Bỏ rơi Việt Nam (Bài 7)

James H. Willbanks

Trần Quang Nghĩa dịch

7 Ngừng bắn và “Hòa bình trong danh dự”

CUỘC BẦU CỬ NĂM 1972

Khi cuộc chiến vẫn tiếp diễn ở Việt Nam, Richard Nixon đã chuẩn bị cho chiến dịch tái tranh cử của mình, vấn đề chính trong đó là cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn. Nixon đã bị chỉ trích gay gắt trên các phương tiện truyền thông vì “leo thang” xung đột khi ông ra lệnh thả mìn ở cảng Hải Phòng. Hơn nữa, việc ném bom Bắc Việt để đáp trả Chiến dịch Phục sinh là một canh bạc chính trị, và câu hỏi là liệu ông có thoát tội và giành chiến thắng trong cuộc bầu cử vào tháng 11 hay không. Khả năng đã được cải thiện phần nào khi ông tuyên bố vào tháng 6 rằng việc rút quân sẽ tiếp tục, làm giảm sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ ở miền Nam xuống còn 39.000 người vào ngày 1 tháng 9 năm 1972. Ngoài ra, Nixon nói rằng những người bị bắt đi nghĩa vụ sẽ không còn được giao nhiệm vụ ở miền Nam trừ khi họ tình nguyện phục vụ ở đó.

Vào ngày 12 tháng 7, thượng nghị sĩ George McGovern của Nam Dakota, một nhân vật chính trị hàng đầu trong phong trào phản chiến từ năm 1965, đã giành được đề cử tổng thống của đảng Dân chủ. McGovern chủ yếu dựa chiến dịch tranh cử tiếp theo của mình vào việc  phản đối cách Nixon xử lý cuộc chiến. Hai ngày sau khi được đề cử, ông đã cam kết: “Trong vòng 90 ngày kể từ khi tôi nhậm chức, mọi lính Mỹ và mọi tù binh Mỹ sẽ được ra khỏi rừng rậm và ra khỏi phòng giam và trở về nhà ở Mỹ, nơi họ thuộc về. . . . Nếu chiến tranh không kết thúc trước khi chính quyền Dân chủ tiếp theo nhậm chức, chúng tôi cam kết, như là nhiệm vụ đầu tiên, sẽ rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ khỏi Đông Dương ngay lập tức.”

Thượng nghị sĩ Thomas Eagleton của Missouri, người bạn đồng hành của McGovern, cáo buộc Nixon và đảng Cộng hòa đã “giữ quân ở Việt Nam cho đến phút cuối cùng” và sẽ rút quân “ngay trước cuộc bầu cử”. Nixon đã đáp trả lời cáo buộc này trong bài phát biểu chấp nhận tư cách ứng viên tổng thống của mình tại đại hội đảng Cộng hòa ở Miami Beach bằng cách khẳng định rằng giới lãnh đạo đảng Dân chủ thực chất đang nói với giới lãnh đạo Bắc Việt rằng “Đừng đàm phán với chính quyền hiện tại; hãy đợi chúng tôi, chúng tôi sẽ cho các người những gì các người muốn—miền Nam”. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền của ông sẽ không đầu hàng Việt Nam, tuyên bố, “Chúng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ tù nhân chiến tranh của mình. Chúng tôi sẽ không tham gia cùng kẻ thù để áp đặt một chính phủ Cộng sản lên các đồng minh của chúng tôi—17 triệu người miền Nam. Và chúng tôi sẽ không bao giờ làm hoen ố danh dự của Hoa Kỳ”. Người dân Hoa Kỳ có thể đã mệt mỏi với cuộc chiến, nhưng phần lớn không sẵn sàng từ bỏ miền Nam. Như nhà báo Arnold R. Isaacs khẳng định, cử tri sẵn sàng để Nixon làm những gì ông phải làm, miễn là cuộc chiến của Hoa Kỳ được tiến hành từ trên không bởi những người chuyên nghiệp, không phải bởi những quân nhân nghĩa vụ. Do đó, dù có những rủi ro chính trị do việc ném bom Bắc Việt gây ra, Nixon bắt đầu mở rộng khoảng cách dẫn trước McGovern.

Chiến dịch tranh cử đã thúc đẩy chính quyền Nixon theo đuổi các cuộc đàm phán Paris với Bắc Việt. Đặc biệt, Kissinger muốn đạt được một giải pháp đàm phán trước cuộc bầu cử vào tháng 11. Ông tin rằng Bắc Việt sẽ dễ nhượng bộ hơn trước cuộc bầu cử, đặc biệt là nếu có vẻ như Nixon sẽ thắng cử. Mặt khác, Nixon đã nghe theo lời khuyên của Charles Colson, ông ta cho biết những cuộc thăm dò ý kiến đã xác định rằng “bất kỳ thỏa thuận nào chúng ta đạt được trước cuộc bầu cử sẽ có vẻ là một thủ đoạn chính trị”. Ngoài ra, Nixon tin rằng bằng cách giành chiến thắng để tái đắc cử, ông sẽ có nhiệm vụ thực hiện các hành động chiến tranh bổ sung nếu cần thiết để buộc Bắc Việt chấp nhận nhượng bộ. Tuy nhiên, Nixon biết rằng chiến tranh phải kết thúc sớm hay muộn.  Ông nói với các cố vấn của mình, “Hiện nay chỉ có những sự kiện lớn mới có thể thay đổi mọi thứ trong chiến dịch tranh cử và Việt Nam là sự kiện lớn duy nhất đang diễn ra.” Để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, Nixon muốn tận dụng nỗ lực chấm dứt chiến tranh của mình, nhấn mạnh sự tương phản giữa “hòa bình trong danh dự” của ông và điều ông gọi là “hòa bình bằng đầu hàng” của McGovern.

“HÒA BÌNH [KHÔNG] Ở TRONG TẦM TAY”

Tình hình quân sự ở Việt Nam ủng hộ cách tiếp cận của Nixon. Mặc dù ban đầu, miền  Nam đã loạng choạng dưới cuộc xâm lược của Bắc Việt vào năm 1972, cuối cùng họ đã ổn định được tình hình, giành được một số uy tín cho chiến lược Việt Nam hóa của tổng thống, qua đó cho phép ông và Henry Kissinger theo đuổi chiến lược “khác”: đàm phán. Khi Nixon lên truyền hình và phát thanh quốc gia vào ngày 8 tháng 5 năm 1972 để tuyên bố thả mìn cảng Hải Phòng, phản ứng của người dân đối với tuyên bố ném bom đã làm lu mờ các điều khoản giải quyết đưa ra cho Bắc Việt trong cùng một bài phát biểu—một lệnh ngừng bắn, thả tù nhân và một cuộc rút quân hoàn toàn của Mỹ trong vòng bốn tháng (không đề cập đến một cuộc rút quân tương ứng của Bắc Việt khỏi miền Nam). Khi thủy triều lên cao trên chiến trường, Bắc Việt đã không đáp lại lời đề nghị của Nixon.  Tuy nhiên, khi đà tấn công của họ chậm lại, Bắc Việt đã tỏ ra sẵn sàng hơn trong việc thảo luận về một nền hòa bình được đàm phán. Ngoài ra, họ còn chịu áp lực từ Nga và Trung Quốc. Chủ tịch Podgorny của Liên Xô đã đến Hà Nội vào tháng 6 và thẳng thắn nói với các nhà lãnh đạo Bắc Việt rằng đã đến lúc đàm phán. Liên Xô quan tâm đến việc hòa hoãn với Hoa Kỳ và cuộc chiến tranh liên tục ở Việt Nam đe dọa làm chệch hướng tiến trình này. Người Trung Quốc cũng quan tâm đến việc thúc đẩy mối quan hệ tốt hơn với người Mỹ. Vào mùa hè năm 1972, Chu Ân Lai đã thúc giục Cộng sản Bắc Việt linh hoạt hơn. Do đó, Nixon và Kissinger, bằng cách tập trung các nỗ lực ngoại giao vào việc cải thiện quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, đã cô lập Bắc Việt về mặt chính trị.

Vẫn đang gồng mình dưới các trận oanh tạc từ trên không ở trong nước và bắt đầu mất đi vị thế trên chiến trường và sự ủng hộ của những người bảo trợ Cộng sản, Bắc Việt đã chuyển sang đàm phán.  Chính quyền Nixon cũng háo hức giải quyết thỏa thuận. Bị bao vây bởi các vấn đề với Quốc hội và thành phần phản chiến luôn hiện hữu, Nhà Trắng rất muốn đạt được một lối thoát khỏi Việt Nam, nhưng phải là một lối thoát mang lại một chút dáng dấp của “hòa bình trong danh dự”. Nguyễn Văn Thiệu đã bước vào tình huống này. Theo Tướng Davidson, trước đây Thiệu không quá quan tâm đến các điểm đàm phán của Hoa Kỳ, ngay cả khi ông không đồng ý với chúng, bởi vì ông luôn nhận thức Hà Nội sẽ từ chối bất kỳ điều khoản nào do Hoa Kỳ đưa ra. Tuy nhiên, khi năm 1972 trôi qua, ông nhận ra rằng Nixon đang tìm kiếm một lối thoát qua  đàm phán để rút khỏi Việt Nam và rằng Bắc Việt, không thể đạt được chiến thắng với cuộc tấn công Nguyễn Huệ và đang choáng váng vì những tác động của chiến dịch ném bom của Hoa Kỳ, đã cởi mở hơn với các cuộc đàm phán nghiêm túc.  Đối với Thiệu và chế độ của ông, vốn hoàn toàn dựa vào Hoa Kỳ để tồn tại, một giải pháp đàm phán yêu cầu rút toàn bộ lực lượng và hỗ trợ của Hoa Kỳ là một viễn cảnh đáng sợ. Như Kissinger sau này đã viết trong hồi ký của mình, “Sau tám năm có sự tham gia của Hoa Kỳ, người miền Nam đơn giản là không cảm thấy sẵn sàng đối đầu với Hà Nội nếu không có sự tham gia trực tiếp của chúng tôi. Cơn ác mộng của họ không phải là điều khoản này hay điều khoản kia mà là nỗi sợ bị bỏ lại một mình.”  Thiệu lo sợ là Nixon và Kissinger, muốn giải thoát Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á bằng mọi cách có thể, sẽ đưa ra một giải pháp bất lợi sau lưng ông.

Vào tháng 6, Hà Nội trả lời bằng điện tín một công hàm từ Washington yêu cầu nối lại các cuộc đàm phán bí mật, nói rằng, “Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thể hiện thiện chí của mình, đồng ý họp riêng.”  Kissinger nhanh chóng trả lời và ngày 19 tháng 7 năm 1972 được ấn định cho ngày họp tiếp theo. Khi Kissinger và Lê Đức Thọ gặp nhau tại Paris, Kissinger phát hiện ra sự thay đổi ngay lập tức trong thái độ của các nhà đàm phán Bắc Việt. Tuy nhiên, Thọ và các đồng nghiệp của ông không đưa ra bất kỳ đề xuất mới nào cũng không lùi bước trước các yêu cầu trước đó. Cách tiếp cận cứng rắn liên tục của họ đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tóm tắt tốt nhất trong bài phát biểu vào tháng 2 năm 1972 như sau:

Nguyễn Văn Thiệu và bộ máy áp bức của ông ta…  tạo thành chướng ngại vật chính đối với việc giải quyết vấn đề chính trị ở miền Nam. Vì vậy, Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức ngay lập tức, chính quyền Sài Gòn phải chấm dứt chính sách hiếu chiến, giải tán ngay bộ máy áp bức và kiềm chế người dân, chấm dứt chính sách “bình định”, giải tán các trại tập trung, trả tự do cho những người bị bắt vì lý do chính trị và đảm bảo… quyền tự do dân chủ. . . . Sau khi những điều trên đã đạt được, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam sẽ thảo luận với chính quyền Sài Gòn về việc thành lập một chính phủ ba thành phần của sự hòa hợp dân tộc nhằm tổ chức tổng tuyển cử cho chính quyền chính thức của miền Nam.

Cuộc họp này không đạt được nhiều thành tựu, nhưng mối liên hệ với Bắc Việt đã được thiết lập lại; họ đã đồng ý gặp lại nhà đàm phán Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 8.  Kissinger được khích lệ vì ông lưu ý đến thái độ mềm mỏng hơn của Bắc Việt, hy vọng báo hiệu một sự thay đổi lớn trong lập trường đàm phán trước đây của họ. Mặc dù họ không nói rõ rằng họ đã từ bỏ yêu cầu Thiệu từ chức, nhưng việc họ sử dụng các thuật ngữ như “hai chính quyền”, “hai quân đội” và “ba thành phần chính trị”, ngụ ý lần đầu tiên họ ít nhất  công nhận tính hợp lệ của chính quyền Thiệu. Kissinger báo cáo với Nixon rằng các nhà đàm phán Bắc Việt đã có thái độ tích cực trong phiên họp đầu tiên này như chúng ta mong đợi nếu họ thực sự muốn giải quyết”.

Tại một cuộc họp tiếp theo vào ngày 14 tháng 8, Kissinger đã nhận được thêm sự khích lệ. Bắc Việt cho biết Hoa Kỳ phải ngừng ủng hộ chính quyền Thiệu và đồng ý thành lập một liên minh. Tuy nhiên, họ không đề cập cụ thể đến việc loại bỏ Thiệu hoặc nói về việc giải tán quân đội Sài Gòn; thay vào đó, họ ám chỉ đến ba lực lượng chính trị—Sài Gòn, Cộng sản và một thành phần thứ ba trung lập. Mặc dù không có gì chắc chắn từ phiên họp này, Kissinger coi các cuộc thảo luận là một sự thay đổi lớn theo hướng đúng đắn, với Bắc Việt áp dụng giọng điệu hòa giải hơn.

Sau cuộc họp, Kissinger bay đến Sài Gòn để tóm tắt cho Tổng thống Thiệu về các cuộc thảo luận ở Paris. Từ đầu tháng 5, Kissinger và Đại sứ Bunker đã cố gắng trấn an Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục “hỗ trợ toàn diện” và hứa sẽ “thông báo kịp thời và đầy đủ” cho ông về bất kỳ cuộc thảo luận nào với Bắc Việt. Vào tháng 6, Bunker thông báo với Kissinger rằng ông đã gặp Thiệu để đảm bảo với ông ta một lần nữa “về sự ủng hộ liên tục của Tổng thống và rằng chúng tôi không có ý định nhượng bộ kẻ thù tại bàn đàm phán những gì mà họ không thể đạt được trên chiến trường”. Thiệu nói với Bunker rằng ông hiểu “kế hoạch trò chơi”. Tuy nhiên, ông vẫn lo sợ về một giải pháp có lợi cho Hoa Kỳ và Bắc Việt trong khi phớt lờ nhu cầu của miền Nam. Khi Kissinger thông báo với Thiệu về sự thay đổi bề ngoài trong thái độ đàm phán của Bắc Việt tại phiên họp tháng 8, nhà lãnh đạo miền Nam không mấy ấn tượng. Ông rất khó chịu về ý tưởng ngừng bắn tại chỗ và phản đối bất kỳ điều gì trông giống như một chính phủ liên minh. Ngoài ra, ông còn lo sợ về một nền hòa bình được đàm phán bao gồm cả việc rút quân hoàn toàn của Hoa Kỳ và sự hiện diện liên tục của quân đội Bắc Việt tại miền Nam.  Theo đó, ông đã phản đối tới tấp Nixon và Kissinger về thỏa thuận này cho đến tận cuộc họp tiếp theo của Kissinger với Bắc Việt vào ngày 15 tháng 9. Nixon đã gửi cho Thiệu một lá thư vào cuối tháng 8, trong đó hứa sẽ tiếp tục hỗ trợ cho miền Nam, nói rằng “Hoa Kỳ đã không kiên trì đi suốt con đường này, với biết bao hy sinh của rất nhiều người Mỹ, chỉ để đảo ngược hướng đi trong vài tháng cuối năm 1972. . . . Nhân dân Mỹ biết rằng đất nước mình không thể mua được hòa bình hay danh dự hoặc chuộc lại những hy sinh của mình bằng cái giá là bỏ rơi một đồng minh dũng cảm. Tôi không thể làm điều này và sẽ không bao giờ làm như vậy.”  Cùng lúc đó, Nixon đã gửi điện cho Kissinger, đang ở Moscow để hội đàm với các nhà lãnh đạo Liên Xô về tình hình Việt Nam, nói rằng “người Mỹ không còn quan tâm đến một giải pháp dựa trên sự thỏa hiệp nữa. Họ ủng hộ việc tiếp tục ném bom và muốn thấy Hoa Kỳ chiến thắng sau tất cả những năm tháng này.” Vì vậy, tổng thống đã buộc Kissinger phải “cứng rắn” với Bắc Việt khi ông trở lại Paris lần sau.

Vào ngày 11 tháng 9, Hà Nội đã ra tuyên bố rằng “giải pháp cho vấn đề nội bộ miền Nam phải xuất phát từ tình hình thực tế rằng ở miền Nam hiện có hai chính quyền, hai quân đội và các lực lượng chính trị khác.” Điều này khiến Kissinger phấn khởi vì lần đầu tiên Bắc Việt cho biết họ sẽ không yêu cầu một chính phủ liên minh ba bên để thay thế chính phủ Thiệu ở miền Nam. Tuy nhiên, tại cuộc họp ở Paris vào ngày 15 tháng 9, Lê Đức Thọ một lần nữa đề xuất một chính phủ liên minh, mà Kissinger đã nhanh chóng bác bỏ. Tuy nhiên, Kissinger tin rằng ông đang đạt được tiến triển với Bắc Việt và, theo sự thúc đẩy của Tho, đã đồng ý với một “thỏa thuận về nguyên tắc” vào ngày 15 tháng 10.

Thọ và Kissinger đã gặp lại nhau vào ngày 26 tháng 9 và giải quyết phần lớn các vấn đề quân sự còn lại. Trong một thay đổi lớn so với các cuộc thảo luận trước đó, Thọ đã từ bỏ yêu cầu về một chính phủ liên minh và thay vào đó đề xuất một “Chính phủ lâm thời của sự hòa hợp quốc gia”, có chức năng duy nhất là sắp xếp các cuộc bầu cử cho miền Nam trong vòng 90 ngày sau khi chiến tranh kết thúc. Kissinger đã hoãn thảo luận về đề xuất này, nói rằng mình cần thời gian để nghiên cứu nó qua đêm.  Họ chia tay và Thọ hứa rằng cuộc họp tiếp theo sẽ có tính “quyết định”. Hai ngày sau, Bắc Việt gửi Kissinger một công hàm cho biết phái đoàn của họ sẽ đến cuộc họp tiếp theo “với tinh thần xây dựng và thái độ nghiêm túc, trong nỗ lực cuối cùng để đạt được thỏa thuận về những điều cốt yếu với phía Mỹ”.

Vẫn lo ngại rằng Thiệu có thể phá hỏng bất kỳ thỏa thuận nào mà Kissinger đã đưa ra, Nixon đã cử Tướng Haig đến Sài Gòn để hội đàm với tổng thống miền Nam. Haig mang theo một thông điệp cá nhân từ Nixon gửi cho Thiệu: “Tôi cam kết chắc chắn rằng sẽ không có giải pháp nào đạt được, mà các điều khoản của nó chưa được thảo luận trực tiếp với ngài trước đó”. Ông cũng bao gồm một gợi ý không mấy tinh tế để “tránh tạo ra một bầu không khí có thể dẫn đến những sự kiện tương tự như những sự kiện mà chúng ta ghê tởm vào năm 1963”—ám chỉ đến cuộc đảo chính dẫn đến cái chết của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Thiệu lo ngại rằng Hoa Kỳ có thể đang chuẩn bị thực hiện một thỏa thuận riêng với Bắc Việt. Vào ngày 2 tháng 10, khi Haig vẫn còn ở Sài Gòn, Thiệu đã nói với Quốc hội miền Nam:

Một giải pháp chính trị là một vấn đề nội bộ của miền Nam. Người dân miền Nam có quyền và có trách nhiệm giải quyết vấn đề này giữa họ. Không ai được phép can thiệp. . . . Chỉ có chính phủ Việt Nam Cộng hòa hiện tại mới có thẩm quyền thảo luận và chấp thuận bất kỳ giải pháp chính trị nội bộ nào cho miền Nam, và không ai có quyền làm điều đó thay họ.”

Mặc dù lo sợ, Thiệu cũng chẳng làm được gì nhiều. Như Nguyễn Tiến Hưng, một trong những cố vấn thân cận nhất của Thiệu, đã viết sau chiến tranh, tổng thống miền Nam  “không thể cho phép mình hưởng sự xa xỉ của một sự rạn nứt công khai với Hoa Kỳ.”

Khi Haig trở về Washington, ông và Kissinger đã gặp Nixon để thảo luận về tình hình Thiệu. Tổng thống đã lắng nghe báo cáo của Haig và nói với Kissinger rằng “cái đuôi không thể vẫy con chó” (tương tự “trứng mà đòi khôn hơn vịt”): nếu Kissinger thuyết phục được Lê Đức Thọ chấp nhận lời đề nghị mà Hoa Kỳ đưa ra vào tháng 9, ông ta nên đến Sài Gòn và “nhét [thỏa thuận] xuống cổ họng [Thiệu].”

Khi Kissinger và Haig chuẩn bị lên đường đến Paris, Nixon đã gặp ngoại  trưởng ngoại Liên Xô Andrei Gromyko tại Washington để chính thức ký kết các thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược (SALT).  Trong cuộc họp của họ, Nixon cảnh báo rằng lời đề nghị mà Kissinger đưa ra tại các cuộc đàm phán Paris sắp tới là tối hậu, và nếu Thọ từ chối, Hoa Kỳ sẽ “phải chuyển sang một số phương sách khác sau cuộc bầu cử”.

Tổng thống và cố vấn an ninh quốc gia của ông đã bất đồng quan điểm về chiến lược đàm phán. Kissinger đang thúc đẩy một thỏa thuận ngay lập tức, nhưng Nixon đã dao động. Kissinger tin rằng Bắc Việt, lo sợ Nixon và quyền lực mới có được sau khi đánh bại McGovern, sẽ có nhiều khả năng muốn  đạt được thỏa thuận trước cuộc bầu cử. Nixon có quan điểm ngược lại, lập luận rằng ông sẽ có nhiều quyền lực hơn để đáp trả sau cuộc bầu cử nếu Bắc Việt tỏ ra khó khăn trong các cuộc đàm phán cuối cùng; do đó, ông đã chỉ thị cho Charles Colson, một trong những cố vấn chính trị hàng đầu của ông, “nói với ông ấy [Kissinger] rằng sẽ gây tổn hại—chứ không giúp ích gì cho chúng ta—nếu đạt được thỏa thuận trước cuộc bầu cử”.

Cuộc họp tiếp theo giữa Kissinger và Bắc Việt diễn ra như dự kiến ​​vào ngày 8 tháng 10. Thọ đã đưa ra một đề xuất chín điểm bao gồm lệnh ngừng bắn ngay lập tức, trao đổi tù binh, rút ​​quân lính Mỹ, ngừng chuyển quân đội BV mới vào miền Nam và thành lập một Chính quyền Hòa hợp Quốc gia gồm các đại diện từ chính quyền Thiệu, Chính phủ Cách mạng Lâm thời và các đại diện được thỏa thuận chung của “lực lượng thứ ba” không liên kết của miền Nam, được mô tả một cách lỏng lẻo là “bên trung lập”. Cơ quan này giống như Chính quyền Lâm thời Hòa hợp Quốc gia đã được đề xuất trước đó, sẽ giải quyết các vấn đề chính trị, bao gồm giám sát bầu cử, nhưng về bản chất sẽ mang tính cố vấn nhiều hơn là một “chính phủ”. Trong thời gian tạm thời, chế độ Sài Gòn và những người Cộng sản sẽ kiểm soát các khu vực mà họ chiếm đóng khi bắt đầu ngừng bắn.  Ngoài ra, ông đề xuất “thay thế vũ khí”, bỏ yêu cầu trước đó là Hoa Kỳ ngừng mọi viện trợ cho chế độ Sài Gòn, nói rằng người Mỹ có thể tiếp tục viện trợ quân sự mở rộng cho Sài Gòn; điều này thực sự giúp Hà Nội được tự do tiếp tế cho quân đội của mình ở miền Nam. Cuối cùng, Thọ đề xuất rằng Hoa Kỳ cung cấp viện trợ kinh tế sau chiến tranh cho Hà Nội như Tổng thống Johnson đã đề xuất trước đó. Các đề xuất của Lê Đức Thọ hiện phản ánh chặt chẽ những đề xuất của Nixon vào ngày 8 tháng 5, cho thấy rằng ông hiện đã sẵn sàng chấp nhận một giải pháp quân sự tách biệt khỏi giải pháp chính trị.

Mặc dù đề xuất của Thọ đại diện cho một bước đột phá lớn, nhưng vẫn còn một số khía cạnh đáng lo ngại. Thọ đề xuất ngừng bắn ở miền Nam, nhưng lại bỏ qua Lào và Campuchia. Các đề xuất lại bỏ qua không đề cập đến việc rút quân Bắc Việt, và Kissinger cũng không hài lòng về sự mơ hồ của các đề xuất của Bắc Việt liên quan đến việc ngừng các cuộc di chuyển quân đội BV tiếp theo và các chức năng của Chính quyền Hòa hợp Quốc gia.

Tuy nhiên, Kissinger rất phấn khởi trước tiến triển đạt được và cảm thấy rằng các chi tiết có thể được giải quyết. Khi kết thúc phiên họp, ông ôm chầm lấy trợ lý Winston Lord và thốt lên, “Chúng ta đã làm được rồi”.

Kissinger và Tho đã gặp lại nhau vào ngày 9, 10 và 11 tháng 10. Hầu hết các vấn đề đã được giải quyết khá nhanh chóng. Chính quyền Hòa hợp Quốc gia đã được đổi tên thành Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Quốc gia và không còn phải đạt được một giải pháp chính trị trong vòng chín mươi ngày nữa, mà thay vào đó được giao nhiệm vụ “làm hết sức mình”. Việc thay thế thiết bị quân sự được thực hiện theo nguyên tắc “một đổi một”, thay vì nguyên tắc “bình đẳng” được đề xuất trước đó, nguyên tắc này sẽ cho phép Bắc Việt xây dựng lực lượng của mình ở miền Nam ngang bằng với QĐVNCH.  Việc liên kết trao trả lại tù binh Mỹ với việc thả tù nhân chính trị do Sài Gòn giam giữ là một điểm gây tranh cãi, nhưng các chi tiết sẽ được Kissinger và Xuân Tuy, phó của Thọ, giải quyết vào ngày 17 tháng 10. Thọ, đồng ý về nguyên tắc với lệnh ngừng bắn ở Campuchia và Lào, đã thống nhất một thời gian biểu tạm thời để thực hiện với Kissinger: Ngày 21 tháng 10—Mỹ ngừng ném bom Bắc Việt; Ngày 22 tháng 10—ký kết thỏa thuận tại Hà Nội; và Ngày 30 tháng 10—ký chính thức thỏa thuận tại Paris.

Kissinger rất phấn khởi; nếu mọi việc diễn ra tốt đẹp, chiến tranh sẽ kết thúc trong ba tuần. Sau đó, ông gọi việc xây dựng thỏa thuận tháng 10 là “khoảnh khắc thú vị nhất trong công tác phục vụ công chúng”. Tuy nhiên, khi Kissinger trở về Washington vào ngày 12 tháng 10, một số nhân viên của ông không mấy vui mừng về bước đột phá của ông tại Paris.  Chuyên gia của ông về Việt Nam, John Negroponte, lập luận rằng việc cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam là một sai lầm lớn. Kissinger nổi giận, nói với Negroponte và các nhân viên khác của mình cùng chia sẻ ý kiến ​​này, “Các người không hiểu, tôi muốn đáp ứng các điều khoản của họ. Tôi muốn đạt được một thỏa thuận. Tôi muốn chấm dứt chiến tranh trước cuộc bầu cử [của Hoa Kỳ]. Điều đó có thể thực hiện được, và sẽ thực hiện được. . . . Các người muốn chúng ta làm gì: Ở lại đó mãi mãi à?” Kissinger sau đó giải thích rằng ông nghĩ Hoa Kỳ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp thuận việc tiếp tục có mặt của Bắc Việt ở miền Nam vì việc làm  Bắc Việt rút quân đã “không thể đạt được trong suốt mười năm chiến tranh. Chúng ta không thể biến điều đó thành điều kiện cho một giải pháp cuối cùng. Chúng ta đã vượt qua ngưỡng đó từ lâu rồi.” Kissinger có lẽ đã đúng, nhưng Negroponte cũng không sai.  Tình hình cuối cùng sẽ chứng minh là sự kiện này quả là  thảm họa được báo trước đối với miền Nam .

Không nao núng trước ý kiến ​​của các nhân viên dưới quyền, Kissinger đã đến gặp Nixon, vui vẻ thông báo, “Vâng, thưa Tổng thống, có vẻ như chúng ta đã đạt được cả ba trong số ba mục tiêu.”  Kissinger đang ám chỉ đến thành công ngoại giao với Trung Quốc và Liên Xô, và bây giờ là Việt Nam. Nixon cũng hài lòng, tuyên bố rằng các hiệp định được đề xuất là “một sự đầu hàng hoàn toàn của kẻ thù; họ đã chấp nhận các điều khoản của chúng ta.” Nixon  chấp thuận thỏa thuận tạm thời, nhưng chỉ đạo Kissinger đưa Thiệu đi cùng và không để ông ta ra khỏi tiến trình.

Kissinger bay trở lại Paris vào ngày 17 tháng 10 để giải quyết phần còn lại trong thỏa thuận và đưa ra một thỏa hiệp có thể chấp nhận được về việc thả tù binh Mỹ. Ông và các trợ lý của mình đã đạt được tiến triển trên mọi mặt, nhưng họ không thể đạt được sự thỏa hiệp nào về vấn đề tù binh chiến tranh, điều này đã ngăn cản việc hoàn tất thỏa thuận.  Kissinger cảnh báo Bắc Việt rằng mình không ký thỏa thuận cho đến khi những thay đổi cuối cùng được thực hiện.

Vào ngày 18 tháng 10, Kissinger rời Paris đến Sài Gòn để thảo luận tình hình với Thiệu. Nixon, làm dịu lập trường trước đó của mình, bảo Kissinger thuyết phục Thiệu chấp nhận thỏa hiệp, nhưng phải tiến hành một cách nhẹ nhàng, nói rằng, “Sự chấp nhận của Thiệu phải toàn tâm toàn ý để không thể đưa ra cáo buộc rằng chúng ta đã ép ông ấy vào một thỏa thuận. . . . Không thể là một hôn nhân ép buộc” Trong khi Kissinger đang trên đường đến Paris, Nixon đã viết thư cho Thiệu rằng ông thấy “không có giải pháp thay thế hợp lý nào” cho thỏa thuận và hứa rằng Bắc Việt sẽ phải đối mặt với “hậu quả nghiêm trọng nhất” nếu họ vi phạm thỏa thuận.

Biết trước sẽ có lệnh ngừng bắn, cả hai bên bắt đầu các hoạt động “chiếm đất” ở miền Nam để mở rộng các vùng kiểm soát của mình trước khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực . Vào ngày 11 tháng 10, Kissinger đã gửi điện cho Thiệu bảo “chiếm càng nhiều lãnh thổ càng tốt”, đặc biệt là ở khu vực Quân đoàn III xung quanh Sài Gòn. Các lực lượng Bắc Việt nhận được lệnh tương tự từ Hà Nội và hành động vào ngày 20 tháng 10. Họ đã đạt được một số thành quả nhỏ, nhưng QLVNCH gây ra tổn thất nặng nề, giết hoặc bắt giữ hơn 5.000 bộ đội BV. Kết quả của hoạt động “chiếm đất” này của cả hai bên, như một cựu tướng miền Nam mô tả sau chiến tranh, là “một mô hình điên rồ như các đốm trên da báo.” (Xem bản đồ 12.)

Bản đồ 12. Miền Nam  vào thời điểm ngừng bắn, tháng 1 năm 1973.

Kissinger đến Sài Gòn vào ngày 18 tháng 10.  Trong bốn ngày tiếp theo, ông, Bunker, và Tướng Abrams, người cũng bay từ Washington đến, đã cố gắng thuyết phục Thiệu ủng hộ thỏa thuận tạm thời mà Kissinger đã ký với Lê Đức Thọ. Thiệu kiên quyết từ chối, đưa ra bốn phản đối chính. Đầu tiên, ông phản đối mục đích và chức năng đã nêu của Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Quốc gia và, coi đó là một âm mưu của Cộng sản nhằm thành lập một chính phủ liên minh với một tên gọi khác ở miền Nam. Thứ hai, dự thảo thỏa thuận đề cập đến ba nhà nước Việt Nam—Bắc Việt, miền Nam  và phần miền Nam  do lực lượng Bắc Việt chiếm đóng. Thiệu từ chối bất kỳ sự phân chia nào như vậy của miền Nam. Thứ ba, dự thảo thỏa thuận không yêu cầu quân đội Bắc Việt rút khỏi miền Nam. Thứ tư, không có sự tái lập Khu Phi quân sự, đối với Thiệu ngụ ý rằng sẽ chỉ có một Việt Nam, chứ không phải hai nhà nước có chủ quyền.

Thiệu cũng có những phản đối mạnh mẽ đối với bản dịch của thỏa thuận, cho rằng sự vội vàng đã dẫn đến những khác biệt đáng kể giữa bản tiếng Anh và tiếng Việt, làm lu mờ thêm bản chất chính xác của thỏa thuận trong bốn lĩnh vực quan trọng đã thảo luận ở trên. Cùng ngày Kissinger và phái đoàn Hoa Kỳ đến Sài Gòn, thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng đã thêm động lực cho sự bất đồng của Thiệu với giải pháp khi, trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo Arnaud de Borchgrave tại Hà Nội, ông gọi Hội đồng Hòa giải và Hòa hợp Quốc gia là một “liên minh chuyển tiếp ba bên”. Thiệu vẫn kiên quyết từ chối xem xét một chính phủ liên minh cho miền Nam , và những bình luận của Đồng chỉ làm bùng lên sự phản đối của ông đối với giải pháp đàm phán của Kissinger.

 Vào ngày 22 tháng 10, theo sự thúc giục của Kissinger, Nixon đã thu hẹp các cuộc đột kích Linebacker ở Bắc Việt, thiết lập lệnh hạn chế ném bom thêm ở phía bắc vĩ tuyến 20. Cùng ngày, tổng thống đã gửi điện cho Thiệu, đe dọa sẽ cắt sự hỗ trợ của Mỹ và cảnh báo ông ta rằng sự ngoan cố của ông ta “sẽ có những tác động nghiêm trọng nhất đến khả năng tiếp tục hỗ trợ của tôi cho ông”. Cùng lúc đó, Nixon ra lệnh cho Kissinger “thúc đẩy Thiệu đi xa nhất có thể”, thậm chí đến mức đe dọa sẽ ký một hiệp ước riêng với Bắc Việt nếu ông tiếp tục chống đối với giải pháp. Thiệu công khai lên án cả việc giảm ném bom và dự thảo hiệp ước, và nói với lực lượng của mình rằng bộ máy Cộng sản ở miền Nam “phải bị xóa sổ nhanh chóng và không thương tiếc”.Trong một tuyên bố chính thức do Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa ban hành, Thiệu nói rằng miền Nam chưa được tham vấn về giải pháp hòa bình và sẽ không “chấp nhận hòa bình bằng mọi giá, đặc biệt là một nền hòa bình sẽ mở đường cho sự khuất phục  của 17 triệu người dân miền Nam dưới tay người Cộng sản”. Trong một cuộc họp vào ngày 22 tháng 10, Thiệu cáo buộc Kissinger và Hoa Kỳ “thông đồng” với Trung Quốc và Liên Xô để bán rẻ miền Nam.  Ông hoàn toàn bác bỏ thỏa thuận và đưa ra danh sách 129 yêu cầu bao gồm việc công nhận DMZ và chủ quyền của miền  Nam, rút toàn bộ lực lượng Bắc Việt ra khỏi miền Nam và thừa nhận cơ cấu chính quyền hiện tại ở miền Nam . Kissinger đã gửi điện cho Nixon: “Thiệu vừa bác bỏ toàn bộ kế hoạch hoặc bất kỳ sửa đổi nào cho kế hoạch và từ chối thảo luận bất kỳ cuộc đàm phán nào tiếp theo dựa trên kế hoạch đó. . . . Thật khó để cường điệu về sự cứng rắn trong lập trường của Thiệu. Những yêu cầu của ông ta gần như điên rồ.”

Vào ngày 23 tháng 10, Kissinger thông báo với Thọ rằng lịch trình tạm thời đã thỏa thuận không còn có thể đáp ứng được nữa và ông sẽ không đến Hà Nội để ký thỏa thuận như đã dự định ban đầu trước khi Thiệu phản đối. Trong khi Kissinger trở về Washington, Nixon đã gửi một bức điện cho phái đoàn Bắc Việt ở Paris.  Ông trích dẫn những bình luận của Đồng và “cuộc chiếm đất” của quân miền Bắc là những trở ngại lớn đối với việc đạt được một giải pháp hòa bình mà Thiệu dễ chấp nhận hơn, nói rằng, “Việc phá vỡ lòng  tin cậy do phía VNDCCH gây ra trong cuộc phỏng vấn Arnaud de Borchgrave phải chịu trách nhiệm đáng kể đối với tình hình của Sài Gòn.” Cố gắng để Bắc Việt hiểu rằng mình đang ở trong một vị thế bấp bênh liên quan đến vai trò của Thiệu trong các cuộc thảo luận hòa bình, Nixon viết thêm, “Phía VNDCCH cần nhận rõ được thực tế là lập trường liên tục của Hoa Kỳ  sẽ không áp đặt một giải pháp đơn phương cho các đồng minh của mình và họ sẽ chỉ tiến hành trên cơ sở tham vấn.”

Vào ngày 26 tháng 10, Bắc Việt đã phát sóng tóm tắt về thỏa thuận hòa bình được đề xuất và cáo buộc người Mỹ đã cố gắng “phá hoại” nó, lập luận rằng “Hoa Kỳ đã không tôn trọng nó” và nói thêm rằng, “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên án thái độ coi thường của chính quyền Nixon.” Nixon và Kissinger quyết định Kissinger sẽ sử dụng một cuộc họp báo đã lên lịch trước vào sáng hôm đó “để làm suy yếu động thái tuyên truyền của Bắc Việt và để đảm bảo rằng phiên bản của chúng ta về thỏa thuận là phiên bản có tác động lớn.” Kissinger bắt đầu bài phát biểu của mình bằng tuyên bố, “Chúng tôi tin rằng hòa bình đã đến gần. Chúng tôi tin rằng một thỏa thuận đang trong tầm tay.”

Tuyên bố đáng tiếc của Kissinger đã trở thành tiêu đề trên khắp thế giới và làm dấy lên kỳ vọng ở Hoa Kỳ. Điều này cũng khiến Thiệu tức giận, lập tức lên án bản dự thảo hiệp ước là “một sự sỉ nhục… một sự đầu hàng”.  Kissinger sau đó thừa nhận rằng những bình luận của mình là một sai lầm sẽ “ám ảnh tôi từ lúc đó trở đi”. Nixon không hài lòng với tuyên bố của Kissinger vì ông cảm thấy nó bộc lộ sự yếu đuối đối với người Cộng sản. Nó cũng lấy đi phần lớn ánh hào quang của chính tổng thống, vi phạm điều mà người viết tiểu sử của Nixon là Stephen Ambrose mô tả là “quy tắc cơ bản” trong Nhà Trắng của Nixon. Tuy nhiên, trợ lý của Nixon H. R. Haldeman không nghĩ tuyên bố của Kissinger là điều tệ hại đến thế. Vụ bê bối Watergate bắt đầu nóng lên, và Haldeman cảm thấy rằng bài phát biểu “hòa bình đang trong tầm tay” của Kissinger đã đưa “chuyện bại hoại [Watergate] ra khỏi các trang nhất”.Tuy nhiên, Nixon không hài lòng với tuyên bố của Kissinger. Sau đó, ông viết rằng mình “biết ngay rằng vị thế mặc cả của chúng ta với Bắc Việt sẽ bị xói mòn nghiêm trọng và vấn đề đưa Thiệu . . . đi cùng sẽ trở nên khó khăn hơn nữa”. Theo đó, ông đã cố gắng tránh xa tuyên bố của Kissinger. 

Vào ngày 2 tháng 11, trong một bài phát biểu vận động tranh cử, Nixon thừa nhận bước đột phá chính trị mà Kissinger đã đạt được trong các cuộc đàm phán, nhưng cảnh báo, “Chúng ta sẽ không cho phép một cuộc bầu cử hoặc bất kỳ loại thời hạn nào khác buộc chúng ta phải ký một thỏa thuận mà sẽ chỉ là một lệnh ngừng bắn tạm thời chứ không phải là một nền hòa bình lâu dài. Chúng ta sẽ ký thỏa thuận khi thỏa thuận đó là đúng, không phải một ngày trước đó—và khi nó đúng, chúng ta sẽ ký mà không chậm trễ một ngày nào.” Ngày hôm sau trong một bài phát biểu tại Rhode Island, ông nói, “Chúng ta sẽ kết thúc cuộc chiến này và kết thúc theo cách sẽ đặt nền tảng cho một nền hòa bình thực sự trong những năm tới. Đó là điều mà tất cả người Mỹ mong muốn.”

Vào ngày 7 tháng 11, Nixon và người bạn đồng hành của ông, Spiro T. Agnew, đã giành được chiến thắng vang dội, với 47 triệu phiếu bầu, hay 60,7 phần trăm tổng số phiếu bầu, so với 29 triệu phiếu bầu của McGovern, hay 37,5 phần trăm. Ông đã nhận được 521 phiếu đại cử tri so với 17 phiếu của McGovern, giành chiến thắng ở mọi tiểu bang ngoại trừ Massachusetts và Quận Columbia. Nhiều nhà quan sát tin rằng tuyên bố “hòa bình đang trong tầm tay” của Kissinger đã giúp Nixon trong các cuộc bỏ phiếu, nhưng đó chỉ là một chiến thắng ngắn ngủi.

Sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử, Nixon đã sẵn sàng kết thúc với Việt Nam để có thể chuyển sang các vấn đề khác. Ông nhất định cho rằng Thiệu, chứ không phải Quân BV, đang nhanh chóng trở thành trở ngại lớn đối với việc chấm dứt chiến tranh và giải thoát Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á. Do đó, ông đã tăng cường nỗ lực để giành được tổng thống miền Nam.  Bước đầu tiên là cho Thiệu thấy rằng Nixon không có ý định bỏ rơi ông. Vào đầu tháng 11, Lầu Năm Góc bắt đầu thực hiện kế hoạch mà Tướng Abrams đã vạch ra cho Tổng thống Thiệu trong khi tháp tùng Kissinger đến Sài Gòn trong các cuộc đàm phán vào tháng 10. Kế hoạch này, được gọi là Enhance Plus (Tăng Cường Hơn), bao gồm một cuộc vận chuyển hàng không lớn các thiết bị quân sự vào miền Nam. Đây là sự tiếp nối của chương trình Enhance, một nỗ lực trước đó được thực hiện để thay thế các loại vũ khí và thiết bị mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã mất trong Chiến dịch Phục sinh (xem bảng 9).

Bảng 9. Các hoạt động Enhance và Enhance Plus

Enhance (tháng 5-tháng 10 năm 1972) Enhance Plus (tháng 10-tháng 11 năm 1972)
39 pháo 175 mm (3 tiểu đoàn) 28 máy bay ném bom chiến đấu A-1
120 xe tăng M48A3 90 máy bay ném bom chiến đấu phản lực A-37
37 trực thăng CH-48 116 máy bay phản lực chiến đấu F-5A
32 trực thăng UH-1H 32 máy bay vận tải C-130
2 máy bay phản lực chiến đấu F-5E 277 trực thăng UH-1H
5 máy bay phản lực chiến đấu F-5A 72 xe tăng M48A3
48 phản lực tiêm kích-ném bom A-37 117 xe bọc thép chở quân M113
23 trực thăng chiến đấu AC-119K Stinger 8 xe bọc thép M706
12 máy bay tuần tra hàng hải C-119G 44  Pháo lựu 105 mm
14 máy bay trinh sát ảnh RC-47 12 pháo lựu 155 mm
23 máy bay trinh sát điện tử EC-47 1.302 xe tải 2½ tấn
28 máy bay vận tải C-7 424 xe tải ben 5 tấn
100 vũ khí chống tăng TOW
32 pháo phòng không đôi 40 mm
96 súng máy bốn nòng .50
3 tàu tuần tra bền bỉ tốc độ cao

4 tàu tuần tra nhanh

Enhance Plus được thiết kế để hoàn thành quá trình Việt Nam hóa, ít nhất là về vật tư và thiết bị, bằng cách cung cấp cho miền Nam  càng nhiều thiết bị càng tốt trước khi hiệp định hòa bình được ký kết.  Nó cũng sẽ có tác dụng thuyết phục cả Sài Gòn và Bắc Việt rằng chính phủ Hoa Kỳ quyết tâm “bảo đảm rằng miền Nam  có cơ hội công bằng để đạt được thắng lợi, một khi lực lượng Hoa Kỳ rút lui.” Hoa Kỳ “vay” hơn 2 tỷ đô la vật tư ban đầu tính dành viện trợ  đến các nước như Đài Loan, Hàn Quốc và Philippines, nhưng cuối cùng được chuyển đến miền Nam thay thế. Phần lớn thiết bị mới này được chuyển bằng đường hàng không đến sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Ngoài thiết bị mới này, miền Nam cũng nhận được vật tư và thiết bị được các đơn vị Hoa Kỳ và đồng minh rời đi chuyển giao cho bao gồm hầu hết thiết bị hoàn chỉnh của hai sư đoàn Hàn Quốc, chuẩn bị trở về Seoul.

Trong một nỗ lực lách một điều khoản trong thỏa thuận tạm thời yêu cầu giải thể các căn cứ Hoa Kỳ ở miền Nam, người Mỹ bắt đầu bí mật chuyển giao các cơ sở và thiết bị liên quan cho lực lượng Sài Gòn. Nhìn chung, miền Nam  đã nhận được một số lượng ấn tượng và một loạt các thiết bị quân sự tinh vi không chỉ để thay thế những tổn thất từ ​​cuộc tấn công của BV, mà còn cung cấp một kho dự trữ lớn cho mục đích sử dụng trong tương lai. Một vị tướng Mỹ được cho là đã nói, “Nếu chúng ta cung cấp viện trợ này cho Bắc Việt, họ có thể đã chiến đấu với chúng ta trong suốt phần còn lại của thế kỷ.”

Thật không may, đợt thiết bị ồ ạt này đã chứng tỏ là một chiêu trò chính trị hơn là một nỗ lực quân sự hợp lý nhằm hỗ trợ miền Nam . Quyết định khởi xướng Enhance Plus được đưa ra mà không có khuyến nghị nào từ Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, những người trước đó đã chỉ ra rằng không cần phải tăng cường thêm ngoài việc thay thế những tổn thất trong chiến đấu của QLVNCH. Việc Nhà Trắng chấp thuận chương trình rõ ràng được thiết kế để thuyết phục Thiệu đồng ý với những nỗ lực của Kissinger tại các cuộc đàm phán Paris.  Tuy nhiên, phần lớn thiết bị nhận được không phù hợp với nhu cầu chiến đấu của miền Nam, và phần lớn vật tư đã được lưu kho và ở đó cho đến khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975. Bùi Diễm, cựu đại sứ miền Nam  tại Washington và sau này là cố vấn chính trị của Thiệu, sau này đã bình luận:

Thiết bị đắt tiền này được coi là một động thái của Chính quyền Hoa Kỳ nhằm thuyết phục chính quyền Thiệu ký Hiệp định. Có lẽ nó có giá trị về mặt chính trị—thực tế là mọi thứ có thể được hiểu là một hình thức bảo đảm từ Hoa Kỳ không từ bỏ miền Nam  đều được ông Thiệu hoan nghênh. Nhưng nó được lên kế hoạch vội vàng và thiếu cân nhắc, và toàn bộ chương trình không có giá trị quân sự; trên thực tế, rất nhiều thiết bị này không thể được quân đội miền Nam  sử dụng hiệu quả, sau này họ than phiền rằng họ cần người và tiền chỉ để bảo dưỡng thiết bị không sử dụng được này.

Tuyên bố này đặc biệt đúng đối với việc tăng cường máy bay. Miền Nam  có 1.397 máy bay vào tháng 6 năm 1972, và khi hoàn thành Enhance Plus, con số đó đã tăng vọt lên 2.075. Đến cuối năm 1972, miền Nam, xét về khung máy bay, có lực lượng không quân lớn thứ tư trên thế giới. Thật không may, họ không có đủ phi công và nhân viên mặt đất để điều hành một lực lượng lớn  như vậy. Như một nghiên cứu của Không quân Hoa Kỳ sau đó đã kết luận, lực lượng này “hoàn toàn vượt quá khả năng duy trì của Không quân Việt Nam”. Do đó, mặc dù thiết bị được cung cấp theo Enhance Plus có thể phục vụ mục đích gửi tín hiệu đến Thiệu, về lâu dài, nó không giúp ích gì cho miền Nam  trong cuộc đối đầu sắp tới với Bắc Việt. Bất chấp thực tế cuối cùng của việc chuyển giao thiết bị, Nixon hy vọng thiết bị mới sẽ thuyết phục Thiệu tham gia đàm phán ở Paris. Vào ngày 8 tháng 11, ông đã viết một lá thư cho tổng thống miền Nam  và gửi Alexander Haig đến Sài Gòn để đích thân chuyển thư. Trong thư, Nixon nói với Thiệu rằng ông đã chỉ thị cho Kissinger làm việc để cải thiện các điều khoản của thỏa thuận mà Thiệu không đồng ý. Ông viết, “Chúng tôi sẽ nỗ lực tối đa để thực hiện những thay đổi này trong thỏa thuận”, nhưng ông cũng cảnh báo, “Tuy nhiên, tôi không muốn để lại cho ngài ảo tưởng rằng chúng tôi có thể hoặc sẽ vượt qua những thay đổi này để tìm cách cải thiện một thỏa thuận mà chúng tôi đã coi là tuyệt vời”. Do đó, ông thúc giục Thiệu “thực hiện thế chủ động ​​chính trị và tâm lý bằng cách hoan nghênh thỏa thuận và thực hiện các điều khoản của thỏa thuận theo cách tích cực”.

Thiệu, không ấn tượng với lá thư của Nixon, một lần nữa nhấn mạnh rằng quân đội BV phải rút khỏi miền Nam , tuyên bố rằng ước tính của Hoa Kỳ về sức mạnh quân sự của Bắc Việt ở miền Nam là 140.000 người là “ảo tưởng” và “gây hiểu lầm” và thay vào đó cho rằng con số thực tế không dưới 300.000 người. Ông một lần nữa yêu cầu công nhận cả chủ quyền của chính phủ mình trên toàn bộ miền Nam  và quy chế của DMZ là ranh giới vĩnh viễn giữa Bắc và miền Nam . Haig đã gửi điện tín cho Nixon về sự phản đối liên tục của Thiệu, và vào ngày 14 tháng 11, tổng thống đã gửi cho Thiệu một lá thư khác trong đó ông đã đưa ra cho tổng thống miền Nam  “cam kết tuyệt đối” rằng ông sẽ “thực hiện hành động trả đũa nhanh chóng và nghiêm khắc” nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận sau khi nó được ký kết. Tuy nhiên, ông cảnh báo rằng ông phải có sự ủng hộ của Quốc hội và người dân Hoa Kỳ để thực hiện những hành động như vậy và kết thúc bằng cách nói rằng, “Tôi không thể nhấn mạnh quá mức tính cấp bách của nhiệm vụ hiện tại cũng như quyết tâm không thay đổi của tôi trong việc tiến hành theo lộ trình mà chúng tôi đã vạch ra. . . . Để thực hiện điều này một cách hiệu quả, điều cần thiết là tôi phải có sự ủng hộ của công chúng và chính phủ của ngài không nổi lên như một trở ngại cho một nền hòa bình mà dư luận Hoa Kỳ hiện đang mong muốn trên toàn thế giới.”

Thiệu trả lời thư của Nixon bằng cách trình lên Haig 69 điều chỉnh đối với thỏa thuận dàn xếp được đề xuất nhằm hạn chế vai trò của người Cộng sản trong bất kỳ chính phủ miền Nam  nào trong tương lai và buộc phải di tản quân đội BV khỏi miền Nam. Haig nói rằng ông sẽ đưa các điều chỉnh cho Kissinger xem xét nhưng nói với Thiệu rằng Tổng thống Nixon muốn có một thỏa thuận với Bắc Việt. Phát biểu thay mặt Nixon, ông hứa sẽ cung cấp thêm viện trợ quân sự cho Sài Gòn và ném bom nhiều hơn nếu Bắc Việt vi phạm lệnh ngừng bắn, nhưng ông nhấn mạnh rằng, bằng cách này hay cách khác, Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Việt Nam trong vòng sáu tháng.

Sau khi thông báo cho Thiệu, Nixon đã chỉ thị cho Kissinger về cuộc họp tiếp theo của ông với Bắc Việt tại Paris.  Ông thông cảm với Kissinger về việc Thiệu cản trở quá trình giải quyết nhưng thúc giục cố vấn của mình làm việc với tổng thống miền Nam, tuyên bố, “Điều chúng ta quan tâm là cứu miền Nam  và đó là lý do tại sao chúng ta phải tạm thời hòa giải nhiều với Thiệu như chúng tôi đã làm, bởi vì lợi ích của chúng ta là giúp miền Nam  tồn tại và Thiệu hiện tại có vẻ là nhà lãnh đạo duy nhất có thể dẫn dắt họ theo hướng đó.” Tuy nhiên, Nixon, một người theo chủ nghĩa hiện thực, nói thêm rằng nếu Thiệu không đồng hành, “chúng ta chỉ cần sẽ tự mình thỏa thuận, rút ​​quân… và sau đó nói rằng Việt Nam hóa đã hoàn tất và Thiệu có thể làm bất cứ điều gì ông ta thích.” Sau khi nói vậy, Nixon chỉ đạo Kissinger trình lên Lê Đức Thọ 69 điều sửa đổi đối với dự thảo thỏa thuận mà Thiệu đã đề xuất;  Kissinger, vốn đã thất vọng với sự ngoan cố của Thiệu, coi những đề xuất này là “vô lý” và “vượt xa những gì chúng tôi đã nêu ra công khai và riêng tư”, nhưng đã đồng ý trình chúng theo chỉ đạo khi ông tiếp tục đàm phán với Lê Đức Thọ vào ngày 20 tháng 11.

Trong khi đó, Lê Đức Thọ đã tuyên bố khi trở lại Paris rằng nếu Washington thực sự muốn giải quyết, họ phải “tuân thủ các điều khoản đã thỏa thuận giữa hai bên” hoặc “người dân Việt Nam sẽ không còn cách nào khác ngoài việc kiên quyết tiếp tục cuộc chiến của mình”. Khi Kissinger và các nhà đàm phán Bắc Việt gặp nhau tại phiên họp dự kiến ​​vào ngày 20 tháng 11, Lê Đức Thọ không có gì ngạc nhiên khi bác bỏ những sửa đổi do Thiệu đề xuất. Ngày hôm sau, ông ta đưa ra một loạt các yêu cầu mới của riêng mình. Thọ đã rút lại  nhượng bộ đã đưa ra trước đó rằng các tù binh chiến tranh người Mỹ sẽ được thả trước khi các tù nhân chính trị do Sài Gòn giam giữ được trả tự do. Ông cũng yêu cầu tất cả các kỹ thuật viên dân sự người Mỹ phải rời đi cùng với quân đội Hoa Kỳ.  Yêu cầu sau là then chốt vì, nếu được chấp thuận, sẽ có tác động làm suy yếu đến hiệu quả quân sự của miền Nam, do rất cần một số lượng lớn nhân viên hợp đồng dân sự để bảo dưỡng và bảo trì các thiết bị tinh vi mà miền Nam  đã nhận được theo các chương trình Tăng cường.

Khi Kissinger thông báo cho Nixon về các yêu cầu mới của Bắc Việt, tổng thống tức giận gửi cho người đàm phán chính của mình một bộ hướng dẫn mới. Trừ khi Lê Đức Thọ thể hiện “cùng thiện chí hợp lý như chúng ta đang thể hiện”, ông nói, “Tôi sẽ chỉ đạo anh ngừng các cuộc đàm phán và sau đó chúng ta sẽ phải tiếp tục hoạt động quân sự cho đến khi bên kia sẵn sàng đàm phán”. Ông căn dặn Kissinger cảnh báo Bắc Việt rằng “giờ cuộc bầu cử đã qua, ông [tổng thống] sẽ thực hiện bất kỳ hành động nào mà ông cho là cần thiết để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ”. Rõ ràng là Nixon đang mất kiên nhẫn với Bắc Việt;  Kissinger sau đó đã viết trong hồi ký của mình rằng giai đoạn này phản ánh “trạng thái tinh thần đen tối nhất và có lẽ là độc ác nhất của tổng thống [Nixon].

Cuộc họp tiếp theo giữa Kissinger và các nhà đàm phán Bắc Việt không mang lại kết quả nào; các cuộc đàm phán đã bế tắc một cách vô vọng. Kissinger đã gửi Nixon một thông điệp đưa ra hai lựa chọn: tăng cường ném bom Bắc Việt để buộc họ quay lại bàn đàm phán hoặc đợi đến tháng 1 để tiếp tục đàm phán và sau đó đưa ra một thỏa thuận có thể chấp nhận được. Theo Nixon, Kissinger khuyến nghị theo đuổi lựa chọn đầu tiên, nhưng sau này Kissinger vẫn khẳng định rằng mìn đã không làm vậy. Sau đó các tài liệu được giải mật của Nhà Trắng cho đến nay vẫn không giải quyết được sự khác biệt lớn trong ký ức của họ hoặc làm sáng tỏ thêm bất kỳ điều gì về nguồn gốc của sự kiện được gọi là trận ném bom Giáng sinh.  Bất kể ai là người đầu tiên ủng hộ việc tiếp tục ném bom, các sự kiện trong những tuần tiếp theo đã dẫn đến các cuộc tấn công mới vào Hà Nội.

Sau khi các cuộc đàm phán đi vào bế tắc, Nixon đã gửi cho Kissinger một loạt chỉ thị mâu thuẫn nhau. Ban đầu, ông đã gửi một thông điệp yêu cầu Kissinger làm việc với Thọ để đạt được một giải pháp, bởi vì “chúng ta phải thừa nhận thực tế cơ bản là chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc đạt được thỏa thuận theo các nguyên tắc 8 tháng mười”. Sau đó, không muốn loại bỏ “con bài” ném bom khỏi bàn đàm phán, ông đã yêu cầu Kissinger “hoãn” các cuộc đàm phán trong một tuần và rằng ông đã chuẩn bị sử dụng ném bom nếu cần thiết để buộc phải đạt được thỏa thuận. Nixon nói, “Tôi thừa nhận rằng đây là một lựa chọn rủi ro cao, nhưng mục tiêu của chúng ta vẫn tiếp tục là kết thúc chiến tranh trong danh dự. Và nếu vì theo đuổi chiến lược của chúng ta và gặp sự cố về thời điểm cuộc bầu cử mà chúng ta hiện đang ở trong góc hẹp trong quan hệ công chúng, chúng ta đành phải chịu trận và đi cho tới cùng …  cho dù chi phí cho sự ủng hộ của công chúng sẽ rất lớn.”

Ngày hôm sau, tổng thống lại thay đổi thái độ và ra lệnh cho Kissinger tiếp tục các cuộc đàm phán. Tuy nhiên, Kissinger đã sắp xếp một cuộc giải lao. Ông bay trở lại Washington để gặp tổng thống. Nixon bảo ông ta “hãy từ bỏ lập trường là chúng ta thực sự có một lựa chọn khả thi để cắt đứt các cuộc đàm phán với miền Bắc và tiếp tục ném bom trong một khoảng thời gian. Đơn giản là nó sẽ không hiệu quả. . . . Chúng ta không được có ảo tưởng là bây giờ chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc hòa giải.” Thay vì tăng cường các cuộc ném bom vẫn đang diễn ra để bắt đầu đáp trả cuộc xâm lược năm 1972, ông chỉ đạo rằng phải giảm bớt.

Nixon đã do dự vì ông đang ở trong một vị trí khó khăn. Người dân Hoa Kỳ đã sẵn sàng để chiến tranh kết thúc. Bắc Việt đã chuẩn bị ký hiệp định ngày 8 tháng 10, nhưng Thiệu và những yêu cầu liên tục của ông về việc sửa đổi đã gây ra phản ứng dữ dội từ họ và dẫn đến bế tắc ở Paris. Nixon phải chấm dứt chiến tranh, nhưng không phải theo cách mà ông có vẻ như đang bán đứng Thiệu và miền Nam . Do đó, tổng thống đã cố gắng đi trên dây giữa Bắc Việt và Thiệu, điều này có thể giải thích sự dao động trong chỉ thị của ông cho Kissinger.

Vào ngày 23 tháng 11, Nixon gửi cho Thiệu một lá thư khác, hứa sẽ “thực hiện một hành động mạnh mẽ đối với Bắc Việt trong trường hợp họ phá vỡ thỏa thuận”, nhưng cảnh báo ông rằng các thượng nghị sĩ hàng đầu của Hoa Kỳ, bao gồm nhiều người từ chính đảng của tổng thống, vốn luôn ủng hộ mạnh mẽ chính sách của chính quyền về Việt Nam, “không chỉ nhất trí mà còn kịch liệt tuyên bố kết luận của họ rằng, nếu Sài Gòn là rào cản duy nhất để đạt được thỏa thuận… họ sẽ đích thân lãnh đạo cuộc chiến khi Quốc hội mới họp lại vào ngày 3 tháng 1 bằng cách cắt mọi viện trợ quân sự và kinh tế cho Sài Gòn”. Ông thúc giục Thiệu không nên trì hoãn tiến độ đàm phán thêm nữa, nói rằng, “Nếu ông không cùng chúng tôi ký kết một thỏa thuận thỏa đáng… ông phải hiểu rằng tôi buộc sẽ tiến hành bằng mọi giá.”

Vào ngày 29 tháng 11, Nixon đã gặp Nguyễn Phú Đức tại Nhà Trắng. Là đại diện cá nhân của Thiệu tại các cuộc đàm phán ở Paris, ông đã trình một lá thư dài 14 trang từ Thiệu nêu lại tất cả những phản đối của ông đối với giải pháp được đề xuất và yêu cầu một hội nghị thượng đỉnh Thiệu-Nixon trước khi bất kỳ thỏa thuận nào được ký kết với Hà Nội. Nixon đã thẳng thừng từ chối và nhắc lại với Đức những cảnh báo và đảm bảo tương tự mà ông đã nhiều lần gửi đến Thiệu. Ông nhấn mạnh đã đến lúc Sài Gòn phải “đối mặt với thực tế” rằng nếu giải pháp không được thực hiện tại phiên họp tiếp theo theo lịch trình vào ngày 4 tháng 12, Quốc hội khóa 93 sẽ nhận định là Thiệu đã ngăn cản một thỏa thuận hòa bình và sẽ chấm dứt chiến tranh bằng cách cắt giảm các khoản phân bổ. Tuy nhiên, Nixon đã trấn an Đức rằng nếu Thiệu đồng ý với giải pháp, Hoa Kỳ sẽ trả đũa mạnh mẽ nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận hòa bình.

Nhưng những lời hứa của Nixon không trấn an được Thiệu.  Thiệu biết rõ rằng Quốc hội Mỹ có thể cắt nguồn tài trợ bất cứ lúc nào, để miền Nam  bị cô lập  và tự giải quyết với Bắc Việt. Do đó, Thiệu ít có khuynh hướng nhượng bộ hơn Nixon và Kissinger, những người chỉ muốn chiến tranh kết thúc và Hoa Kỳ rời khỏi Đông Nam Á. Trong bài phát biểu trước Quốc hội VNCH, ông nói rằng nếu quân đội Bắc Việt được phép ở lại miền Nam, thì “việc sáp nhập miền Nam  thông qua các biện pháp quân sự và chính trị chỉ là vấn đề thời gian”. Ông nói thêm rằng Việt Nam Cộng hòa “không ngần ngại tiếp tục chiến đấu, nhưng cần được hỗ trợ”. Ông kết luận, nói rằng “cách đơn giản nhất để đạt được hòa bình là khiến Bắc Việt chấm dứt chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Chúng ta không đòi hỏi rằng chiến tranh kết thúc bằng chiến thắng… mà chỉ trong công lý và với tính chính nghĩa tối thiểu, nghĩa là, người bị xâm lược phải không còn bị xâm lược và kẻ xâm lược phải về nhà”.  Một điểm gây tranh cãi đã được tạo ra bởi những ý tưởng hoàn toàn khác nhau của Nixon và Thiệu về “hòa bình” ở miền Nam : Nixon muốn Hoa Kỳ rời khỏi Đông Nam Á theo cách “danh dự”, nhưng Thiệu lo lắng về sự tồn vong của quốc gia mình.

Một ngày sau cuộc gặp với Nguyễn Phú Đức, Nixon đã gặp Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Ông muốn các vị tham mưu trưởng giúp ông thuyết phục người dân Mỹ rằng thỏa thuận mà Kissinger đang đàm phán ở Paris tương đương với một chiến thắng của Mỹ. Ông cũng muốn họ hỗ trợ để trấn an Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận.  Đô đốc Elmo Zumwalt, chỉ huy các hoạt động hải quân, sau đó đã viết rằng Nixon đã cảnh báo họ không được để người dân Mỹ biết về những lời hứa bí mật của ông là sẽ ủng hộ miền Nam  sau lệnh ngừng bắn, bởi vì tổng thống muốn công chúng tin rằng thỏa thuận này “có nghĩa là chấm dứt mọi sự can dự của Mỹ vào Việt Nam bất kể điều gì xảy ra sau lệnh ngừng bắn”. Nixon sau đó bảo Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bắt đầu chuẩn bị kế hoạch dự phòng cho một cuộc ném bom miền Bắc mới nếu các cuộc đàm phán tiếp tục bế tắc, nhưng trong mọi trường hợp, họ không được lên kế hoạch sử dụng lực lượng bộ binh Hoa Kỳ.

Cách tiếp cận của tổng thống trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam đã đặt Kissinger vào một vị thế gần như không thể bảo vệ được. Bản thân Nixon đã mô tả tình hình đó: “Kissinger không chỉ phải thuyết phục Bắc Việt rằng chúng ta sẽ ở lại và tiếp tục chiến đấu trừ khi họ đồng ý giải quyết, mà còn phải thuyết phục miền Nam  rằng chúng ta sẽ ngừng chiến đấu và rút lui trừ khi họ đồng ý giải quyết.” Làm như vậy trở thành một đề xuất ngày càng khó khăn. Kissinger bay trở lại Paris để gặp Bắc Việt. Lê Đức Thọ khai mạc cuộc họp vào ngày 4 tháng 12 bằng cách bác bỏ các đề xuất của Kissinger và yêu cầu Hoa Kỳ chấp nhận dự thảo hiệp định tháng 10 như đã viết. Sau một tuần đàm phán không có hồi kết, Bắc Việt đã đưa ra những yêu cầu mới của riêng họ dưới hình thức một bộ “giao thức” có chứa 16 thay đổi đối với văn bản gốc. Theo Kissinger, các giao thức này “mở lại toàn bộ danh sách các vấn đề đã được giải quyết, hoặc chúng tôi nghĩ là đã được giải quyết trong thỏa thuận. Chúng bao gồm các điều khoản không có trong thỏa thuận ban đầu và chúng loại trừ các điều khoản có trong văn bản gốc.”

Các cuộc đàm phán quay trở lại vạch xuất phát. Có rất ít bằng chứng giải thích tại sao Hà Nội lùi bước trong các cuộc đàm phán vào phút cuối, nhưng Bắc Việt có thể muốn trì hoãn việc ký kết vì một số lý do. Không đạt được mục tiêu ký kết thỏa thuận trước cuộc bầu cử của Hoa Kỳ, Hà Nội có rất ít động lực (ít nhất là ban đầu) để đẩy nhanh quá trình này. Ngoài ra, việc tiếp tục trì hoãn việc ký kết có thể có lợi cho Bắc Việt bằng cách nới rộng rạn nứt ngày càng tăng giữa Washington và Sài Gòn.  Với bài phát biểu “hòa bình trong tầm tay” của Kissinger, dư luận ở Hoa Kỳ có thể buộc Nixon phải đạt được một nền hòa bình riêng với Hà Nội nếu Thiệu vẫn ngoan cố. Cuối cùng, Bắc Việt càng trì hoãn lâu thì họ càng có nhiều cơ hội tiếp tế và bổ sung cho các đơn vị của mình ở miền Nam. Tất cả những lý do này chắc chắn đã đóng một vai trò nào đó trong quá trình ra quyết định của Hà Nội. Bất kể lý do chính xác là gì, các cuộc đàm phán đã bế tắc. Không bên nào chịu nhượng bộ, và vào ngày 13 tháng 12, Lê Đức Thọ đã bỏ cuộc đàm phán, nói rằng ông cần phải quay lại Hà Nội để tham vấn.

Kissinger trở về Washington để báo cáo với tổng thống. Theo Nixon, Kissinger đã rất tức giận với Bắc Việt: “Chúng chỉ là một lũ khốn nạn. Những kẻ khốn nạn, bẩn thỉu. Chúng khiến cho người Nga trông có vẻ tử tế hơn nhiều.” Tổng thống, tức giận và thất vọng, đã gửi cho Hà Nội một tối hậu thư để bắt đầu “nói chuyện” nghiêm túc trong 72 giờ hoặc phải chịu “hậu quả nghiêm trọng”. Như người viết tiểu sử của Nixon Stephen Ambrose đã chỉ ra, “Bởi vì ông ấy [Nixon] là một Tổng thống thất vọng, nên ông ấy là một Tổng thống nguy hiểm”.  Nixon đã nói với Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân chuẩn bị thực hiện các kế hoạch trước đó về các cuộc không kích lớn nhằm vào Bắc Việt. Ông đã dỡ bỏ mọi hạn chế và yêu cầu họ chuẩn bị tấn công các bãi xe lửa, nhà máy điện, các máy phát vô tuyến ở Hà Nội, các bến tàu và xưởng đóng tàu ở Hải Phòng.

Vào ngày 16 tháng 12, Kissinger đã ra tuyên bố, nói rằng thỏa thuận hòa bình đã hoàn thành “99 phần trăm” nhưng đổ lỗi cho Bắc Việt về việc không hoàn tất thỏa thuận. Ông cảnh báo rằng “chúng ta sẽ không bị tống tiền để đạt được thỏa thuận. Chúng ta sẽ không bị ép buộc phải đạt được thỏa thuận, và…  chúng ta sẽ không bị dụ dỗ vào một thỏa thuận cho đến khi các điều kiện của nó là đúng đắn.” Nguyễn Thanh Lý, người phát ngôn của Bắc Việt tại Paris, phản hồi lại các cáo buộc của Kissinger, nói rằng “hoàn toàn không đúng” khi Bắc Việt đã yêu cầu thay đổi thỏa thuận và tuyên bố thêm rằng “nếu Hoa Kỳ thực sự muốn giải quyết Chiến tranh Việt Nam một cách hòa bình… thì Hoa Kỳ nên ký thỏa thuận đã thỏa thuận mà không chậm trễ và không có bất kỳ thay đổi nào.” Tại một cuộc họp báo ngày 19 tháng 12 tại Paris, Xuân Thủy tuyên bố, “Việc phía Hoa Kỳ cố tình bóp méo sự thật liên quan đến các cuộc họp riêng kể từ ngày 20 tháng 11 năm 1972, nhằm mục đích đánh lừa dư luận Hoa Kỳ và thế giới, trong một nỗ lực để đổ lỗi cho VNDCCH.  và che giấu âm mưu độc ác của Hoa Kỳ là tăng cường ném bom Bắc Việt, tiếp tục chính sách Việt Nam hóa ở miền Nam, sử dụng vũ lực quân sự để buộc người dân Việt Nam chấp nhận các điều khoản do Hoa Kỳ áp đặt.” Rõ ràng là hòa bình không ở trong tầm tay.

TRẬN NÉM BOM GIÁNG SINH

Tin rằng Bắc Việt đang kéo dài các cuộc đàm phán ngay khi thỏa thuận đã gần hoàn tất, Nixon đã ra lệnh phát động Chiến dịch Linebacker II, khôi phục toàn diện các hoạt động không quân chống lại Bắc Việt. Nixon đã viết trong hồi ký của mình, “Bắc Việt cho rằng họ có thể tóm thóp chúng ta và sẽ tiếp tục siết cổ chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta phải hành động mạnh mẽ.” Ông muốn chứng minh với cả Bắc Việt và Thiệu rằng ông vẫn có thể trừng phạt Bắc Việt nếu cần.  Kissinger sau đó đã viết rằng đây là “lần tung xúc xắc cuối cùng của Nixon… có ích nếu nó hiệu quả; còn nếu nó thất bại thì là một mình chứng cho phe cánh hữu thấy rằng ông đã làm tất cả những gì có thể”.Trong hồi ký của mình, Nixon viết rằng đây là “quyết định khó khăn nhất” mà ông phải đưa ra trong cuộc chiến, nhưng cũng nói thêm rằng “đó cũng là một trong những quyết định rõ ràng nhất và cần thiết nhất”. Sau khi đưa ra quyết định, ông nói với Đô đốc Moorer, “Tôi không muốn nghe thêm bất kỳ điều vớ vẩn nào về việc chúng ta không thể đánh trúng mục tiêu này hay mục tiêu nọ nữa. Đây là cơ hội để các ông giành chiến thắng trong cuộc chiến này, và nếu không, tôi sẽ bắt các ông chịu trách nhiệm”.

Khi các phi hành đoàn máy bay ném bom chuẩn bị thực hiện các mệnh lệnh mới, Nixon đã viết cho Thiệu một lần nữa. Lo sợ rằng tổng thống miền Nam  sẽ coi việc tiếp tục ném bom là tín hiệu cho thấy thỏa thuận hòa bình đã chết, Nixon đã cử Tướng Haig trở lại Sài Gòn cùng với bức thư cho Thiệu. Nixon đảm bảo với tổng thống miền Nam  rằng ông có ý định tiếp tục thỏa thuận hòa bình ngay khi Bắc Việt quay lại bàn đàm phán. Cuối thư, ông viết thêm bằng chính tay mình: “Tôi đã yêu cầu Tướng Haig xin câu trả lời của ngài cho lời đề nghị cuối cùng này để chúng ta cùng nhau làm việc nhằm tìm kiếm một giải pháp theo hướng tôi đã chấp thuận hoặc mỗi bên đi theo một con đường riêng. Kết luận,  tôi xin nhấn mạnh là Tướng Haig không đến Sài Gòn với mục đích đàm phán với ngài. . . . Ngài phải quyết định ngay liệu ngài có muốn tiếp tục là đồng minh của chúng tôi hay muốn tôi tìm kiếm một giải pháp với kẻ thù chỉ phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ.”

Bắt đầu từ ngày 18 tháng 12 và trong 11 ngày tiếp theo, các máy bay B-52, F-105, F-4, F-111 và A-6 của Hoa Kỳ đã tấn công các mục tiêu trên khắp Bắc Việt, thực hiện hơn 3.000 phi vụ và thả hơn 40.000 tấn bom. Khu vực Hà Nội-Hải Phòng bị tấn công đặc biệt dữ dội, nhưng thiệt hại thì rất lớn ở khắp mọi nơi.  Có báo cáo rằng “Hầu như toàn bộ năng lực công nghiệp [của Bắc Việt] đã biến mất. Các nhà máy phát điện và lưới truyền tải của họ đã bị đánh tan tành. Các kho chứa khí đốt và dầu chỉ còn là những bức tường bị cháy rụi. Các sân ga đường sắt trông giống như cảnh quan trên mặt trăng. Đường bộ và kênh rạch bị tắc nghẽn bởi phương tiện vận tải bị phá hủy, các khu vực lưu trữ SAM [tên lửa đất đối không], xe tăng, pháo binh và xe tải đã bị nghiền nát. Giao thông quân sự giảm xuống chỉ còn nhỏ giọt.”

Lực lượng phòng không Bắc Việt đã trả đũa, bắn hạ 15 chiếc B-52 và 11 máy bay khác, nhưng phi cơ Mỹ vẫn tiếp tục bay đến. Vào giai đoạn sau của chiến dịch, hệ thống phòng không của Hà Nội đã bị phá hủy và Bắc Việt gần như không có khả năng chống lại các cuộc không kích; cựu sĩ quan tình báo MACV, Tướng Davidson đã báo cáo rằng trong ba ngày cuối cùng của chiến dịch, máy bay Hoa Kỳ hầu như không thu hút hỏa lực nào. Không bị hỏa lực phòng không của Bắc Việt cản trở, máy bay ném bom của Hoa Kỳ đã hoàn thành việc tiêu diệt hầu hết các mục tiêu ưu tiên của họ. Khoảng 80 phần trăm nguồn điện của Bắc Việt đã bị phá hủy, và gần 25 phần trăm nguồn cung cấp dầu mỏ của quốc gia đã bị phá hủy. Trong lời khai trước Ủy ban Tài chính Hạ viện vào cuối năm, Đô đốc Moorer tuyên bố rằng vụ ném bom vào tháng 12 đã làm giảm khả năng gây chiến của Hà Nội xuống còn “ít hơn một nửa” so với trước khi các cảng của Hà Nội bị đánh bom vào tháng 5 năm 1972.

Phản ứng đối với vụ đánh bom mới bùng lên nhanh chóng, cả trong và ngoài nước. Người dân châu Âu vô cùng kinh hoàng. Thủ tướng Thụy Điển, Olaf Palme, đã so sánh vụ đánh bom với những hành động tàn bạo của Đức Quốc xã trong Thế chiến II. Roy Jenkins, nhà lãnh đạo thường ủng hộ Mỹ của Đảng Lao động Anh, đã gọi các cuộc đột kích là “làn sóng khủng bố”. Tờ London Daily Mirror cho biết các cuộc đột kích “khiến thế giới phải lùi lại vì ghê tởm”. Tờ báo Die Zeit của Hamburg mô tả vụ đánh bom là “một tội ác chống lại loài người”. Giáo hoàng Paul VI gọi vụ đánh bom là “đối tượng của nỗi đau thường nhật”. Ở Hoa Kỳ, phản ứng cũng nghiêm trọng không kém. Sự phản đối của giới truyền thông đối với vụ đánh bom gần như là phổ biến: một bài xã luận của James Reston trên tờ New York Times gọi chiến dịch đánh bom của Nixon là “sự man rợ của thời kỳ đồ đá” và “chiến tranh bằng cơn thịnh nộ”; tạp chí Newsweek gọi đó là “ngoại giao bằng khủng bố”;  và Washington Post gọi các cuộc đột kích là “man rợ và vô nghĩa”.

Phản ứng của Quốc hội cũng nổi lên ngay lập tức. Mặc dù Quốc hội đã hoãn họp trong kỳ nghỉ lễ cuối năm, các đảng viên Dân chủ hàng đầu đã lên án hành động của Nixon và lên kế hoạch đưa ra luật mới để chấm dứt sự tham gia của Hoa Kỳ vào Đông Nam Á. Thượng nghị sĩ Edmund Muskie gọi vụ đánh bom là “thảm họa” và cho biết ông sẽ “yêu cầu giải thích”. Thượng nghị sĩ Jacob Javits đã đe dọa cắt nguồn tài trợ cho chiến dịch này, và Thượng nghị sĩ William A. Saxbe cho rằng Nixon dường như đã “mất trí”.

Trong một cuộc thăm dò được thực hiện vài ngày sau khi cuộc đánh bom bắt đầu, 45 trong số 73 thượng nghị sĩ được hỏi đã phản đối hành động này; chỉ có 19 người ủng hộ. 45 thượng nghị sĩ tuyên bố sẵn sàng ủng hộ luật chấm dứt chiến tranh.

Chính quyền Nixon đã mong đợi một phản ứng tiêu cực mạnh mẽ đối với vụ ném bom, nhưng theo Kissinger, “Những lời buộc tội vô đạo đức và lừa dối được đưa ra một cách bừa bãi; ‘man rợ’ là một tính từ ưa thích khác. Có vẻ như người ta cho rằng Bắc Việt vô tội và rằng chúng tôi đã bắt đầu một quá trình tiêu diệt thường dân.” Tuy nhiên, đó không phải là trường hợp. Stanley Karnow đưa tin rằng cái gọi là “cuộc ném bom trải thảm” Hà Nội và Hải Phòng, mà nhiều phương tiện truyền thông so sánh với một Hiroshima khác, chỉ gây ra 1.318 thương vong thường dân ở Hà Nội và 305 thương vong ở Hải Phòng.  (Quả bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945 đã giết chết từ 130.000 đến 150.000 người.) Mặc dù có một số sai lầm, chẳng hạn như vụ đánh bom nhầm bệnh viện Bạch Mai, Karnow khẳng định rằng các phi công Mỹ đã cố gắng hết sức tránh thương vong cho dân thường.

Không nao núng trước phản ứng của báo chí hoặc tổn thất sinh mạng các phi công, Nixon vẫn tiếp tục ném bom cho đến ngày 30 tháng 12. Vào ngày 22 tháng 12, ông đã gửi Hà Nội một thông điệp rằng ông sẽ dừng ném bom phía trên vĩ tuyến 20 bắt đầu từ ngày 31 tháng 12 nếu Bắc Việt đồng ý nối lại các cuộc đàm phán tại Paris trước ngày 3 tháng 1. Hà Nội đã không phản hồi, vì vậy ông đã phát động cuộc tấn công dữ dội nhất cho đến thời điểm đó vào ngày 26 tháng 12, trong đó 120 máy bay ném bom đã tấn công 10 mục tiêu ở Hà Nội và Hải Phòng trong khoảng thời gian 15 phút.  Ngay sau đó, Hà Nội đã gửi một thông điệp yêu cầu nối lại các cuộc đàm phán vào ngày 8 tháng 1. Nixon trả lời rằng ông muốn các cuộc đàm phán kỹ thuật bắt đầu vào ngày 2 tháng 1 và quy định rằng Bắc Việt không được nêu lại các vấn đề đã được xem xét trong thỏa thuận cơ bản. Nếu họ đồng ý, ông sẽ ngừng ném bom trong vòng 36 giờ. Họ đã làm như vậy, và vào ngày 29 tháng 12, Nixon tuyên bố chấm dứt Chiến dịch Linebacker II. Trong hồi ký của mình, Nixon gọi việc Hà Nội quay trở lại đàm phán là một “sự đầu hàng đáng kinh ngạc,” vốn bị buộc phải thực hiện bởi vụ ném bom.

Vì không phải ai cũng đồng ý với đánh giá của Nixon, nên tác động của trận ném bom Giáng sinh đối với các cuộc đàm phán đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi. Nhiều nhà sử học, như người viết tiểu sử Nixon Stephen Ambrose, tin rằng vụ ném bom có ít tác động đến kết quả cuối cùng của các cuộc đàm phán và rằng “Nixon đã ném bom Hà Nội để buộc Bắc Việt đồng ý với một thỏa thuận mà họ đã đồng ý.” Tuy nhiên, những người khác lại cho rằng Linebacker II và sự tàn phá mà nó gây ra đã đưa Bắc Việt trở lại bàn đàm phán. Nhà sử học Earl Tilford viết,

Cuộc chiến 11 ngày” đã khoác một màn huyền thoại và là chủ đề gây tranh cãi. Trong nội bộ Không lực Hoa Kỳ trong Kỷ nguyên hậu Việt Nam, có một niềm tin cho rằng Linebacker II đã “khiến Hà Nội phải khuất phục”. Đồng thời, “cuộc ném bom Giáng sinh” đã đạt được vị thế gần như mang tính biểu tượng trong thần học phản chiến, đặc biệt là đối với những ai cho rằng nó tạo nên “một Dresden khác“ [Một thị trấn dân cư bị Đồng Minh dội bom lầm trong Thế chiến II]. Cả hai cách giải thích đều sai… Đóng góp của Linebacker II phù hợp hơn nhiều với các khái niệm truyền thống về ném bom chiến lược—nó có tác động tâm lý đến giới lãnh đạo Hà Nội. Điều đó, cùng với việc phá hủy hệ thống phòng không của Bắc Việt, cuối cùng đã buộc họ phải quay trở lại các cuộc đàm phán hòa bình có ý nghĩa.

Ngay cả những người nghi ngờ về vai trò của vụ ném bom trong việc đưa Bắc Việt trở lại bàn đàm phán cũng đồng ý rằng nó có thể có một tác động quan trọng không kém. Stanley Karnow, trong khi tin rằng vụ ném bom không đạt được nhiều thành tựu về mặt ngoại giao, đã khẳng định rằng động cơ chính của Nixon không phải là ngoại giao mà là một cách để trấn an Thiệu và cảnh báo những người Cộng sản rằng ông sẽ không ngần ngại ném bom Bắc Việt một lần nữa nếu hiệp định đình chiến bị phá vỡ. Khẳng định của Karnow là đúng; bản thân Nixon sau đó đã viết rằng mình đã sử dụng vụ ném bom để chứng minh “khả năng đơn phương của riêng mình trong việc ngăn chặn vi phạm” cũng như để duy trì “uy tín trong việc giám sát thỏa thuận”. Không có nhiều nghi ngờ rằng việc Nixon sẵn sàng sử dụng máy bay ném bom của mình chống lại Hà Nội là một yếu tố quan trọng giúp xoa dịu một phần nỗi lo sợ của Thiệu về việc Hoa Kỳ sẽ không sẵn sàng tiếp tục hỗ trợ, điều này đã góp phần vào việc cuối cùng Thiệu cũng đã chấp thuận các thỏa thuận hòa bình.  Không ai ngoài Bắc Việt biết chắc (và cho đến nay họ vẫn chưa tiết lộ) vụ đánh bom Giáng sinh đã ảnh hưởng đến quyết định nối lại các cuộc đàm phán của họ như thế nào. Tuy nhiên, thực tế vẫn là họ đã quay trở lại bàn đàm phán.

Nixon, dự đoán rằng vụ đánh bom đã mở đường cho một bước đột phá trong các cuộc đàm phán, đã gửi cho Thiệu một lá thư khác vào ngày 5 tháng 1. Ông nói với nhà lãnh đạo miền Nam  rằng Kissinger sẽ trình bày những lo ngại liên tục của Thiệu tại cuộc họp ở Paris nhưng không mong đợi cũng như không yêu cầu Hà Nội chấp nhận những lo ngại đó. Nixon nói rằng vấn đề quân đội Bắc Việt ở miền Nam là “có thể quản lý được” và nói thêm rằng nếu các điều khoản của Hoa Kỳ được đáp ứng về các vấn đề còn lại, “chúng tôi sẽ tiến hành kết thúc thỏa thuận. Hậu quả nghiêm trọng nhất sẽ xảy ra nếu chính phủ của ông chọn từ chối thỏa thuận và tách khỏi Hoa Kỳ”. Như thường lệ, ông hứa sẽ “phản ứng bằng toàn sức lực nếu Bắc Việt vi phạm thỏa thuận”.

Cùng ngày Nixon gửi thư, ông và các cố vấn của mình đã gặp Bùi Diễm, đại sứ lưu động của Thiệu. Diễm đã nhận được cùng một thông điệp đã được gửi cho Thiệu. Trong một cuộc họp tiếp theo, Tướng Haig nói với Diễm, “Tôi không nghi ngờ gì về quyết tâm của tổng thống chúng tôi trong việc tiến hành. . . . Nếu tổng thống của các ông quyết định từ chối, thì đó sẽ là sự kết thúc của mọi thứ—nói cách khác, là sự từ bỏ miền Nam .”

TRỞ LẠI PARIS VÀ KÝ KẾT HIỆP ĐỊNH HÒA BÌNH

Kissinger đã khởi hành đến Paris vào ngày 7 tháng 1. Ngày hôm sau, ông đã gặp Lê Đức Thọ, và họ nhanh chóng giải quyết các chi tiết còn lại của thỏa thuận.  Ngoại trừ những thay đổi nhỏ có tính tô điểm về mặt ngôn ngữ củng cố đường phân chia tại DMZ, thỏa thuận về cơ bản giống như thỏa thuận mà Nixon đã từ chối vào tháng 11—các nhà đàm phán Hoa Kỳ đã không đạt được bất kỳ nhượng bộ mới nào. Thỏa thuận cuối cùng hoàn toàn bỏ qua phản đối chính của Thiệu—sự hiện diện liên tục của quân đội BV ở miền Nam—và cũng không giải quyết được lệnh ngừng bắn toàn Đông Dương. Khi được một trong những trợ lý của mình hỏi tại sao ông không gây sức ép với Hà Nội để có thêm nhượng bộ, Kissinger đã trả lời, “Này, anh không hiểu chỉ thị cho tôi sao. Lệnh cho tôi là phải ký kết điều này trước lễ nhậm chức.” Sau khi thực hiện những lệnh đó, Kissinger đã gửi điện cho Nixon viết đã có “một bước đột phá lớn trong các cuộc đàm phán. Tóm lại, chúng ta đã giải quyết tất cả các vấn đề còn tồn đọng trong văn bản thỏa thuận.”

Nixon, thấy trước sự ngoan cố liên tục của Thiệu, đã cử Tướng Haig đến Sài Gòn một lần nữa để đưa ra tối hậu thư cho tổng thống miền Nam . Vào ngày 16 tháng 1, Haig, thực hiện nhiệm vụ cấp cao lần thứ sáu để tranh thủ sự ủng hộ của Thiệu đối với thỏa thuận hòa bình, đã chuyển một lá thư từ Nixon thông báo cho Thiệu về thỏa thuận do Kissinger đàm phán và tuyên bố, “Tôi đã . . . quyết định không thể hủy bỏ việc tiến hành ký tắt Thỏa thuận vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 và ký vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Tôi sẽ làm như vậy, nếu cần thiết, một mình.” Trong trường hợp đó, ông cảnh báo, “Tôi sẽ phải giải thích công khai rằng chính phủ của ngài cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt ngay lập tức và không thể tránh khỏi của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ.” Sau khi đe dọa Thiệu, Nixon đã cố gắng trấn an ông ta.  Nếu Thiệu chịu ký thỏa thuận, Nixon sẽ ” nhấn mạnh rõ ràng Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính phủ hợp pháp duy nhất của miền Nam; rằng chúng tôi không công nhận quyền của bất kỳ quân đội nước ngoài nào được hiện diện trên lãnh thổ miền Nam ; rằng chúng tôi sẽ phản ứng mạnh mẽ trong trường hợp thỏa thuận bị vi phạm”.  Ông cũng hứa sẽ tiếp tục viện trợ kinh tế và quân sự đầy đủ. Đây là những lời hứa suông. Lời hứa viện trợ gây nhiều nghi ngờ, do sự phản đối của Quốc hội đối với bất kỳ sự can dự nào vào Đông Nam Á. Tuy nhiên, rõ ràng là Hoa Kỳ sẽ ký thỏa thuận theo cách này hay cách khác. Tuy nhiên, Thiệu vẫn không lay chuyển. Ông đã gửi một lá thư cho Nixon liệt kê những phản đối tương tự đối với “thỏa thuận đầu hàng” mà ông đã đưa ra từ đầu.

Nixon đang mất kiên nhẫn.  Ông sẽ nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai vào ngày 20 tháng 1 năm 1973, và ông hy vọng có thể công bố việc ký kết các hiệp định hòa bình trong bài phát biểu nhậm chức của mình. Việc Thiệu từ chối chấp nhận các điều khoản đã ngăn cản một thông báo như vậy. Vào ngày 20 tháng 1, Nixon đã gửi cho Thiệu một tối hậu thư cuối cùng, nói rằng nếu ông không nhận được câu trả lời “tích cực” từ Thiệu vào buổi trưa, giờ Washington, ngày 21 tháng 1, ông sẽ yêu cầu Kissinger ký tắt thỏa thuận mà không cần sự đồng ý của miền Nam . Thiệu nhận ra rằng cuối cùng mình đã không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp thuận mong muốn của Nixon. Theo đó, ông đã gửi điện cho Nixon vào ngày 22 tháng 1 rằng ông sẽ chấp thuận thỏa thuận.

 Vào tối ngày 23 tháng 1 năm 1973, Tổng thống Nixon đã phát biểu trước toàn quốc trên đài phát thanh và truyền hình, đưa ra tuyên bố chính thức chấm dứt chiến tranh:

Hôm nay, chúng ta đã ký kết một thỏa thuận chấm dứt chiến tranh và mang lại hòa bình trong danh dự cho Việt Nam và Đông Nam Á. Vào lúc 12:30 giờ Paris hôm nay, ngày 23 tháng 1 năm 1973, thỏa thuận chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam đã được ký bởi Tiến sĩ Henry Kissinger thay mặt cho Hoa Kỳ và Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ thay mặt cho Cộng hòa Dân chủ Việt Nam. Thỏa thuận sẽ được các bên tham gia Hội nghị Paris về Việt Nam chính thức ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Paris.  Lệnh ngừng bắn sẽ có hiệu lực vào lúc 24 giờ chuẩn Greenwich, ngày 27 tháng 1 năm 1973. Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bày tỏ hy vọng rằng thỏa thuận này sẽ đảm bảo hòa bình ổn định tại Việt Nam và góp phần duy trì hòa bình lâu dài tại Đông Dương và Đông Nam Á.

Với việc ký kết “Hiệp định Chấm dứt Chiến tranh và Lập lại Hòa bình tại Việt Nam”, Nixon đã chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, ít nhất là đối với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, như Stephen Ambrose chỉ ra, các cuộc đàm phán phức tạp và cuộc ném bom miền Bắc Việt đã dẫn đến một giải pháp hòa bình hầu như không khác gì giải pháp đã được đề xuất vào tháng 10. Tuy nhiên, sau đó, Tổng thống Nixon tuyên bố rằng, vào năm 1973, khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, “Chúng tôi đã giành chiến thắng trong cuộc chiến ở Việt Nam. Chúng tôi đã đạt được mục tiêu duy nhất mà chúng tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến.  Nhân dân miền Nam  sẽ có quyền quyết định tương lai chính trị của riêng mình.” Thực ra, điều họ có được là quyền tự mình chiến đấu với Cộng sản, bởi vì hiệp định hòa bình không giải quyết được vấn đề vì đó mà cuộc chiến đã diễn ra ngay từ đầu—như Lê Đức Thọ đã tuyên bố trước đó, “vấn đề quyền lực ở miền Nam “. Mặc dù hiệp định đã dừng cuộc xung đột trong một thời gian rất ngắn nhưng thỏa thuận này chắc chắn sẽ thất bại vì nó yêu cầu lực lượng Hoa Kỳ còn lại phải rời đi, nhưng để mặc khoảng 150.000 quân BV đang đóng quân ở Tây Nguyên và những nơi khác trên khắp miền Nam, một lực lượng đồn trú có thể dễ dàng được tăng cường sau khi người Mỹ rời đi.

Tình hình trở nên tồi tệ hơn do thực tế là thỏa thuận không đưa ra biện pháp hiệu quả nào để thực thi lệnh ngừng bắn.  Ủy ban Quân sự Liên hợp và Ủy ban Kiểm soát và Giám sát Quốc tế, cả hai đều được cho là sẽ giúp thực thi lệnh ngừng bắn, hoạt động theo nguyên tắc nhất trí, trao cho Bắc Việt quyền phủ quyết đối với Ủy ban Liên hợp và  người Cộng sản có cùng quyền ngăn chặn đối với Ủy ban Quốc tế. Những gì xảy ra sau đó là sự kiện mà người Cộng sản gọi là “nửa chiến tranh và nửa hòa bình”. Như Stanley Karnow đã dự đoán trong một bài báo tháng 1 năm 1973 trên tờ The New Republic, lệnh ngừng bắn chỉ là “một khoảng thời gian tạm dừng” trước khi “khởi đầu những gì có thể trở thành cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba”. Ông nói thêm rằng vẫn còn phải chờ xem “liệu cuộc đấu tranh sắp tới có thể diễn ra mà không có sự tham gia của Hoa Kỳ hay không”. Đối với Hoa Kỳ, cuộc chiến đã kết thúc. Đối với miền Nam , cuộc chiến mới chỉ bắt đầu một giai đoạn khác.  Hiệu quả của chính sách Việt Nam hóa của Nixon và lực lượng mà nó xây dựng sẽ được đưa vào thử nghiệm cuối cùng mà không có bất kỳ sự hỗ trợ nào của Hoa Kỳ—miền Nam  sẽ phải tự mình đối mặt với Cộng sản. Vào đầu tháng 2, Kissinger nói với nhà báo Marvin Kalb rằng “chúng tôi luôn có ý định cho phép miền Nam  tự gánh vác gánh nặng phòng thủ quân sự của chính họ và chúng tôi tin rằng chúng tôi đã đặt để họ vào một vị trí mà họ có thể xử lý hầu hết các thách thức chúng tôi hiện có thể lường trước được”. Đây là một đánh giá đầy hy vọng; thật không may, chương trình Việt Nam hóa mà Kissinger ám chỉ đã không giải quyết được nhiều vấn đề tồn tại lâu dài của QLVNCH. Ngoài ra, các thiết bị đồ sộ mà Hoa Kỳ cung cấp cho miền Nam  khi rời khỏi Đông Nam Á, “những chiếc máy bay mà họ không thể lái, những con tàu mà họ không thể điều khiển, và xe tăng cùng các thiết bị khác mà họ không thể bảo dưỡng”. Những hậu quả cay đắng của tình hình này sẽ được nhận ra trong hai năm tiếp theo.

MỸ RÚT QUÂN.

Lệnh ngừng bắn có hiệu lực vào lúc 8 giờ sáng Chủ Nhật theo giờ Sài Gòn vào ngày 28 tháng 1 (nửa đêm, Giờ chuẩn Greenwich, ngày 27 tháng 1 năm 1973). Tại Trụ sở MACV, Thiếu tá Jere K. Forbus, sĩ quan báo cáo, đã thông báo với các phóng viên đang tập trung, “Tất cả các hoạt động quân sự tấn công của lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa đã dừng lại lúc 08 giờ sáng nay.”  Chiến tranh đã kết thúc đối với Hoa Kỳ. Trung tá William B. Nolde, cố vấn cấp cao cho tỉnh trưởng Bình Long tại An Lộc, đã bị một quả đạn pháo của Bắc Việt giết chết lúc chín giờ đêm trước lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Ông là người Mỹ thứ 46.941 tử trận và là thương vong chính thức cuối cùng của Hoa Kỳ trong cuộc chiến.

Theo các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn, Hoa Kỳ đồng ý “dừng mọi hoạt động quân sự chống lại lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” và rút quân đội Mỹ còn lại, bao gồm cả cố vấn, khỏi miền Nam  trong vòng 60 ngày. Lực lượng Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam  như đã thỏa thuận, với những người lính cuối cùng rời khỏi Sài Gòn vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Ngày hôm đó, 61 tù binh chiến tranh Mỹ cuối cùng được biết là bị Bắc Việt giam giữ đã được thả. Dù tốt hay xấu, Việt Nam hóa đã chính thức kết thúc một lần và mãi mãi; miền Nam  phải tự lo liệu. Sự hiện diện quân sự duy nhất còn lại của Hoa Kỳ tại miền Nam  (ngoài 159 TQLC vẫn ở lại để bảo vệ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn) là Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (DAO) mới thành lập dưới quyền Thiếu tướng John E. Murray.  DAO bao gồm 50 sĩ quan và khoảng 1.200 thường dân Mỹ, nhiều người trong số họ là sĩ quan trung cấp và cao cấp đã nghỉ hưu. Nhiệm vụ của họ là giám sát các hoạt động quân sự của miền Nam  trong khi cung cấp hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực như truyền thông và tình báo, nhưng theo thỏa thuận ngừng bắn, không được đưa ra lời cố vấn về các hoạt động quân sự hoặc chiến thuật. Để hỗ trợ DAO và chuẩn bị các kế hoạch dự phòng cho khả năng tái diễn chiến tranh trên không ở Đông Nam Á nếu Hoa Kỳ quyết định làm như vậy, Nhóm Hoạt động Hỗ trợ của Hoa Kỳ, do Tướng John W. Vogt Jr., Không quân Hoa Kỳ chỉ huy, đã được thành lập tại Nakhon Phanom ở đông bắc Thái Lan.

Tướng Frederick Weyand chính thức giải tán Bộ tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ, Việt Nam, vào ngày 29 tháng 3 năm 1973. Trong đánh giá cuối cùng về tình hình quân sự ở Việt Nam, Weyand thận trọng tuyên bố QLVNCH “có khả năng bảo vệ miền Nam  khỏi bất kỳ cuộc tấn công nào trừ cuộc tấn công được cường quốc lớn hỗ trợ với quy mô lớn”. Ông tin rằng nếu thỏa thuận ngừng bắn được tôn trọng, cuộc xung đột vũ trang sẽ dần dần biến thành một cuộc đấu tranh chính trị.  Tuy nhiên, nếu lệnh ngừng bắn không được hai bên tuân thủ, ông dự đoán rằng “chúng ta sẽ phải đối mặt với quyết định khó khăn về việc Hoa Kỳ tái can thiệp và nghi vấn tất yếu về giá trị của nỗ lực tham chiến trong quá khứ của chúng ta”. Ông lưu ý đến sự gia tăng của Bắc Việt ở miền Nam  và ước tính rằng quân BV sẽ có khả năng phát động một cuộc tấn công lớn vào Quân đoàn I và III trong năm 1974. Weyand tin rằng khả năng của miền Nam  trong việc đối phó với mối đe dọa này phụ thuộc vào kỹ năng của Thiệu trong việc thu hút sự ủng hộ trong nước và quốc tế, giảm tham nhũng nội bộ và cải thiện sự lãnh đạo quân sự, cũng như vào “việc tiếp tục các mức viện trợ quân sự và kinh tế đầy đủ của Hoa Kỳ”.

Vào ngày người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Sài Gòn, Nixon đã lên truyền hình và phát thanh quốc gia và đưa tin rằng “lần đầu tiên sau 12 năm, không có lực lượng quân sự Hoa Kỳ nào ở Việt Nam. Tất cả các tù binh chiến tranh của chúng ta đều đang trên đường trở về nhà.17 triệu người dân miền Nam  có quyền lựa chọn chính phủ của riêng mình mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, và nhờ chương trình Việt Nam hóa của chúng ta, họ có sức mạnh để bảo vệ quyền đó. Chúng ta đã ngăn chặn việc áp đặt một chính phủ Cộng sản bằng vũ lực lên miền Nam .”

Nixon đã sử dụng Việt Nam hóa và các cuộc đàm phán ở Paris như một phương tiện để đạt được “hòa bình trong danh dự” mà ông đã hứa và đưa Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam. Nhiều người trong chính quyền đồng ý với Đại sứ Ellsworth Bunker, người đã tuyên bố trong báo cáo cuối cùng của mình với Nixon rằng “Việt Nam hóa đã thành công.” Sự lạc quan như vậy không phổ biến bên ngoài nhánh hành pháp, đặc biệt là trong số những người làm việc chặt chẽ với quân đội miền Nam . Có lẽ đánh giá tốt nhất về cơ hội của Sài Gòn là của một sĩ quan DAO, anh đã trả lời vào đầu năm 1973 khi được hỏi về triển vọng tương lai của người miền Nam  chống lại Cộng sản, “Chỉ có thời gian mới trả lời được liệu có đủ thời gian hay không.” Thời gian luôn là vấn đề then chốt trong nỗ lực Việt Nam hóa Chiến tranh. Thật không may, với sự ra đi của toàn bộ quân đội Hoa Kỳ, thời gian bắt đầu cạn kiệt đối với miền Nam .

CHIẾM ĐẤT 73

Khi lệnh ngừng bắn bắt đầu vào ngày 27 tháng 1, QĐNDVN ước tính có 170.000 bộ đội chiến đấu bên trong biên giới miền Nam  và khoảng 100.000 quân chính quy ở Lào và Campuchia (xem bảng 10 để biết tóm tắt về lực lượng Cộng sản ở miền Nam ). Mặc dù miền Nam  kiểm soát hầu hết các khu vực đông dân cư của miền Nam, quân BV kiểm soát phần cực bắc và tây bắc của Quân khu I, phía nam Khu phi quân sự và dọc theo biên giới Lào, phần tây bắc của Tỉnh Kontum ở Tây Nguyên (Quân khu II), và hầu hết Tỉnh Phước Long và phía bắc Tỉnh Bình Long ở Quân khu III dọc theo biên giới Campuchia. Họ cũng kiểm soát các “đốm da báo” mà họ đã chiếm được trong cuộc chiếm đất trước đó vào tháng 10 năm 1972. Những khu vực do Cộng sản kiểm soát này, như tướng VNCH Nguyễn Duy Hinh mô tả, “đúng là những lưỡi dao đâm vào sườn quốc gia.”

Bảng 10. Sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam tại miền Nam  khi bắt đầu ngừng bắn

                               Đơn vị                      Đơn vị hành chính                Du kích          Tổng số

                                   chiến đấu                và hậu cần

Quân khu I

Quân khu II

Quân khu III

Quân khu IV

Tổng

79450

31200

27300

29050

167000

35240

18500

17315

14065

86120

5928

11017

10730

13325

41000

120.618

60717

55345

56440

293120

Nguồn: Nguyễn Duy Hinh, Việt Nam hóa và Ngừng Bắn (Trung tâm Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ Washington, D.C., 1980)

Bắc Việt đã phớt lờ hiệp định hòa bình ngay cả trước khi nó có hiệu lực. Cũng giống như những gì họ đã làm vào tháng 10, họ ra sức lấn chiếm càng nhiều lãnh thổ càng tốt trước khi cuộc giao tranh buộc dừng lại theo đúng lịch. Trong 48 giờ trước khi ngừng bắn, quân miền Bắc đã tấn công hơn 400 thôn làng. Giao tranh diễn ra ác liệt, và các máy bay của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ đã thực hiện 900 phi vụ ném bom và 50 cuộc không kích B-52 để hỗ trợ cho các lực lượng miền Nam  trong thời gian này.

Ngay cả khi Bắc Việt cố gắng mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với lãnh thổ miền Nam , họ nhận ra rằng họ cần phải xây dựng lại và tăng cường quân đội của họ ở miền Nam nếu họ muốn giữ gìn lãnh thổ đã chiếm. Theo lệnh ngừng bắn, Bắc Việt bắt đầu đưa quân vào phía nam dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh. Mặc dù họ đã đồng ý rút khỏi Lào và ngừng sử dụng Lào và Campuchia làm hành lang xâm nhập, các nhà lãnh đạo Hà Nội vẫn tiếp tục di chuyển quân thay thế và tiếp tế xuống đường mòn để tân trang các đơn vị của họ ở miền Nam, vi phạm trực tiếp các hiệp định hòa bình. Theo Tướng Nguyễn Duy Hinh, Bắc Việt “bắt đầu một chương trình phát triển lực lượng chưa từng có hoặc có thể sẽ không bao giờ có trong toàn bộ lịch sử Chiến tranh Đông Dương”.

Việc tăng cường như vậy là cần thiết vì lực lượng QĐNDVN  ở miền Nam  đang trong tình trạng kiệt sức hoàn toàn. Chiến dịch Nguyễn Huệ đã rất tiêu hao: toàn bộ các đơn vị đã bị xóa sổ;  một tỷ lệ lớn xe bọc thép và pháo hạng nặng đã bị phá hủy trong cuộc giao tranh; và các kho hàng hậu cần đã bị hủy diệt và đạn dược đã cạn kiệt. Đại tá Trần Văn Trà, chỉ huy mặt trận B-2 của Trung ương cục miền Nam, một khu vực bao gồm toàn bộ miền Nam  ở phía nam Tây Nguyên, sau này viết rằng “vào năm 1973, cán bộ và binh lính của chúng tôi đã mệt mỏi, chúng tôi không có thời gian để bù đắp tổn thất, tất cả các đơn vị đều rối loạn, thiếu nhân lực, thiếu lương thực và đạn dược . . . ” Để khắc phục tình trạng này trong khi vẫn giữ được vị trí của mình ở miền Nam, Bắc Việt đã phải khởi xướng một chương trình tiếp tế lớn, mà có thể thực hiện được nhờ sự viện trợ tăng cường từ Trung Quốc và Liên Xô.

Theo nguồn tin tình báo, Bắc Việt đã nhận được tổng cộng 2,8 triệu tấn hàng hóa từ các nước khối Cộng sản vào năm 1973, tăng 50 phần trăm so với số liệu viện trợ năm 1972; vào năm 1974, tổng số đã tăng lên 3,5 triệu tấn.

Để phân phối số lượng lớn thiết bị và vật tư này, Bắc Việt đã lập ra một chương trình cải tạo để biến Đường mòn Hồ Chí Minh thành một mạng lưới đường đá dăm rộng, cầu bê tông, đường ống và các chương trình thoát nước cố định để hỗ trợ việc xây dựng lực lượng của họ ở miền Nam. Không có mối đe dọa từ các cuộc không kích của Hoa Kỳ, QĐNDVN có thể thực hiện những cải tạo này rất nhanh chóng, tới tấp tăng cường sự xâm nhập của người và thiết bị vào miền Nam. Trong những tháng đầu năm 1973, các máy bay quan sát của Không quân Việt Nam liên tục báo cáo nhìn thấy đoàn xe gồm 200–300 chiếc, bao gồm xe tăng, xe tải và pháo hạng nặng, đi xuống đường mòn; toàn bộ các đơn vị dường như đang di chuyển về phía nam. Đáng ngại hơn, các nguồn tin tình báo cho biết Bắc Việt đang tăng cường đáng kể khả năng phòng không của họ ở miền Nam. Điều này không báo hiệu điều tốt lành cho miền Nam, những người đã được các cố vấn Mỹ dạy phải dựa nhiều vào sự hỗ trợ không quân chiến thuật.

Bất chấp sự gia tăng lực lượng của Cộng sản ở miền Nam, QLVNCH, với hơn một triệu người vũ trang, có vẻ hùng mạnh hơn ở miền Nam  so với quân BV và Việt Cộng cộng lại khi lệnh ngừng bắn bắt đầu (xem bảng 11). Ngoài ra, miền Nam  vừa nhận được một lượng lớn vũ khí, thiết bị và vật tư theo chương trình Tăng cường và Tăng cường Hơn.  Thoạt nhìn, QLVNCH có vẻ đủ khả năng đối phó với lực lượng Bắc Việt và Việt Cộng ở miền Nam. Tuy nhiên, để so sánh chính xác sức mạnh tương đối thì phải cần nhiều hơn là chỉ căn cứ vào số lượng và tỷ lệ lực lượng quân miền Nam phải chịu tổn thất trong cuộc tấn công của BV năm 1972 và đang cố gắng phục hồi sau những chấn thương của một năm đầy biến cố đó. Nhiều vấn đề đã gây khó khăn cho quân đội miền Nam  trong nhiều năm, chẳng hạn như lãnh đạo kém và tỷ lệ đào ngũ cao, vẫn chưa được giải quyết. Một đánh giá của Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ tại Sài Gòn vào tháng 7 năm 1973 đã ghi nhận tình trạng tham nhũng dai dẳng, tinh thần sa sút và tình trạng thiếu hụt liên tục các nhà lãnh đạo cấp trung và quản lý nguồn lực hậu cần.

Bảng 11. QLVNCH và Lực lượng Cộng sản ở miền Nam, 1973

QK I QK2 QK3 QK4 TC
QLVNCH

 

Sư đoàn

Các trung đoàn và lữ đoàn riêng biệt

Tiểu đoàn chính quy

Quân chiến đấu trên bộ (nghìn người)

Trong các đơn vị chính quy

Lực lượng địa phương và dân quân

Quân nhân thực tập, quân hành chính và quân dịch, và quân vãng lai

Tổng số quân 

CỘNG SẢN

Sư đoàn

Bộ chỉ huy trung đoàn c

Bộ chỉ huy tiểu đoàn c

Quân số (nghìn) d

Quân chiến đấu

Chính quy BV

Việt Cộng

Quân hành chính và quân phục vụ

Chính quy BV

Việt Cộng

Tổng số quân

5

16

95

75-90

70-80

145-70

8b

54

195

71

68

3

25

19

6

96

2

7

50

27-29

116-17

143-46

3

11

73

25

19

6

17

9

8

42

3

9

64

50-60

105-15

155-75

2

13

77

25

20

5

16

5

11

41

3

90

55

40-50

206-7

246-57

3

16

79

27

16

11

13

1

12

40

13

48a

264

192-229

497-519

– 200

689-748

16

94

424

148

123

25

71

34

37

219

Nguồn: William E. Le Gro, Việt Nam từ Ngừng Bắn tới Đầu Hàng (Washington, D.C.: Trung tâm Lịch sử Quân đội Hoa Kỳ, 1981),

a Tổng cộng bao gồm bảy nhóm biệt kích.

b Bao gồm một sư đoàn phòng không.

c Bao gồm các trung đoàn và tiểu đoàn độc lập.

d Trong hầu hết các trường hợp, các con số đã được làm tròn xuống, thay vì làm tròn lên.

Bản thân các con số đã gây hiểu lầm. Chỉ có khoảng 200.000 trong số 450.000 quân chính quy của QĐVNCH thuộc các sư đoàn bộ binh và các đơn vị chiến đấu khác; phần còn lại được tìm thấy trong “cái đuôi” hành chính và hậu cần khổng lồ cần thiết để hỗ trợ cho các lực lượng chiến đấu. Các vấn đề của Sài Gòn càng trở nên phức tạp hơn do Thiệu yêu cầu phải giữ vẹn toàn bộ lãnh thổ.  Sắc lệnh của ông đảm bảo tiếp tục bản chất tĩnh tại của lực lượng miền Nam, trong đó họ bị ràng buộc với việc bảo vệ hầu như mọi tấc đất lãnh thổ, do đó hạn chế khả năng cơ động và đặt họ hoàn toàn vào thế phòng thủ; do đó, họ nhường thế tiến công ​​cho lực lượng Cộng sản và để cho địch đặt ra các điều khoản cho các trận chiến sắp tới.

NGỪNG BẮN VÀ HÒA BÌNH GIẢ TẠO

Khi lệnh ngừng bắn đến gần, Bắc Việt, không thể theo đuổi một cuộc tấn công quân sự toàn bộ, đã quyết định nhấn mạnh vào cuộc đấu tranh chính trị, dân vận, nhằm giành được người dân miền Nam . Tướng Giáp, vốn đã mất uy tín vì thất bại của cuộc tấn công Nguyễn Huệ năm 1972, đã thúc đẩy một cuộc tổng tấn công vào Miền Nam, nhưng với việc Hoa Kỳ vẫn hứa viện trợ cho Thiệu, Ủy ban Trung ương đã bác bỏ ý tưởng này vì quá nguy hiểm.  Thay vào đó, các thành viên ủy ban đã chọn tiếp tục theo đuổi một “con đường bạo lực cách mạng” kín đáo hơn nhưng liên tục chống lại miền Nam, con đường sẽ dẫn đến “nửa chiến tranh, nửa hòa bình” để duy trì áp lực lên Sài Gòn. Bộ Chính trị đã ban hành lệnh thực hiện các chương trình được thiết kế để xúi giục dân chúng, đẩy mạnh các phong trào quần chúng và củng cố cơ sở hạ tầng chính trị. Các hoạt động quân sự chỉ hỗ trợ “cuộc đấu tranh chính trị làm cơ sở”, và hành động quân sự có vũ trang sẽ được tiến hành theo tình hình mới sau lệnh ngừng bắn. Bên cạnh việc chiếm lãnh thổ ở miền Nam, giới lãnh đạo Bắc Việt đã ra lệnh tăng cường chiến dịch tuyên truyền để giành được dư luận quốc tế, làm mất uy tín của QĐVNCH và giành được sự ủng hộ của người dân miền Nam .

Một khoảnh khắc bình yên ngắn ngủi diễn ra sau khi lệnh ngừng bắn được thực hiện, nhưng rồi chẳng mấy chốc sau đó giao tranh dữ dội đã nổ ra trên khắp miền Nam  khi cuộc lấn chiếm đất gia tăng.  Đại sứ Bunker sau đó đã viết, trích lời một viên chức bình định của Hoa Kỳ tại tỉnh Lâm Đồng, rằng “lệnh ngừng bắn dường như đã khởi đầu một cuộc chiến tranh mới, dữ dội và tàn khốc hơn lần trước”. Hơn 3.000 vụ vi phạm lệnh ngừng bắn đã xảy ra trong 3 tuần đầu tiên sau khi chính thức ngừng giao tranh. Hầu hết các hành động này là những trận chiến nhỏ, do các lực lượng địa phương tiến hành, nhưng trong tuần đầu tiên của lệnh ngừng bắn, quân BV đã chiếm được 213 thôn. Tuy nhiên, chỉ trong vòng vài ngày, quân miền Nam  đã chiếm lại được tất cả trừ 36 thôn. Thay vì chỉ là “một cơn co giật bạo lực cuối cùng” trước khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực, những trận chiến này đúng là sự chuyển tiếp từ giai đoạn này sang giai đoạn khác của cuộc xung đột, theo một nhà quan sát quân sự người Mỹ, là “sự kết thúc của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và sự khởi đầu của cuộc chiến tranh thứ ba”. Một trung sĩ miền Nam  đã mô tả tình hình một cách đơn giản hơn khi anh ta nói rằng, “Cuộc chiến này sẽ không bao giờ kết thúc”.

Bên cạnh những trận đánh nhỏ ban đầu, Bắc Việt đã phát động một số cuộc tấn công lớn hơn để bảo vệ các vị trí có lợi về mặt chiến lược có thể được sử dụng làm điểm xâm nhập vật tư và thiết bị chiến tranh hoặc để che chắn sự xâm nhập xuống Đường mòn Hồ Chí Minh. Vào ngày 26 tháng 1, Sư đoàn NT-2 của BV đã tấn công và chiếm cảng Sa Huỳnh, nằm ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi thuộc Quân khu I, nhưng đến cuối tháng 2, Sư đoàn 2 VNCH đã đánh đuổi các đơn vị BV và chiếm lại thị trấn. Vào tháng 3, Sư đoàn 9B của Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công lớn từ Campuchia với ba trung đoàn vào thị trấn Hồng Ngự của miền Nam, một cảng trên Sông Cửu Long thuộc Tỉnh Kiến Phong ở Đồng bằng sông Cửu Long (Quân khu IV) ngay phía nam biên giới Campuchia. Hoa Kỳ, vẫn đang ném bom ở Campuchia, đã hỗ trợ miền Nam  bằng cách tấn công các căn cứ của Bắc Việt tại đó bằng B-52;  đến tháng 5, Sư đoàn 9 của QLVNCH đã chiếm lại Hồng Ngự. Đầu tháng 6 năm 1973, Sư đoàn F-10 của QĐNDVN đã tấn công và chiếm được Trường Nghĩa, cách thành phố Kontum sáu dặm về phía tây ở Quân khu II. Một loạt các trận đánh lớn diễn ra ở các tỉnh Kontum và Pleiku giữa các sư đoàn F-10 và 320 của quân BV và Sư đoàn 23 của quân miền Nam. Sau một số cuộc giao tranh đẫm máu, QLVNCH đã buộc lực lượng Cộng sản phải rút lui. Cùng lúc đó, quân BV đã tấn công Căn cứ Hải quân Cửa Việt ở Quân đoàn I và trại biên phòng ở Tống Lê Chơn ở Quân khu III. Trong những trận đánh này, quân miền Nam đã chiến đấu rất hăng hái nhưng buộc phải từ bỏ Cửa Việt; Tống Lê Chơn đã kháng cự, nhưng đã bị bao vây. Trong trận chiến giành Căn cứ Hải quân Cửa Việt, quân miền Nam mất gần hai đại đội súng trường và một đại đội xe tăng M-48 nhưng đã gây ra khoảng 1.000 thương vong cho quân BV. Các trận chiến trong ba tháng đầu tiên của hiệp định đình chiến đã gây ra thương vong nặng nề cho cả hai bên. Hơn 6.600 binh lính miền Nam  đã tử trận trong thời gian này và hơn 200.000 dân tị nạn đã phải rời bỏ nhà cửa và làng mạc.

Ngoài các hoạt động chiếm đất, Cộng sản đã chặn các tuyến thông tin liên lạc, pháo kích vào các thành phố và thị trấn do QLVNCH kiểm soát và khởi xướng một “chiến dịch cắm cờ” với lá cờ xanh và đỏ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam tại các khu vực do họ kiểm soát. Các lực lượng miền Nam  đã kháng cự và “Cuộc Chiến giữa những Lá cờ” đã xảy ra. Một tuần sau lệnh ngừng bắn, gần như tất cả gần 400 thôn mà Cộng sản xâm nhập đã trở lại dưới sự kiểm soát của Sài Gòn.

Sau này, Kissinger đã viết về giai đoạn này: “Sài Gòn, vẫn là bên mạnh hơn… đã cho đi những gì họ nhận được;  nó mở rộng quyền kiểm soát của mình đối với nhiều thôn xóm hơn là những gì đã mất.”

Khi cả hai bên tranh giành vị trí sau lệnh ngừng bắn, sự gia tăng quân BV tiếp tục không ngừng và lực lượng Cộng sản ngày càng mạnh hơn. Các báo cáo tình báo chỉ ra rằng trong nửa đầu năm 1973, BV đã đưa 65.000 tân binh vào miền Nam . Vào tháng 7 năm 1973, Thiếu tướng Murray, tùy viên quốc phòng Hoa Kỳ tại Sài Gòn, đã báo cáo trong bản đánh giá hàng quý của mình: “Vị thế của kẻ thù sau cuộc tấn công vào lễ Phục sinh năm 1972, sự vi phạm trắng trợn của họ trong việc tuân thủ Hiệp định Ngừng bắn và sự kết thúc sắp tới của không lực Hoa Kỳ tại Đông Dương, khiến họ mạnh hơn bao giờ hết. Việc họ xây dựng mới đường sá, đường ống, sân bay và đường dây liên lạc trên bộ, việc họ đầu tư xe tăng, pháo tầm xa và vũ khí phòng không, việc họ tích trữ các nguồn lực hậu cần là điều thật đáng sợ.”

Thật vậy, ước tính tình báo trong cùng tháng với báo cáo của DAO ước tính rằng Bắc Việt đã tích lũy đủ quân và vật chất ở miền Nam  để hỗ trợ một chiến dịch quy ước kéo dài từ 12 đến 18 tháng theo kiểu 1972. Ủy ban Kiểm soát Quốc tế của Hiệp định Paris, không thể kiểm soát tình hình hoặc ngăn chặn các hành vi vi phạm lệnh ngừng bắn, đã ngừng hoạt động trong vòng vài tháng sau khi thành lập.

Báo động trước các báo cáo tình báo về sự gia tăng quân số của Bắc Việt và việc tiếp tục gia tăng vì phạm lệnh ngừng bắn, Thiệu đã bay đến Hoa Kỳ để hội đàm với Tổng thống Nixon vào đầu tháng 4. Tuy nhiên, Nixon có những mối quan tâm cấp bách hơn. Vụ bê bối Watergate đang trầm trọng, và tổng thống bị phân tâm bởi cuộc tranh cãi ngày càng gia tăng. Thiệu phàn nàn về việc BV vi phạm lệnh ngừng bắn và nói với Nixon rằng các báo cáo đáng tin cậy chỉ ra rằng Cộng sản đang chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công. Thiệu thấy Nixon “lo ra và đãng trí” trong cuộc họp, nhưng Nixon vẫn không quên nhắc lại lời hứa trước đây là sẽ hỗ trợ Sài Gòn, trấn an, “Ngài có thể tin tưởng vào chúng tôi”. Ông nói với Thiệu rằng Hoa Kỳ sẽ tài trợ cho chương trình hiện đại hóa QLVNCH, nói về viện trợ quân sự ở mức “một tỷ đô la”.  Sau khi nói như vậy, ông thúc giục Thiệu quay trở lại miền Nam  và cố gắng thực hiện lệnh ngừng bắn. Khi tổng thống miền Nam  lên trực thăng để rời khỏi khu nhà ở tổng thống tại San Clemente, Nixon lại nói với ông, “Ngài có thể chắc chắn rằng chúng tôi ủng hộ ngài”.  Bất chấp những lời hứa và lời động viên của Nixon dành cho Thiệu, Kissinger sau đó đã viết rằng “Nixon rõ ràng không muốn có thêm bất ổn về Đông Dương vào lúc tình hình trong nước ngày càng gia tăng khó khăn cho mình”.

Thiệu, không biết về đánh giá của Kissinger và muốn tin vào lời hứa tiếp tục hỗ trợ của Nixon, đã trở về Sài Gòn. Khi máy bay của ông cất cánh từ California, ông đã tổ chức tiệc mừng sâm panh để đánh dấu sự hân hoan và nhẹ nhõm của mình sau cuộc hội đàm với Nixon. Ông vẫn lo sợ rằng Nixon không thể duy trì những lời hứa này mãi mãi và nghĩ rằng Hoa Kỳ cuối cùng sẽ từ bỏ miền Nam . Tuy nhiên, hiện tại, ông tin rằng Nixon sẽ can thiệp bằng không quân Hoa Kỳ để cứu miền Nam.  Quan niệm sai lầm của ông đã được củng cố phần lớn bởi các hoạt động của Văn phòng Tùy viên Quốc phòng tại Sài Gòn và Nhóm Hoạt động Hỗ trợ Hoa Kỳ tại Nakhon Phanom, Thái Lan. Bốn chỉ huy quân đoàn QLVNCH đã được đưa đến Nakhon Phanom và được thông báo về các thủ tục để yêu cầu Hoa Kỳ phát động không kích. Thiết bị liên lạc bí mật đã được lắp đặt kết nối các chỉ huy quân đoàn và Bộ Tổng tham mưu Liên quân tại Sài Gòn với trụ sở Hoa Kỳ tại Thái Lan. Các kế hoạch của QĐVNCH sau đó sẽ dựa trên giả định luôn sẵn có B-52 và hỗ trợ không quân tầm gần; không ai ở phía Hoa Kỳ khuyến khích việc lập kế hoạch như vậy. Các chỉ huy Việt Nam thường xuyên nộp danh sách mục tiêu cho DAO để chuyển đến Nhóm Hoạt động Hỗ trợ và Không lực 7 Hoa Kỳ Theo cựu tướng VNCH Đồng Văn Khuyên, “Các nhà lãnh đạo của chúng tôi vẫn tiếp tục tin vào sự can thiệp của không quân Hoa Kỳ ngay cả sau khi Quốc hội Hoa Kỳ rõ ràng đã cấm điều đó. . .  . Họ tự lừa dối mình khi nghĩ rằng có lẽ điều này chỉ mất nhiều thời gian hơn vì những thủ tục phức tạp liên quan.”

Với quan niệm sai lầm rằng không quân Hoa Kỳ sẽ đến nếu tình hình trở nên đủ tồi tệ, Thiệu quyết định tăng cường nỗ lực để giành mọi lợi thế trước kẻ thù Cộng sản trước khi Nixon bị trói tay bởi Quốc hội và sự hỗ trợ đã hứa không còn nữa. Ông nhấn mạnh vào điều được gọi là “Bốn Không”: không đàm phán với kẻ thù, không có hoạt động của Cộng sản ở phía nam Khu phi quân sự, không có chính phủ liên minh và không đầu hàng lãnh thổ cho BV hoặc Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Chính sách của ông gần như đã thủ tiêu Hiệp định Paris. Điểm cuối cùng là then chốt: Việc Thiệu từ chối từ bỏ lãnh thổ sẽ là một trong những lý do dẫn đến sự sụp đổ cuối cùng của ông và đất nước ông.  Mong muốn kiên quyết của ông là giữ toàn bộ lãnh thổ sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc vào năm 1974 và 1975, khiến ông phải dàn mỏng lực lượng, đặc biệt là ở các vùng biên giới xa xôi, và do đó làm giảm khả năng sẵn có của quân đội vốn có thể được sử dụng tốt hơn làm lực lượng dự bị cơ động ở những nơi khác trong các khu vực quan trọng hơn.

Ngay sau khi Thiệu trở về Sài Gòn, Kissinger lại gặp Lê Đức Thọ tại Paris để thảo luận về lệnh ngừng bắn. Thật không may, Hoa Kỳ, với Nixon bị chỉ trích vì vụ Watergate và với tất cả các lực lượng Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam, đang ở trong một vị thế khó khăn để đòi hỏi những nhượng bộ từ Bắc Việt. Khi Kissinger cáo buộc Cộng sản đã vi phạm lệnh ngừng bắn, Thọ phản bác Sài Gòn chịu trách nhiệm cho tình hình giao tranh liên tục. Điều tốt nhất mà Kissinger có thể giành được từ Thọ là một cam kết mới về lệnh ngừng bắn. Trên thực tế, Thọ đã đúng; chính sách “Bốn không” của Thiệu đã vi phạm trực tiếp văn kiện, cũng như mục đích của Hiệp định hòa bình Paris. Kết quả của vòng thảo luận mới tại Paris là vào ngày 13 tháng 6, cả bốn bên ký kết Hiệp định Paris đã ban hành một “thông cáo chung” tái khẳng định việc thực thi lệnh ngừng bắn.  Những gì được biết đến ở Sài Gòn là “Ngừng bắn II” hoặc “Ngừng bắn Con” ban đầu có vẻ hiệu quả, vì không ai vi phạm trắng trợn lệnh ngừng bắn trong một thời gian, nhưng sau đó giao tranh lại tiếp tục với cường độ như cũ.

Vào ngày 22 tháng 9, Sư đoàn 320 của BV, sử dụng một trung đoàn bộ binh được hỗ trợ bởi xe tăng, đã tấn công và tràn vào trại biên giới của Biệt động quân Lê Minh, cách Pleiku 25 dặm về phía tây. Trại nằm trên địa hình chiếm ưu thế là tuyến đường xâm nhập từ hạ Lào vào Cao nguyên Trung phần. Sau khi chiếm được Lê Minh, Cộng sản sau đó tấn công một chuỗi dài các tiền đồn biên giới được thiết kế để kiểm soát sự xâm nhập của đối phương và thu thập thông tin tình báo. Bắc Việt rõ ràng đang cố gắng bảo vệ các tuyến đường xâm nhập bắc-nam của họ để chuẩn bị cho hành động tấn công mới.

Thiệu biết rằng Bắc Việt đang tăng cường lực lượng của họ ở miền Nam và sức mạnh của họ đang tăng lên hàng ngày.  Để tận dụng lợi thế về quân sự của mình vào lúc này, ông đã đưa QLVNCH vào thế tấn công. Theo đó, lực lượng miền Nam đã tấn công vào vùng đất thấp ven biển, Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực miền núi phía tây gần Campuchia và các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Thật không may, QĐNDVN, liên tục cải thiện thế trận tấn công của mình bằng việc xâm nhập nhanh chóng lực lượng thay thế, thiết bị và các đơn vị mới, đã mạnh hơn nhiều so với những gì Thiệu tưởng tượng. Quân đội miền Nam  đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh bật kẻ thù, đặc biệt là những đơn vị chiếm giữ các khu vực xung quanh thủ đô đã chiếm được trong cuộc tấn công năm 1972. Không quân Việt Nam đã cố gắng hỗ trợ trong những trận chiến này, nhưng phần lớn tỏ ra không hiệu quả trong việc cung cấp hỗ trợ trên không tầm gần. Do sự tập trung mới của pháo phòng không và tên lửa đất đối không vác vai SA-7 do QĐNDVN đưa vào vi phạm thỏa thuận ngừng bắn, các phi công Không lực Việt Nam Cộng Hòa buộc phải duy trì cao độ và hầu hết các quả bom của họ đã rơi xuống cách mục tiêu hàng dặm.  Một vị tướng không quân miền Nam  sau đó đã tâm sự rằng kết quả kém là do “nhắm mục tiêu kém, thực hiện kém và tinh thần của Không quân Việt Nam thấp”.

Quân miền Nam  thấy mình đang ở trong một cuộc chiến sinh tồn. Fox Butterfield đã đưa tin đánh giá sau đây về “lệnh ngừng bắn” trong một bài báo trên tờ New York Times vào tháng 9:

. . . mặc dù lực lượng quân sự Mỹ cuối cùng đã rút lui, các sĩ quan Việt Nam cho biết, vụ nổ súng vẫn tiếp diễn không hề suy giảm, với trung bình 100 lính miền Nam  tử trận hoặc bị thương mỗi ngày trong năm nay chỉ riêng ở Đồng bằng. Tỷ lệ này bằng với số thương vong trong cuộc tấn công lớn của cộng sản năm ngoái và cao hơn nhiều giai đoạn trước trong cuộc chiến tranh bất tận.

Cho đến nay, tất cả những gì bạn có thể nói một cách chính xác về tình hình kể từ khi có lệnh ngừng bắn, một viên chức Mỹ giàu kinh nghiệm nhận xét, là cả hai bên đều đang đẩy mạnh các chương trình riêng của mình và họ sẽ tiếp tục xung đột.

Khi lực lượng của Thiệu cố gắng ngăn chặn Cộng sản, nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của Tổng thống miền Nam về việc Hoa Kỳ không còn hỗ trợ liên tục bắt đầu trở thành hiện thực. Khi lệnh ngừng bắn sắp đến, nhiều quan chức Hoa Kỳ cho thấy là họ đã sẵn sàng chấm dứt dây dưa với miền Nam. Vào đầu tháng 1 năm 1973, Bộ trưởng Quốc phòng Laird nói với các nhà báo rằng QLVNCH “hoàn toàn có khả năng” bảo vệ quốc gia của mình, điều này bảo đảm “sự chấm dứt hoàn toàn sự tham gia của Hoa Kỳ”. Không phải tất cả mọi người trong chính quyền Nixon đều đồng ý với Laird, nhưng phe ủng hộ việc tiếp tục hỗ trợ cho Sài Gòn sẽ thấy ngày càng khó khăn hơn để phản đối phe chia sẻ quan điểm của Laird.

Khi vụ bê bối Watergate trở thành một vấn đề nóng hổi, ​​bản thân Nixon phải đối mặt với một Quốc hội thù địch.  Khi ông ngày càng lún sâu vào vụ bê bối Watergate, Quốc hội đã khẳng định mình và bắt đầu nắm giữ vị thế thống trị trong việc đưa Hoa Kỳ hoàn toàn thoát khỏi cuộc chiến ở Đông Nam Á. Vào tháng 6 năm 1973, Quốc hội đã thông qua luật cắt mọi nguồn quỹ cho hoạt động chiến đấu trên không hoặc trên bộ ở Campuchia và Lào. Tổng thống đã phủ quyết dự luật, nhưng sau một loạt các động thái lập pháp, vào ngày 1 tháng 7, Quốc hội đã thông qua và tổng thống miễn cưỡng ký một dự luật cấm các hoạt động chiến đấu trực tiếp hoặc gián tiếp trên không hoặc trên bộ tại hoăc gần Lào, Campuchia và cả Việt Nam sau ngày 15 tháng 8 năm 1973. Nixon không hài lòng với diễn biến của sự kiện, nhưng vào thời điểm này, ông gần như hoàn toàn bị cuốn vào vụ bê bối Watergate.

Ngoài ra, các sự kiện khác đã thu hút sự chú ý của ông và công chúng Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1973, chiến tranh nổ ra giữa Israel và Syria và Ai Cập.  Lệnh cấm vận dầu mỏ tiếp theo của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) đã gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế ở Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới công nghiệp vào mùa đông năm 1973–74. Bị bao vây bởi những khó khăn này, và với tất cả quân đội Hoa Kỳ đã rời khỏi miền Nam  và các tù binh chiến tranh cuối cùng đã trở về nhà, rất ít người Mỹ quan tâm đến các sự kiện ở Nam Việt Nam. Nỗi sợ hãi của Thiệu về việc bị Mỹ bỏ rơi dường như đã trở thành sự thật.

Nixon, người đang tham gia vào một cuộc chiến tranh ảo với Quốc hội, đã gặp rắc rối lớn. Vào ngày 21 tháng 10, ông đã sa thải Archibald Cox, công tố viên đặc biệt đang điều tra vụ Watergate. Vụ sa thải đã gây ra một làn sóng phản đối dữ dội, và các dân biểu Hạ viện đã bắt đầu tiến trình luận tội tổng thống. Quyền lực tổng thống và khả năng tác động đến hành động ở Đông Nam Á của Nixon đã thực sự biến mất.

Quốc hội, lo ngại về tình hình tiếp tục giao tranh ở miền Nam, Campuchia, và Lào, đã thực hiện các biện pháp hạn chế thẩm quyền của tổng thống và vào ngày 7 tháng 11 đã bác bỏ quyền phủ quyết của Nixon đối với Đạo luật Quyền hạn Chiến tranh. Theo luật này, tổng thống được yêu cầu phải thông báo cho Quốc hội, nếu có thể, trước khi đưa lực lượng Hoa Kỳ vào khu vực có thể xảy ra giao tranh. Sau khi lực lượng đó được triển khai, họ không được ở lại quá 60 ngày trừ khi Quốc hội cấp cho họ thẩm quyền cụ thể để ở lại. Luật này không cụ thể cấm Hoa Kỳ hỗ trợ miền Nam , nhưng luật này khiến việc cung cấp hỗ trợ trở nên khó khăn hơn nhiều. Quốc hội đã đưa ra một dấu hiệu khác về ý định liên quan đến cuộc chiến ở Đông Nam Á khi sửa đổi dự luật viện trợ quân sự năm tài chính 1974 cho Việt Nam. Chính quyền đã yêu cầu 1,6 tỷ đô la viện trợ, nhưng Quốc hội đã giảm con số xuống còn 1,126 tỷ đô la. Dự luật viện trợ và những tác động của cuộc đấu đá giữa Quốc hội và tổng thống về việc Hoa Kỳ hỗ trợ miền Nam  không lọt qua mắt của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, họ hiểu ngay là Nixon, bị tổn thương nghiêm trọng bởi vụ bê bối Watergate, sẽ rất khó để làm bất cứ điều gì nếu Cộng sản nâng cao mức độ nguy hiểm ở miền Nam . Theo thời gian, viện trợ của Hoa Kỳ cho Thiệu và chính phủ của ông dường như ngày càng ít có khả năng xảy ra.  Theo đó, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã triệu tập Hội nghị toàn thể lần thứ 21 của Đảng vào tháng 10 năm 1973 để đánh giá lại chiến lược của họ và thảo luận về cách tiến hành. Các lực lượng Cộng sản, trước đó không đủ mạnh ở miền Nam để tiến hành một cuộc tấn công quân sự toàn diện, đã tập trung hành động quân sự để hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chính trị. Tuy nhiên, vào thời điểm diễn ra hội nghị toàn thể vào tháng 10 năm 1973, người Cộng sản đã xây dựng lại lực lượng của họ ở miền Nam và ngày càng mạnh hơn. Tại cuộc họp này, Tướng Văn Tiến Dũng, người đã thay thế Giáp làm người hoạch định quân sự chính của Bắc Việt Nam, đã chủ động một cuộc tổng tiến công mới, nói rằng, “Bọn đế quốc Mỹ sẽ thấy rất khó để can thiệp trực tiếp. . . . Họ không thể cứu chế độ Sài Gòn khỏi sự sụp đổ.” Tuy nhiên, giới lãnh đạo dân sự của Bộ Chính trị, bao gồm Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã khuyến cáo thận trọng.  Sau khi chứng kiến ​​những tác động của không quân Hoa Kỳ trong cuộc tấn công Nguyễn Huệ, họ cảm thấy rằng việc tiến hành hành động tổng tấn công mà không có sự hậu thuẫn của Liên Xô và Trung Quốc có thể dẫn đến việc tái triển khai quân đội Hoa Kỳ. Ngoài ra, họ tin rằng một cuộc tổng tấn công sẽ làm cạn kiệt nguồn lực từ nỗ lực tái thiết miền Bắc. Sau nhiều cuộc thảo luận, hai phe đã đạt được một thỏa hiệp. Bắc Việt quyết định tăng áp lực lên Sài Gòn bằng cách chuyển những nỗ lực của họ ở miền Nam  từ trọng tâm chính là đấu tranh chính trị, sang một nỗ lực nhấn mạnh vào hành động quân sự, “chiến tranh trong hòa bình,” để chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công quân sự vào một thời điểm nào đó trong tương lai sau khi lực lượng đã được xây dựng đủ để hỗ trợ cho một động thái như vậy. Nhận thấy rằng cuộc đấu tranh sẽ “kéo dài và phức tạp” và chiến thắng có thể mất nhiều năm, họ đã ra lệnh cho “tất cả các sĩ quan và binh lính của quân đội chính quy, quân đội địa phương, dân quân và tất cả các lực lượng du kích, vệ binh và an ninh trên khắp miền Nam …  phản công chính quyền Sài Gòn chừng nào họ còn chưa ngừng các hành động chiến tranh, bất kỳ nơi nào và bằng hình thức và vũ lực thích hợp, do đó buộc bên kia phải thực hiện nghiêm túc và thận trọng Hiệp định Paris và chấm dứt hoàn toàn mọi hành động chiến tranh và phá hoại của họ.” Ngoài sự thay đổi chiến lược quan trọng này, Hội nghị toàn thể lần thứ 21 cũng quyết định các biện pháp sau: tăng cường các nỗ lực chính trị và tuyên truyền chống lại Hoa Kỳ để Quốc hội cắt giảm thêm viện trợ cho miền Nam ; cải thiện “hành lang hậu cần” xuống biên giới miền Nam  từ Khe Sanh đến Lộc Ninh để cung cấp hỗ trợ cho cuộc tấn công được đề xuất; leo thang các cuộc tấn công vào các tiền đồn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa; và tiếp tục gây áp lực quân sự lên Sài Gòn và các thành phố lớn khác để ngăn chặn sự dịch chuyển của lực lượng miền Nam .

Gần như ngay lập tức, miền Nam  cảm nhận được tác động của các quyết định định mệnh của Hội nghị Trung ương 21. Đòn đánh đầu tiên của chiến dịch mới xảy ra ở tỉnh Quảng Đức, dọc biên giới Campuchia, nơi một lực lượng Bắc Việt Nam có quy mô sư đoàn đã tràn ngập các tiền đồn của quân miền Nam  tại Bu Prăng và Bu Bông. Hai ngày sau, một trung đoàn khác của BV đã đánh tan lực lượng phòng thủ tại Dak Song, cắt đứt Gia Nghĩa, thủ phủ của Tỉnh Quảng Đức, và cắt đứt con đường duy nhất đến Tỉnh Phước Long. Sau đó, quân BV ở Bu Bông đã tấn công về phía nam hướng đến huyện thị Kiến Đức, tiến đến vùng ngoại ô của thành phố vào ngày 21 tháng 11. Tại đó họ đã bị các đơn vị của Sư đoàn 23 VNCH chặn lại. Trong khi đó, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn, đã ra lệnh cho Trung đoàn Bộ binh 44 chiếm lại ngã ba đường quan trọng tại Dak Song, và họ đã làm được điều đó vào ngày 28 tháng 11.  Lực lượng miền Nam  đã tự giải thoát tương đối tốt cho đến ngày 4 tháng 12 khi Trung đoàn 205 của BV được tăng cường xe tăng và công binh, đã đẩy QLVNCH ra khỏi Kiến Đức. Tuy nhiên, vài ngày sau, Trung đoàn Bộ binh 45 miền Nam đã phản công và chiếm lại thành phố.

Chiến lược quân sự mới của Bắc Việt đã trở nên rõ ràng trên khắp miền Nam . Cuộc giao tranh diễn ra dữ dội, đặc biệt là tại các căn cứ và tiền đồn xa xôi ở các vùng ngoại vi và dọc theo “con đường lúa gạo” từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Sài Gòn, nơi cả hai bên đều mất hàng nghìn binh lính. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã bắn tên lửa vào Căn cứ Không quân Biên Hòa, phá hủy ba máy bay phản lực F-5A, và đặc công  BV đã tấn công kho chứa xăng dầu Nhà Bè trên sông Sài Gòn, đốt cháy hơn chín triệu gallon nhiên liệu.  Vào giữa tháng 12, lực lượng Cộng sản đã tấn công một nhóm của Trung tâm Giải quyết Thương vong Chung của Hoa Kỳ tại Bình Chánh, chỉ cách Sài Gòn 16 km về phía tây nam, giết chết Đại úy Richard M. Rees.

Vào cuối năm, cuộc chiến ở miền Nam  vẫn tiếp diễn không ngừng. Báo cáo cuối cùng của Văn phòng Tùy viên Quốc phòng Hoa Kỳ năm 1973 nêu rõ, “Cuộc chiến vẫn tiếp diễn với rất ít sự tuân thủ các hiệp định từ cả hai bên”. Nhìn chung, hiệu suất chiến đấu của miền Nam  trong giai đoạn sau lệnh ngừng bắn là thỏa đáng. Đại sứ Graham Martin, người thay thế Ellsworth Bunker tại Sài Gòn, đã trích dẫn những thành quả trên chiến trường miền Nam  như một lập luận cho sự tiếp tục hỗ trợ của Hoa Kỳ. Ông lưu ý rằng “sự tự tin ngày càng rõ ràng và tinh thần lạc quan của Chính phủ Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa” và tuyên bố, “Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho đến nay không chỉ giữ vững mà còn khiến phe địch mất cân bằng.  Nếu chúng ta tiếp tục ủng hộ, và quyết tâm thực hiện các cam kết đã đưa ra ở cấp cao nhất, chúng ta có quyền kỳ vọng một cách đầy tin cậy rằng Chính phủ Việt Nam có thể trụ vững mà không cần sự can thiệp vũ trang của Hoa Kỳ.”

Sự ủng hộ mà Martin thúc giục mạnh mẽ đã không đến. Miền Nam  đã tự mình chống đỡ trong cuộc giao tranh năm 1973, nhưng “hạt giống của thảm họa” đã được gieo—một Quốc hội Hoa Kỳ thù địch và “hầu như chắc chắn sẽ không có sự trả đũa nào của Hoa Kỳ” khi Bắc Việt công khai vi phạm Hiệp định Paris trong tương lai. Những hạt giống độc hại này sẽ bắt đầu đơm hoa kết trái cho người miền Nam vào năm 1974, và hoa trái đó sẽ trở nên chết chóc vào năm 1975 khi Việt Nam hóa không vượt qua được thử thách cuối cùng.

Đại diện Hoa Kỳ, Nam Việt Nam và Cộng sản ký “Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam” tại Paris, ngày 27 tháng 1 năm 1973. (Ảnh Lưu trữ Quốc gia)

 

 

Bình luận về bài viết này