PHÁO ĐÀI MÙA ĐÔNG- Sứ Mệnh Anh Hùng Ca Phá Hủy Bom Nguyên Tử của Hitler (Bài 15)

NEAL BASCOMB

Trần Quang Nghĩa dịch

29 Chiến thắng

VÀO CUỐI THÁNG 3 NĂM 1944, Walther Gerlach, người đứng đầu Câu lạc bộ Uranium, và Kurt Diebner, người đứng đầu bộ phận hành chính của ông, đã bị tấn công không ngừng nghỉ, chủ yếu là do các cuộc không kích của quân Đồng minh nhằm san bằng hết trung tâm nghiên cứu này đến trung tâm nghiên cứu khác. Chỉ vài ngày trước khi tàu Hydro bị chìm, làn sóng máy bay ném bom đã nhắm vào Viện Kaiser Wilhelm, phá hủy nhiều khoa, tình cờ trừ phòng vật lý. Biết chiến dịch không kích sẽ không kết thúc, Gerlach và Diebner bắt đầu sơ tán thiết bị khoa học về phía nam.

Trong một báo cáo gửi tới Göring vào ngày 30 tháng 3, Gerlach đã mô tả chi tiết tình trạng chương trình của mình, từ những tiến bộ trong máy siêu ly tâm tách U-235, tới những thành công trong thiết kế máy làm uranium, đến các phương pháp tăng nồng độ nước nặng mới. Do các cuộc tấn công của quân Đồng minh, nguồn cung cấp chất điều tiết quý giá này đang ở “tình trạng bấp bênh”, nhưng Gerlach hy vọng rằng những khoản đầu tư đáng kể vào các nhà máy của Đức sẽ mang lại dòng chảy ổn định trong tương lai gần. Y nói thêm, các cuộc tấn công vào nguồn cung cấp của Vemork cho thấy rõ rằng chính quân Đồng minh đã đặt “tầm quan trọng tối đa” vào nghiên cứu phân hạch như một con đường để thụ đắc được chất nổ mới. Điều cần thiết là các đội của y cũng phải làm như vậy.

Diebner bắt tay vào thực hiện một thử nghiệm máy uranium mới đồng thời theo đuổi thiết kế các điện tích định hình cho bom nhiệt hạch. Harteck thúc giục IG Farben tiếp tục phát triển các nhà máy nước nặng tại Leuna. Heisenberg đang cố gắng xây dựng một lò phản ứng lớn mới, và các nhà khoa học Đức khác trong chương trình cũng tiếp tục nghiên cứu của họ, trong khi chạy trốn các vụ đánh bom, trốn tránh lệnh gọi quân dịch và dời các phòng thí nghiệm của họ đến các boongke ẩn giấu.

Vào giữa năm 1944, Hitler ngày càng ảo tưởng và tuyệt vọng, tuyên bố chiến thắng của phe Trục sắp xảy ra. “Tôi sẽ sớm sử dụng vũ khí bách chiến bách thắng của mình, và khi đó chiến tranh sẽ kết thúc một cách vẻ vang… Đến lúc đó các quý ông đó sẽ không biết cái gì đã tấn công mình. Đây là vũ khí của tương lai, và cùng với nó, tương lai của nước Đức cũng được đảm bảo.” Rất ít người tin ông ta. Đức bị tấn công từ đất liền, trên không và trên biển. Lực lượng đồng minh tiến tới Berlin từ phía tây, còn quân Nga áp sát từ phía đông. Vào tháng 7, một vụ ném bom của 567 Pháo đài bay đã phá hủy các công trình Leuna và cùng với đó là khả năng có được nguồn cung cấp nước nặng mới. Các cuộc tấn công khác đã làm ngừng việc sản xuất uranium và tách U-235. Vào cuối năm 1944, Diebner tài giỏi nhất – hoặc bất kỳ ai mà ông đã kêu gọi tham gia nghiên cứu hạt nhân từ năm 1939 – có thể nhắm đến việc chế tạo một cỗ máy uranium tự duy trì.

Quân Đồng minh biết điều đó. Vào tháng 8, Đại tá Boris Pash, một sĩ quan tình báo quân đội Hoa Kỳ, đã tìm đến Frédéric Joliot-Curie tại trường Collège de France ở Paris. Joliot-Curie kể với Pash về mối quan hệ của ông với một số nhà vật lý người Đức, trong đó có Tiến sĩ Kurt Diebner. Joliot-Curie tin rằng chương trình của Đức còn lâu mới tiến bộ. Tháng 11 năm đó, Pash và cấp trên của ông, Tiến sĩ Samuel Goudsmit, đã phát hiện ra rất nhiều giấy tờ bí mật trong bệnh viện Strasbourg mà người Đức trưng dụng cho chương trình nguyên tử của họ. Trong khi lực lượng Mỹ chiến đấu với Wehrmacht (quân đội Đức) ở ngoại ô thành phố, Goudsmit đã cử binh sĩ đi gom các tập tài liệu về và trong bốn ngày đêm lạnh giá, ông và Pash đọc chúng dưới ánh nến, ăn ít, ngủ ít. Cuối cùng, chỉ có một kết luận giống nhau: “Đức không có bom nguyên tử và không có khả năng chế tạo một quả bom vào bất kỳ thời điểm hợp lý nào.”

Nhưng vào đầu năm 1945, khi kết cục của cuộc chiến không thể tránh khỏi, Gerlach và Diebner vẫn tiếp tục hy vọng rằng công việc của họ sẽ có tác động nào đó. Họ đi khắp nước Đức, thường có nguy cơ bị máy bay Đồng minh tấn công, phân phối vật tư và chỉ đạo thử nghiệm trong nỗ lực cuối cùng để có được ít nhất một cỗ máy uranium hoạt động được. Trong một hầm rượu bằng đá ở Haigerloch, một ngôi làng ven đồi ở tây nam nước Đức, Heisenberg đã thành lập một phòng thí nghiệm và chế tạo một mạng lưới các khối uranium chìm trong nước nặng, tương tự như mạng lưới do Diebner thiết lập trước khi sơ tán khỏi Berlin. Sử dụng 1,5 tấn uranium và nước nặng, cỗ máy đã tạo ra mức nhân neutron cao nhất từng đạt được. Theo tính toán của Heisenberg, ông chắc chắn sẽ có một lò phản ứng tự duy trì chỉ cần thu được thêm 50% uranium và nước nặng. Nhưng ông ấy không nhận được thứ nào.

*

Vào ngày 15 tháng 6 năm 1944, Leif Tronstad đang ở nhà nghỉ, nhìn ra Hampstead Heath ướt đẫm trong mưa và soạn thảo một kế hoạch cho chiến dịch ông đặt tên là Chiến dịch Ánh dương. Kể từ khi đồng minh đổ bộ lên đất Pháp chỉ hơn một tuần trước, điều đã trở nên rõ ràng là sẽ không có cuộc đổ bộ  để giải phóng đất nước Na Uy của ông. Đồng bào ông  sẽ phải tự mình gánh vác điều đó Tronstad, vừa được thăng cấp thiếu tá, quyết định về nước. Có  nguy cơ quân Đức sẽ thực hiện chính sách tiêu thổ khi họ rút 350.000 quân, giống như họ đã làm khi rời Ý.

Wilson và Brun muốn ông ở lại London, nhưng ông không chịu bị thuyết phục. Ông vừa hoàn thành khóa học ba tuần tại trường phá hoại STS 17 của Rheam, đạt điểm cao (“hạng nhất về mọi mặt”). Ông sẽ không cử người khác chiến đấu thay mình nữa.

Ngay trước nửa đêm, ông nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp bay qua nhà mình. Một lúc sau, một vụ nổ. Các cuộc tấn công bằng tên lửa V-1 chạy bằng động cơ phản lực đã bắt đầu. Ngày qua ngày, hàng trăm tên lửa của Đức đổ bộ vào thành phố. Trong thời gian đó, Tronstad tiếp tục lập chiến lược cho Chiến dịch Ánh dương. Đến cuối tháng 7, ông được Tướng Hansteen chấp thuận và tập hợp đội của mình. Jens- Anton Poulsson sẽ lãnh đạo một bộ phận, với người bạn thân nhất của anh là Claus Helberg là người điều hành điện đài. Arne Kjelstrup sẽ phụ trách một công việc khác. Einar Skinnarland, người đang ở Na Uy, sẽ là người điều hành điện đài của Tronstad. Một số thành viên khác của Đại đội Linge, trong đó có Gunnar Syverstad, người đã sang Anh đào tạo sau vụ phá hoại phà, cũng sẽ tham gia cùng anh ta. Tronstad sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ “các mục tiêu công nghiệp chính” trong khu vực, bao gồm cả các nhà máy điện, nơi cung cấp gần 60% điện năng cho miền Nam. của Na Uy

Vào ngày 27 tháng 8, ống đã hoàn thành lá thư vĩnh biệt để gửi cho Bassa trong trường hợp ông qua đời. Mặc dù cuối cùng ông đã trở về Na Uy nhưng bà không hề biết việc đó. Tronstad đưa cho Gerd Vold Hurum, thư ký trung thành của ông, chiếc chìa khóa nhỏ mở két sắt văn phòng của ông. “Xin hãy gìn giữ nhật ký của tôi,” ông ấy nói. Quá xúc động, cô nhận lấy chiếc chìa khóa. “Khi chiến tranh kết thúc,” ông tiếp tục, “mời cô đến thăm gia đình tôi.” Sau đó, ống rời Kingston House, văn phòng ông gắn bó gần bốn năm trời

Cuối cùng, vào ngày 5 tháng 10, Tronstad đã quay trở lại Na Uy, nhảy dù xuống Vidda. Cuộc “lưu vong dài ngày” của ông đã kết thúc. Khi những người nhảy dù khác tập hợp lại, Tronstad nâng ly chúc mừng và họ uống rượu whisky từ những chiếc bình nhôm của mình. Sau đó họ dựng lều.

Trong năm tháng tiếp theo, Tronstad tuyển dụng một lượng nhỏ quân kháng chiến Milorg với quân số cuối cùng là 122 người. Trụ sở chính của ông là một túp lều rộng 3 mét cắm trong tuyết dày gần Hồ Møs. Với tư cách là chỉ huy của Chiến dịch Ánh dương, ông trượt tuyết qua lại Telemark và các khu vực lân cận, từ Kongsberg về phía đông, Notodden về phía nam, Rjukan về phía bắc và Rauland về phía tây, phối hợp với London và Milorg và đảm bảo rằng cả hai đã làm việc liền mạch với nhau. Ông bí mật gặp ban quản lý ở Norsk Hydro và các công ty Na Uy khác để đảm bảo họ sẵn sàng khi đến lúc phải đánh đuổi quân Đức.

Poulsson, Kjelstrup và những người khác thiết lập các căn cứ hoạt động riêng biệt; Haukelid và nhóm chiến binh của ông cũng tham gia chiến dịch. Họ điều phối việc thả vũ khí và vật tư, huấn luyện các tổ kháng chiến về súng và chất nổ, đồng thời thực hiện các vụ phá hoại quy mô nhỏ tại các bãi chứa vũ khí.

Họ cũng thâm nhập vào các nhà máy điện, đập nước và các nhà máy công nghiệp, dạy công nhân cách ngăn chặn quân Đức âm mưu phá hủy các tòa nhà, bao gồm cả cách cho nổ tung mái nhà để những máy móc quý giá bên trong vẫn có thể hoạt động được sau khi các mảnh vỡ được dọn sạch.

Tronstad ăn, ngủ, săn bắn và trượt tuyết bên cạnh người của mình. Hầu hết họ đều đánh giá cao ông như khi ông là sếp của họ ở London. Trong vùng hoang dã của Telemark, lòng trung thành và sự tôn trọng của họ ngày càng trở nên sâu sắc hơn.

Đến mùa xuân năm 1945, thời điểm cho hành động có vẻ sắp xảy ra. Nước  Đức Quốc xã sắp sụp đổ, và cuộc hành quân vào Berlin sẽ sớm chặt được đầu rắn.

Trên khắp Na Uy, hành vi phá hoại các phương tiện vận tải đường sắt, bến cảng, tàu bè và đường dây liên lạc đã gây trở ngại cho Wehrmacht và cản trở việc rút quân của họ để củng cố khả năng phòng thủ bên trong nước Đức. Vào đêm ngày 11 tháng 3, Tronstad và hai người của ông ta, Syverstad và Jon Landsverk, thẩm vấn Torgeir Longnvik, một cảnh sát trưởng người Na Uy do Đức Quốc xã bổ nhiệm. Tronstad muốn biết về hoạt động của hắn ta và của những cảm tình viên với Đức Quốc xã khác, đồng thời họ muốn ngăn hắn thông báo cho Gestapo về các hoạt động ngầm của họ ở khu vực Rauland. Họ tranh luận xem có nên giết hắn hay không, và Tronstad quyết định Haukelid nên giữ hắn ở tại Bamsebu như một tù binh.

Skinnarland đã giúp bắt giữ Longnvik và xóa bỏ các dấu vết dẫn đến vị trí của họ, một cabin hai phòng ở vùng quê không xa Hồ Mos. Khi xong việc  anh ấy rời đi vì có hẹn tại một nông trại lân cận. Tronstad đã hoàn thành việc thẩm vấn Longnvik và sẵn sàng rời đi để tham gia cùng  Skinnarland thì thình lình cửa cabin bật mở. Em trai của cảnh sát trưởng, Johans, xông vào  với một khẩu súng trên tay và bắt đầu bắn. Syverstad bị trúng đạn vào đầu và ngã về phía sau, xô bật Landsverk ra khỏi làn đạn. Tronstad liền lao tới Johans Longnvik, và trong một pha vật lộn gay cấn thì hai phát súng nữa vang lên.

Tronstad ngã quỵ xuống sàn, bị giết chết bởi những viên đạn do Johans bắn hoặc bởi những phát súng trường mà Torgeir Longnvik đã chộp được trong trận hỗn chiến. Hai anh em trốn thoát, khóa cửa từ bên ngoài. Cuối cùng Landsverk cũng thoát khỏi cabin và lao đi tìm Skinnarland. Khi cả hai quay trở lại túp lều, Syverstad đã cận kề cái chết; không có cách nào cứu được anh. Nhìn từ khuôn mặt biến dạng của Tronstad đến Syverstad, Skinnarland chấn động tâm can. Toàn là máu. Rồi anh cố gắng hoàn hồn. Cảnh sát trưởng sẽ trở lại cùng với lính Đức.

Skinnarland và Landsverk di chuyển nhanh chóng. Họ đóng gói tất cả giấy tờ và thiết bị, bất cứ thứ gì có thể dẫn đến những vụ bắt giữ khác. Khi họ kết thúc, Syverstad,  giống như Tronstad đã kết hôn và là cha của hai đứa con nhỏ, đã tắt thở. Họ dùng xe trượt chở các thi thể xuống hồ, đào một hố trên băng, và chôn thi thể đồng đội  trước khi quân Đức kịp đến lấy xác. Sau đó, họ rời đi để báo động những người khác, bao gồm cả Haukelid, cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực trả thù nào cho hai tên sát nhân đều có thể gây ra một cuộc chiến với quân đồn trú  Đức, một cuộc chiến mà Milorg chưa sẵn sàng.

Hành động nhanh chóng của họ đã ngăn chặn bất kỳ cuộc vây bắt hoặc rò rỉ thông tin tình báo nào, nhưng không mất nhiều thời gian để quân Đức tìm thấy các thi thể. Tronstad và Syverstad bị kéo lên khỏi hố và đưa đến một ngôi làng gần đó để kiểm tra và chụp ảnh. Người Đức sau đó đã tẩm xác chết với xăng, đốt rồi vứt xác cháy đen xuống sông. Skinnarland đánh tin tới London về những sự kiện bi thảm, và Poulsson được giao phụ trách Chiến dịch Ánh dương. Anh giữ chức vụ này cho đến khi chiến tranh kết thúc, một kết cục mà chính Leif Tronstad không nhìn thấy được.

*

Lệnh huy động được đưa ra vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, ngày Churchill tuyên bố chiến thắng Đức từ ban công nhìn ra Whitehall trước đám đông người hò hét. Các lực lượng trên khắp Na Uy, kể cả sâu trong vùng trung tâm Telemark, đã nổi lên. Sau nhiều năm chiến chinh với tư cách là một đội quân ngầm, giờ họ mặc đồng phục và đeo băng tay đơn giản và chiếm lại Rjukan cũng như các thị trấn xung quanh. Họ chiếm đóng Vemork và các nhà máy điện khác trong khu vực, giành quyền kiểm soát các đường dây liên lạc và các tòa nhà công cộng quan trọng, đồng thời chịu trách nhiệm về luật pháp và trật tự, bao gồm cả việc bắt giữ những kẻ phản bội Na Uy và các sĩ quan SS. Đám lính đồn trú Đức đã giao nộp vũ khí và đi đến nơi họ được yêu cầu.

Những cảnh tương tự diễn ra trên khắp Na Uy. Quân xâm lược lên tới gần bốn trăm nghìn, Milorg khoảng bốn mươi nghìn. Có thể đã có một cuộc chiến tồi tệ, nhưng rồi việc đó không xảy ra. Cuối cùng Na Uy đã được tự do, và các bữa tiệc đã nổ ra trên đường phố Oslo và khắp cả nước. Đêm đó, tại dinh thự hoàng gia Skaugum, Toàn quyền Terboven ăn bánh sandwich và đọc một cuốn tiểu thuyết trinh thám bằng tiếng Anh. Sau đó, cam chịu chết theo Hitler, lúc 11 giờ đêm y bước vào căn hầm, tại đó y uống nửa chai rượu mạnh và đốt một.ngòi nổ  dài năm mét dẫn tới hộp thuốc nổ. Ngòi nổ được tính toán để cháy trong tám phút hai mươi giây. Đúng 11h30, tiếng nổ vang lên khắp khu nhà.

Heinrich Fehlis cố gắng chạy trốn. Gã bị bắt ở Porsgrunn, một thị trấn cảng phía nam, đang mặc quân phục trung úy Wehrmacht. Trước khi bị thẩm vấn và danh tính bị phát giác, gã đã uống thuốc độc và tự bắn vào đầu. Các quan chức Gestapo khác, bao gồm cả Siegfried Fehmer, đã cố gắng trốn thoát. Họ đã bị bắt và bị đưa ra xét xử vì tội ác của mình. Vidkun Quisling và Tướng Nikolaus von, đứng đầu chính quyền và quân đội hợp tác,  bị bắt và xét xử.

Một tháng sau khi Đức đầu hàng, đất nước của ngài đã an toàn, Vua Haakon VII bước lên lãnh thổ Na Uy: bến tàu phía trước Tòa thị chính Oslo. Bất chấp cơn mưa phùn dai dẳng, 50.000 người dân  Uy reo hò và vẫy cờ chào mừng sự trở lại của ngài. Trong số những người có mặt để vinh danh ông có Đại tá John Wilson và hơn một trăm thành viên của Đại đội Linge, hầu hết đều đội mũ sắt hoặc đeo phù hiệu ghi tên các hoạt động của họ như Gà Gô và Gunnerside . Haakon trịnh trọng phát biểu trước đám đông: “Dù trải qua nhiều thời khắc dường như rất tối tăm. Nhưng tôi không bao giờ nghi ngờ việc Na Uy sẽ giành  lại được chủ quyền của mình.”

Vào Đêm Hạ chí, ngày 23 tháng 6 năm 1945, một lễ kỷ niệm giải phóng nhỏ hơn nhưng không kém phần tưng bừng đã diễn ra tại khách sạn Skinnarland bên cạnh Hồ Møs. Mặt trước của khách sạn được trang trí bằng những chiếc dù lụa và một lịch trình minh họa các sự kiện kéo dài ba ngày. Trong bữa tối gồm cá hồi, bít tết tuần lộc và những chai sâm panh, rượu aquavit và bia, những người đã chiến đấu trong cuộc kháng chiến xung quanh Rjukan cũng nói về những trận chiến trong quá khứ và cả tương lai của họ.

Trong số những vị khách danh dự có nhà Hamaren, nhà Hovden và nhà Skindalen, Poulsson, Helberg, Haukelid, Kjelstrup, Sørlie, Lillian Syverstad, Ditlev Diseth và Kjell Nielsen. Einar Skinnarland ăn mừng cùng hai anh em Torstein và Olav và đoàn tụ với Gudveig. Một vài ghế còn trống. Olav Skogen, người sống sót sau khi bị giam cầm ở Dachau, vẫn chưa trở lại Rjukan. Leif Tronstad và Gunnar Syverstad thì ra đi mãi mãi.

Một tuần sau lễ kỷ niệm, vào ngày 28 tháng 6, 187 thành viên của Đại đội Linge, với Poulsson và Rønneberg dẫn đầu, diễu hành trong bộ đồng phục trước Vua Haakon. Trong đơn vị được tuyển chọn của họ, có 51 người đã hy sinh trong chiến tranh. Nhà vua tỏ lòng kính trọng đối với các chiến sĩ và công việc bí mật của họ. Ngày hôm sau, Đại tá Wilson giải tán đại đội, yêu cầu họ phục vụ đất nước trong hòa bình cũng hết lòng như trong thời chiến.

Đến đầu tháng 8, Na Uy bắt đầu hồi phục sau thời gian dài bị chiếm đóng, và Bassa Tronstad đã trở lại căn nhà thuê của mình ở ngoại ô Oslo. Hài cốt của chồng bà đã được thu hồi từ sông và được an táng vào cuối tháng 5 trong một buổi lễ đầy xúc động tại nghĩa trang Oslo. Bây giờ, bà ấy đang cố gắng hiểu được ý nghĩa của sự mất mát. Hoàn cảnh cái chết của chồng bà biết, nhưng bà thắc mắc về thời gian chồng bà ở London và về điều gì đã mang ông trở về Na Uy. Chính lúc đó Gerd Vold Hurum đã tới cửa nhà bà. Sau khi gửi lời chia buồn của mình, Gerd trao lại Bassa tám quyển nhật ký. Và một lá thư. Nhật ký sẽ mất nhiều ngày để đọc, nhưng lá thư vĩnh biệt lại rất ngắn và trực tiếp nói với Bassa tất cả những gì bà cần phải biết.

“Bassa thân yêu nhất…Anh vinh dự được dẫn đầu một đội viễn chinh về nhà, điều này có tầm quan trọng lớn đối với tương lai của Na Uy. Nó phù hợp với lộ trình anh đã chọn vào ngày 9 tháng 4 năm 1940, để dồn hết nỗ lực và khả năng của mình hướng tới phúc lợi của đất nước chúng ta… Chiến tranh đang hát lên câu hát cuối cùng, và nó đòi hỏi mọi nỗ lực từ tất cả những người tự gọi mình là nam nhi. Em sẽ hiểu điều đó, phải không? Chúng ta đã có rất nhiều năm hạnh phúc kỳ diệu, và mong muốn cao nhất của anh là cùng nhau tiếp tục cuộc sống hạnh phúc đó. Nhưng nếu Đấng toàn năng có một con đường khác dành cho anh, hãy biết rằng suy nghĩ cuối cùng của anh là về em …. Thời gian rất ngắn ngủi, nhưng nếu mọi chuyện không suôn sẻ thì cũng đừng tiếc cho anh. Anh hoàn toàn hạnh phúc và biết ơn những gì mình đã có được trong cuộc sống mặc dù anh rất muốn sống để giúp Na Uy đứng vững trở lại.” Ông cầu mong những điều tốt đẹp nhất cho Sidsel và Leif. Ông mong được gặp lại các con mình. Lá thư kết thúc với “Em yêu quý của anh.”

*

Tại Farm Hall, một ngôi nhà nông thôn yên tĩnh bên ngoài Cambridge, mười nhà khoa học của Câu lạc bộ Uranium đang chờ đợi quyết định về số phận của mình. Họ đã bị giữ ở đó kể từ ngày 3 tháng 7 năm 1945, bị lùng bắt khi chế độ Đức Quốc xã sụp đổ, cùng với tài liệu, thiết bị phòng thí nghiệm và nguồn cung cấp uranium và nước nặng. Trong số đó có Otto Hahn, Werner, Heisenberg, Walther Gerlach, Paul Harteck và Kurt Diebner. Họ dành thời gian đọc sách trong thư viện, chăm sóc vườn hoa hồng, chơi bài, và tự hỏi liệu họ có được gặp lại gia đình mình nữa.hay không. Họ không hề hay biết, mỗi phòng trong nhà đã được lắp thiết bị nghe trộm, và mọi lời của họ đều được ghi lại trên đĩa kim loại shellac được tình báo Anh xem xét.

Vào lúc 6 giờ chiều ngày 6 tháng 8 năm 1945, đài BBC đưa tin rằng một quả bom nguyên tử đã được thả xuống Nhật Bản bởi máy bay ném bom B-29 Enola Gay của Mỹ. Thiếu tá Terence Rittner, người phụ trách an ninh tại Farm Hall, đi đến phòng Hahn để thông báo cho ông ta. Theo như báo cáo của Rittner với cấp trên, nhân vật phát hiện ra hiện tượng phân hạch này đã “tan nát” trước tin tức này và “cảm thấy phải chịu trách nhiệm cá nhân về cái chết của hàng trăm nghìn người”. Rittner trấn an ông ta bằng một ly rượu gin.

Tin tức này cũng đã làm các nhà khoa học Đức khác tại Farm Hall choáng váng. Tiếp theo sự hoài nghi của họ là sự mỉa mai. Chắc chắn quân Đồng minh đang đánh lừa để người Nhật đầu hàng. Chắc chắn người Mỹ và người Anh không thể chế tạo được bom nguyên tử. Cú sốc và nghi ngờ của họ nhanh chóng được giải đáp bằng một chương trình phát sóng khác của BBC vài giờ sau đó: “Đây là bản tin: Người Nhật đã bị áp đảo bởi thành tựu to lớn của các nhà khoa học Đồng minh trong việc chế tạo bom nguyên tử.”

Sau đó là lời phát biểu của Churchill: “Sức mạnh hủy diệt lớn nhất do con người tạo ra đã đi vào hành động sáng nay… Quả bom, được thả hôm nay xuống căn cứ chiến tranh Hiroshima của Nhật Bản, được thiết kế để có sức nổ tương đương với hai mươi nghìn tấn thuốc nổ mạnh… Nhờ ơn Thượng Đế, khoa học Anh và Mỹ đã vượt xa mọi nỗ lực của Đức.. Việc người Đức sở hữu loại sức mạnh này bất cứ lúc nào cũng có thể thay đổi cục diện của cuộc chiến… Cơ quan Tình báo của chúng ta và Lực lượng Không quân Mỹ đã nỗ lực hết sức để định vị ở Đức bất cứ thứ gì giống với những nhà máy đang được xây dựng ở Hoa Kỳ. Vào mùa đông năm 1942-43 cuộc tấn công dũng cảm nhất đã được thực hiện ở Na Uy trong hai lần bởi các nhóm nhỏ tình nguyện viên từ lực lượng Biệt kích Anh và Na Uy, với tổn thất nhân mạng rất nặng nề, nhằm vào các kho chứa thứ được gọi là ‘nước nặng’, một yếu tố có mặt trong quá trình chế tạo bom.. Cuộc tấn công thứ hai trong số hai cuộc tấn công này đã hoàn toàn thành công.” Churchill kết luận, “Việc phát hiện những bí mật của tự nhiên, từ lâu được giữ kín với con người một cách may mắn, từ đây sẽ khơi dậy sự suy ngẫm nghiêm trọng nhất trong tâm trí và lương tâm của mọi con người có hiểu biết.”

Các nhà khoa học Đức lao vào một  cuộc trò chuyện sôi nổi. Hahn nói: “Họ chỉ có thể làm được điều đó nếu họ tách được đồng vị uranium”.

Harteck phản bác, “Điều đó không thực sự cần thiết. Nếu họ để động cơ uranium hoạt động, họ sẽ tách plutonium ra.”

“Một công việc cực kỳ phức tạp vì họ phải có một động cơ có thể hoạt động trong thời gian dài,” Haln nói. “Nếu người Mỹ có bom uranium thì tất cả các ông đều là người hạng hai.”

Heisenberg vẫn chết lặng trước thông báo này. “Họ có dùng từ ‘uranium’ trong mối liên hệ với quả bom nguyên tử này không?” Các nhà khoa học đồng nghiệp của ông trả lời: không.

Diebner ngắt lời: “Chúng ta luôn nghĩ rằng phải mất hai năm mới có được một quả bom.”

Đêm khuya, mười người đàn ông tiếp tục cuộc trò chuyện trong phòng ăn có máy nghe lén. Một số người bày tỏ sự kinh hoàng trước việc quân Đồng minh sử dụng loại bom như vậy. Những người khác than thở chương trình của họ đã quá tụt hậu. Họ tranh luận về tính khoa học và cơ học của cách chế tạo quả bom một cách chính xác cũng như sự đầu tư to lớn mà người Mỹ chắc hẳn đã thực hiện.

Trong một thời gian, họ chơi trò đổ lỗi. Họ có quá ít nhân viên. Không đủ hỗ trợ hoặc nguồn cung cấp, chủ yếu là không đủ nước nặng. Có quá nhiều đấu đá nội bộ giữa các nhà khoa học của họ, không đủ sự hợp tác. Họ tập trung quá nhiều vào máy làm uranium và máy điều tiết, quá ít vào việc tách đồng vị. Cuộc gặp với Speer vào tháng 6 năm 1942 đã chấm dứt mọi hy vọng về một chương trình công nghiệp. Diebner nói: “Những người chính thức chỉ quan tâm đến kết quả ngay lập tức”. Các viện nghiên cứu của họ đã bị đập tan bởi những đợt ném bom. Họ không bao giờ có cơ hội.

Họ cũng tranh luận về đạo đức của việc sử dụng vũ khí có sức tàn phá như vậy và liệu họ từng có ý định sản xuất nó hay không. Một số người, như Heisenberg, đã xây dựng sẵn khuôn khổ phòng thủ của riêng mình, biện minh một cách thuận tiện cho sự thất bại trong nỗ lực của họ như một chiến lược có tính toán để ngăn Hitler lấy được quả bom.

Ăn mừng sau chiến tranh tại khách sạn của gia đình Skinnarland

Từ trái sang phải: Haukelid, Poulsson, Ronneberg,  Kayser, Kjelstrup, Haugland,  Stromsheim,  và Storhaug nhận huy chương chính thức cho chiến tích của mình

Lời kết

VÀO NGÀY 3 THÁNG 1 NĂM 1946, mười nhà khoa học của Câu lạc bộ Uranium được trả tự do, tự do trở về Đức và tiếp tục theo đuổi hoạt động khoa học của mình. Trong nhiều năm và nhiều thập kỷ sau đó, họ đã trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, viết hồi ký và đóng góp vào tiểu sử cũng như các cuốn sách khác nhau về công việc chiến tranh của họ. Những điều này đã được thêm vào hàng nghìn báo cáo, thư từ và giấy tờ bí mật được thu thập sau sự sụp đổ của Đế chế thứ ba.

Nhiều lịch sử đã được viết.

Vào đầu năm 1942, người Đức và Đồng minh gần như ngang ngữa  nhau về mặt lý thuyết và nghiên cứu nguyên tử. Sau đó, người Mỹ đẩy mạnh Dự án Manhattan, trong khi Quân đội Đức và sau đó là Speer rút lui khỏi cam kết thực hiện một chương trình mở rộng như vậy.

  1. V. Jones, một sĩ quan tình báo hàng đầu của Anh có công tác chiến đấu tập trung vào việc chống lại công nghệ của Đức, đã viết: “Một thí nghiệm tồi ở bên này hay bên kia thường là nguyên nhân gây ra sự khác biệt”. Nếu người Đức không loại bỏ than chì như là chất điều tiết quá sớm, liệu họ có phải là người đầu tiên chế tạo ra lò phản ứng tự duy trì không? Có thể điều này đã thuyết phục được các quan chức phân bổ nguồn lực cho bom nguyên tử thay vì chương trình V-1 và V-2? Liệu họ có nên đầu tư thêm thời gian và công sức vào việc tách đồng vị U-235 thay vì lò phản ứng nước nặng để sản xuất plutonium cho bom không?

Một số nhà sử học đã kết luận rằng chiến dịch chống lại nguồn cung cấp của Vemork, từ việc làm ô nhiễm bằng dầu gan cá thu của Brun và những người khác, đến Chiến dịch Gunnerside, đến cuộc tấn công ném bom của Mỹ, đến vụ đánh chìm phà D/F Hydro, tất cả đều chẳng là gì cả. Nhưng nếu người Đức đã tạo ra một lò phản ứng tự duy trì bằng nước nặng thì sao? Diebner tin rằng ông sẽ có đủ nước nặng vào cuối năm 1943 cho một lò phản ứng. Ông ta sẽ không dừng lại ở đó. “Việc xóa sổ sản xuất deuterium ở Na Uy”, ông viết sau này trong hồi ký của mình, “là một trong những lý do chính khiến Đức không bao giờ có được sản phẩm này.”

Làm nên lịch sử chưa bao giờ là mục tiêu của những nhóm phá hoại Na Uy cũng như của những đặc công người Anh được cử đến trước họ. Sau chiến tranh sự hy sinh của các Đặc công Hoàng gia Anh và phi hành đoàn RAF trong Chiến dịch Freshman xấu số không bị lãng quên. Ba mươi bảy thi thể đã được tìm thấy và chôn cất tại các khu mộ ở Na Uy. Bia mộ của Bill Bray có dòng chữ: “Sống trong trái tim những người yêu thương tôi không hề chết đi”. Bốn đặc công bị giết ở Stavanger, thi thể của họ bị vứt xuống biển, đã được vinh danh bằng một đài tưởng niệm gần nơi họ hy sinh. Bài thơ “Cho người ngã xuống” của Laurence Binyon được đọc bằng tiếng Anh và bản dịch tiếng Na Uy tại buổi lễ: “Họ sẽ không già đi, như chúng ta những người còn lại sẽ già đi / Tuổi tác sẽ không làm họ mệt mỏi, năm tháng cũng không kết án. / Khi mặt trời lặn và và bình minh lên, / Chúng ta sẽ tưởng nhớ họ.” Các đài tưởng niệm được dựng lên ở Na Uy cũng dành cho những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em đã thiệt mạng trong cuộc ném bom của Mỹ tại Vemork và trong vụ chìm tàu ​​Hydro.

Thời gian trôi qua, những người tham gia phá hoại nước nặng đã được nhận huy chương từ nhiều quốc gia biết ơn: Na Uy, Anh, Đan Mạch, Pháp và Hoa Kỳ.

Nhưng bất cứ khi nào họ được hỏi về hành động quan trọng nhất, mang tính quyết định của họ trong chiến tranh, hầu hết họ đều đề cập đến các hoạt động khác ngoài Vemork.

Đối với Joachim Rønneberg và Birger Strømsheim, họ tự hào nhất về Fieldfare, chiến dịch mà họ phát động vào tháng 3 năm 1944 nhằm chuẩn bị cho việc phá hủy các tuyến tiếp tế của Đức ở Thung lũng Romsdal, đỉnh điểm là vụ nổ tung một cây cầu đường sắt quan trọng. Knut Haugland cho rằng công việc thiết lập các liên kết vô tuyến không dây với London là thành tựu lớn nhất của ông. Jens-Anton Poulsson coi hành động của mình trong Chiến dịch Ánh dương là quan trọng nhất trong cuộc chiến chống lại quân Đức. Có thể lập luận rằng Leif Tronstad cũng sẽ hạ thấp Vemork tương tự, nếu ông còn sống, đặc biệt vì nhật ký của ông chỉ đề cập đến “nước trái cây” vài chục lần, trong số rất nhiều hoạt động khác mà ông lên kế hoạch lấp đầy các trang của nhật ký. Mặc dù họ cảm thấy các chiến dịch khác  của họ trong thời Đức chiếm đóng  xứng đáng nhận được nhiều sự chú ý, nếu không muốn nói là nhiều hơn, nhưng chính hành động biệt kích chống lại Vemork đã thu hút được nhiều lời khen ngợi nhất.

Họ là những anh hùng Na Uy, những anh hùng quốc tế. Vượt qua các huân chương và đài tưởng niệm, cuộc chiến còn ghi dấu ấn của những người đàn ông ở Gà Gô, Gunnerside theo những cách khác, đôi khi là những cách đen tối. Họ đã chứng kiến ​​bạn bè ngã xuống Một số đã trở thành kẻ giết người. Tất cả họ đều đã sống dưới sự đe dọa liên tục bị phát hiện và cái chết. Có những năm sau hòa bình, họ thức giấc lúc nửa đêm, tưởng tượng có kẻ thù trước cửa, với tay lấy súng không có ở đó. Các con của Einar Skinnarland biết rõ rằng không nên đột ngột đến gần cha mình. Một số bản năng không bao giờ phai nhạt. Một vài trong số họ tìm đến rượu để vơi đi những ký ức mà họ không  muốn nhớ. Nhiều người chỉ đơn giản tìm kiếm niềm an ủi ở nơi mà họ từng phải vật lộn để tồn tại. Rønneberg đã xác quyết “sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên”. “Bạn có thể ngồi xuống một tảng đá và để suy nghĩ của mình bay đi.” Knut Haugland đã dành 101 ngày vào năm 1947 với tư cách là nhân viên điều hành vô tuyến trên Kon-Tiki, một chiếc bè đơn giản vượt qua Thái Bình Dương chỉ với thủy thủ đoàn sáu người. Ngoài việc mang lại cuộc phiêu lưu tuyệt vời, cuộc hành trình còn xua đuổi những con quỷ trong người anh. Điều mà thiên nhiên và thời gian không thể hàn gắn được, tình bạn của họ đã hỗ trợ họ vượt qua. Cho đến cuối đời, các thành viên Đại đội Linge thường xuyên gặp nhau để chia sẻ những trải nghiệm mà ít người có thể hiểu được.

Knut Haukelid dành tặng cuốn hồi ký chiến tranh của mình cho thân phụ, người đã qua đời năm 1944 do những thiếu thốn mà ông phải chịu đựng khi còn là tù nhân ở Møllergata, và sau đó là ở Grini. Lời đề tặng có nội dung: “Ông ấy đã chết mà không biết tại sao …” Mặc dù ông bị bắt vì cất giữ thiết bị vô tuyến bất hợp pháp trong nhà kho, nhưng sự thật là Bjørgulf đã bị nhắm đến vì những hành động của con trai mình, tất cả những điều đó Knut đã giấu ông.

Skinnarland không chiến đấu cho các giải thưởng, cũng không phải cho đống huy chương mà anh ấy đã nhận được, và hiện đã cất giữ trong ngăn kéo đựng đồ linh tinh dưới tầng hầm. Những hy sinh  của Tronstad và Syverstad luôn đè nặng lên tâm khảm anh. Chỉ trong những năm cuối đời Skinnarland mới xem lại nhật ký cuộc chiến của mình và chuỗi dài những bức điện anh đã gửi từ Vidda, và chỉ sau đó anh mới  cho phép mình có chút tự hào về những gì mình đã phải chịu đựng vì lợi ích của đất nước và thế giới. Anh đã chia sẻ điều này với gia đình, trong đó có cô con gái của ông, Kirvil. Anh và Haukelid, người cuối cùng đã hòa giải với vợ, Bodil, cả hai đều giữ lời hứa vào mùa hè năm 1943 bằng cách đặt tên cho hai cô con gái của họ đều là Kirvil.

Cuối cùng, Rønneberg, thủ lĩnh của Gunnerside và là kẻ phá hoại cuối cùng còn sống sót, đã 96 tuổi vào năm 2016, thường nói một cách hùng hồn về lý do tại sao ông lại dũng cảm vượt biển Bắc để được huấn luyện ở Anh và tại sao sau đó ông lại quay lại Na Uy hai lần bằng dù. “Bạn phải đấu tranh cho tự do của mình,” ông nói. “Và vì hòa bình bạn phải chiến đấu mỗi ngày, để giữ gìn nó. Hòa bình giống như một chiếc thuyền thủy tinh, dễ vỡ và dễ mất.”


Dịch xong, ngày 3 tháng 9 năm 2024

Bình luận về bài viết này