
James H. Willbanks
Trần Quang Nghĩa dịch
4 Tăng mức cá cược lên
“ĐÀM VÀ ĐÁNH”
Vào năm 1969, Bắc Việt đã thay đổi chiến lược của họ ở miền Nam. Các tài liệu thu thập được sau đó trong cuộc chiến đã tiết lộ rằng người Cộng sản đã kết luận sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 rằng việc phát động một cuộc tổng tấn công là quá tốn kém. Vào tháng 4 năm 1969, giới lãnh đạo Bắc Việt ở miền Nam đã tuyên bố với quân đội của họ trong Chỉ thị 53: “Không bao giờ nữa và trong mọi trường hợp, chúng ta được mạo hiểm tung toàn bộ lực lượng quân sự của mình chỉ vì một cuộc tấn công. Ngược lại, chúng ta nên cố gắng bảo toàn tiềm lực quân sự của mình cho các chiến dịch trong tương lai.”
Vào tháng 7, bộ tư lệnh cấp cao của Cộng sản đã ban hành Nghị quyết 9 và 14, trong đó xem xét kỹ các sai lầm và thiếu sót của cuộc tấn công Tết Mậu Thân và kêu gọi một phương tiện kinh tế hơn để tiếp tục cuộc chiến. Nghị quyết 9 là một bản tự phân tích quan trọng, lưu ý cả sự thất bại của “Tổng tấn công – Tổng nổi dậy” năm 1968 trong việc đạt được các mục tiêu chung và sự kém hiệu quả của các hoạt động tuyên truyền của Cộng sản trong suốt chiến dịch. Nghị quyết 14 kêu gọi giảm bớt nhấn mạnh vào chiến tranh chủ lực và quay trở lại các hành động quy mô nhỏ của các lực lượng du kích địa phương, nêu rõ: “Chúng ta giành chiến thắng không phải thông qua cuộc tấn công một đòn, và không phải thông qua một giai đoạn tấn công, thậm chí không phải thông qua một loạt các cuộc tấn công đạt đến đỉnh điểm là một cuộc tiêu diệt cuối cùng. . . . Chiến thắng sẽ đến với chúng ta, không phải đột ngột, mà theo một cách phức tạp và đau đớn.” Kết quả của những chỉ thị này là một sự thay đổi trong chiến lược được gọi là “vừa đánh vừa đàm”. Trong khi các nhà đàm phán của họ theo đuổi các mục tiêu Cộng sản ở Paris, quân Bắc Việt và Việt Cộng sẽ tiếp tục gây áp lực lên lực lượng Hoa Kỳ và miền Nam trên chiến trường. Tuy nhiên, áp lực này, với một số ngoại lệ, chủ yếu được áp dụng thông qua việc sử dụng các cuộc tấn công bằng súng cối và đặc công, thay vì các cuộc tấn công thông thường quy mô lớn như những cuộc tấn công được tiến hành vào 1968. Bắc Việt hy vọng sẽ “kiềm chế” và chờ Nixon và Hoa Kỳ.
Do sự thay đổi về chiến thuật và trọng tâm này, mức độ giao tranh ở miền Nam đã giảm đáng kể trong những tháng cuối năm 1969 và đầu năm 1970. Tuy nhiên, các viên chức Bộ Ngoại giao tại Sài Gòn đã cảnh báo trong một ước tính về chiến lược của đối phương vào tháng 1 năm 1970 rằng Cộng sản vẫn tự tin vào khả năng kéo dài chiến tranh cho đến khi họ giành chiến thắng. Henry Kissinger đã đưa ra một đánh giá tương tự trong một bản ghi nhớ ngày 7 tháng 1 gửi cho tổng thống, trong đó ông khẳng định rằng, theo ý kiến của ông, “Hà Nội sẽ kéo dài thời gian cho đến khi có đủ số lực lượng Hoa Kỳ rời đi cho phép họ thách thức lực lượng vũ trang của Sài Gòn trên cơ sở bình đẳng hơn.” Mặc dù mức độ chiến đấu ở miền Nam đã giảm dần trong ba tháng đầu năm 1970, Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã nói với tổng thống trong một bản ghi nhớ vào tháng 4 rằng ông tin việc giảm cường độ giao tranh trên chiến trường có nhiều khả năng là do thiết kế của Bắc Việt hơn là do nỗ lực của Hoa Kỳ và miền Nam. Ông nhấn mạnh quan điểm của mình rằng người Cộng sản vẫn duy trì được sức mạnh và khả năng nâng cao mức độ chiến đấu, nhưng có lẽ họ đang chờ cho đến khi lực lượng Hoa Kỳ rời đi trước khi tiến hành một cuộc tấn công lớn khác.
Trong khi đó, Việt Nam hóa tiếp tục diễn ra với tốc độ không đồng đều. Trong bản ghi nhớ vào tháng 4 gửi cho tổng thống, Bộ trưởng Laird cho biết miền Nam tiếp tục thiếu sự lãnh đạo hiệu quả của quân đội và dân sự và phải chịu đựng tình trạng bất ổn kinh niên. Một bài báo của Newsweek vào cùng thời điểm đó đã đưa ra một đánh giá tương tự về chương trình Việt Nam hóa. Công nhận rằng nỗ lực hiện đại hóa đang tiến triển khá tốt—hơn 500 tàu chiến đã được chuyển giao cho hải quân miền Nam, 1.200 phi công Không quân Việt Nam đang được huấn luyện với Không quân Hoa Kỳ, và một số vũ khí mới và hiện đại đã được cấp cho quân miền Nam, bao gồm súng trường M-16, súng máy M-60 và súng phóng lựu M-79—bài báo lưu ý rằng cho đến khi lực lượng vũ trang miền Nam tự mình đụng độ với kẻ thù, thì “bảng báo cáo vẫn chỉ là một khoảng trắng”.
Sức mạnh liên tục của người Cộng sản và sự ngoan cố của họ tại các cuộc đàm phán Paris, cùng với tiến trình chậm chạp của Việt Nam hóa, đã thực sự dẫn đến bế tắc ở miền Nam. Bế tắc này, một phần trong kế hoạch của Bắc Việt, đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi ở Hoa Kỳ, ngay cả trong số những người Mỹ ủng hộ các chính sách của Tổng thống Nixon. Trong số những người bất đồng chính kiến phản chiến, việc chính quyền không chấm dứt xung đột và đưa tất cả quân đội về nước đã dẫn đến một vòng xoáy biểu tình mới chống lại Nixon và chiến tranh.
Đến tháng 4 năm 1970, Nixon đã trở nên thất vọng vì tình hình miền Nam gần như dậm chân tại chỗ. Trong nỗ lực “thả bom vào cơn bão biểu tình phản chiến đang tụ tập”, ông đã tuyên bố vào ngày 20 tháng 4 Mỹ sẽ rút dần 150.000 binh sĩ Hoa Kỳ nữa trong năm tới. Trong bài phát biểu của mình, Nixon đã rất lạc quan, nói rằng những tiến bộ trong việc huấn luyện và trang bị cho miền Nam đã “vượt xa kỳ vọng ban đầu của chúng tôi”; do đó, ông có thể tuyên bố cuộc rút quân mới quy mô lớn này vì Việt Nam hóa đang diễn ra rất tốt. Ông nhấn mạnh rằng đến tháng 4 năm 1971, ông sẽ cắt giảm một nửa số lượng quân Mỹ ở Việt Nam. Tuy nhiên, ông đã cảnh báo Hà Nội “Nếu tôi kết luận được rằng kẻ thù nhân cơ hội gây gia tăng nguy hiểm cho các lực lượng còn lại của chúng tôi ở Việt Nam, tôi sẽ không ngần ngại thực hiện các biện pháp mạnh mẽ và hiệu quả để giải quyết tình hình”.
Bằng cách công bố việc cắt giảm quân mới, Nixon hy vọng sẽ đáp ứng được ước nguyện chấm dứt sự tham gia vào Đông Nam Á ngày càng tăng của dân chúng Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ông cũng hy vọng rằng thời gian biểu cho việc cắt giảm theo từng giai đoạn sẽ làm dịu đi mọi nỗi lo sợ ở Sài Gòn về việc rút quân nhanh chóng. Tuy nhiên, thông báo này không làm hài lòng Tướng Abrams, ông cho rằng nó khiến lực lượng Hoa Kỳ ở miền Nam dễ bị tổn thương bởi các cuộc tấn công mới của Cộng sản và có thể ảnh hưởng bất lợi đến tiến trình Việt Nam hóa. Về mặt quân sự thuần túy, Abrams đã đúng; nhưng về mặt chính trị, Nixon phải làm gì đó để làm dịu phe biểu tình và những câu hỏi ngày càng tăng từ công chúng Mỹ. Nixon vẫn muốn đạt được một giải pháp đàm phán ở Việt Nam. Ông hy vọng bài phát biểu ngày 3 tháng 11 của mình sẽ thuyết phục được Bắc Việt rằng mình không ngại tiếp tục gây hấn ở miền Nam nếu họ từ chối đàm phán. Tuy nhiên, phe Cộng sản đã quan sát thấy hành động rút quân của Hoa Kỳ và kết luận rằng áp lực buộc Nixon phải rời khỏi miền Nam sẽ chỉ tiếp tục tăng lên mà thôi. Do đó, phe Cộng sản có thể đạt được mục tiêu của họ bằng cách tiếp tục “vừa đánh vừa đàm”, chờ đợi cho đến khi tổng thống Hoa Kỳ rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ về nước. Sau đó, họ có thể tiếp quản miền Nam mà không phải lo lắng về sự can thiệp của Mỹ.
Bực tức vì Quân BV đã không đếm xỉa đến những lời cảnh báo của mình và đến bàn đàm phán một cách thiếu thiện chí, Nixon quyết định ông cần phải phô trương sức mạnh “để cho kẻ thù thấy rằng chúng ta vẫn nghiêm túc về cam kết của mình tại Việt Nam”. Các sự kiện ở Campuchia đã mang đến cho ông cơ hội mà ông mong muốn.
CAMPUCHIA VÀ ĐƯỜNG MÒN HỒ CHÍ MINH
Trong khi hoạt động của Cộng sản ở miền Nam đã suy giảm vào đầu năm 1970, thì nó lại tăng lên ở Campuchia và Lào. Hoàng tử Norodom Sihanouk của Campuchia trước đó đã duy trì lập trường trung lập của đất nước mình, mặc dù đã cho phép Bắc Việt và Việt Cộng sử dụng lãnh thổ Campuchia dọc theo toàn bộ biên giới với Việt Nam để làm tuyến tiếp tế và khu vực tập kết hỗ trợ các hoạt động vào miền Nam. Hơn nữa, Sihanouk đã cho phép hàng tiếp tế cập cảng Sihanoukville và vận chuyển bằng đường bộ đến các căn cứ biên giới của Cộng sản; vào thời điểm này trong cuộc chiến, ước tính 85 phần trăm tổng số hàng tiếp tế cho lực lượng Cộng sản ở miền Nam được vận chuyển qua đường biển và đường bộ. Vào ngày 18 tháng 3 năm 1970, trong khi Sihanouk đang nghỉ mát tại Paris, thủ tướng của ông, Tướng Lon Nol, đã dàn dựng một cuộc đảo chính không đổ máu và nhanh chóng yêu cầu Bắc Việt và Việt Cộng rời khỏi Campuchia. Người Cộng sản nhất quyết không chịu từ bỏ nơi ẩn náu của họ và, cùng với đồng minh Campuchia của mình, Khmer Đỏ, đã phát động một làn sóng tấn công để bảo vệ một dải lãnh thổ Campuchia rộng từ mười đến mười lăm km dọc theo biên giới miền Nam.
Quân đội Campuchia non nớt không phải là đối thủ của lực lượng Cộng sản, và chẳng mấy chốc, quân đội Bắc Việt và Khmer Đỏ dường như sắp sửa chiếm toàn bộ Campuchia ở phía đông sông Mê Kông. Lon Nol đã yêu cầu Hoa Kỳ hỗ trợ.
Các nơi ẩn náu và tuyến đường tiếp tế của Cộng sản dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia từ lâu đã là cái gai trong mắt quân đồng minh. Một phái đoàn gồm các nghị sĩ Hoa Kỳ đã đến Việt Nam vào năm 1968 và báo cáo rằng Bắc Việt và Việt Cộng đang sử dụng các tỉnh phía đông của Campuchia làm khu vực tập kết quân, trung tâm huấn luyện và căn cứ hậu cần. Khu vực này cũng bao gồm phần phía nam của Đường mòn Hồ Chí Minh, một mạng lưới các đường mòn, đường dành cho xe đạp, đường bộ (một số có thể xử lý xe tải hạng nặng, xe tăng và lực lượng thiết giáp), các trại căn cứ và các cơ sở dự trữ kéo dài dọc theo biên giới Campuchia và Lào từ Bắc Việt Nam đến phía tây Sài Gòn (xem bản đồ 3). Một báo cáo tình báo vào đầu năm 1970 ước tính rằng trung bình 4.000 tấn thiết bị và vật tư chiến tranh được chuyển xuống Đường mòn Hồ Chí Minh mỗi tháng đến các lực lượng Cộng sản hoạt động tại nhiều căn cứ quân sự ở Campuchia.

Bản đồ 3. Đường mòn Hồ Chí Minh.
Những căn cứ này về cơ bản là nơi trú ẩn an toàn cho lực lượng Cộng sản, họ có thể tiến hành các hoạt động vào miền Nam và sau đó rút lui vào nơi tương đối an toàn ở Campuchia, nơi họ không thể bị bộ binh Hoa Kỳ truy đuổi. Tướng Dave Richard Palmer đã mô tả vấn đề này một cách tốt nhất: “Hai phần ba dân số miền Nam sống ở hai quân khu phía nam, cả hai đều có biên giới với Campuchia. Mười bốn căn cứ chính của Bắc Việt nằm bên trong Campuchia, ba căn cứ nằm cạnh khu vực Quân đoàn 4 và bảy căn cứ nằm cạnh Quân đoàn 3. Một số căn cứ cách Sài Gòn 35 dặm. Chừng nào chúng vượt qua giới hạn cho phép đối với lực lượng Đồng minh, thì cũng giống như một khẩu súng lục đã lên đạn chĩa vào đầu miền Nam.”
Tổng thống Nixon đã cho phép ném bom bí mật vào năm 1969 để tấn công các khu căn cứ địa của Campuchia, nhưng khu phức hợp đường mòn và căn cứ đã chứng minh được khả năng chịu đựng các cuộc tấn công từ trên không. Các cuộc không kích của B-52 đã làm chậm quá trình xâm nhập qua khu vực này, nhưng không ngăn được Bắc Việt sử dụng khu phức hợp đường mòn hoặc các khu vực tập kết. Vào thời điểm diễn ra cuộc đảo chính Campuchia năm 1970, ước tính có khoảng 40.000–60.000 quân BV ở Campuchia, và họ đang mở rộng về phía các tỉnh miền trung là Kompong Cham, Prey Veng và Svay Rieng, nơi sẽ đưa họ vào tầm tấn công Phnom Penh.
Hoa Kỳ không thể để Bắc Việt chiếm Campuchia, vì về cơ bản điều đó sẽ có nghĩa là đánh vào sườn miền Nam. Toàn bộ Campuchia sẽ trở thành nơi ẩn náu cho lực lượng Bắc Việt, và tuyến đường bộ từ Sihanoukville sẽ được mở cho các nỗ lực tiếp tế toàn diện.
Tình hình rất nghiêm trọng, không chỉ đối với lực lượng Hoa Kỳ vẫn ở miền Nam, mà còn đối với quân miền Nam khi ngày càng nhiều binh sĩ Hoa Kỳ rút lui, để lại người miền Nam tự xoay xở. Như Tướng Palmer đã viết sau chiến tranh, “Chừng nào Hà Nội vẫn còn tiếp tục gây hấn, chừng nào Quân BV còn có nơi ẩn náu trong phạm vi dễ dàng tấn công Sài Gòn… thì chiến tranh hoặc mối đe dọa xâm lược chực chờ sẽ phủ bóng đen lên miền Nam.”
Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã đến thăm Sài Gòn vào tháng 2 năm 1970. Trong khi tóm tắt tình hình cho ông, Tướng Abrams đã đưa ra lập luận mạnh mẽ về việc cần thiết phải xâm nhập không chỉ các nơi ẩn náu ở Campuchia mà còn những nơi khác ở Lào. Tuy nhiên, Laird không bị thuyết phục. Tháng đó, tin tức về vụ ném bom bí mật của Hoa Kỳ ở Lào đã được công khai, khiến Quốc hội ngay lập tức lên tiếng phản đối. Laird cảm thấy rằng cả những người chỉ trích Nixon cũng như một bộ phận ngày càng tăng của người dân Mỹ chỉ muốn chiến tranh kết thúc sẽ không chấp nhận bất kỳ sự mở rộng nào nữa của cuộc chiến.
Ngay sau khi Laird trở về Hoa Kỳ, tình hình ở Campuchia đã trở nên tồi tệ hơn. Trong một thông điệp gửi đến JCS (Tham mưu trưởng Liên quân) vào tháng 2, Đô đốc John S. McCain, tổng tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, đã cảnh báo rằng “nơi ẩn náu của Campuchia đã trở thành căn cứ chiến lược chính thiết yếu đối với kẻ thù nếu chúng muốn hoàn thành các mục tiêu chung chống lại Việt Nam hóa”; hơn nữa, McCain cảnh báo rằng các dữ liệu tình báo chỉ ra Cộng sản ở Campuchia sẽ phát động một cuộc tấn công lớn vào tháng 4 hoặc tháng 5. Bộ đội Bắc Việt đã chứng tỏ lời cảnh báo của ông là đúng lúc và chính xác vào ngày 29 tháng 3 khi họ bắt đầu di chuyển về phía tây theo hướng Phnom Penh từ các căn cứ trú ẩn của họ ở “Móc Câu”, một mũi nhọn thọc vào miền Nam ở phía tây An Lộc, và “Mỏ Vẹt”, Tỉnh Svay Rieng của Campuchia, nơi biên giới nằm trong vòng ba mươi ba dặm tính từ Sài Gòn. Quân BV đã phát động các cuộc tấn công trên bộ lớn vào các điểm mạnh của Campuchia dọc theo biên giới Campuchia-miền Nam và sau đó chuyển hướng vào nội địa Campuchia. Trong vòng vài ngày, lực lượng Cộng sản vượt trội đã đẩy quân Lon Nol ra khỏi khu vực Mỏ Vẹt, nơi đã bị bỏ lại cho Bắc Việt kiểm soát vào ngày 10 tháng 4. Đến giữa tháng, quân Cộng sản dường như đang chuẩn bị bao vây Phnom Penh và chính quyền Lon Nol dường như đang trong nguy cơ sụp đổ.
Nixon và các cố vấn của ông đã theo dõi rất chặt chẽ tình hình ngày càng xấu đi ở Campuchia. Vào ngày 25 tháng 3, lo ngại về cuộc tấn công của Bắc Việt vào lực lượng Lon Nol, tổng thống đã giao cho JCS soạn thảo một kế hoạch cho một cuộc tấn công vào Campuchia của lực lượng Hoa Kỳ hoặc miền Nam để giảm bớt áp lực lên Phnom Penh trong trường hợp lực lượng Cộng sản đe dọa trực tiếp thủ đô. JCS đã chuyển chỉ thị của tổng thống cho Tướng Abrams ở Sài Gòn, và ông này đã chuẩn bị và đệ trình một kế hoạch vào ngày 30 tháng 3 cho Kissinger và NSC (Hội đồng An ninh Quốc gia) để tổng thống xem xét. Kế hoạch bao gồm ba phương án hành động tiềm năng: phương án đầu tiên là thúc giục miền Nam tăng cường các cuộc đột kích xuyên biên giới vào các khu căn cứ của địch (điều này đã diễn ra trên cơ sở hạn chế); phương án thứ hai là chỉ đạo miền Nam tiến hành các cuộc đột kích lớn hơn và hiệu quả hơn vào Campuchia trong khi được cung cấp thêm pháo binh và hỗ trợ trên không của Hoa Kỳ; lựa chọn cuối cùng là khởi xướng một cuộc tấn công toàn diện của lực lượng miền Nam cùng với các cố vấn Hoa Kỳ vào các khu vực căn cứ và kho tiếp tế để phá vỡ các yếu tố chỉ huy và kiểm soát của địch, phá hủy các cơ sở hậu cần của chúng và xóa sổ trụ sở Trung ương cục Miền Nam của VC. Nixon đã trì hoãn quyết định, và Abrams được yêu cầu tạm dừng các kế hoạch trong khi chính quyền cố gắng xác định những gì đang diễn ra bên trong Campuchia.
Vào ngày 19 tháng 4, tổng thống đã bay đến Hawaii để chào đón phi hành đoàn của Apollo 13, những người vừa trở về sau một nhiệm vụ lên mặt trăng gần như thảm khốc. Trong khi ở Honolulu, Nixon đã nhận được một bản tóm tắt về tình hình Campuchia từ Đô đốc John S. McCain Jr., i nhấn mạnh rằng tình hình đang trở nên tuyệt vọng. Ông nói với tổng thống, “Nếu ông định rút thêm 150.000 quân khỏi miền Nam trong năm nay, ông phải bảo vệ sườn phía tây của Sài Gòn bằng cách xâm nhập các khu căn cứ tại Campuchia.”
Phúc trình của McCain đè nặng trong tâm trí Nixon khi ông trở về Washington, tại đó một cuộc tranh luận nảy lửa nổ ra về việc phải làm gì với tình hình này. Một mặt, Kissinger và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, tin rằng Campuchia đang có nguy cơ sụp đổ, thúc giục tổng thống làm điều gì đó để ngăn chặn thảm họa tiềm tàng trở thành hiện thực. Mặt khác, Ngoại trưởng Rogers đã cảnh báo Nixon rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Campuchia, cùng với tin tức nóng hổi về vụ ném bom bí mật của Hoa Kỳ ở Lào, có thể trở thành cơn ác mộng chính trị đối với tổng thống.
Mặc dù thảm họa tiềm tàng đang rình rập ở Campuchia, Nixon vẫn tiếp tục thông báo rút quân vào ngày 20 tháng 4. Một động thái như vậy trước tình hình đang xấu đi nhanh chóng ở bên sườn của Việt Nam tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, nhưng chính quyền phải đối mặt với một câu đố, mà sau này Kissinger đã mô tả trong hồi ký của mình: “Tình thế tiến thoái lưỡng nan rất dễ thấy. Quân đội đã băng bó vết thương công khai trong nước, nhưng họ đã làm tan biến nhu cầu mặc cả với Hà Nội về việc chúng ta rút quân. Và nếu Việt Nam hóa không khắc phục được khoảng cách phòng thủ do các cuộc rút quân của chúng ta tạo ra, chúng ta không chỉ gây nguy hiểm cho đòn bẩy đàm phán mà còn làm tổn hại đến nền độc lập của miền Nam và toàn bộ nền tảng hy sinh của chúng ta.”
Nixon thấy mình bị kẹt giữa hai thế khó. Ông phải tiếp tục rút quân hoặc phải chịu một thảm họa chính trị trong nước; đồng thời, ông cũng phải làm gì đó về Campuchia để bảo vệ nỗ lực Việt Nam hóa và dành thời gian để tiếp tục tăng cường lực lượng miền Nam. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để thực hiện điều này mà không gây ra một cơn bão lửa tranh cãi trong nước.
Vào thứ Ba, ngày 21 tháng 4, tổng thống đã gặp Kissinger và Richard Helms, giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương. Helms đã tóm tắt cho tổng thống về các cuộc tấn công của Cộng sản và cảnh báo mạnh mẽ với tổng thống rằng quân đội Campuchia gần như chắc chắn sẽ bị hủy diệt. Nixon đã cho phép chuyển ngay tiền và thiết bị quân sự cho quân đội của Lon Nol. Sau đó trong ngày, ông đã gặp Kissinger và Laird để thảo luận về các lựa chọn chiến lược. Cả ba đều thừa nhận rằng Campuchia sẽ sớm rơi vào tay lực lượng Bắc Việt và Khmer Đỏ nếu không có hành động nào được thực hiện. Việc mất Campuchia sẽ mang lại hậu quả thảm khốc cho chương trình Việt Nam hóa, phá hủy thời gian biểu của Nixon để đạt được “hòa bình trong danh dự” và chắc chắn sẽ dẫn đến việc mở rộng chiến tranh.
Sau ngày hôm đó, Nixon đã gửi cho Kissinger một bản ghi nhớ bắt đầu bằng: “Tôi nghĩ rằng chúng ta cần một động thái táo bạo ở Campuchia . . . để chứng tỏ rằng chúng ta ủng hộ Lon Nol . . . . Họ [những người Cộng sản] đang vui đùa ở đó, và chính phủ duy nhất ở Campuchia trong 25 năm qua có đủ can đảm để giữ vững lập trường ủng hộ phương Tây và Hoa Kỳ đang sẵn sàng sụp đổ.” Tổng thống đã triệu tập một cuộc họp của NSC vào ngày hôm sau. Trong khi đó, Nhà Trắng đã nhận được một thông điệp dài từ Đại sứ Bunker và Tướng Abrams. Họ nhấn mạnh hậu quả thảm khốc đối với Việt Nam hóa nếu Campuchia sụp đổ và khuyến nghị các hoạt động của Hoa Kỳ-miền Nam chống lại các khu căn cứ địa Cộng sản quan trọng.
Trong cuộc họp của NSC vào ngày hôm sau, Kissinger đã đưa ra một báo cáo chi tiết về tình hình quân sự ở Campuchia. Ông nhấn mạnh rằng việc Cộng sản đánh bại Campuchia hoặc thậm chí mở rộng các khu căn cứ địa của họ sẽ giúp họ có khả năng gây ra nhiều thương vong hơn cho lực lượng Hoa Kỳ ở miền Nam, và tình hình phát sinh gần như chắc chắn sẽ gây nguy hiểm cho chương trình Việt Nam hóa, do đó có khả năng buộc phải làm chậm lại quá trình rút quân của Hoa Kỳ.
Kissinger đã liệt kê ba lựa chọn. Lựa chọn đầu tiên là không làm gì cả, mà ông đã mô tả trong hồi ký của mình là “hướng đi ưa thích của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng.” Lựa chọn ưa thích của Kissinger, lựa chọn thứ hai, là chỉ tấn công các khu căn cứ địa bằng lực lượng miền Nam. Lựa chọn cuối cùng là sử dụng bất kỳ lực lượng nào cần thiết, bao gồm cả quân đội Hoa Kỳ, để vô hiệu hóa tất cả các khu căn cứ; lựa chọn này được Bunker, Abrams và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân ủng hộ mạnh mẽ.
Sự đồng thuận từ cuộc thảo luận sau đó là lựa chọn đầu tiên là không khả thi. Hoa Kỳ không thể để Cộng sản chiếm Campuchia, bất chấp hậu quả chính trị tiềm tàng từ bất kỳ sự can dự trực tiếp nào của Hoa Kỳ. Việc sử dụng quân đội Hoa Kỳ đã được cân nhắc, nhưng những người tham dự cuộc họp nhìn chung cảm thấy rằng miền Nam nên xử lý trận chiến trên bộ và Hoa Kỳ nên hạn chế vai trò của mình trong việc hỗ trợ trên không và hỏa lực. Laird và Rogers thậm chí còn phản đối sự tham gia hạn chế này của Hoa Kỳ, nhưng Phó Tổng thống Agnew đã lên tiếng, nói rằng nếu chính quyền thực sự muốn bảo vệ Việt Nam hóa, họ nên tấn công cả hai nơi ẩn náu và sử dụng bất kỳ lực lượng Hoa Kỳ nào cần thiết. Nixon đồng ý cần phải làm gì đó, nhưng tin rằng miền Nam nên thực hiện cuộc tấn công. Ông đã cho phép Mỹ hỗ trợ không quân cho chiến dịch Mỏ Vẹt, nhưng chỉ “trên cơ sở nhu cầu đã được xác minh”. Ông không cam kết tấn công khu vực Móc câu. Nixon sau đó đã mô tả quá trình suy nghĩ của mình trong hồi ký: “Việc trao cho miền Nam một chiến dịch của riêng họ sẽ là động lực lớn cho tinh thần chiến đấu của họ cũng như cung cấp một màn trình diễn thực tế về thành công của Việt Nam hóa”. Khi cuộc họp tạm hoãn, Tướng Earle Wheeler đã gửi cho Abrams một thông điệp khuyên ông nên bắt đầu lập kế hoạch cho chiến dịch Campuchia. Ông nói, “Mục tiêu của chúng ta là tận dụng tối đa lực lượng của quân miền Nam, để giảm thiểu sự tham gia của Hoa Kỳ và duy trì tính công khai cho dư luận Hoa Kỳ ở mức thấp nhất có thể. . . . Các cố vấn Hoa Kỳ tại Campuchia chỉ dành cho những ai được giao nhiệm vụ kiểm soát máy bay Hoa Kỳ nếu và khi được đưa vào.”
Lệnh tiến vào Campuchia đã được Abrams và Đại sứ Bunker đón nhận nồng nhiệt tại Sài Gòn. Người Mỹ từ lâu muốn được tự do để truy đuổi Cộng sản tận các hang ổ của chúng ở Campuchia. Đối với người miền Nam, Tổng thống Thiệu có một số nghi ngại về việc đưa quân vào các căn cứ địa của Cộng sản ở Campuchia, dù trên thực tế, lực lượng quân miền Nam đã từng thực hiện các cuộc đột kích hạn chế vào các khu vực biên giới. Vào ngày 27 và 28 tháng 3, một tiểu đoàn Biệt động quân miền Nam, được hỗ trợ bởi pháo binh và không quân chiến thuật, đã tiến ba km vào Tỉnh Kandal để phá hủy một căn cứ của Cộng sản. Bốn ngày sau, quân miền Nam đã xâm nhập 16 km vào Campuchia để truy đuổi Cộng sản. Vào ngày 20 tháng 4, hai nghìn binh lính miền Nam đã tiến vào khu vực Mỏ Vẹt và giết chết 144 kẻ thù. Bây giờ có vẻ như Nixon sẵn sàng bật đèn xanh cho một cuộc tấn công lớn hơn nhiều vào Campuchia.
Sau cuộc họp ngày 22 tháng 4, Kissinger nhận được một cuộc gọi điện thoại từ tổng thống. Theo Kissinger, Nixon ghét bị coi là người mềm yếu hơn các cố vấn của mình, và trong trường hợp này, tổng thống dường như có phần bực bội vì phó tổng thống Agnew đã tỏ ra mạnh mẽ hơn ông trong cuộc họp của NSC. Ngoài ra, tổng thống đã suy ngẫm về những gì các nhân viên tình báo đã nói với ông về Móc Câu. Họ đã tóm tắt với ông rằng khu vực này thậm chí còn lớn hơn cả Mỏ Vẹt và được cho là nơi đặt Trung ương cục Miền Nam khó nắm bắt, một “trung tâm thần kinh” của toàn bộ nỗ lực Cộng sản Đông Nam Á. Nixon bảo Kissinger rằng ông đang nghĩ đến việc mở rộng chỉ thị của mình để bao gồm các mục tiêu tấn công vào tất cả các khu căn cứ địa Cộng sản dọc biên giới Campuchia, không chỉ Mỏ Vẹt, như đã thảo luận trước đó tại cuộc họp của NSC, mà còn cả Móc Câu. Kissinger hiểu rằng điều này có nghĩa là tổng thống đang cân nhắc việc sử dụng quân đội Hoa Kỳ trong một chiến dịch mở rộng hơn nhiều ở Campuchia.
Đêm hôm đó, Nixon gọi lại và nói với Kissinger rằng mình muốn ông ta triệu tập một cuộc họp với Đô đốc Thomas H. Moorer (với tư cách là quyền chủ tịch của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, ông được lên lịch thay thế Tướng Earle Wheeler vào tháng 7), Helms, và Trung tướng Robert Cushman, phó giám đốc CIA, vào sáng hôm sau để “thảo luận về tính khả thi của một chiến dịch kết hợp giữa Hoa Kỳ và miền Nam chống lại Móc Câu, song song với chiến dịch Mỏ Vẹt.”
Nhóm này đã gặp tổng thống vào ngày 24 tháng 4 theo đúng lịch trình. Moorer và Helms “ủng hộ mạnh mẽ việc tấn công vào khu căn cứ địa Móc Câu và . . . cảm thấy điều đó sẽ buộc Bắc Việt từ bỏ nỗ lực bao vây và khủng bố Phnom Penh”; họ lý luận rằng việc phá hủy Trung ương cục Miền Nam và các kho tiếp tế của Cộng sản sẽ mua được thời gian quý báu cho chương trình Việt Nam hóa.
Alexander Haig, phụ tá quân sự của Kissinger và là cựu chỉ huy tiểu đoàn bộ binh tại Việt Nam, đồng ý với Moorer và Helms, lập luận rằng nếu không tấn công Móc Câu cùng lúc với tấn công Mỏ Vẹt sẽ cho phép quân tiếp viện của địch “tràn vào Mỏ Vẹt từ Móc Câu.” Do đó, ông khuyến nghị cả hai nơi căn cứ địa đều phải bị tấn công, mà mũi tấn công chính tập trung vào Móc Câu. Haig đã dẫn đầu một nhóm các nhà phân tích của NSC trong chuyến đi đến Việt Nam vào tháng 1 năm 1970 để nghiên cứu tình hình, và mặc dù ông đã thấy “những dấu hiệu đầy hy vọng”, ông kết luận rằng lực lượng miền Nam vẫn còn có một số điểm yếu lớn. Theo đó, ông bảo Nixon rằng mặc dù theo ông cuộc tấn công vào khu vực Móc Câu là bắt buộc, nhưng ông cho rằng nó rõ ràng vượt quá khả năng của lực lượng miền Nam. Một thông điệp trước đó từ Abrams, nói rằng mình không thể đảm bảo cuộc đột kích được đề xuất vào Campuchia sẽ thành công nếu không có quân đội Hoa Kỳ, như vậy là ủng hộ đánh giá của Haig. Do đó, Haig đề xuất rằng một lực lượng kết hợp của Hoa Kỳ-QLVNCH sẽ thực hiện cuộc tấn công chính vào Móc Câu, với một cuộc tấn công hỗ trợ của lực lượng miền Nam vào Mỏ Vẹt. Tổng thống đồng ý với tính cấp bách của tình hình và đánh giá của các cố vấn của mình, nhưng vẫn do dự. Cuộc họp kết thúc mà không có quyết định nào đưa ra.
Sau đó, Kissinger, theo chỉ đạo của tổng thống, đã thông báo cho các Bộ trưởng Laird và Rogers về những gì đang được cân nhắc. Kissinger, người không đánh giá cao về năng lực của miền Nam, đã đồng ý với Haig và tổng thống về sự cần thiết của quân đội Hoa Kỳ, nhưng Laird và Rogers có những dè dặt nghiêm trọng. Cả hai đều nhấn mạnh rằng việc sử dụng quân đội Hoa Kỳ sẽ kích động phe phản đối chiến tranh và phe phản đối Nixon tại Quốc hội. Nixon đã đi đến kết luận rằng mình phải hành động, nhưng ông vẫn còn do dự. Ông biết Rogers và Laird đã đúng về khả năng phản ứng mạnh mẽ của công chúng và quốc hội đối với những gì về cơ bản sẽ là một cuộc xâm lược Campuchia. Sau đó, ông đã viết, “Tôi chưa hề có ảo tưởng nào về tác động tàn phá của quyết định tiến vào Campuchia đối với dư luận. Tôi nhận ra rằng điều đó sẽ có nghĩa là thảm họa cá nhân và chính trị đối với tôi và chính quyền của tôi.” Tuy nhiên, ông nghĩ rằng một cuộc tấn công thành công vào Campuchia sẽ phục vụ một số mục đích. Bên cạnh mục đích rõ ràng nhất là phá hủy các căn cứ địa địch và nguồn cung cấp hậu cần của Cộng sản, nó sẽ chứng tỏ quyết tâm của Nixon trong việc theo đuổi cuộc chiến cho đến khi kết thúc và do đó có thể phá vỡ thế bế tắc tại các cuộc đàm phán hòa bình Paris.
Ngoài ra, và cũng quan trọng không kém, một chiến dịch thành công sẽ thúc đẩy về mặt tâm lý cho miền Nam và chứng minh rằng chương trình Việt Nam hóa đã có hiệu quả. Ít nhất, Nixon đã nói với Kissinger, “Tôi muốn đảm bảo rằng Campuchia không bị phá sản nếu không làm điều gì đó”.
Theo đó, tổng thống đã cho phép lập kế hoạch cho cuộc tấn công kết hợp bằng cách sử dụng lực lượng Hoa Kỳ cũng như miền Nam, nhưng đã trì hoãn việc phê duyệt cuối cùng về việc phát động chiến dịch. Abrams đã được điện tín ra lệnh tiến hành lập kế hoạch cho một cuộc tấn công kết hợp vào cả Móc Câu và Mỏ Vẹt để “hoàn thành nhiệm vụ bằng cách sử dụng bất cứ thứ gì cần thiết”.
Vào tối ngày 26 tháng 4, Nixon lại gặp các cố vấn chính của NSC để xem xét các thảo luận cuối cùng về tính khả thi của việc tiến hành chiến dịch. Theo Kissinger, Nixon đã quyết định, nhưng muốn thảo luận quyết định của mình với Laird và Rogers. Kissinger nhắc lại bản chất của cuộc thảo luận trong hồi ký của mình:
Liệu chúng ta có thể tiếp tục rút quân khỏi Việt Nam với Sihanoukville mở cửa trở lại và toàn bộ Campuchia trở thành một khu vực căn cứ địa lớn liền kề không? Những người trong Chính quyền phản đối chủ yếu vì lo ngại về phản ứng trong nước. Không ai đưa ra được câu trả lời cho thế tiến thoái lưỡng nan về cách chúng ta có thể tiến hành Việt Nam hóa nếu toàn bộ biên giới Campuchia mở ra cho sự xâm nhập ồ ạt. Và sự không hành động cũng không tránh khỏi thế tiến thoái lưỡng nan trong nước của chúng ta. Nếu chúng ta phản kháng, chúng ta sẽ bị buộc tội leo thang; nhưng nếu chúng ta chấp nhận việc Cộng sản tiếp quản Campuchia, thương vong của chúng ta bắt đầu tăng lên, và Việt Nam bắt đầu tan rã, chúng ta sẽ bị buộc tội theo đuổi một chiến lược vô vọng.
Laird và Rogers phản đối kịch liệt cuộc xâm lược đã được lên kế hoạch, nhưng không ai đưa ra được lập luận thực chất nào thuyết phục được tổng thống. Dù sao thì Nixon cũng hoãn chiến dịch trong hai mươi bốn giờ. Theo Kissinger, Nixon đã hoãn cuộc tấn công để làm dịu thêm sự phản đối từ nội bộ chính quyền bằng cách cho tất cả các bên thời gian để bình tĩnh lại. Vào ngày 28 tháng 4, tổng thống đã đưa ra quyết định cuối cùng và Abrams được lệnh thực hiện chiến dịch. Sau đó, Nixon đã viết về quyết định của mình, “Chúng tôi sẽ chơi hết láng, vì ván bài quá lớn… để thắng cả ngã về không… Lực lượng liên quân miền Nam-Hoa Kỳ sẽ tiến vào Móc Câu.”
KẾ HOẠCH
Sau khi Nixon đưa ra quyết định cuối cùng về việc tiến vào Campuchia, việc lập kế hoạch được giao cho các chỉ huy quân sự tại chiến trường. Ngày 24 tháng 4, Tướng Abrams đã bay đến sở chỉ huy cấp quân đoàn của Trung tướng Michael Davison, chỉ huy Lực lượng Dã chiến II, để yêu cầu ông bắt đầu lập kế hoạch cho một cuộc tấn công vào Campuchia. Các chỉ huy người Mỹ, từ lâu đã mong muốn có thẩm quyền đuổi theo người Cộng sản vào tận hang ổ của chúng tại Campuchia, đã lập ra các kế hoạch dự phòng cho một cuộc tấn công như vậy kể từ tháng 1. Các kế hoạch dự phòng này đã được lấy ra phủi bụi và điều chỉnh để bao gồm một chiến dịch kết hợp giữa Hoa Kỳ và QLVNCH, với lực lượng Hoa Kỳ và QĐVNCH tấn công vào Móc Câu, và quân miền Nam tấn công một mình vào Mỏ Vẹt.
Các thành phần của Lực lượng Dã chiến II Việt Nam từ Quân Khu III sẽ thực hiện cuộc tấn công chính vào Móc Câu; các cuộc tấn công hỗ trợ thứ cấp sẽ được phát động từ Quân Khu II và IV. Lực lượng tấn công của quân đồng minh lên tới hơn 15.000 người (10.000 binh sĩ Mỹ và hơn 5.000 lính miền Nam), khiến đây trở thành chiến dịch đồng minh kết hợp lớn nhất kể từ Chiến dịch Junction City năm 1967. Các đơn vị Hoa Kỳ tham gia bao gồm các thành phần của Sư đoàn Kỵ binh số 1, Sư đoàn Bộ binh số 25 và Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 11. Lực lượng miền Nam bao gồm các thành phần của Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 1, một đội kỵ binh thiết giáp từ mỗi sư đoàn 5 và 25, một trung đoàn bộ binh từ Sư đoàn 25, Nhóm biệt động số 4 (bốn tiểu đoàn biệt động), Lữ đoàn Nhảy dù số 3 và các đơn vị bổ sung từ cả Quân đoàn II và III.
Kế hoạch ở Móc Câu đòi hỏi một cuộc chuyển quân gọng kìm được thiết kế để bẫy các lực lượng của Sư đoàn 7 BV đang hoạt động ở đó (ước tính 7.000 lính địch). Để thực hiện điều này, Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 11 sẽ tiến về phía đông và đông nam và các lực lượng của Sư đoàn Kỵ binh số 1 sẽ tấn công từ phía tây. Trong khi đó, Lữ đoàn Nhảy dù số 3 của quân miền Nam sẽ được đưa vào ba vị trí chặn ở phía bắc Móc Câu và, khi được lệnh, sẽ di chuyển về phía nam để liên kết với các đơn vị Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 11 và Kỵ binh số 1. Vào thời điểm thích hợp, lực lượng trực thăng của Kỵ binh số 1 sẽ bao vây hậu phương địch. Ngoài việc bẫy Sư đoàn 7 BV, lực lượng đồng minh sẽ lùng sục khu vực để tìm căn cứ địa, công sự và kho tiếp tế. Trong giai đoạn này, lực lượng Hoa Kỳ sẽ tìm và diệt Trung ương. cục Miền Nam, được cho là nằm ở Móc Câu. Một mục tiêu quan trọng khác là thị trấn Snuol, có vị trí chiến lược tại ngã ba của Tuyến đường 7 và 13 và được cho là điểm phân phối chính vào miền Nam để tiếp tế cho Cộng sản được vận chuyển qua Sihanoukville. Lực lượng Hoa Kỳ (bao gồm cả lực lượng cố vấn cho miền Nam) sẽ bị giới hạn hoạt động không quá 30 km sâu bên trong lãnh thổ Campuchia.
Cuộc tấn công vào Mỏ Vẹt sẽ bắt đầu một ngày trước chiến dịch Móc Câu và sẽ có sự tham gia của ba lực lượng đặc nhiệm quân miền Nam, mỗi lực lượng gồm ba tiểu đoàn bộ binh và một đội kỵ binh thiết giáp. Trong giai đoạn đầu của chiến dịch, các lực lượng này, tổng cộng 8.700 binh lính, sẽ bao vây các Khu Căn cứ 706 và 367, ở mũi Mỏ Vẹt. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đó, lực lượng quân miền Nam sẽ quay về phía tây và phía bắc để bảo vệ thị trấn quan trọng Svay Rieng và tấn công Khu Căn cứ 354.
BÁO CÁO KẾ HOẠCH
Vào thứ năm, ngày 30 tháng 4, một ngày sau khi lực lượng miền Nam vượt biên vào Campuchia, Nixon đã giải thích lý do phê duyệt chiến dịch trong một bài phát biểu được truyền hình toàn quốc. Theo cách mà một số nhà báo mô tả là hiếu chiến, ông nhấn mạnh rằng việc tiến vào Campuchia “không phải là một cuộc xâm lược” mà là một phản ứng cần thiết đối với “sự xâm lược” của Bắc Việt Nam. Ông tuyên bố: “Để bảo vệ những chàng trai của chúng ta đang ở Việt Nam và để đảm bảo sự thành công liên tục của các chương trình rút quân và Việt Nam hóa, tôi đã kết luận rằng đã đến lúc phải hành động. . . . . Với sự hợp tác của các lực lượng vũ trang miền Nam, các cuộc tấn công đang được tiến hành trong tuần này để dọn sạch các nơi ẩn náu chính của kẻ thù trên biên giới Campuchia-Việt Nam. . . .” Tổng thống thừa nhận rằng quyết định của ông sẽ gây ra sự náo động trong nước, nhưng cho biết ông đã đưa ra quyết định của mình mà không quan tâm đến hậu quả chính trị. Ông khẳng định niềm tin của mình rằng phần lớn người Mỹ ủng hộ việc rút quân của Mỹ và hành động này sẽ thúc đẩy mục đích đó, nói rằng “Cho dù đảng của tôi có giành được chiến thắng vào tháng 11 cũng không là gì so với mạng sống của 400.000 người Mỹ dũng cảm đang chiến đấu vì đất nước chúng ta và vì mục đích hòa bình và tự do ở Việt Nam.” Ông kết luận, “Nếu khi tình hình trở nên nguy cấp, quốc gia hùng mạnh nhất thế giới hành động như một gã khổng lồ bất lực đáng thương, thì các thế lực toàn trị và vô chính phủ sẽ đe dọa các quốc gia tự do và các thể chế tự do trên toàn thế giới.”
Phản ứng của Hoa Kỳ đối với hoạt động ở Campuchia là ngay lập tức và nhanh chóng đạt đến mức kịch tính. Một thông tin rò rỉ trước đó cho giới truyền thông về quyết định của chính quyền ủng hộ một chiến dịch xâm nhập Campuchia của miền Nam đã gây ra phản ứng mạnh mẽ tại Thượng viện, nơi các thành viên lãnh đạo của cả hai đảng đe dọa sẽ cắt nguồn quỹ cho hoạt động ở Campuchia.
Tuy nhiên, phản ứng của họ nhẹ nhàng hơn so với phản ứng chào đón tuyên bố công khai của Nixon rằng người Mỹ sẽ cùng quân đội miền Nam tiến vào Campuchia. Một làn sóng phản đối dữ dội nổ ra chống lại chính quyền và chính sách của họ ở Đông Nam Á. Nixon đã hứa, hoặc ít nhất là ám chỉ, rằng ông sẽ hạ nhiệt cuộc chiến đối với lực lượng Hoa Kỳ; ông vừa tuyên bố sẽ rút thêm 150.000 quân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bây giờ, chưa đầy một tuần sau, ông đã tuyên bố với quốc gia một sự kiện thực chất là một cuộc xâm lược Campuchia của quân đội Hoa Kỳ và miền Nam. Thay vì được coi là một biện pháp phòng ngừa do tình hình quân sự ngày càng tồi tệ ở Campuchia, “cuộc xâm lược”, bất chấp những lời phản bác của Nixon, trông rất giống một cuộc mở rộng chiến tranh đối với nhiều người Mỹ. Một làn sóng phản đối bạo lực mới đã xảy ra.
CUỘC XÂM LƯỢC CAMPUCHIA
Trong khi các cuộc biểu tình nổ ra sau thông báo của tổng thống, cuộc tấn công vẫn tiếp tục đúng tiến độ. Vào ngày 29 tháng 4, lực lượng quân miền Nam đã triển khai phần vụ của họ trong chiến dịch, được gọi là Toàn Thắng, bằng cách tấn công bằng lực lượng sư đoàn vào Mỏ Vẹt. Lực lượng Hoa Kỳ tiến vào Móc Câu hai ngày sau đó. Khoảng thời gian giữa hai cuộc tấn công đã làm mất đi tính bất ngờ có thể đạt được nếu phối hợp tốt hơn, nhưng cả hai cuộc tấn công đều diễn ra khá tốt.
Trước bình minh ngày 1 tháng 5, sau các cuộc tấn công chuẩn bị kéo dài của pháo binh đồng minh và hỗ trợ không quân chiến thuật, xe tăng dẫn đầu và xe bọc thép chở quân của Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 11 đã vượt biên giới vào Campuchia (xem bản đồ 4). Các lực lượng Hoa Kỳ dự kiến kẻ thù cố thủ sẽ chống trả quyết liệt. Đại tá (sau này là Tướng) Donn Starry, chỉ huy Sư đoàn 11, sau đó đã nói, “Chúng tôi đã có báo cáo về các hệ thống boongke kiên cố, vũ khí chống tăng, súng phòng không… chúng tôi biết rằng có hai trung đoàn BV dọc biên giới trong khu vực mà chúng tôi phải đi qua.” Tuy nhiên, sức kháng cự của địch rất yếu. Có lẽ, phần lớn lực lượng Cộng sản đã rút sâu hơn vào nội địa Campuchia. Hầu hết các cuộc đụng độ là các trận đánh cầm chân của các đơn vị địch nhỏ, thay vì các trận chiến lớn, ác liệt mà giới chỉ huy Hoa Kỳ mong đợi. Đến ngày 3 tháng 5, MACV báo cáo chỉ có 8 lính Mỹ thiệt mạng và 32 người bị thương, đây là con số thương vong rất thấp cho một hoạt động có quy mô và phạm vi như thế này. Tổn thất của địch được báo cáo là 476 người thiệt mạng, trong đó 160 người là nạn nhân của các cuộc không kích chiến thuật và các tấn công bằng trực thăng pháo kích.

Bản đồ 4. Cuộc tấn công vào Móc Câu, tháng 5 năm 1970.
Có những ngoại lệ đối với giao tranh nhẹ. Vào ngày 2 tháng 5, Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp 11 của Đại tá Starry được lệnh tiến đến Snuol, nơi có báo cáo tình báo cho biết một tiểu đoàn Quân BV hoặc nhiều hơn đang đào hào và chuẩn bị cho trận chiến. Starry tiến vào thị trấn với hơn một trăm xe bọc thép, và một trận chiến ác liệt đã xảy ra kéo dài trong hai ngày. Vào đêm thứ hai, lực lượng Cộng sản còn sống sót đã lẻn rút đi. Trong quá trình chiến đấu, Snuol gần như bị phá hủy. Kết quả của hoạt động này là không rõ ràng, vì bộ đội BV rút lui đã mang theo những đồng đội chết và bị thương.
Thiếu tướng Elvy Roberts, chỉ huy Sư đoàn Kỵ binh số 1, đã nhận xét vào đầu chiến dịch, “Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ nhốt chúng [kẻ thù] trong một cái túi.” Tuy nhiên, cuộc tấn công vào Móc Câu đã không lấp đầy được “cái túi” đó bằng một số lượng lớn lính địch. Tuy nhiên, các hoạt động đã dẫn đến việc bắt giữ và/hoặc phá hủy một lượng lớn vật tư và quân nhu của địch. Phe tấn công liên tục phát hiện ra các kho vũ khí và kho tiếp tế lớn, một kho rộng đến mức quân đội Hoa Kỳ gọi đó là “Thành phố”. Được một tiểu đoàn của Sư đoàn Kỵ binh số 1 phát hiện, khu vực này là một khu phức hợp rộng hai dặm vuông bao gồm 182 kho vũ khí và đạn dược riêng biệt, 18 nhà ăn, một trường bắn, một trang trại nuôi gà và lợn, và hơn 400 boongke lát gỗ và các nơi trú ẩn khác chứa vật tư y tế, thực phẩm và quân phục. Sau đó, một tiểu đoàn khác của Sư đoàn Kỵ binh số 1 đã tìm thấy một khu căn cứ địa thậm chí còn lớn hơn được chứng minh là kho vũ khí lớn nhất từng bị thu giữ trong chiến tranh; quân đội gọi đó là “Đảo Rock phía Đông”. Một cuộc tìm kiếm khu vực này đã phát hiện ra hơn 6,5 triệu viên đạn phòng không, nửa triệu viên đạn súng trường, hàng nghìn quả tên lửa, một số xe tải General Motors và thậm chí cả tổng đài điện thoại.
Tổng thống Nixon, phấn khởi trước những báo cáo ban đầu về thành công của quân đồng minh, đã ra lệnh cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân “phá hủy tất cả các khu căn cứ địa. . . . Phá hủy tất cả để chúng không thể được tái sử dụng chống lại chúng ta nữa. Không bao giờ.” Sau đó, các đơn vị của Sư đoàn Bộ binh 25 đã xâm chiếm một khu vực cách Móc Câu 48 km về phía tây nam, được gọi là Đầu Chó. Ngoài ra, hai lữ đoàn của Sư đoàn Bộ binh 4 đã tấn công vào khu vực Se San, cách Pleiku 60 km về phía tây.
Đến cuối tháng 5, hơn 30.000 binh sĩ Hoa Kỳ đã có mặt ở Campuchia. Các lực lượng Hoa Kỳ đã dành phần còn lại của tháng 5 và toàn bộ tháng 6 để tìm và phá hủy các cứ điểm cất giấu vũ khí của địch. Lượng vật tư và thiết bị của Cộng sản bị phá hủy là rất lớn, nhưng chiến dịch Móc Câu đã không đạt được một trong những mục tiêu chính của mình: phát hiện và phá hủy Trung ương cục Miền Nam. Sau này người ta biết rằng sở chỉ huy chiến trường bí mật của Cộng sản đã chạy khỏi khu vực Móc Câu vào ngày 19 tháng 3 và di chuyển về phía tây và phía bắc qua Sông Cửu Long.
CUỘC TẤN CÔNG CỦA QUÂN MIỀN NAM
Trong khi hầu hết sự chú ý của công chúng và giới truyền thông tập trung vào lực lượng Hoa Kỳ và quân miền Nam tấn công Móc Câu, Nixon và các cố vấn của ông lại chú ý đến các trận chiến Mỏ Vẹt, ngoại trừ sự hiện diện của khoảng 100 cố vấn Mỹ, thì hoàn toàn là một màn trình diễn của quân miền Nam. Chiến dịch Mỏ Vẹt là một trong những trường hợp thử nghiệm sớm nhất để đánh giá hiệu quả của lực lượng vũ trang miền Nam và chương trình Việt Nam hóa. Theo đó, điều then chốt là miền Nam phải làm tốt.
Như đã nêu trước đó, lực lượng miền Nam đã phát động cuộc tấn công vào Mỏ Vẹt vào ngày 29 tháng 4 (xem bản đồ 5). Họ đã tiến vào khu vực này từ Quân Khu III và Quân Khu IV với ba mục tiêu chính: giao chiến với khoảng 10 đến 20 nghìn quân địch đang hoạt động trong khu vực, tìm và diệt các cơ sở căn cứ và kho tiếp tế, và dọn sạch Đường cao tốc 1 và Sông Cửu Long, là tuyến đường bộ và đường thủy chính giữa Phnom Penh và miền Nam.

Bản đồ 5. Cuộc tấn công vào Mỏ Vẹt, tháng 5 năm 1970.
Để chỉ huy chiến dịch này, mà ông hy vọng sẽ là màn trình diễn cho lực lượng vũ trang đã được tái thiết, Tổng thống Thiệu đã chọn Trung tướng Đỗ Cao Trí, tư lệnh Quân đoàn III. Trí là một nhà lãnh đạo chiến đấu năng động và có năng lực được các sĩ quan và binh lính của mình rất kính trọng. Tinh thần hiếu chiến của ông rất dễ lây lan, và một vị tướng miền Nam đã nhận xét rằng khi Tướng Trí nói với các chỉ huy cấp dưới của mình về chiến dịch Mỏ Vẹt sắp diễn ra, ông “có thể nhìn thấy niềm vui ánh lên trong mắt họ.”
Một trong những lý do khiến tinh thần của quân miền Nam lên cao như vậy vào khởi đầu chiến dịch là các cố vấn Mỹ của họ đã được ủy quyền đi cùng các đơn vị quân miền Nam vào Campuchia; do đó, miền Nam sẽ được hưởng lợi từ sự hỗ trợ chiến thuật trên không của Hoa Kỳ và các phi vụ B-52, mà các cố vấn Mỹ có thể kêu gọi. Ngoài ra, vì lực lượng quân miền Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ pháo binh tầm xa từ các khẩu pháo 8 inch và 175 mm của Hoa Kỳ, nên mỗi lực lượng tác chiến miền Nam đều có các trình sát viên pháo binh tiền phương từ Nhóm pháo binh 23 của Hoa Kỳ đi theo. Sự tham gia của các cố vấn và trinh sát pháo binh Hoa Kỳ đã chỉ rõ cho quân miền Nam biết mình sẽ nhận được sự hậu thuẫn toàn diện của bộ tư lệnh cấp cao Hoa Kỳ.
Không giống như tình hình ở Móc Câu, nơi những kẻ tấn công chỉ chiến đấu với lực lượng bảo vệ hậu cứ của Cộng sản, quân đội miền Nam ở Mỏ Vẹt đã có các trận giao tranh đáng kể với các đơn vị chủ lực quân Bắc Việt gần như ngay lập tức. Trong vài ngày tiếp theo, một số trận chiến dữ dội đã diễn ra. Sau này, Tri nói rằng trong một trận chiến, quân của ông đã ‘chiến đấu tay đôi với quân Cộng sản, sử dụng súng trường, dao và lưỡi lê. Khi trận chiến kết thúc, chúng tôi đã giết hơn 50 tên địch, trong khi chỉ bị thương 5 người. Vào cuối hai ngày giao tranh đầu tiên, quân miền Nam đã mất 30 người và 70 người bị thương, trong khi 375 quân BV được tuyên bố đã chết
Sau những trận chiến ban đầu, tình hình chiến sự dần ổn tương tự như trải nghiệm ở Móc Câu khi lực lượng chính quy BV chạy trốn vào nội địa Campuchia. Chỉ chống lại một lực lượng nhỏ đang cầm chân, miền Nam đã đạt được mục tiêu ban đầu của mình, tiến về phía tây hướng đến thủ phủ tỉnh Svay Rieng và mở Quốc lộ 1. Ngay sau đó, lực lượng quân miền Nam đã chiếm đóng nửa phía nam của Mỏ Vẹt. Lực lượng tăng viện của miền Nam từ Sư đoàn Bộ binh 9, 5 đội kỵ binh thiết giáp và một nhóm biệt động đã đến để hỗ trợ dọn dẹp khu vực, nâng tổng số quân miền Nam tại Campuchia lên hơn 48.000.
Quân đội miền Nam ở Mỏ Vẹt nhìn chung đã tìm thấy cùng loại các công sự và cơ sở hậu cần của địch như đã tìm thấy ở Móc Câu. Tại Ba Thu, cách Sài Gòn 50 km về phía tây, quân miền Nam đã chiếm giữ những gì rõ ràng là một trung tâm trang bị và đào tạo lại các đơn vị quân BV và VC. Khu phức hợp này rộng 10 kilômét vuông và bao gồm hàng trăm ngôi nhà và boongke được kết nối bằng một mạng lưới đường bộ rộng lớn. Trong tháng 5 và tháng 6, miền Nam đã tiến hành các hoạt động cơ động ở Campuchia khiến Cộng sản mất cân bằng và buộc chúng phải rời khỏi nơi ẩn náu của mình. Cùng lúc đó, các thành phần của quân miền Nam đã phá hủy thêm nhiều kho dự trữ và cơ sở hậu cần của Quân BV. Cộng sản đã cố gắng phản công hạn chế vào đầu tháng 6, nhưng phần lớn là không hiệu quả. Cuối tháng đó, mưa gió mùa bắt đầu, khiến hoạt động tấn công của cả hai bên phải dừng lại và, vì mọi mục đích thực tế, chấm dứt “cuộc xâm lược”. Chiến dịch này đã khiến 344 người Mỹ thiệt mạng ở Campuchia và 1.592 người bị thương; thương vong của quân miền Nam bao gồm 818 người chết và 3.553 người bị thương.
ĐÁNH GIÁ CUỘC XÂM NHẬP CAMPUCHIA
Bất chấp sự phẫn nộ tại Hoa Kỳ do cuộc xâm nhập Campuchia gây ra, chiến dịch này đã thành công về mặt quân sự. Các căn cứ và kho dự trữ hậu cần của Cộng sản đã bị giáng một đòn nghiêm trọng. Các đồng minh đã thu giữ được một khối lượng vật tư và vật liệu ấn tượng, bao gồm 16 triệu viên đạn các loại; 45.283 quả rocket; 14 triệu cân gạo; 2.892 vũ khí riêng lẻ; 5.487 quả mìn; 62.000 quả lựu đạn; và 435 xe cộ (xem bảng 7).
Người ta ước tính rằng số vũ khí thu được đủ để trang bị cho ít nhất một sư đoàn Cộng sản và đạn dược đủ để cung cấp cho 126 tiểu đoàn địch trong tối đa bốn tháng trên chiến trường. Ngoài ra, 11.700 boongke đã bị phá hủy, và phe đồng minh tuyên bố đã giết chết 11.349 quân địch (mặc dù CIA và nhiều phương tiện truyền thông thấy những con số này rất đáng ngờ).
Bảng 7. Vật liệu thu được trong Cuộc xâm lược Campuchia, 1970
Vũ khí cá nhân 2.892
Vũ khí tập thể 2.509
Đạn dược vũ khí nhỏ (viên đạn) 16.762.167
Đạn phòng không (viên đạn) 199.552
Đạn cối (viên đạn) 68.593
Tên lửa, B-40 và B-41 43.160
Đạn súng trường không giật (viên đạn) 29.185
Lựu đạn cầm tay 62.022
Thuốc nổ (cân) 83.000
Tên lửa, 107 mm và 122 mm 2.123
Mìn, mọi loại 5.487
Xe cộ, mọi loại 435
Dược phẩm (cân) 110.800
Gạo (cân) 14.046.000
Nguồn: Dữ liệu từ Bảng dữ kiện, “Mức tác động đến kẻ thù của các chiến dịch Campuchia,” phát hành tại Sài Gòn, ngày 14 tháng 5 năm 1970. Trong Hồ sơ chi nhánh Đông Nam Á, Trung tâm Lịch sử Quân sự Lục quân Hoa Kỳ, Washington, D.C.
Chuyên gia chống nổi loạn nổi tiếng người Anh, Ngài Robert Thompson, người đã đến thăm miền Nam ngay sau chiến dịch Campuchia, tin rằng cuộc xâm nhập đã đạt được ba kết quả chiến lược quan trọng ngoài việc phá hủy nguồn cung cấp của Cộng sản. Đầu tiên, nó ngăn chặn Bắc Việt ngay lập tức tấn công Campuchia và cứu Phnom Penh, qua đó bảo tồn chính quyền Lon Nol và sự tồn tại của Campuchia như một quốc gia (ít nhất là tạm thời). Nó cũng đóng cửa Sihanoukville như một cảng tiếp tế của Quân BV và buộc người Cộng sản phải mang tất cả các nguồn cung cấp xuống Đường mòn Hồ Chí Minh, do đó kéo dài đường dây cứu sinh của họ. Cuối cùng, theo Thompson, cuộc xâm nhập cho thấy Nixon đã sẵn sàng sử dụng lực lượng Hoa Kỳ để tấn công nhằm bảo vệ số quân Hoa Kỳ còn lại và hỗ trợ cũng như bảo vệ nỗ lực Việt Nam hóa.
Đối với Nixon và chính quyền của ông, hoạt động này đã chứng minh tính hợp lệ của chính sách Việt Nam hóa của Hoa Kỳ. QLVNCH đã thể hiện tinh thần chiến đấu và khả năng tiến hành các hoạt động cơ động chống lại một kẻ thù được huấn luyện tốt, được trang bị tốt. Peter Kann của Tạp chí Phố Wall đã đưa tin từ Campuchia vào tháng 7 năm 1970 rằng “Ngay cả những người chỉ trích lâu năm cũng thừa nhận rằng QLVNCH đã hoạt động hiệu quả và hiệu suất cao—ít nhất là theo tiêu chuẩn hoạt động của Nam Việt Nam. Các trung đoàn thường hiếm khi mạo hiểm thực hiện một hoạt động khó khăn kéo dài hơn hai ngày ở miền Nam giờ đây đã liên tục di chuyển và chạm trán với lực lượng địch trong sáu đến tám tuần ở Campuchia. Các hoạt động của Nam Việt Nam tại Campuchia càng ấn tượng hơn ở chỗ nhiều hoạt động đã được tiến hành ngoài phạm vi hỗ trợ hậu cần và hỏa lực của Hoa Kỳ.”
Các cố vấn của quân đội miền Nam đã báo cáo rằng tinh thần binh lính miền Nam đã tăng lên đáng kể, họ tỏ ra vui mừng vì cuộc chiến cuối cùng đã được đưa ra khỏi đất nước của mình và vào tận “hang ổ” của kẻ thù. Mặc dù hoạt động có nhiều khía cạnh tích cực, nhưng không phải tất cả đều hoàn hảo, bao gồm một số điểm thấp như việc binh lính miền Nam cướp bóc tại đồn điền Chup và Kompong Speu. Tuy nhiên, hiệu suất chiến đấu chung của miền Nam rất khả quan. Chiến dịch đã giành được nhiều thời gian cần thiết cho các đồng minh. Người Cộng sản đã không thể tiến hành bất kỳ chiến dịch quan trọng nào từ Móc Câu và Mỏ Vẹt trong hai năm tiếp theo. Mặc dù đã gây ra tranh cãi, quyết định của tổng thống về việc tiến vào Campuchia đã làm giảm bớt áp lực ở miền Nam. Các nơi ẩn náu của Cộng sản đã phải chịu một đòn nghiêm trọng, và Quân BV sẽ cần nhiều tháng để xây dựng lại các căn cứ địa của họ ở Campuchia. Sau khi có thêm không gian thở cho cả quân miền Nam và các nỗ lực Việt Nam hóa tiếp theo, Nixon có thể tiếp tục lịch trình rút quân của mình trong phần còn lại của năm 1970 và sang năm 1971. Sự tham gia của lực lượng quân miền Nam vào chiến dịch đã nâng cao đáng kể sự tự tin của họ, và sau đó họ đã đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, đặc biệt là ở các khu vực biên giới, trong khi các lực lượng Hoa Kỳ chuẩn bị tái triển khai về Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nghĩ rằng chiến dịch đó thành công như vậy. Tướng Bruce Palmer, người từng là phó tướng của Westmoreland tại MACV, đã viết sau chiến tranh rằng các cuộc đột kích của Campuchia đã “làm tổn hại nghiêm trọng đến cơ hội sống sót và duy trì tự do của miền Nam” và rằng bất kỳ thành quả nào cũng “phản tác dụng”. “Về mặt chính trị”, ông kết luận, “Campuchia không chỉ gây ra một vòng xoáy đi xuống về mức ủng hộ của công chúng và quốc hội đối với các hoạt động của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, cuối cùng không những bị cấm, mà còn dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ trong nỗ lực cố vấn và viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho miền Nam. Đây có lẽ là đòn giáng gây thiệt hại nhất đối với Sài Gòn”.
Palmer ít nhất đã đúng một phần. Bất chấp thành công về mặt quân sự của chiến dịch, cuộc xâm nhập của Campuchia đã gây ra một cơn bão tranh cãi trong nước. Sinh viên đại học đã nổi dậy gần như hàng loạt để phản đối những gì đối với họ là một sự leo thang rõ ràng của hành động chiến tranh. Các cuộc tuần hành và biểu tình đã được tổ chức tại các trường đại học trên khắp cả nước, bao gồm New York, Ohio, Texas, California, Georgia, Wisconsin và nhiều tiểu bang khác. Trước khi tháng 5 kết thúc, 57 phần trăm trong số 1.350 trường đại học của cả nước đã xảy ra các cuộc bãi học và biểu tình liên quan đến 4,5 triệu sinh viên.
Vào ngày 4 tháng 5, Lực lượng Vệ binh Quốc gia đã nổ súng vào một nhóm sinh viên biểu tình phản đối chiến tranh tại Kent State, giết chết bốn người (hai người trong số họ không tham gia vào các cuộc biểu tình). Vào ngày 14 tháng 5 năm 1970, mười ngày sau vụ giết người tại Đại học Kent State, một vụ việc tương tự đã xảy ra tại Cao đẳng Jackson State, một học viện chủ yếu là người Mỹ gốc Phi ở Mississippi. Sau hai đêm biểu tình tại trường, một cuộc đối đầu dữ dội đã kết thúc khi cảnh sát và cảnh sát tuần tra đường bộ của tiểu bang bắn vào một ký túc xá, giết chết hai sinh viên và làm bị thương mười hai sinh viên khác. Vào ngày 8 tháng 5, hơn 100.000 người Mỹ đã tuần hành đến Washington để phản đối cuộc chiến; chính phủ đã triệu tập quân đội chính quy để giải quyết tình trạng hỗn loạn.
Phản ứng của Quốc hội đối với quyết định của Nixon về việc đưa quân đội Hoa Kỳ vào Campuchia cũng không kém phần mạnh mẽ. Vào tháng 6, họ đã hủy bỏ Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ năm 1964, mà các chính quyền kế tiếp đã sử dụng để ủy quyền cho cuộc chiến. Vào ngày mà chiến dịch Campuchia chính thức kết thúc, ngày 30 tháng 6, Thượng viện đã thông qua Tu chính án Cooper-Church, cấm chi tiêu công quỹ cho bất kỳ hoạt động đưa lực lượng bộ binh Hoa Kỳ nào vào Campuchia trong tương lai. Hạ viện đã bác bỏ tu chính án này vào ngày 9 tháng 7, nhưng cuộc tranh luận tương ứng đã chứng tỏ rằng ngày càng có nhiều thành viên Quốc hội rõ ràng không hài lòng với việc Nixon mở rộng chiến tranh. Đến cuối tháng 8, Thượng viện đã tranh luận về Tu chính án McGovern-Hatfield, trong đó đặt ra thời hạn cho việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á là ngày 31 tháng 12 năm 1971, cho phép tổng thống gia hạn thời hạn thêm 60 ngày trong trường hợp khẩn cấp. Tu chính án đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các biên tập viên. Tờ Washington Post đã kêu gọi thông qua, nói rằng nó sẽ “chấm dứt trò chơi gian lận” ở Đông Nam Á. Mặc dù tu chính án đã bị bác bỏ với tỷ lệ phiếu 55-39 vào ngày 1 tháng 9, nhưng một luật tương tự sẽ được đưa ra tại Quốc hội nhiều lần nữa, làm tăng áp lực buộc Nixon phải chấm dứt chiến tranh.
Cuộc xâm nhập Campuchia và hậu quả của nó cũng có tác động tiêu cực ở nước ngoài. Ngược lại với lời khẳng định của Nixon rằng ảnh hưởng và uy tín của Hoa Kỳ phụ thuộc vào hành động quyết liệt chống lại các khu căn cứ địa Cộng sản, phản ứng của các đồng minh Hoa Kỳ, theo lời của thủ tướng Anh Harold Wilson, nói chung là “lo lắng và bất an”.
Vào tháng 6, một cuộc thăm dò bí mật do Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ tiến hành tại bốn quốc gia châu Âu và bốn quốc gia châu Á cho thấy uy tín của Hoa Kỳ đã suy giảm đáng kể—rõ ràng là do các hoạt động vào tháng 5-tháng 6 tại Campuchia—ở hầu hết các quốc gia được lấy mẫu”.
Trong khi phe biểu tình phản chiến, phe chỉ trích tại Quốc hội và các nhà quan sát nước ngoài lên án Nixon, nhiều người Mỹ vẫn ủng hộ tổng thống. Một cuộc thăm dò của Newsweek vào tuần thứ hai của tháng 5 cho thấy 50 phần trăm chấp thuận đối với quyết định đưa quân vào Campuchia của Tổng thống Nixon. Nhà Trắng đã nhận được gần nửa triệu lá thư và tấm thiệp, phần lớn trong số đó ủng hộ tổng thống. Vào ngày 20 tháng 5, 100.000 công nhân xây dựng, công nhân bốc xếp, thợ thủ công và nhân viên văn phòng diễu hành qua Manhattan để thể hiện sự đồng tình đối với Nixon và các chính sách của ông tại Đông Nam Á.
Mặc dù có sự ủng hộ này, Nixon biết rằng mình sắp hết thời gian ở Việt Nam. Ông phải tăng cường nỗ lực Việt Nam hóa và tiếp tục rút quân Hoa Kỳ trước khi đất nước ông bị chia rẽ. Vào ngày 30 tháng 6, tổng thống đã lên truyền hình và tuyên bố hoàn thành các chiến dịch Móc Câu và Mỏ Vẹt. Ông nói: “Với các hoạt động trên bộ của Hoa Kỳ tại Campuchia đã kết thúc, chúng ta sẽ tiến hành kế hoạch chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và bảo đảm nền hòa bình công chính trên đó tất cả người dân Mỹ đều đoàn kết… Cuộc xâm nhập Campuchia sẽ cứu người Mỹ và các lực lượng đồng minh trong tương lai; sẽ đảm bảo việc rút quân Hoa Kỳ khỏi miền Nam có thể diễn ra đúng tiến độ; sẽ cho phép chúng ta tiếp tục tiến trình Việt Nam hóa theo thời gian biểu hiện tại; và sẽ nâng cao triển vọng cho một nền hòa bình công bằng”.
ĐÁNH GIÁ TIẾN ĐỘ CỦA VIỆC VIỆT NAM HÓA
Khi năm 1970 sắp kết thúc, các nhà lãnh đạo quân sự và dân sự ở Hoa Kỳ đã cố gắng đánh giá tiến trình Việt Nam hóa. Hiệu suất của QLVNCH trong các hoạt động ở Campuchia, đặc biệt là ở Mỏ Vẹt, rất đáng khích lệ. Quân đội miền Nam đã tấn công lực lượng Bắc Việt cố thủ và quân đội miền Nam đã hoạt động khá tốt. Nhóm Cố vấn Quân đội Hoa Kỳ với Quân đoàn III (quân miền Nam) báo cáo rằng hoạt động “đã thúc đẩy binh lính miền Nam về mặt tâm lý dẫn đến tinh thần đồng đội lên cao.” Báo cáo tiếp tục nêu rằng “điều quan trọng lớn là bản thân chiến dịch. Mặc dù có một số lỗi nhỏ trong kế hoạch, chiến thuật và kỹ thuật, chiến dịch, được các chỉ huy và nhân viên miền Nam kiểm soát từ đầu đến cuối, đã thành công hoàn toàn.” Một báo cáo sau chiến dịch khác từ Sư đoàn Kỵ binh số 1 đánh giá hiệu suất của quân đội miền Nam tại Campuchia là “xuất sắc.”
Tài lãnh đạo của Trung tướng Trí, được tạp chí Time gọi là “Patton [một tướng lĩnh Mỹ nổi tiếng trong Thế chiến II] của Mỏ Vẹt,” đặc biệt đáng khích lệ; ông đã phối hợp rất hiệu quả một chiến dịch phức tạp. Về phần mình, Tri rất hài lòng với thành tích của binh lính dưới quyền; họ đã làm rất tốt trước những đội quân BV dày dạn kinh nghiệm, thể hiện tinh thần chiến đấu chưa từng thấy ở hầu hết quân đội miền Nam.
Thậm chí còn hơn cả việc chứng minh mức hiệu quả chiến đấu gia tăng của quân miền Nam, chiến dịch đã cải thiện đáng kể tinh thần của QLVNCH và sự tự tin của người dân miền Nam. Mặc dù lực lượng quân miền Nam đã gặp một số khó khăn ở Campuchia, họ đã chạm mặt với Cộng sản trên chính lãnh thổ của địch và đã thành công trong việc giữ vững thế trận của mình (mặc dù có sự hỗ trợ chiến đấu của Hoa Kỳ). Điều này đặc biệt đúng đối với những đơn vị đã hoạt động vượt quá giới hạn 30 km, khi đó họ đã chiến đấu mà không có cố vấn Mỹ bên cạnh. Cựu Chuẩn tướng quân miền Nam Trần Đình Thọ, viết sau chiến tranh, cho rằng “hoạt động mà không có cố vấn Hoa Kỳ là một nguồn tự hào cho các chỉ huy chiến thuật của quân miền Nam. . . . Họ cảm thấy tự tin hơn về khả năng chỉ huy của mình và trên thực tế, tất cả đều chứng minh rằng họ có thể tự quản lý.” Tướng Dave Palmer đồng ý và sau đó gọi cuộc tấn công vào Campuchia là “một chuẩn mực trong quá trình trưởng thành của quân miền Nam.”
Tổng thống Nixon, rõ ràng tin rằng chiến dịch Campuchia xác nhận chính sách Việt Nam hóa của mình, muốn truyền bá thông điệp rằng miền Nam đã tự mình phô diễn xuất sắc trên chiến trường. Ông bảo các cố vấn của mình đưa ra “một chương trình hành chính tích cực, phối hợp để truyền đạt thực tế rằng nhiệm vụ này đã vô cùng thành công. . . .”
Bất chấp sự chỉ đạo rõ ràng này từ Nhà Trắng và các báo cáo tích cực từ các nguồn khác, không phải tất cả các chỉ huy Hoa Kỳ ở miền Nam đều tích cực với kết quả của chiến dịch và tình hình Việt Nam hóa. Trung tướng Arthur S. Collins Jr., chỉ huy Lực lượng Dã chiến I tại Việt Nam, người giám sát sườn phía bắc của cuộc tấn công, đặc biệt thất vọng với thành tích của các chỉ huy và binh sĩ Quân đoàn II; ông kết luận rằng quân miền Nam “không phải là đối thủ” của quân BV và việc phát triển một lực lượng chiến đấu đáng tin cậy của quân miền Nam, ít nhất là ở Quân Khu II, sẽ mất nhiều thời gian.
Một cuộc xem xét kỹ lưỡng hơn về thành tích của miền Nam chứng minh được nhiều bình luận của Collins là đúng. Cuộc giao tranh ở Mỏ Vẹt không diễn ra dữ dội trong một thời gian dài; sau những cuộc đụng độ ban đầu, lực lượng Cộng sản đã di tản khỏi khu vực mà không chống trả nhiều. Quân đội miền Nam được sử dụng trong chiến dịch này chủ yếu là từ các đơn vị tinh nhuệ hơn, như kỵ binh thiết giáp, lính dù và biệt động, thay vì từ lực lượng chính quy của quân đội miền Nam. Ngay cả khi Tướng Trí sử dụng các đơn vị quân miền Nam bình thường, ông đã tổ chức các lực lượng đặc nhiệm dưới quyền các đại tá và trung tá, bỏ qua các chỉ huy sư đoàn và ban tham mưu của họ, những người hầu như không đóng vai trò gì trong chiến dịch.
Cuộc xâm nhập Campuchia cũng làm nổi bật các vấn đề đang tồn tại về chiến thuật và hỗ trợ. Pháo binh miền Nam vẫn gặp khó khăn trong việc cung cấp hỏa lực hỗ trợ gần và liên tục cho các lực lượng mặt đất; vấn đề sẽ chỉ tăng lên khi các đơn vị pháo binh Hoa Kỳ rút lui và quân miền Nam phải phụ thuộc vào pháo binh của chính mình hỗ trợ. Do những thiếu sót này về pháo binh, các chỉ huy quân miền Nam đã lệ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ chiến thuật trên không của Hoa Kỳ; do đó, nhiều cố vấn đã đặt câu hỏi liệu lực lượng miền Nam có thể thành công nếu không có nó hay không. Một vấn đề thường gặp khác là miền Nam không có khả năng xử lý các hệ thống vũ khí phức tạp mà họ đã nhận được từ Quân đội Hoa Kỳ. Các đơn vị thiết giáp tham gia Chiến dịch Mỏ Vẹt bị ảnh hưởng bởi tình trạng bảo dưỡng kém, thiếu xăng, phụ tùng thay thế không đầy đủ và liên lạc bị lỗi.
Những đánh giá này cũng áp dụng cho các đơn vị quân miền Nam khác không tham gia vào chiến dịch Campuchia. Tại Vùng Chiến thuật Quân đoàn I, nơi không có hoạt động xuyên biên giới nào diễn ra, Trung tướng James W. Sutherland, chỉ huy Quân đoàn XXIV của Hoa Kỳ, đã báo cáo rằng mặc dù các nhà lãnh đạo miền Nam từ quân đoàn đến tiểu đoàn đều “tốt đến xuất sắc”, nhưng họ bị cản trở bởi “thiếu các chỉ huy đơn vị nhỏ có năng lực” và “vẫn chưa sẵn sàng tự lập”.
Trong khi nhiều trường hợp, các phương tiện truyền thông Hoa Kỳ thừa nhận những thành công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Campuchia, thì cũng đặt câu hỏi về hiệu quả của các lực lượng miền Nam trong thời gian dài. Newsweek lưu ý rằng quân miền Nam đã phát triển một sự tự tin mới, nhưng bài báo tiếp tục nêu rõ: “Ngay cả sự phấn khích tột độ của chuyến đi Campuchia cũng không thể vượt qua được mức lương thấp, nạn tham nhũng và sự lãnh đạo thiếu nhiệt huyết”.
Việc thiếu lãnh đạo vẫn tiếp tục là một vấn đề dai dẳng không chỉ ảnh hưởng đến các đơn vị nhỏ. Trên thực tế, vấn đề nghiêm trọng hơn có thể nằm ở cấp cao nhất của QĐVNCH. Ngoại trừ một số ít nhà lãnh đạo năng nổ như Tướng Trí, hầu hết các sĩ quan cao cấp của QLVNCH, bao gồm cả các tư lệnh sư đoàn và những người cấp trên, vẫn bị chính trị hóa quá mức và quan tâm nhiều hơn đến âm mưu của cung đình Sài Gòn và tài sản cá nhân hơn là chiến đấu với người Cộng sản. Một ví dụ hoàn hảo về sự lãnh đạo kém cỏi ở cấp cao hơn là Sư đoàn 7, đơn vị đã nhận trách nhiệm về an ninh của Đồng bằng sông Cửu Long từ Sư đoàn 9 của Hoa Kỳ sau khi rời khỏi Nam Việt Nam. Đến tháng 2 năm 1970, sư đoàn, với vị tướng chỉ huy được cho là cực kỳ yếu, đã “gặp phải những thất bại nghiêm trọng”. Sư đoàn 7 không phải là một trường hợp cá biệt. Tướng William Westmoreland, tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ và cựu chỉ huy MACV, đã đến thăm miền Nam vào tháng 7 năm 1970 và thấy “cần phải dọn dẹp hàng ngũ cấp cao của Quân đội Việt Nam”; ông chỉ ra với Tổng thống Thiệu rằng có “nhiều đại tá trẻ có khả năng đảm đương trách nhiệm của một vị tương và háo hức muốn làm như vậy” và khuyến nghị “bắt buộc nghỉ hưu” đối với những sĩ quan cấp cao bất xứng. Thật không may, Thiệu không để tâm đến lời khuyên này. Vấn đề lãnh đạo cấp cao sẽ tiếp tục gây ra hậu quả nghiêm trọng cho QLVNCH trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến.
Bất chấp hiệu suất chung đáng tin cậy của QLVNCH tại Campuchia, rõ ràng là phải giải quyết những khuyết điểm cơ bản nghiêm trọng nếu miền Nam muốn tự lực cánh sinh sau khi Hoa Kỳ rút toàn bộ lực lượng. Lãnh đạo kém, vấn đề về tổ chức, chính trị hóa giới sĩ quan cấp cao, không có khả năng cung cấp hỗ trợ chiến đấu đầy đủ và khó khăn về duy trì hậu cần vẫn luôn làm nhức nhối lực lượng miền Nam. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam hóa đang có hiệu quả. Trong mọi trường hợp, cần thêm thời gian để chữa khỏi những căn bệnh cơ bản này.
Sau chiến dịch của quân đồng minh tại Campuchia vào tháng 5-tháng 6 năm 1970, lực lượng Nam Việt Nam đã tiếp quản việc phòng thủ biên giới miền Nam-Campuchia tại mười một tỉnh gần Sài Gòn nhất ở Quân khu III. Đến tháng 8 năm 1970, quân miền Nam đã đảm đương nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ biên giới của miền Nam với Campuchia và một phần lớn biên giới với Lào. Ngoại lệ duy nhất là một khu vực nhỏ ở Tây Nguyên (Quân khu II), vẫn được bảo vệ bởi một lữ đoàn của Sư đoàn Kỵ binh số 1 của Hoa Kỳ. Vào cuối năm 1970, quân miền Nam đã đảm nhận gánh nặng chiến đấu chính cho các hoạt động xung quanh Khe Sanh và trong Thung lũng A Shau, một thành trì truyền thống của Cộng sản; một số đơn vị quân miền Nam đã làm rất tốt đến nỗi các nhóm cố vấn Hoa Kỳ đã phải rút lui.
Nhiều người trong chính quyền Nixon đã được khích lệ bởi những sự kiện này. Đại sứ Bunker đặc biệt lạc quan về thành công trong tương lai của Việt Nam hóa. Trong một bức điện gửi tổng thống vào tháng 1 năm 1971, ông đã đưa ra đánh giá sau:
1970, năm đầu tiên trọn vẹn của Việt Nam hóa và thực hiện Học thuyết Nixon ở Đông Nam Á, đã chứng kiến sự gia tăng niềm tin từ phía Chính phủ Việt Nam, QLVNCH và người dân miền Nam khi những tác động thuận lợi của các hoạt động ở Campuchia được cảm nhận, nhịp độ của cuộc chiến giảm xuống, việc tái triển khai quân đội Hoa Kỳ tiếp tục, và những thành quả bình định được củng cố và duy trì hơn nữa. . . . Người miền Nam đã cảm thấy rằng việc rút quân tương đối nhanh của chúng ta chẳng những không mang lại thất bại quân sự, mà còn thực sự cải thiện hiệu suất của lực lượng của chính họ. Sự lo lắng ban đầu giờ đã nhường chỗ cho cảm giác hài lòng rằng họ đang tiến đến điểm mà họ có thể tự mình đảm đương được. . . .
Những người khác không mấy lạc quan về khả năng thực hiện của Việt Nam hóa, đặc biệt là như một chiến lược để rút quân. Kế hoạch gây tranh cãi này tiếp tục là một chủ đề được tranh luận sôi nổi tại Quốc hội. Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ Harold Hughes của Iowa cho biết rằng “Việt Nam hóa là một trò lừa bịp ngữ nghĩa—điều mà nó biểu thị chỉ đơn giản là sự mở rộng của chính sách đối ngoại Johnson. Nó sẽ không đưa chúng ta ra khỏi Việt Nam; thay vào đó, nó sẽ duy trì sự tham gia của chúng ta.” Thượng nghị sĩ George S. McGovern, đảng viên Dân chủ từ Nam Dakota, nhấn mạnh hơn khi nói rằng, “Theo tôi hiểu về đề xuất này, Việt Nam hóa chỉ đạo việc rút quân đội Hoa Kỳ khi lực lượng vũ trang Sài Gòn chứng minh được khả năng tiếp quản cuộc chiến. Tuy nhiên, phần lớn bằng chứng cho thấy rằng người dân Việt Nam không cảm thấy chế độ Sài Gòn xứng đáng để họ chiến đấu. Nếu không có sự hỗ trợ của người bản địa, “Việt Nam hóa’ sẽ trở thành một kế hoạch triển khai thường trực quân đội tác chiến Hoa Kỳ và là một chiến lược rút quân. . . . Chính sách Việt Nam hóa là một trò lừa bịp tàn ác được thiết kế để che giấu người dân Mỹ tình trạng phá sản của sự can dự quân sự không cần thiết vào các vấn đề của người dân Việt Nam.” Ngay cả một số người trong quân đội cũng bi quan về triển vọng lâu dài của Việt Nam hóa. Một phân tích do các thành viên của Bộ Tham mưu Lục quân chuẩn bị cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân nêu ý kiến rằng thời gian cho Việt Nam hóa đang cạn dần. Báo cáo khẳng định rằng khi Hoa Kỳ cuối cùng từ bỏ việc tiến hành chiến tranh cho Nam Việt Nam, lực lượng vũ trang miền Nam sẽ thấy mình quá bận tâm với việc đảm bảo an ninh cho người dân đến mức họ thấy không thể tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng quy ước của kẻ thù, một nhiệm vụ cho đến nay do quân đội Hoa Kỳ đảm nhiệm. Mặc dù báo cáo thừa nhận rằng việc phá hủy các khu vực căn cứ của kẻ thù ở Campuchia có thể ngăn chặn sự sụp đổ của miền Nam, nhưng nó đã dự đoán một chiến thắng cuối cùng của Cộng sản.
Đến cuối năm, Nixon đã bị tấn công bởi một loạt các đánh giá trái chiều. Tuy nhiên, ông vẫn giữ nguyên lập trường của chính quyền rằng mọi thứ đang tốt hơn mỗi ngày ở miền Nam. Nixon sau đó đã viết trong hồi ký của mình:
“Chừng nào quân Cộng sản ở miền Nam không thể trông cậy vào các khu căn cứ địa ở Campuchia để tiếp tế, đạn dược và quân tiếp viện, tôi cảm thấy rằng lực lượng quân miền Nam, vốn đã được cải thiện và tăng cường đáng kể sau hơn một năm Việt Nam hóa, sẽ sớm có thể tự bảo vệ mình và quốc gia của họ.” Ông đã tận dụng mọi cơ hội để chia sẻ tình cảm này một cách công khai. Vào ngày 4 tháng 1 năm 1971, trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình với bốn đại diện từ các mạng lưới truyền hình, Nixon đã trả lời một câu hỏi của Howard K. Smith của ABC, rằng điều gì sẽ xảy ra vào năm 1972, khi “vai trò của chúng ta hầu như bị loại bỏ, chúng ta thụ động, chúng ta có ít quân ở đó, sau đó là Bắc Việt tấn công và bắt đầu giành quyền kiểm soát đất nước. Vậy thì chính sách của chúng ta là gì? Chúng ta có đứng ngoài cuộc không?” Nixon trả lời rằng đến năm 1972, Bắc Việt có thể sẽ phát động một cuộc tấn công, “nhưng tôi tin rằng vào thời điểm đó… miền Nam, dựa trên bước ngoặt xảy ra khi họ đoàn kết và trở thành một đơn vị chiến đấu, tự tin sau sự can thiệp vào Campuchia, tôi tin rằng họ sẽ có thể tự mình chống đỡ và tự vệ vào năm 1972.”
Mặc dù Nixon đã đưa ra một mặt trận công khai tích cực, nhưng ông là người thực tế. Ông đã được khuyến khích phần nào bởi tin tức từ mặt trận chiến đấu, nhưng tình hình biến động tại quê nhà, do quyết định tiến vào Campuchia và các cuộc biểu tình sau đó trên khắp cả nước gây ra, đã làm tăng áp lực buộc ông phải đẩy nhanh việc rút quân đội Hoa Kỳ khỏi cuộc chiến. Ông nhận ra rằng công chúng Hoa Kỳ đang trở nên mệt mỏi hơn với chiến tranh khi cuộc chiến vẫn tiếp diễn mà không thấy hồi kết.
Khi tổng thống cân nhắc chiến lược của mình cho năm mới sắp tới, các đợt rút quân của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục không ngừng. Lữ đoàn 3 của Sư đoàn Bộ binh 9 đã về nước vào tháng 10, và vào tháng 12, các sư đoàn bộ binh 4 và 25 đã rời đi. Đến cuối năm 1970, chỉ còn 335.000 quân Hoa Kỳ ở lại miền Nam. Ngoài ra, Lực lượng đổ bộ Thủy quân lục chiến III, Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 và Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp 11 đều được lên lịch rời đi vào đầu năm 1971. Khi nhiều quân Hoa Kỳ hơn được rút đi và các đợt rút quân tiếp theo được công bố, tinh thần của những binh sĩ ở lại giảm mạnh, và các vấn đề về kỷ luật, bao gồm “xử lý sĩ quan”, hành vi nổi loạn và lạm dụng ma túy, đã trở thành chuẩn mực; Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam dường như đang có nguy cơ tan rã. Vì vậy, mặc dù chính sách Việt Nam hóa của Nixon dường như đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tiến triển khiêm tốn, tổng thống một lần nữa phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Ông cần thời gian để sửa chữa những khiếm khuyết liên tục trong QLVNCH trước khi lực lượng miền Nam có thể đảm nhiệm hoàn toàn trách nhiệm cho cuộc chiến.
Đồng thời, ông phải duy trì tốc độ rút quân của Hoa Kỳ. Cuộc chiến đã trở thành “Cuộc chiến của Nixon”, và ông bị chỉ trích từ mọi phía để chấm dứt sự can dự của Hoa Kỳ vào Đông Nam Á. Tuy nhiên, nếu ông rút quân Mỹ quá nhanh, miền Nam sẽ phải chịu số phận bi đát. Làm phức tạp thêm vấn đề, chính sách song song rút quân và Việt Nam hóa của Nixon đã chứng tỏ không tương thích với các nỗ lực hòa bình của Hoa Kỳ tại Paris. Kissinger đã viết trong hồi ký của mình rằng, ngoài “đòn giáng nghiêm trọng vào cơ sở tâm lý cho một chiến lược mạch lạc” do cuộc thảo luận của quốc hội về Tu chính án McGovern-Hatfield gây ra, “Bắc Việt còn có một động lực khác để không thèm đàm phán. Chúng ta đã rút quân quá nhanh đến nỗi gánh nặng của sự cả tin đè lên việc Việt Nam hóa; trong quá trình này, chúng ta đã mất đi đòn bẩy mặc cả vốn có trong việc đẩy nhanh quá trình rút quân để đổi lấy sự lựa chọn chính trị thực sự tự do của người dân.”
Theo sự thúc giục của Kissinger, Nixon đã thử một lời đề nghị hòa bình khác với những người Cộng sản. Trong một bài phát biểu được truyền hình toàn quốc vào ngày 7 tháng 10 năm 1970, ông đã đề xuất một lệnh ngừng bắn, lệnh ngừng ném bom của Hoa Kỳ trên khắp Đông Nam Á và một hội nghị hòa bình để chấm dứt giao tranh trên khắp Đông Dương. Ông nói rằng ông sẵn sàng thảo luận về một thời gian biểu cho việc rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ. Ông đã mời Hà Nội tham gia vào một giải pháp chính trị dựa trên ý chí của người dân miền Nam, nhưng đã bác bỏ yêu sách “Rõ ràng vô lý” là Hoa Kỳ phải giải tán các lực lượng phi Cộng sản có tổ chức. Cuối cùng, ông kêu gọi cả hai bên thả tất cả các tù binh chiến tranh.
Đề xuất của Nixon có ý nghĩa quan trọng vì nhiều lý do, trong đó có lý do là lần đầu tiên tổng thống tuyên bố công khai rằng ông sẽ chấp nhận lệnh ngừng bắn tại chỗ, trên thực tế là tách vấn đề ngừng bắn khỏi vấn đề hai bên đều rút quân. Trong hồi ký của mình, Kissinger đã xác nhận tầm quan trọng của đề xuất này, ông nói rằng, “Quyết định đề xuất lệnh ngừng bắn tạm thời vào năm 1970 gợi ý cho giải pháp của năm 1972. Việc các lực lượng Bắc Việt được ở lại miền Nam là ngụ ý trong đề xuất tạm thời; không có cuộc đàm phán nào có thể loại bỏ họ nếu chúng ta không thể trục xuất họ bằng vũ lực”. Quyết định này cuối cùng sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc cho miền Nam.
Bài phát biểu của tổng thống đã nhận được lời khen ngợi ngay lập tức từ mọi phía tại Hoa Kỳ, bao gồm cả một số nhà phê bình gay gắt nhất của ông tại Đồi Capitol. Tuy nhiên, những hy vọng mà bài phát biểu này nuôi dưỡng đã không kéo dài được lâu. Ngày hôm sau, Xuân Thủy, một trong những đại diện của Hà Nội tại Paris, đã ra tuyên bố bác bỏ thẳng thừng các đề xuất của Nixon và thậm chí từ chối thảo luận, gọi chúng là một trò gian lận lớn được thiết kế để hợp pháp hóa và duy trì sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Đông Dương.
Vào ngày 12 tháng 10, Nixon đưa ra một thông báo khác. Ông nói rằng chiến dịch Việt Nam hóa đang diễn ra tốt đẹp đến mức ông đang đẩy nhanh việc rút 40.000 quân và sẽ đưa họ về nước vào dịp Giáng sinh. Thông báo này là một động thái chính trị được thiết kế để phô trương hơn là để gây ấn tượng; binh sĩ đã được lên lịch rút vào tháng 1 năm 1971. Nixon tuyên bố sau đó rằng bài phát biểu ngày 7 tháng 10 của ông và việc rút quân tăng tốc “đi quá ra về hướng loại bỏ những trở ngại cho một giải pháp đàm phán đến nỗi chúng đã thực sự làm im bặt ba phong trào phản chiến trong nước bằng cách đặt gánh nặng bắt đầu các cuộc đàm phán nghiêm túc trực tiếp lên vai người Bắc Việt”
Việc loại bỏ những trở ngại cho hòa bình và dập tắt sự bất đồng chính kiến có thể là ý định của ông, nhưng chiến thuật này không hiệu quả. Bắc Việt vẫn ngoan cố. Thiếu sự đồng thuận của họ để thảo luận về các sáng kiến hòa bình tiềm năng, tổng thống buộc phải tiếp tục nhấn mạnh vào cả hai vấn đề Việt Nam hóa và rút quân đội Hoa Kỳ.
Nixon và Kissinger đã dành tháng 11 để xây dựng chiến lược cho năm tới. Kissinger khuyến nghị Nixon đưa ra thông báo rằng ông sẽ giảm thêm 100.000 quân lính Hoa Kỳ bắt đầu ngay lập tức và hoàn thành vào tháng 12 năm 1971. Do đó, sẽ có đủ lực lượng Hoa Kỳ ở lại để bảo đảm an ninh cho cuộc bầu cử ở miền Nam dự kiến sẽ được tổ chức vào tháng 10. Sau khi cuộc bầu cử kết thúc, quân đội Hoa Kỳ sẽ còn dưới 180.000 người và tổng thống có thể đẩy nhanh quá trình rút quân bằng cách công bố các đợt cắt giảm nhỏ hơn, thường xuyên hơn. Vào thời điểm nào đó trong năm 1971, tùy thuộc vào tình hình, tổng thống nên công bố rằng ông sẽ chấm dứt sự tham gia của Hoa Kỳ vào chiến đấu trên bộ. Đến mùa hè năm 1972, sẽ chỉ còn chưa đến 50.000 lính Mỹ ở lại Nam Việt Nam; lực lượng đó sẽ ở lại để hỗ trợ miền Nam cho đến khi có một giải pháp chính trị. Kissinger đề xuất rằng Bắc Việt Nam sẽ nhận được tiến độ rút quân nhanh hơn của Hoa Kỳ để đổi lấy lệnh ngừng bắn. Nếu Bắc Việt từ chối, các đồng minh có thể mong đợi một cuộc tấn công của Cộng sản, có thể là vào năm 1972. Như Kissinger sau này đã viết, “Cục diện của cuộc chiến sẽ phụ thuộc vào việc liệu miền Nam, chỉ được hỗ trợ bởi sức mạnh không quân của Hoa Kỳ, có thể ngăn chặn được cuộc tấn công hay không. Hòa bình sẽ đến vào cuối năm 1971 hoặc cuối năm 1972—bằng đàm phán hoặc bằng việc sụp đổ của miền Nam.”
Rõ ràng, năm mới sẽ mang đến những thách thức mới cho miền Nam và Việt Nam hóa. Kissinger đã viết, “Nếu chúng ta nghiêm túc về Việt Nam hóa, chúng ta phải quản lý, bất chấp sự bất đồng trong nước, ba nỗ lực đồng thời cho đến khi Sài Gòn có thể tự đứng vững: rút quân Mỹ; tăng cường nhanh chóng lực lượng miền Nam; và làm suy yếu dần kẻ thù.” Những nỗ lực này sẽ kết hợp để mang đến cho lực lượng miền Nam bài kiểm tra lớn tiếp theo của họ vào năm 1971 trong Chiến dịch Lam Sơn 719, khi họ sẽ tiến vào Lào với sự hỗ trợ hạn chế của Hoa Kỳ mà không có lực lượng bộ binh Mỹ.

Trung tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Quân đoàn III, thẩm vấn một bộ đội địch bị bắt ở Campuchia trong cuộc xâm nhập năm 1970. (Ảnh của Quân đội Hoa Kỳ)

Những người lính từ Sư đoàn 25 QLVNCH với vũ khí thu được trong Cuộc xâm nhập Campuchia, tháng 6
- (Bộ sưu tập ảnh Douglas Pike, Lưu trữ Việt Nam, Đại học Texas Tech)