg thời trung cổ, nơi bảo vệ Tổ Đại bàng khỏi những cặp mắt tò mò. Mỗi tòa nhà có vẻ như là một ngôi nhà nhỏ kiểu Đức vô hại, với mặt ngoài bằng gỗ và đồ nội thất bằng gạc hươu cùng những bức tranh mô tả cảnh săn bắn.

Nhưng thực ra các bức tường được gia cố bằng bê tông, dày 1 mét. Các khẩu súng phòng không được giấu trong khu rừng xung quanh, nơi Hitler đi dạo buổi sáng với Blondi. Chính Tổ Đại bàng là nơi Hitler đã triệu tập các tướng lĩnh hàng đầu của mình đến vào ngày 11 tháng 12 để vạch ra chiến lược phản công. Trong phòng tình huống ngầm của Haus 2, Hitler đã vui mừng ăn mừng chiến thắng mở màn của chiến dịch vào ngày 16 tháng 12. Ông ta quá vui mừng đến nỗi không thể ngủ được – một tình trạng chắc chắn được cải thiện nhờ tiêm glucose, sắt và vitamin B từ Tiến sĩ Morell.

Trong tám ngày kể từ khi cuộc tấn công vào Ardennes bắt đầu, Hitler đã có nhiều điều để vui mừng. Biệt kích yêu thích của ông, Otto Skorzeny, và những  biệt kích của Chiến dịch Greif đã thành công trong việc rình mò sau phòng tuyến Mỹ, phát tán những lời dối trá và tin đồn gây ra sự hoảng loạn lan rộng. Một số biệt kích của Skorzeny đã bị bắt và nhanh chóng bị xử bắn bởi các đội hành quyết vì tội ác chiến tranh là cải trang quân phục của kẻ thù. Nhưng đến lúc đó, thiệt hại đã xảy ra.

Các bộ binh Mỹ khắp nơi đâm ra hoang mang khi tin tức về các biệt kích Đức mặc quân phục Mỹ và nói tiếng Anh đã lan rộng khắp chuỗi chỉ huy của Đồng minh. Binh lính Hoa Kỳ trở nên ngờ vực tất cả những người lạ. Những trường hợp nhận nhầm danh tính khiến người Mỹ bắn những đồng ngũ Mỹ khác. Xe đi qua các trạm kiểm soát quân sự đã bị chặn xét, và những binh sĩ ngồi trên xe được yêu cầu chứng minh quốc tịch của mình bằng cách trả lời các câu hỏi về văn hóa Mỹ mà chỉ một GI [bộ binh Mỹ] thực thụ mới biết.

Hitler và Eva Braun năm 1938.

Những ai không nhận ra sự khác biệt giữa liên đoàn bóng chày nhà nghề Mỹ và liên đoàn bóng chày quốc gia hoặc không biết tên của bộ phim cuối cùng của nữ diễn viên Betty Grable thường bị bắt giữ. Một chuẩn tướng người Mỹ nghĩ rằng Chicago Clubs thuộc Liên đoàn Mỹ đã bị bắt và bị chĩa súng trong năm giờ. Thống chế Anh Bernard Montgomery từ chối trả lời các câu hỏi, sau đó ra lệnh cho tài xế của mình tăng tốc qua một trạm kiểm soát, lúc đó lính canh Mỹ đã bắn thủng lốp xe của ông ta.

Khi diễn viên điện ảnh Anh David Niven đi nghĩa vụ không nhớ được đội nào đã giành chiến thắng tại World Series [Giải Vô địch Bóng Chày] năm 1940, ông đã trả lời, “Tôi không nhớ chút nào. Nhưng tôi biết tôi đã chụp một bức ảnh với Ginger Rogers [nữ diễn viên điện ảnh] vào năm 1938.”

Người lính canh cho anh đi qua.

Sự cuồng loạn do Skorzeny gây ra lớn đến mức Dwight Eisenhower được đặt dưới sự bảo vệ 24/24 sau khi một chỉ huy Đức bị bắt thú nhận rằng Skorzeny đã lên kế hoạch ám sát Eisenhower.

Một lính Đức bị bắt được tìm thấy đang sở hữu một chiếc quần của quân đội Mỹ.

Cuối cùng, thiệt hại do Chiến dịch Greif gây ra rất lớn nhưng không làm thay đổi cục diện của trận chiến thực sự. Ngay cả Skorzeny khoa trương cũng thừa nhận rằng kế hoạch của hắn không thể đảo ngược tình thế.

* * *

Hitler đi quanh sở chỉ huy ngầm của mình, nhìn chằm chằm vào các bản đồ trận chiến trải dài trên bàn họp hình chữ nhật dài. Thỉnh thoảng y dừng lại để nhấm nháp chiếc bánh gừng nhân mật mía tạm thời xoa dịu cơn thèm đồ ngọt không thể thỏa mãn của y. Điều y khao khát được nghe là một số tin tốt từ tiền tuyến. Thay vào đó, y nghe tin Bastogne vẫn chưa thất thủ, và Sư đoàn Thiết giáp SS thứ 2 chỉ cách Sông Meuse ba dặm nhưng đã hết nhiên liệu và không thể đi xa hơn nữa. Thay vì tiến hành chiến tranh, Thiết giáp SS thứ 2 hiện đang ẩn náu trong rừng, tuyệt vọng ngụy trang những chiếc xe tăng chết máy của mình bằng cành cây và băng tuyết để tránh khỏi cặp mắt những máy bay P-47 Thunderbolt của Mỹ đang lảng vảng trên bầu trời Ardennes.

Nhưng có lẽ đòn giáng mạnh nhất là số phận của viên chỉ huy xe tăng vĩ đại của Hitler, Joachim Peiper, và những người lính của Sư đoàn Thiết giáp SS số 1 tinh nhuệ.

Tướng Kurt Zietzler và Tướng Joachim Rouff giúp Hitler vạch ra chiến lược.

Trận chiến Bulge ngày 24 tháng 12 năm 1944

Một xe tăng Đức thường chở theo một kíp lái gồm năm người.

Peiper đã mắc kẹt trong ngôi làng nhỏ La Gleize, chỉ cách hai cây cầu để vượt sông Meuse, và đang dẫn đầu một cuộc tấn công chí mạng qua các phòng tuyến của Đồng minh hướng về Antwerp. Trong ba ngày, Peiper đã sử dụng số đạn dược ít ỏi còn lại để chống lại pháo binh và xe tăng của Mỹ.

* * *

Đại tá Peiper không muốn người của mình phải chết. Vì vậy, y đã vạch ra một kế hoạch táo bạo có thể mang lại hy vọng cho một tình huống vô vọng.

Vào đúng 5 giờ chiều ngày 23 tháng 12, Joachim Peiper đã gọi điện cho bộ chỉ huy Đức và xin phép phá hủy 28 xe tăng còn lại và chạy trốn bằng đường bộ.

Yêu cầu bị từ chối. Quốc trưởng từ chối mọi hành động phòng thủ.

Đêm hôm đó, Peiper một lần nữa yêu cầu cứu mạng cho 800 binh sĩ còn lại của mình, với lý lẽ rằng cách duy nhất để cứu họ là chạy trốn qua rừng.

Một lần nữa, sự cho phép lại bị từ chối.

Peiper tức giận rút súng lục ra và bắn vài phát vào máy truyền tin. Những phát súng phản ánh sự thất vọng sâu sắc của y.

Peiper quyết định. Đơn vị Thiết giáp số 1 phải trốn thoát, ngay cả khi điều đó có nghĩa là không tuân theo mệnh lệnh trực tiếp.

Lệnh được truyền đi.

Đến 3 giờ sáng ngày 24 tháng 12, Peiper và mọi thành viên tổ lái xe tăng trong Sư đoàn số 1 tập hợp lại để làm một việc mà họ đã không làm trên chiến trường trong một thời gian rất dài – đi bộ. Các chỉ huy xe tăng trên khắp sư đoàn nỗ lực duy trì tính kiên cường của mình khi bỏ lại phía sau những cỗ máy chiến đấu đã mang lại cho họ sức mạnh thần thánh của sự sống và cái chết trong một tuần lễ hồi hộp và không ngủ. Một chục dặm và hai con sông nằm giữa Peiper và các chiến tuyến của Đức. Kế hoạch là đi qua rừng vào ban đêm và ẩn náu vào ban ngày để tránh bị những phi công Thunder-bolt đáng sợ của Mỹ phát hiện.

Mặc dù Đảng Quốc xã không coi trọng tôn giáo, nhưng đồ trang trí Giáng sinh truyền thống vẫn được treo trong nhà, bao gồm cả hàng ổ của Hitler.

Đoàn quân đi thành hàng một dài, một hàng và bắt đầu hành quân trong sự im lặng hoàn toàn. Một đội ngũ cốt cán ở lại phía sau để phá hủy những chiếc xe tăng và xe bán xích vô dụng. Mũi nhọn của Chiến dịch Watch on the Rhine không còn tiến về phía trước nữa. Sư đoàn xe tăng SS số 1 đang rút lui toàn diện, những thân xe tăng đang bốc cháy sáng rực bầu trời đêm Giáng sinh giá lạnh.

* * *

Đêm Thánh, Đêm Giáng sinh, kết thúc muộn đối với Adolf Hitler. Thực tế là 4 giờ sáng ngày Giáng sinh khi y từ từ bước lên cầu thang từ phòng chiến tranh của mình và chuẩn bị đi ngủ. Giáng sinh không có ý nghĩa đặc biệt đối với Hitler. Y từ chối thừa nhận bất kỳ khía cạnh tôn giáo nào của ngày này mặc dù y được nuôi dưỡng bởi cha mẹ sùng đạo theo Công giáo La Mã. Thức dậy vào buổi trưa, Hitler nhận được tin  Peiper và sư đoàn của y đã thoát khỏi vòng vây. Sáng nay, khi Hitler còn ngủ, 770 trong số 800 người bắt đầu cuộc hành trình từ La Gleize đã bơi qua sông Salm băng giá và đến được phòng tuyến của Đức một cách an toàn.

Tối hôm đó, sau khi ăn mặc theo phong cách trang trọng thường ngày, Hitler gặp gỡ nhân viên của mình để ăn mừng ngày lễ, uống một ly rượu vang hiếm hoi và nói chuyện phiếm vui vẻ. Sau đó, y lại xuống phòng chiến tranh. Y tìm kiếm những báo cáo mới nhất từ ​​Bastogne, chắc chắn rằng mình có thể tiếp tục cuộc tấn công bị đình trệ nếu y chiếm được  vòng xoay bạch tuộc.

Mặc dù sức khỏe đang suy yếu, Hitler vẫn sáng mắt khi xem xét kỹ lưỡng các bản đồ. Đó là thứ ánh sáng mà các tướng lĩnh của y đều biết rõ, vì đó là cách ánh mắt Führer trông sáng rực khi đang nghĩ ra một phương kế tuyệt vời nào đó để đánh bại kẻ thù.

Bất kể phe Đồng minh nghĩ gì thì Adolf Hitler vẫn chưa hề bị đánh bại.

Xác chết và những chiếc xe bị phá hủy nằm rải rác trên đường phố ở Bastogne, tháng 12 năm 1944.

 

CHƯƠNG 14

BỘ CHỈ HUY CỦA QUÂN ĐOÀN 3

THÀNH PHỐ LUXEMBOURG, LUXEMBOURG * NGÀY 26 THÁNG 12 NĂM 1944 * 2 GIỜ CHIỀU

GEORGE S. PATTON CHÁN NẢN VÌ PHẢI THẤT HỨA. Không khí trong bộ chỉ huy nguy nga của ông nồng nặc mùi khói thuốc lá và tiếng lạch cạch của máy đánh chữ. Các sĩ quan trẻ và hạ sĩ quan cố giữ khoảng cách với vị tướng tính khí thất thường khi họ ra vào phòng tình huống, không muốn phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Patton rõ ràng đang kiệt sức. Khi nhận được tin nhắn từ Eisenhower nói rằng mình rất nóng lòng muốn Patton nỗ lực hết sức để bảo vệ Bastogne, Patton gần như nổi dóa.

“Ông ta nghĩ tôi đã làm cái quái gì trong suốt tuần qua vậy?” Patton sẽ viết nhật ký vào tối nay, sau khi cư xử đúng mực và không chỉ trích sếp của mình trước mặt ban tham mưu.  Suy cho cùng, ông đã đi được 71 dặm trong tuần qua, hơn một nửa quãng đường từ Nancy đến Bastogne. Riêng Patton giận sôi lên trước những lựa chọn chiến thuật của Eisenhower. Sư đoàn Không vận số 17, Sư đoàn Thiết giáp số 11 và Sư đoàn Bộ binh số 87 đều đã được di chuyển một trăm dặm trở lại thành phố Reims của Pháp làm lực lượng dự bị, đề phòng trường hợp cuộc đột phá của Đức tiến sâu hơn vào phòng tuyến của Mỹ. “Chúng ta phải tấn công,” ông phàn nàn với ban tham mưu của mình. Patton rất có thể sẽ sử dụng hỏa lực bổ sung mà các đơn vị đó sẽ mang lại để giải vây cho Bastogne. Thay vào đó, họ ngồi yên trong tư thế phòng thủ nhẫn nhục mà Patton rất ghét.

“Chúng ta phải tấn công.”

Vị tướng này suy ngẫm và nghiên cứu bản đồ tiền tuyến. Ông đã hứa với Tướng Anthony McAuliffe và Sư đoàn Không vận số 101 rằng ông sẽ có mặt ở Bastogne vào Ngày Giáng sinh. Ông thậm chí còn gửi một tin nhắn, hứa sẽ tặng họ một món quà Giáng sinh đặc biệt. Nhưng điều đó đã không xảy ra.  Thay vào đó, các đội xe tăng của Patton được phân tán trên một mặt trận rộng ba mươi dặm, bị kẹt trong thế bế tắc. Họ đang giành được ít đất mà để mất quá nhiều người và xe tăng khi họ chiến đấu để giành từng tấc đất Bỉ.

Xe tăng và bộ binh của Sư đoàn Thiết giáp số 6 của Hoa Kỳ tiến về Bastogne.

 Đã qua rồi cái tốc độ chớp nhoáng của chỉ vài ngày trước, khi lực lượng của Patton lao vào chiến đấu như kỵ binh. Hàng ngàn binh sĩ Mỹ đã chết giờ nằm ​​đông cứng trên các cánh đồng bên ngoài Bastogne, khuôn mặt họ chuyển sang màu rượu vang đỏ vì máu đọng lại sau khi chết. Patton ghi chép chi tiết về số thương vong của quân Đồng minh và Đức trong sổ nhật ký của mình và biết rằng số người Đức chết còn nhiều hơn thế nữa.

Ông cũng biết rằng thương vong chỉ nói lên một phần của câu chuyện. Các chiến tuyến của Đức vẫn kiên cường. Patton và Quân đoàn số 3 bị mắc kẹt. Tony McAuliffe và Sư đoàn Không quân số 101 hiện đang phải chịu đựng thêm một ngày nữa trong địa ngục bạo lực của Bastogne.  Binh lính và 3.000 thường dân cùng chia sẻ Bastogne không muốn rời khỏi căn hầm của họ vì bất kỳ lý do gì. Ở những nơi khác trong thành phố, thương binh Mỹ phải nằm trên những chiếc cáng bẩn thỉu bên trong các bệnh viện dã chiến tạm thời. Họ không thể không nghe thấy tiếng cưa xương lạo xạo khi các bác sĩ phẫu thuật quân đội cắt bỏ cánh tay hoặc đôi chân bị bắn nát của những đồng đội.

George S. Patton say mê với chiến tranh. Ông chấp nhận rằng cái chết khủng khiếp có thể xảy ra với bất kỳ người nào, vào bất kỳ thời điểm nào. Patton coi chiến tranh là vinh quang và nghĩ rằng không có phép thử nào tốt hơn chiến tranh đối với với lòng dũng cảm của một đấng nam nhi. Tuy nhiên, ông không miễn nhiễm với nỗi đau của con người. Do đó, Trận chiến Bulge đang gây ra tổn thất nặng nề cho Patton. Ông có khả năng xoa dịu nỗi đau và gian khó cho những binh lính đang chiến đấu của Sư đoàn Nhảy dù 101. Không thể làm như vậy ám ảnh ông.

Đã một tuần trôi qua kể từ cuộc gặp với Eisenhower ở Verdun. Patton quá căng thẳng để có thể ngủ được hơn vài giờ mỗi đêm. Vì vậy, ông kiệt sức và mệt mỏi.  Khuôn mặt ông bị bỏng đỏ tươi vì hứng luồng gió cắt da quất mạnh sau nhiều giờ ngồi trên chiếc xe jeep mui trần. Những nếp nhăn quanh đôi mắt xanh của ông rất sâu. “Tôi thấy một người già nua, mệt mỏi,” một tình nguyện viên Hội Chữ thập đỏ đã thoáng thấy Patton tại một buổi lễ nhà thờ đêm Giáng sinh. “Một người đàn ông buồn bã, cô đơn, với đôi mắt che khuất đằng sau đó là cơn dày vò của nỗi u sầu và chán nản.

Patton không thể nghỉ ngơi. Ông đang thất bại. Giáng sinh đã đến lạnh lẽo và trong vắt,” ông đã viết trong nhật ký của mình ngày hôm qua. “Thời tiết thật đẹp để giết bọn Đức. mặc dù suy nghĩ đó có vẻ hơi lệch lạc với tinh thần của ngày hôm đó.

Không có lệnh ngừng bắn Giáng sinh, như thường xảy ra trong Thế chiến thứ nhất. Vì vậy, Patton đã sắp xếp cho binh sĩ của mình một bữa tối gà tây – bánh sandwich lạnh cho những người lính ở tiền tuyến, một bữa ăn nóng cho binh sĩ phía sau chiến tuyến – và ông đã rời đi vào sáng sớm để thăm từng sư đoàn chiến đấu của mình.

Đó là một ngày dài, và Patton không hề phấn chấn trước những gì ông chứng kiến.

Bây giờ, ông trải qua ngày 26 tháng 12 nhận được tin một số xe tăng của mình chỉ cách Bastogne nửa tá dặm. Nhưng hôm nay, cũng như hôm qua và ngày hôm kia, chiến thắng dường như khó có khả năng xảy ra. Các báo cáo được truyền về trụ sở của ông cho biết rằng các sư đoàn xe tăng của Patton vẫn tiếp tục gánh chịu thương vong nặng nề.

Mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn – tồi tệ hơn nhiều –  là thay vì giúp Patton bằng cách đẩy quân mình về phía nam hướng tới Bastogne, Thống chế Anh Montgomery lại từ chối tấn công. Ông ta nói rằng quân đội của mình chưa sẵn sàng.

Điện thoại reo trong trụ sở của Patton.  Thiếu tướng Hugh Gaffey, chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp số 4, đang ở đầu bên kia, yêu cầu được phép tấn công Bastogne ngay lập tức.

Xe tăng M4 General Sherman là mẫu xe được sử dụng rộng rãi nhất trong Thế chiến II bởi lực lượng Hoa Kỳ, Anh, Canada và Pháp Tự do.

Patton không ngần ngại. “Tôi bảo anh ta cứ tiến lên,” ông sẽ viết vào nhật ký tối nay. Với lệnh đó, Sư đoàn Thiết giáp số 4 bắt đầu chiến đấu về hướng Tony McAuliffe và binh sĩ bị mắc kẹt của Sư đoàn Nhảy dù số 101.

Trung tá Creighton Abe Abrams chỉ huy Tiểu đoàn Xe tăng số 37, mũi tiên phong của Sư đoàn Thiết giáp số 4. Ông ta nhai một điếu xì gà chưa châm lửa, to đến nỗi những binh lính của ông ta so sánh nó với nòng súng.  Đỗ trên đỉnh đồi, Abrams ngồi thẳng trong cửa sập tháp pháo của xe tăng Sherman có biệt danh là Thunderbolt VII. Ông đã có sáu chiếc Sherman bị bắn hạ từ dưới chân mình. tất cả đều được đặt tên là Thunderbolt. Vào tháng 9, ông được trao tặng Huân chương Chữ thập vì lòng dũng cảm trong chiến đấu. Binh lính yêu mến ông vì ông là người có kỷ luật linh hoạt khi xa chiến trường và biết rằng binh sĩ cũng cần thời gian và địa điểm giải khuây. Nhưng khi đến lúc chiến đấu, họ cũng biết rằng mình được mong đợi sẽ làm chính xác như sĩ quan chỉ huy của họ ra lệnh.

Bastogne nằm cách đó chỉ vài dặm. Một hàng 20 chiếc Sherman, những chiếc còn sót lại trong đội 53 chiếc ban đầu của ông, uốn lượn trên con đường nông thôn hẹp và đầy ổ gà phía sau Abrams. Những chiếc xe tăng này cũng có tên, chẳng hạn như Cobra King, Tonto, Deuces Wild, Betty và Destruction. Quét đường chân trời bằng ống nhòm công suất lớn, Abrams theo dõi hàng trăm máy bay chở hàng C-47 thả hàng tiếp tế cho lực lượng bị bao vây ở Bastogne.  Những chiếc dù mang đầy đạn dược, thực phẩm và vật tư y tế nở rộ trên bầu trời xám xịt, nhưng Abrams cũng chứng kiến hỏa lực phòng không của Đức đã bắn hạ thành công nhiều máy bay tiếp tế hai động cơ di chuyển chậm. Chúng rơi theo hình xoắn ốc xuống đất, rồi sớm phát nổ, các phi công phải chịu cái chết thảm khốc trong biển lửa.

Cảnh tượng thả hàng từ trên không, cùng với việc biết rằng những người lính Mỹ đã phải chịu đựng và chết chóc bên trong Bastogne trong hơn một tuần, khiến Abrams cảm thấy cấp bách. Ông nhìn thấy những người bảo vệ số 101 đang ẩn náu trong các chiến hào phủ đầy tuyết bên ngoài thị trấn. Ông cũng biết rằng hàng trăm người Đức ẩn náu đang chờ tiêu diệt bất kỳ lực lượng giải cứu nào. Nhưng Trung tá Abrams tin rằng ông và những người lính của mình có thể vượt qua. Vì vậy, Abrams ra lệnh tấn công toàn diện vào các ngôi làng nhỏ Clochimont và Assenois, nằm giữa ông và Bastogne. Nếu chiếm được các ngôi làng, Abrams có thể đến Bastogne trong vòng vài giờ. Nhưng nếu nỗ lực này thất bại, lực lượng nhỏ bé của ông chắc chắn sẽ bị xóa sổ.  Con đường hẹp mà ông ta định sử dụng có thể trở thành một cái bẫy chết người.

Tất cả pháo binh Mỹ có sẵn trong khu vực ngay lập tức bắn phá để làm suy yếu hàng phòng thủ của Đức. Tiếng sấm của súng 155mm vang vọng khắp vùng nông thôn Bỉ khi từng quả đạn pháo rơi xuống các vị trí của Đức trong rừng và làng mạc. Tổng cộng, hơn hai nghìn viên đạn pháo sẽ rơi xuống các binh lính Đức ngày hôm nay.

“Chúng ta tiến đến chỗ những người đó,” Abrams ra lệnh. Ông vung tay cao trong không khí và xe tăng ông vọt về phía trước.

Trong trận Bulge, pháo dã chiến Long Tom 15mm bắn đạn pháo xa đến 13 dặm.

Không lấy gì làm nhanh chóng trong chuyển động của chúng. Tốc độ tối đa của Sherman chỉ là 24 dặm một giờ. Cũng không có bất kỳ mức độ che chắn nào. Nhờ có loạt pháo kích, quân Đức biết lực lượng Mỹ đang đến. Bây giờ chúng có thể nhìn thấy rõ Abrams và đội hình Sherman và xe bọc thép của ông đang lái xuống đồi vào Clochimont.

Abrams đóng cửa sập và ẩn mình bên trong lớp thép dày ba inch của tháp pháo khi Sherman lao qua quảng trường thị trấn cổ Clochimont. Không gì có thể ngăn cản họ.  Đạn pháo  Đức nổ khắp nơi. Một quả đạn bắn đổ một cột điện thoại, chặn đường và khiến đoàn xe dừng lại.

Cột điện thoại phải được dời di.

Abrams và một số binh sĩ ngay lập tức trèo ra khỏi xe tăng của họ. Trong làn đạn bắn tỉa va leng keng vào xe bọc thép và rải xuống con đường đầy vết bánh xe, họ hì hục đẩy trụ điện nặng nề ra khỏi đường.

Sau đó, họ quay trở lại xe Sherman. Phía sau họ, một đoàn bộ binh chiếm lấy Clochimont và sẽ ở lại đó cho đến khi việc truy quét hoàn tất. Một đoàn bộ binh thứ hai di chuyển cùng xe tăng của Abrams khi họ di chuyển về phía các vị trí ẩn núp của Đức dọc theo con đường qua Assenois.

Thay vì chỉ chạy qua thị trấn, Abrams chọn cách san bằng nó. Mọi tòa nhà có thể che giấu một lính Đức đều trở thành mục tiêu. Xe tăng Sherman không ngừng bắn, nạp đạn và khai hỏa những khẩu pháo lớn 75mm và 76mm của họ – nhiều tới bảy lần mỗi phút. Trong khi đó, bộ binh ráo riết săn lùng bọn Đức, hét lên “Ra ngoài!”  để dụ chúng đầu hàng.

Trận chiến trong những khu rừng xung quanh Assenois sẽ tiếp tục kéo dài đến tận đêm, nhưng đến chiều thì rõ ràng là quân Mỹ đã cắt được một hành lang nhỏ xuyên qua phòng tuyến của quân Đức. Hành lang rộng chưa đến một phần tư dặm, và bọn Đức sẵn sàng ở cả hai bên, chuẩn bị phản công và một lần nữa đóng đường. Nhưng hiện giờ, xe tăng Mỹ đang tiến về Bastogne.

* * *

Khói tan, và xe tăng lao ra khỏi khu rừng và tiến vào một cánh đồng trống rải rác những chiếc dù. Trung úy Charles Boggess mở tháp pháo của Cobra King và nhấc mình lên qua cửa sập. Anh thoáng thấy binh lính mặc quân phục khom mình trong chiến hào, súng của họ chĩa về phía anh. “Đến đây. Ra ngoài đi,” anh hét lên. Anh không hét bằng tiếng Đức, hy vọng sẽ nhận được câu trả lời từ phía quân Mỹ.

Không có câu trả lời. Một khoảnh khắc căng thẳng trôi qua. Với đầu và ngực hoàn toàn lộ ra trước hỏa lực súng trường, Trung úy Boggess cân nhắc các lựa chọn của mình. 

Nòng súng Sherman 75mm xoay cho đến khi nó nhắm thẳng vào chiến hào. Binh nhì James G. Murphy đã nạp  đạn, và pháo thủ, Hạ sĩ Milton Dickerman, đang chờ lệnh bắn.

“Ra ngoài đi,” Boggess lại hét lên một cách căng thẳng.

Một người lính đơn độc nhô ra khỏi chiến hào và bước về phía trước.

“Tôi là Trung úy Webster, thuộc Trung đoàn Công binh 326, Sư đoàn Dù 101,” anh ta nói. “Rất vui được gặp anh.”

Cobra King tiến vào trung tâm thị trấn, theo sau là một đoàn xe tăng Sherman. Bastogne đã được giải cứu. Kế hoạch táo bạo của Patton đã thành công.

* * *

 Sáng hôm sau – ngày 27 tháng 12 năm 1944 – George Patton một lần nữa bước đến phía trước một nhà nguyện Công giáo nhỏ và quỳ xuống cầu nguyện. Ông bắt đầu với vẻ ăn năn.

Thưa Ngài, lại là Patton đây, và tôi xin báo cáo tiến độ hoàn chỉnh.  Thưa Ngài, theo tôi, có vẻ như Ngài đã được báo cáo về tình hình tốt hơn tôi rất nhiều, bởi vì chính thời tiết khủng khiếp mà tôi đã nguyền rủa lại khiến quân đội Đức phải tự sát. Thưa Ngài, đó là một động thái quân sự sáng suốt, và tôi xin cúi đầu trước thiên tài tối cao của ngài.

Patton viết thư về nhà cho vợ, Beatrice, “Chiến dịch giải cứu Bastogne là chiến dịch sáng suốt nhất mà chúng ta đã thực hiện cho đến nay, và theo anh là thành tựu nổi bật của cuộc chiến này.

“Bây giờ kẻ thù phải nhảy theo giai điệu của chúng ta, chứ không phải chúng ta phải nhảy theo giai điệu của hắn.”

Bình luận về bài viết này