
Bill O’Reilly
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 10
BASTOGNE, BỈ, NGÀY 19 THÁNG 12 NĂM 1944
CHUẨN TƯỚNG ANTHONY MCAULIFFE ĐANG chạy về thị trấn Werbomont, chiến đấu theo cách của mình qua dòng binh lính Hoa Kỳ đang rút lui trong cú sốc trước cái chết chóc và sức tàn phá mà họ đã trải qua. Đội quân vỡ trận này là bằng chứng rõ ràng cho thấy quân địch Đức khó có thể bị đánh bại. Họ hung hăng tàn nhẫn và đã tàn sát hàng nghìn người Mỹ chỉ trong bốn ngày.
McAuliffe đang chỉ huy những tân binh, Sư đoàn Không vận 101, vào trận chiến, mặc dù họ cách ông vài dặm. Ông đang di chuyển trong một đoàn gồm gần 400 xe. Nhiều tài xế là người Mỹ da đen, thành viên của hệ thống xe tải Red Ball Express cũ. Họ lái xe với đèn pha sáng rực, điều này thường bị cấm trong vùng chiến sự nhưng giờ đây được cho phép vì họ được lệnh di chuyển với tốc độ nhanh hơn. Thông thường, điều đó sẽ là thảm họa, vì lính dù sẽ bị giết từ trên không, hình bóng của họ nổi bật trên những cánh đồng tuyết bên cạnh những con đường, hoàn toàn có thể nhìn thấy đối với các phi công Đức Quốc xã. Nhưng canh bạc được tính toán đã được đền đáp. Không quân Đức không bay vào đêm nay.

Những người lính Mỹ trên đường đến tiếp ứng cho đồng đội của họ ở Bastogne.
Trong khi chịu đựng cái lạnh buốt giá trên chiếc ghế hành khách cứng như đá, McAuliffe nhận thức rõ hơn 11.000 lính dù của Sư đoàn 101 đang hăm hở chiến đấu.
Họ không có lựa chọn nào khác. Họ là tuyến phòng thủ cuối cùng của Hoa Kỳ. Không có quân tiếp viện. Nếu quân Đức đánh bại Sư đoàn 101 tại Werbomont, sẽ không có lực lượng dự bị nào chờ đợi để ngăn chặn họ.

Chuẩn tướng Tony McAuliffe (bên trái)
Nhưng Chuẩn tướng Tony McAuliffe, học viên West Point năm 1918, không hề đến Werbomont. Sư đoàn Nhảy dù 101 cũng vậy.
Thay vào đó, họ đột nhiên chuyển hướng đến một ngôi làng nhỏ Ardennes chỉ là một chấm nhỏ trên bản đồ. Người Đức gọi ngôi làng là “bạch tuộc” vì bảy xa lộ khác nhau tỏa đi theo bảy hướng khác nhau từ trung tâm của ngôi làng. Họ coi chìa khóa thành công trong Chiến dịch Watch on the Rhine là giành quyền kiểm soát các tuyến đường địa phương, điều này sẽ cho phép xe tăng hạng nặng của họ di chuyển nhanh hơn. Vì vậy, người Đức thèm muốn thị trấn này.
Bạch tuộc biết nhiều hơn với tên Bastogne.
Cho đến vài ngày trước, McAuliffe chưa bao giờ nghe nói đến nơi này. Nhưng bây giờ, dù tốt hay xấu, ông ấy đã ở đây. Khi chiếc xe jeep của ông cuối cùng cũng lao vào trung tâm thị trấn, ông ấy chứng kiến một viễn cảnh khốn khổ. Nguồn cung cấp điện và nước đã bị cắt. Quảng trường thị trấn chật cứng người tị nạn với những chiếc xe đẩy cồng kềnh đồ đạc của họ. Đạn pháo Đức đã bắt đầu biến phần lớn Bastogne thành đống đổ nát.
Tuy nhiên, McAuliffe phải bảo vệ thị trấn nhỏ khủng khiếp này bằng mọi giá. Ông lập sở chỉ huy của mình ở tầng hầm của Khách sạn de Commerce, đối diện nhà ga xe lửa, và sốt ruột chờ binh lính của mình đến. Nhìn nhanh vào các bảng gỗ dán bản đồ tình hình đóng dọc theo các bức tường bao quanh cho thấy quân Đức muốn chiếm Bastogne đến mức nào. Họ đã điều động ba sư đoàn và một phần của bốn sư đoàn nữa. 11.000 lính dù của McAuliffe và một sư đoàn thiết giáp bổ sung gồm 3.075 lính và xe tăng, đang trên bờ vực bị bao vây bởi lực lượng gồm 55.000 binh lính và xe tăng Đức. Một khi quân Đức thắt nút thòng lọng, sẽ không có cách nào để người Mỹ trốn thoát.
Trung tướng Troy Middleton, cấp trên trực tiếp của McAuliffe, đã tóm tắt cho ông trước khi rời đi.
“Nhưng đừng lo lắng,” Middleton nhấn mạnh. “Patton đang trên đường đến cứu viện.”
Nói xong, Middleton vội vã ra xe đang chờ và nhanh chóng lái xe ra khỏi thị trấn, biết rằng quân địch chỉ cách đó hai dặm.
CHƯƠNG 11
BASTOGNE, BỈ
NGÀY 22 THÁNG 12 NĂM 1944
MCAULIFFE KIỆT SỨC. Ông ấy hầu như không ngủ được đêm qua vì không quân Đức đã ném bom Bastogne, với một vụ nổ gần như phá hủy sở chỉ huy của ông ở tầng hầm khách sạn. Ngay trước buổi trưa, ông lẻn vào một căn phòng nhỏ, yên tĩnh, kéo khóa vào túi ngủ và đánh một giấc. Sĩ quan của ông biết phải đánh thức ông nếu có bất cứ điều gì quan trọng xảy ra.
Trong khi đó, trên những cánh đồng cỏ và khu rừng bao quanh Bastogne, những binh lính của Sư đoàn 101 thực sự đã biến việc bị bao vây thành một tình huống chiến thuật tích cực. Họ giữ chặt phòng tuyến của mình, hướng ra ngoài, chờ đợi cuộc tấn công của quân Đức.
Khoảng trưa ngày 22 tháng 12 năm 1944, tình hình đủ yên tĩnh để một số binh sĩ Trung đoàn tàu lượn 327 có thể đứng bên ngoài chiến hào trên trang trại gia đình Kessler ở phía nam Bastogne, nói chuyện phiếm.
Một cảnh tượng kỳ lạ nhất sau đó xuất hiện: Tiến về phía họ là bốn người lính Đức, mang theo một lá cờ trắng lớn bằng một tấm ga trải giường. Họ bước vào phòng tuyến của quân Mỹ không chút sợ hãi, thậm chí còn đi ngang qua một đội bazooka ở chu vi bên ngoài mà không do dự. Bình sĩ Đại đội F liền nâng súng carbine M-1 lên, nhưng bọn Đức vẫn tiếp tục tiến đến. “Việc này thật vô lý,” một lính Mỹ nói, tự hỏi tại sao quân Đức lại có vẻ như đang đầu hàng.
Ba người lính Mỹ thận trọng bước lên đường để đón quân Đức. Họ nhanh chóng đối mặt với hai sĩ quan và hai lính nhập ngũ. Các sĩ quan đi ủng đen bóng và áo khoác dài, ấm áp. Một trong số họ, một trung úy thấp bé, chắc nịch, mang theo một chiếc cặp.
Người Mỹ không hề rời ngón tay khỏi cò súng trường M-1 của họ, không chắc đây có phải là một trò lừa bịp không.
Không phải lừa bịp.
Trên thực tế, đó là một hành động thiện chí của Tướng Đức Heinrich Lüttwitz, chỉ huy lực lượng bao vây Bastogne, vừa hào hiệp vừa kiêu ngạo. Ông ta cho rằng thật vô lý khi buộc phải tàn sát quá nhiều binh lính Mỹ dũng cảm. Thay vào đó, Lüttwitz đang đề nghị Tony McAuliffe và Sư đoàn 101 của mình cơ hội tự cứu bằng cách đầu hàng. Tuy nhiên chiến tranh là chiến tranh, nếu người Mỹ ngoan cố từ chối hạ vũ khí, Lüttwitz sẽ ra lệnh san bằng Bastogne và tiêu diệt mọi binh lính Mỹ. Sẽ không có tù binh.

Một cuộc tuần tra của SS ở Ardennes, năm 1945.
Chẳng mấy chốc, tin tức về bức thư được truyền lên cấp chỉ huy. Trong vòng một giờ, Tony McAuliffe bị đánh thức bởi bức thư yêu cầu đầu hàng của Đức được chuyển đến sở chỉ huy.
“Đồ điên!,” ông ta lẩm bẩm, vẫn còn ngái ngủ.
“Họ muốn đầu hàng ư?” McAuliffe hỏi, lấy bức thư từ tay Trung tá Ned Moore, tham mưu trưởng của mình.
“Không, thưa ngài,” Moore đính chính. “Họ muốn chúng ta đầu hàng.” McAuliffe cười và bắt đầu đọc. Bức thư đề ngày 22 tháng 12 năm 1944.
Gửi đến Chỉ huy Hoa Kỳ của thị trấn Bastogne bị bao vây.
Vận số của chiến tranh đang thay đổi. Lần này, lực lượng Hoa Kỳ ở và đóng gần Bastogne đã bị bao vây bởi các đơn vị thiết giáp hùng mạnh của Đức.
Nhiều đơn vị thiết giáp Đức hơn đã vượt sông Ourthe gần Ortheuville, chiếm Marche và đến St. Hubert bằng cách đi qua Hompre-SibretTillet. Libramont nằm trong tay Đức. Chỉ còn một khả năng để cứu quân đội Hoa Kỳ bị bao vây khỏi sự hủy diệt hoàn toàn: đó là đầu hàng trong danh dự của thị trấn bị bao vây này. Chúng tôi cho các bạn hai giờ tính từ lúc trao thư này để bạn cân nhắc về đề nghị này.
Nếu đề xuất này bị bác bỏ, một Quân đoàn Pháo binh Đức và sáu tiểu đoàn Phòng không hạng nặng sẽ sẵn sàng tiêu diệt quân đội Hoa Kỳ ở và đóng gần Bastogne. Lệnh khai hỏa sẽ được đưa ra ngay sau thời hạn hai giờ này.
Mọi tổn thất nghiêm trọng về dân thường do hỏa lực pháo binh này gây ra đều không tương xứng với lòng nhân đạo vốn có của người Mỹ.
Chỉ huy Đức
McAuliffe nhìn vào đội ngũ của mình. “Ồ, tôi không biết phải nói gì với họ.”
“Nhận xét đầu tiên của ngài khó có thể làm hơn được, Trung tá Harry Kinnard trả lời bằng giọng Texas đặc sệt.
“Ý anh là gì?” McAuliffe hỏi.
“Thưa ngài, ngài đã nói, ‘đồ điên’, trưởng phòng hành quân của ông trả lời.
McAuliffe suy nghĩ về điều này. Ông nghi ngờ khoảnh khắc này sẽ trở nên nổi tiếng. Một vị tướng Pháp đã từ chối đầu hàng tại Trận Waterloo với câu trả lời thô lỗ hơn nhiều là merde [tiếng Pháp nghĩa là cứt]. Và thế là thư phản hồi được đánh máy nhanh chóng. “Gửi đến Chỉ huy Đức, ‘Đồ điên!’. Chỉ huy Mỹ”.
Khi lá thư được trao cho các sứ giả Đức, họ không hiểu. “Đây là gì, ‘Đồ điên’?”
Đại tá Joseph Harper, chỉ huy trung đoàn 327, người trao thư phản hồi của McAuliffe, giải thích. “Điều đó có nghĩa là các người có thể xuống địa ngục.” Ông nói thêm, “Và tôi sẽ nói với các người một điều nữa. Nếu các người tiếp tục tấn công, chúng tôi sẽ giết chết mọi tên Đức khốn kiếp nào cố đột nhập vào thành phố này.”
Nhóm lính Đức giậm chân đứng nghiêm và chào. “Chúng tôi cũng sẽ giết nhiều người Mỹ. Đây là chiến tranh.”
“Cứ thử xemi, ông bạn,” Harper trả lời.
* * *
Tin đồn và bàn tán lan truyền khắp quân đội. Có một tin đồn là máy bay C-47 sẽ thả hàng tiếp tế thực phẩm và đạn dược quý giá xuống Bastogne. Và binh lính nghe nói rằng George S. Patton đang cử một sư đoàn thiết giáp đến giải cứu họ. Có thể là hai sư đoàn. Nhưng họ không thể chắc chắn về điều này.
Trên thực tế, hiện giờ Patton đang yêu cầu sự giúp đỡ từ một nguồn khác.
CHƯƠNG 12
FONDATION PESCATORE
THÀNH PHỐ LUXEMBOURG, LUXEMBOURG * NGÀY 23 THÁNG 12 NĂM 1944 * 9 GIỜ SÁNG
GEORGE S. PATTON THÁO MŨ SẮT khi bước vào nhà nguyện Công giáo. Mặc dù là người theo Anh giáo, ông vẫn cần một nơi để cầu nguyện. Đôi bốt của ông vang vọng trên sàn đá khi ông bước đi một cách cung kính đến chân bàn thờ. Mùi sáp tan chảy từ nhiều ngọn nến thờ tràn ngập căn phòng nhỏ. Patton quỳ xuống, đọc lời cầu nguyện mà ông đã viết cho dịp này và cúi đầu.
“Thưa Ngài, đây là Patton đang nói,” ông thì thầm, một cách thẳng thắn với Đấng Toàn năng. “Mười bốn ngày qua thực sự là địa ngục. Mưa, tuyết, rồi mưa nhiều hơn, tuyết nhiều hơn. và tôi bắt đầu tự hỏi chuyện gì đang xảy ra ở bộ chỉ huy của Ngài. Ngài đang ở bên phe nào vậy?”
Patton và Quân đoàn số 3 hiện đang cách Bastogne 33 dặm về phía nam. Mọi người lính dưới quyền chỉ huy của ông đều đang tham gia cuộc giải cứu thị trấn. Chỗ nhô ra ở tuyến phòng thủ của quân Mỹ sâu 60 dặm và rộng 30 dặm, với Bastogne là một hòn đảo của Mỹ ở trung tâm. Và trong khi những binh lính của Patton cho đến nay đã thành công trong việc duy trì cuộc tiến công ổn định của họ, vẫn còn nhiều nghi ngờ rằng ông có thể thành công. Bị quân Đức áp đảo về quân số và hỏa lực, Patton phải đối mặt với thách thức khó khăn là tấn công trên những con đường băng giá trong tuyết dày, với rất ít sự yểm trợ trên không. Vì vậy, vị tướng cầu nguyện.
Trong ba năm, các giáo sĩ của tôi đã nói với tôi rằng đây là một cuộc chiến tranh tôn giáo. Họ nói với tôi rằng, đây cũng là một cuộc Thập tự chinh, chỉ khác là thay vì cưỡi ngựa chúng ta lái xe tăng ra trận. Họ khăng khăng rằng chúng ta ở đây để tiêu diệt quân Đức và Hitler vô thần để tự do tôn giáo có thể trở lại châu Âu. Cho đến bây giờ, tôi đã đi cùng họ, vì Ngài đã ban cho chúng tôi sự hợp tác vô điều kiện của Ngài. Bầu trời quang đãng và biển lặng ở Châu Phi đã giúp cuộc đổ bộ thành công và giúp chúng tôi tiêu diệt Rommel. Sicily tương đối dễ dàng và Ngài đã cung cấp thời tiết tuyệt vời cho cuộc tấn công bằng xe bọc thép qua Pháp, chiến thắng quân sự lớn nhất mà Ngài đã ban phép tôi cho đến nay. Ngài thường chỉ dẫn tôi tuyệt vời trong những tình huống chỉ huy khó khăn và Ngài đã dẫn các đơn vị Đức vào bẫy khiến việc tiêu diệt chúng trở nên khá đơn giản. Nhưng giờ Ngài đã quay xe giữa chừng. Ngài dường như đã trao cho von Rundstedt [thống chế Đức và tổng tư lệnh của Hitler ở mặt trận phía tây] mọi thuận lợi, và thành thật mà nói, y đang quật chúng tôi tơi bời. Quân đội của tôi không được huấn luyện cũng như không được trang bị cho chiến tranh mùa đông. Và như Ngài biết, thời tiết này phù hợp với người Eskimo hơn là kỵ binh miền Nam.
Nhưng giờ, thưa Ngài, tôi không thể không cảm thấy rằng chắc tôi đã lỡ xúc phạm Ngài theo một cách nào đó. Vì đột nhiên Ngài đã mất hết sự đồng cảm với mục đích của chúng tôi. Rằng Ngài đang tiếp tay cho von Rundstedt và vị ác thần [Hitler] của y. Ngài đương nhiên biết mà không cần tôi nói với Ngài rằng tình hình của chúng tôi đang tuyệt vọng. Chắc chắn, tôi có thể nói với nhân viên của mình rằng mọi thứ đang diễn ra theo đúng kế hoạch, nhưng không ích gì khi nói với Ngài rằng Sư đoàn Nhảy dù 101 của tôi đang chống chọi với tỷ lệ cược khủng khiếp ở Bastogne, và cơn bão liên tục này khiến việc tiếp tế cho họ ngay cả từ trên không trở nên bất khả thi. Tôi đã cử Hugh Gaffey, một trong những vị tướng tài giỏi nhất của tôi, cùng Sư đoàn Thiết giáp số 4 của ông ta tiến về phía bắc hướng đến trung tâm đường bộ cực kỳ quan trọng đó để giải cứu cho đơn vị đồn trú bị bao vây và ông ta thấy thời tiết của Ngài còn ghê gớm hơn cả bọn Đức.
Đây không phải là lần đầu tiên Patton phải nhờ đến sự can thiệp của thần thánh. Mỗi người lính Quân đoàn trong số 3 hiện mang theo mình một tấm thiệp chúc mừng Giáng sinh từ Patton ở một mặt và lời cầu nguyện đặc biệt cho thời tiết tốt ở mặt còn lại. Ông tin chắc rằng đức tin là yếu tố quan trọng khi thực hiện điều không thể. Và mặc dù ông đã ra lệnh có hơi tàn ác rằng tất cả bọn SS phải bị bắn thay vì bị bắt làm tù binh, Patton không thấy có xung đột thần học nào khi cầu xin Chúa cho phép ông tiêu diệt kẻ thù.
Patton tiếp tục:
Tôi không thích phàn nàn một cách vô lý, nhưng binh lính của tôi từ Meuse đến Echternach đang phải chịu đựng sự tra tấn như những kẻ bị nguyền rủa. Hôm nay tôi đã đến thăm một số bệnh viện, tất cả đều đầy rẫy các ca tê cóng, và những thương binh đang phải chịu chết trên chiến trường vì họ không thể được đưa về để chăm sóc y tế.
Lời cầu nguyện của Patton rất rõ ràng. Ông không chỉ cầu xin được giải cứu, mà còn cầu xin quyền lực. Rất ít người từng được trao cơ hội để thay đổi tiến trình lịch sử một cách hoàn toàn như vậy. Không ai, kể cả Dwight Eisenhower, cản đường Patton. Nếu những người lính ở bên trong Bastogne được giải cứu, thì đó sẽ là nhờ vào sự thông minh của George S. Patton. như chính ông cũng biết. Nhưng để thành công, ông sẽ cần một chút giúp đỡ từ trên cao. Những lời cuối cùng trong lời cầu nguyện của Patton sẽ trường tồn với thời gian.
Chết tiệt, thưa Ngài, tôi không thể chiến đấu với một cái bóng. Nếu không có sự hợp tác của Ngài về mặt thời tiết, tôi sẽ không thể biết chính xác cách bố trí của quân đội Đức và làm sao tôi có thể hoạch định cuộc tấn công của mình. Tất cả những điều này nghe có vẻ vô lý với Ngài, nhưng tôi đã mất hết kiên nhẫn với các tuyên úy của Ngài, họ cứ khăng khăng rằng đây là mùa đông điển hình của vùng Ardennes, và rằng tôi phải có đức tin.
Chết tiệt đức tin và sự kiên nhẫn. Ngài chỉ cần quyết định xem Ngài đứng về phe nào. Ngài phải đến giúp tôi, để tôi có thể đánh tan toàn bộ quân Đức làm món quà sinh nhật cho Ông Hoàng Hòa bình [tức Jesus] của Ngài.
Thưa Ngài, tôi chưa bao giờ là một người vô lý. Tôi sẽ không yêu cầu Ngài làm điều không thể. Tôi thậm chí không khăng khăng đòi một phép màu, vì tất cả những gì tôi yêu cầu chỉ là bốn ngày thời tiết quang đãng. Hãy cho tôi bốn ngày để máy bay của tôi có thể hoạt động, để máy bay chiến đấu ném bom và bắn phá, để nhóm trinh sát của tôi có thể chọn mục tiêu cho lực lượng pháo binh hùng mạnh của tôi. Hãy cho tôi bốn ngày nắng để làm khô lớp bùn này, để xe tăng của tôi lăn bánh, để đạn dược và khẩu phần có thể được chuyển đến cho bộ binh đói khát và thiếu trang bị của tôi. Tôi cần bốn ngày này để đưa von Rundstedt và đội quân vô thần của hắn ta đến Valhalla [theo thần thoại Bắc Âu là nơi mà các linh hồn tử sĩ cư ngụ] của họ. Tôi phát ngán với việc những chàng trai trẻ Mỹ này bị tàn sát không cần thiết, và để đổi lấy bốn ngày thời tiết chiến đấu, tôi sẽ cung cấp cho Ngài đủ số bọn Đức khiến cho những kế toán viên của Ngài phải chậm trễ hàng tháng trời trong công việc sổ sách của họ.
Amen.
Cúi đầu, Patton tiếp tục cầu nguyện trong khi Trung sĩ John Mims đợi bên ngoài trong chiếc xe jeep của mình. Khi vị tướng đã sẵn sàng, họ sẽ lên đường cho một ngày khác lảng vảng trên những con đường của Rừng Ardennes. Không có máy bay để trinh sát trên không, Patton phải tự mình quan sát các chiến tuyến.
Những chuyến đi của họ cũng phục vụ một mục đích khác. Patton tìm kiếm lực lượng Hoa Kỳ ở bất cứ nơi nào có thể, động viên binh sĩ của mình khi họ hành quân từng hàng dài trên những con đường nông trại phủ đầy tuyết. Xe tăng và xe tải di chuyển suốt ngày đêm về phía Bastogne. Bộ binh mặc áo khoác dài. Các chỉ huy xe tăng lái xe với ngực và vai thò ra khỏi cửa sập trên cùng, khuôn mặt quấn trong những chiếc khăn len dày. Tuyết dày phủ kín đường sá, rừng cây và đất ruộng, che khuất xe cộ và làm im tiếng động cơ, khiến cho cuộc tiến công của Quân đoàn số 3 trở nên ma quái. Nhưng nó cũng có thể dẫn đến thương vong. Không thể phân biệt được xe tăng nào phủ tuyết là Sherman của Mỹ hay xe tăng Đức, một số phi công P-47 Thunderbolt của Hoa Kỳ đã phạm sai lầm chết người là ném bom nhầm vào xe tăng của chính phe mình.

Tướng Patton đi trên chiếc xe jeep mui trần thông thường của mình.
Patton là một sự hiện diện không ngừng nghỉ trong chiếc xe mui trần của mình, mặt đỏ và môi tái xanh khi Trung sĩ Mims tỉnh bơ luồn lách qua đoàn xe tăng và xe tải dài. Patton bị đông cứng vì không khí lạnh khi ông thanh sát tiền tuyến để tập hợp binh lính của mình. “Tôi đã dành năm hoặc sáu giờ hầu như mỗi ngày trong một chiếc xe mui trần,” như sau này ông ấy viết trong nhật ký về lòng nhiệt thành của mình khi ở giữa chiến trường. “Tôi chưa bao giờ bị cảm lạnh, và khuôn mặt của tôi, mặc dù đôi khi hơi phồng rộp, không làm tôi đau nhiều.”
Mới ngày hôm qua, một đoàn xe của Sư đoàn Thiết giáp số 4 đang tiến về Bastogne đã bị sốc khi thấy Patton bước ra khỏi xe jeep và giúp binh lính đẩy một chiếc xe ra khỏi đống tuyết. Những chiến sĩ của Quân số 3 như được tiếp thêm sức mạnh nhờ sự hiện diện liên tục của Patton. Họ nói về ông một cách nồng nhiệt, với những biệt danh như Bố Già và Georgie. Việc sẵn sàng đặt mình vào nguy hiểm và chịu đựng điều kiện giá lạnh của ông khiến nhiều binh lính Mỹ hiện tin rằng vị tướng này sẽ không bao giờ yêu cầu họ làm điều gì đó mà chính ông không muốn làm.