
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
27 Người đàn ông với cây vĩ cầm
NGÀY HÔM.SAU SAU hoàng hôn, Haukelid và Sørlie đi xuống từ nơi ẩn náu trên núi. Họ không ngừng giương mắt đề phòng quân Đức đang tập luyện quân sự mùa đông trên cao nguyên cách cabin họ chưa đầy một phần tư dặm. Cả hai để biết những khu rừng dốc như lòng bàn tay sau quá nhiều lần thực hiện những chuyến hành trình vào Rjukan.
Họ đến một nhà khách bề thế thuộc sở hữu của Norsk Hydro. Sørlie bấm chuông và một cô hầu gái ra trả lời. Cô đưa họ lên phòng của Alf Larsen, ông đã sống ở đó kể từ khi nhà riêng của mình bên cạnh Vemork bị đánh bom. Larsen, đang bị cúm, vẫn nằm trên giường, trấn an hai người đàn ông rằng ông cam kết hỗ trợ vụ phá hoại, cụ thể là đảm bảo rằng quân Đức sẽ không vận chuyển bất cứ thứ gì cho đến chủ nhật.
Ngay sau đó, Syverstad và Nielsen cũng bước vào phòng, và Haukelid thông báo cho nhóm rằng London đã ra lệnh tiếp tục tấn công chiếc phà. “Tôi biết điều đó thật gian nan,” anh nói. “Chắc chắn là gian nan nhưng London nói rằng không còn cách nào khác.”
Gửi một trung đội lính tới vị trí của kẻ thù là một việc, biết rằng một số họ sẽ chết. Nhưng nhiệm vụ này là một việc khác, dù họ có thực hiện tốt đến đâu, cũng khiến đồng bào của họ gặp nguy hiểm. Họ phải chấp nhận rủi ro đó với hy vọng hành động của mình sẽ cứu được nhiều mạng sống hơn. Tất cả họ đều chấp nhận trách nhiệm một cách dứt khoát.
Haukelid tiếp tục. Họ có ba lựa chọn: Một là thuyết phục nhân viên phòng máy mở van xả và tắt động cơ. Do chiếc phà bị vô hiệu hóa và không thể vào bờ, một vụ nổ nhỏ sẽ khiến nó từ từ chìm xuống nước, tạo điều kiện cho nhiều hành khách có thời gian rời đi an toàn. Lựa chọn thứ hai là anh tự mình lên tàu, tắt động cơ khi họ đang ở giữa hồ và sau đó sử dụng một lượng thuốc nổ giới hạn để đánh chìm con tàu. Lựa chọn thứ ba của họ là “đặt một quả bom hẹn giờ trên tàu và đánh chìm con tàu nhanh chóng trước khi nó có thể chạy vào bờ.”
Tùy chọn đầu tiên là không thể. Những người khác, tất cả đều là dân địa phương Rjukan, thừa nhận rằng họ không biết rõ về bất kỳ nhân viên phà nào để có thể tin tưởng họ. Phương án thứ hai không khả thi. Biết rằng con tàu sẽ được canh gác chặt chẽ như vậy, khó có khả năng thoát khỏi sự chú ý của lính canh Đức khi họ tắt động cơ và đặt thuốc nổ. Lựa chọn thứ ba cho đến nay là tốt nhất, miễn là Haukelid có thể lẻn lên tàu để đặt chất nổ đúng giờ và miễn là con tàu đi đúng lịch trình.
Hoạt động vẫn cần một thành viên khác. Ngoài Sørlie, người ít ra cũng được đào tạo dù rất hạn chế, còn không ai trong số những người khác có kinh nghiệm về công việc biệt kích. Mọi chuyện có thể đi sai hướng. Họ có thể phải chiến đấu để thoát ra. Hơn nữa, sẽ đặt ra quá nhiều câu hỏi nếu Larsen, Syverstad hoặc Nielsen bị nhìn thấy rình rập trên chiếc phà vào đêm trước khi nó khởi hành. Sørlie hứa rằng mình sẽ sớm tuyển dụng một người mà họ có thể tin cậy.
Tiếp theo họ cần lập kế hoạch cho những gì xảy ra sau chiến dịch. Haukelid thúc giục Larsen cùng anh trốn sang Thụy Điển. Nếu không thì người Đức sẽ tiếp tục tận dụng chuyên môn về nước nặng của ông. Larsen đã đồng ý. Sørlie sẽ chuyển đến Nilsbu để sống với Skinnarland và tiếp tục công việc kháng chiến. Syverstad muốn ở lại Rjukan. Anh có vợ và những đứa con mà anh không muốn bỏ đi, và anh nghĩ rằng mình sẽ không bị nghi ngờ. Nielsen cũng muốn ở lại, nhưng vì anh ta là người quản lý vận tải nên rõ ràng là anh cần phải thu xếp một bằng chứng ngoại phạm rõ ràng trong ngày hành động. Anh ấy hứa rằng mình sẽ tính đến việc ấy.
Sau cuộc gặp, Haukelid và Sørlie đến gặp Diseth. Người hưu trí này có một xưởng nhỏ chứa đầy các dụng cụ, những chiếc radio tháo rời và những hộp dây điện, lò xo, bản lề, ốc vít. Haukelid cần một loại ngòi nổ được định thời gian chính xác, vì anh không có cách nào dễ dàng để kích hoạt một vụ nổ có thời gian chờ đợi lâu. Diseth đề xuất một chiếc đồng hồ báo thức. Thay vì đập chiếc chuông phía trên đồng hồ, búa đập sẽ đóng mạch điện gắn vào ngòi nổ và kích hoạt chất nổ. Diseth cho biết sẽ sẵn sàng thiết bị trong vòng 24 giờ.
*
Ngày hôm sau nhìn thấy Haukelid đi dạo qua Rjukan, diện bộ vest màu xanh đi mượn, mang đôi giày tây và xách theo một hộp đàn violin. Anh trông giống như bất kỳ thành viên nào của dàn nhạc đang đến thăm thị trấn, dự kiến sẽ biểu diễn tối hôm đó. Nhạc trưởng của đàn nhạc là nhà soạn nhạc và nghệ sĩ violin nổi tiếng Arvid Fladmoe. Dường như người Đức có mặt khắp mọi nơi: đứng ở góc phố, ngồi trong nhà hàng, lái ô tô đi ngang qua. Hết lần này đến lần khác, Haukelid chứng kiến người dân bị gọi đứng sang một bên để xuất trình giấy tờ tùy thân. Cả khẩu súng Sten trong hộp đàn vĩ cầm lẫn lựu đạn và khẩu súng lục trong ba lô của anh đều sẽ không giúp ích nhiều cho anh nếu anh bị xét hỏi. Tại ga xe lửa, anh mua vé đi Mæl và đợi tàu.
Bây giờ kế hoạch đã có nơi, Haukelid muốn tự mình kiểm tra mọi thứ. Anh biết lịch trình cho chuyến phà chủ nhật và Nielsen đã cung cấp cho anh một sơ đồ.của con tàu, nhưng anh muốn biết chính xác khi nào chiếc phà sẽ đến điểm sâu nhất của hồ và.nơi tốt nhất để đặt thuốc nổ. Nếu có ai hỏi về sự hiện diện của anh trên chuyến phà trở về, anh chỉ cần nói rằng mình ra ngoài tham quan trước buổi hòa nhạc tối.
Tàu đến và Haukelid đi 8 dặm dọc theo Thung lũng Vestfjord đến bến phà ở Mæl. Chỉ có hàng rào xung quanh và một người phục vụ duy nhất ở quầy bán vé, nhà ga này còn lâu mới trở thành một pháo đài ngang tầm với Vemork. Tuy nhiên, trong hai ngày nữa, khi lô hàng được hạ xuống, Haukelid biết rằng sẽ có một đội bảo vệ nghiêm ngặt đi cùng nó.
Chiếc phà, D/F Hydro, đang.ở cảng, chuẩn bị khởi hành. Là một trong ba chiếc vượt hồ, nó cũng là chiếc dự kiến chạy vào chủ nhật. Một lần, nhiều năm trước cuộc xâm lược của Đức, Haukelid đã đi phà đến Rjukan để mua cá hồi giống trước khi đến trang trại trên núi của gia đình mình. Bây giờ anh nhớ ra rằng Hydro chẳng có gì đẹp đẽ cả. Hạ thủy vào năm 1914, chiếc phà đáy phẳng dài 174 bộ có mũi tàu góc cạnh rộng có thể phá băng. Một loạt đường ray chạy dọc hai bên boong chính. Cùng nhau, chúng sẽ lắp được hàng chục toa tàu chở bất cứ thứ gì cần vận chuyển qua hồ, thường là phân bón và kali nitrat. Dưới boong tàu này có chỗ cho 120 hành khách. Đài chỉ huy, hai bên là hai cái phễu cao màu đen, đứng phía trên boong.
Khi Haukelid lên phà, những chiếc phễu này đang phun hơi nước vào bầu trời u ám, buồn thảm. Anh quan sát một số toa tàu đang lao xuống một đoạn đường ray nối từ bến tàu lên boong. Cùm giữ chặt chúng vào vị trí. Kiểm tra đồng hồ và ghi chép trong đầu, Haukelid tính thời gian cho mọi thứ, từ việc hành khách lên tàu, đến thời điểm con tàu khởi hành thực sự, cho đến khi họ dọn dẹp nhà ga. Từ nghiên cứu của anh về bản đồ Hồ Tinnsjø, và bằng cách sử dụng các điểm mốc trên cả hai bờ hồ, anh biết rằng phà đến điểm sâu nhất trong hồ sau ba mươi phút vượt biển. Tại điểm đó, hồ sâu 1300 bộ (gần 400m). Việc trục vớt bất cứ thứ gì bị chìm ở độ sâu đó gần như là không thể.
Trong phần còn lại của chuyến đi khứ hồi kéo dài bốn giờ, Haukelid luôn bận rộn. Anh tiến lên cây cầu và trò chuyện với người lái tàu về việc định hướng trên hồ. Anh đi dọc theo chiều dài và chiều rộng của chiếc phà, tìm kiếm bất kỳ khoang nào mà anh có thể vào được. Anh cố tình đánh rơi chiếc tẩu của mình qua một tấm lưới kim loại phía trên phòng máy, tạo cớ để đi xuống và quan sát hai động cơ 250 mã lực đang điều khiển chiếc phà. Sau khi lấy lại chiếc tẩu của mình, anh đưa cho kỹ sư trưởng một nhúm thuốc lá. Họ thảo luận về việc thiết kế Hydro, và người kỹ sư thậm chí còn dẫn anh đi tham quan một chút. Trong suốt thời gian đó, Haukelid tìm kiếm nơi tốt nhất để đặt chất nổ của mình. Anh cố gắng loại bỏ khỏi tâm trí ý nghĩ rằng chính người kỹ sư này có thể sẽ chết trong vụ chìm tàu.
Vào thời điểm phà về gần đến Mæl một lần nữa, anh đã khá chắc chắc về kế hoạch của mình. Anh có thể phá thủng một lỗ trên chiếc phà chỉ với một vài quả bom gắn ở mũi tàu. Nước sẽ tràn qua các hầm phía trước và trọng lượng của nó sẽ đẩy phần đầu của phà xuống hồ. Điều này có thể khiến các toa tàu chứa phuy nước nặng lăn về phía trước, đẩy nhanh tốc độ chìm tàu. Ngay cả khi những chiếc toa chở nước nặng vẫn ở nguyên vị trí, bánh lái và chân vịt ở đuôi tàu sẽ nhô lên khỏi mặt nước, vô hiệu hóa tàu.
Câu hỏi quan trọng là anh nên tạo ra một cái lỗ lớn đến mức nào. Hồ Tinnsjø đủ hẹp để chỉ mất 5 phút chạy từ trung tâm hồ đến một trong hai bờ của nó. Haukelid cần phải cân bằng rủi ro khi thuyền trưởng đưa chiếc phà bị tê liệt vào bờ với việc cho phép có đủ thời gian để càng nhiều hành khách thoát ra ngoài càng tốt.
Vẫn còn suy nghĩ về điều đó, Haukelid bắt ttàu hỏa trở về Rjukan. Tình cờ, anh đi ngang qua mặt Nielsen trên phố. Cả hai đều giả bộ không quen biết nhau. Dù sao thì Haukelid cũng đang vội đi gặp tân binh của Sørlie.
Hóa ra đó là Knut Lier-Hansen, cựu trung sĩ quân đội Na Uy 27 tuổi với cái cằm rắn chắc và ánh mắt bình thản, cũng là một kẻ lập dị giống như chính Haukelid. Là một cậu bé địa phương Rjukan, cha anh làm thợ điện tại Norsk Hydro. Lier-Hansen đã tốt nghiệp trường bộ binh và đang theo học tại một trường kỹ thuật ở Oslo thì quân Đức xâm lược. Sau một vài cuộc giao tranh, anh bị bắt, nhưng khi chiếc xe tải chở anh đến trại tù bị chết máy, anh nhảy ra phía sau và trốn vào rừng. Từ đó, anh trút bỏ quân phục và tham gia cuộc kháng chiến chống lại sự tiến công của quân Đức.
Khi Na Uy đầu hàng, Lier-Hansen đi nhờ xe chở sữa về phía biên giới Thụy Điển. Kể từ đó, anh đã đi đi về về giữa Stockholm, Oslo và Rjukan, làm việc cho Milorg với tư cách là người hướng dẫn vũ khí, nhân viên điện đài và gián điệp. Trong vài tuần qua, anh đã trở về quê hương để làm công việc bảo trì cho Norsk Hydro. Hầu hết mọi người ở Rjukan đều biết anh tham gia cuộc kháng chiến, điều này khiến anh trở thành mục tiêu của Gestapo, nhưng anh vẫn tiếp tục trốn tránh bị bắt.
Haukelid thích ngay Lier- Hansen. Anh ta háo hức với công việc. Anh ta biết cách sử dụng súng. Anh ta đã từng hành động. Và anh ta có thể khai thác các kết nối của riêng mình nếu cần. Chưa đầy 48 giờ trước khi chiếc phà bị đánh chìm, Haukelid đã tập hợp được đội của mình.
*
Cứ vài tuần, Fehlis và các nhân viên của y lại gửi một “Báo cáo tình hình từ Na Uy” tới các nhà lãnh đạo quân sự và an ninh ở Berlin, liệt kê ngày tháng “đánh sập” hay “phát hiện” hết tổ kháng chiến Milorg hoặc chi bộ cộng sản này đến tổ và chi bộ khác. Từ cuối năm 1943 đến tháng 2 năm 1944, người của y đã giải tán một tổ chức khổng lồ do lính cứu hỏa Bergen lãnh đạo. Ở Trondheim, họ phát hiện ra một kho vũ khí và chất nổ lớn. Ở Oslo, các nhóm “xã hội chủ nghĩa cấp tiến”, phần lớn là sinh viên, đã bị vây bắt. Tại Kongsberg và Notodden, họ đã bắt giữ nhiều thủ lĩnh cấp cao của thế giới ngầm, trong đó có anh trai của Knut Haugland. Nhìn chung, số vụ bắt giữ đã tăng lên. Các cuộc hành quyết cũng vậy.
Trong các báo cáo này, Fehlis cũng thẳng thắn báo cáo về nhiều hành động phá hoại và phản kháng vẫn tiếp diễn, cả chủ động và thụ động. Người Na Uy, mà Fehlis và cấp trên của y đã hy vọng sẽ trân trọng vị trí của họ trong Đế chế Đức Quốc xã, lại tỏ ra ngoan cố hơn bao giờ hết. Fehlis thuật lại một trích dẫn từ một tờ báo bất hợp pháp đã gói gọn thái độ của nhiều người dân Na Uy: “Bất cứ điều gì có thể liên quan đến việc phản kháng chống lại người Đức nhất thiết phải được thực hiện. Không ai có thể tự nguyện cung cấp sức lao động, chuyên môn hoặc công việc kinh doanh của mình cho người Đức. Lấy trường hợp người nông dân Na Uy: mỗi lít sữa, mỗi miếng bơ hay thịt xông khói không đến tay bọn Đức là một mất mát đối với chúng nhưng là một thắng lợi đối với chúng ta… Không một nỗ lực Quốc xã hóa nhỏ nhất nào, không một ý nghĩ hay âm thanh nào có thể xâm nhập vào tâm hồn nhân dân chúng ta. Chúng ta đang chiến đấu không chỉ để tiêu diệt chủ nghĩa Quốc xã mà còn để tái thiết đất nước dân chủ của chúng ta. Ý tưởng này là để phục vụ tất cả hành động chúng ta.”
Những nỗ lực tiêu diệt Vemork là một ví dụ nữa về sự không khoan nhượng của Na Uy. Cuộc tấn công ném bom của Mỹ đã buộc Berlin phải tháo dỡ nhà máy và vận chuyển các hàng hoá của nó sang Đức. Tuy nhiên, trong vài tuần qua, việc truyền tải vô tuyến gợi ý về vụ phá hoại đã bị chặn nghe và Muggenthaler, người của Fehlis ở Rjukan, đang thực hiện những thay đổi vào phút cuối đối với kế hoạch vận chuyển. Fehlis đã cử Trung đoàn Cảnh sát SS số 7 tinh nhuệ của mình đến Rjukan để bảo vệ nước nặng trên đường đến Menstad, còn chính Himmler đã cử một cặp máy bay Fieseler Storch đến bảo vệ đoàn tàu và xác định bất kỳ động thái nào nhằm tấn công nó.
*
Vào ngày 18 tháng 2, Tronstad đang đi bộ qua Cao nguyên Scotland bên ngoài làng Spean Bridge. Ống đăm đăm nhìn Ben Nevis và Aonach Mòr nhô lên từ xa, nhưng nước nặng và cuộc tấn công sắp xảy ra vào Hydro không bao giờ rời xa tâm trí ông. Theo một báo cáo gần đây của Chim Én, người Đức đã trích được gần 15.000 kg nước nặng với nhiều nồng độ khác nhau từ Vemork, và 100 kg trong số đó có độ tinh khiết từ 97 đến 99,5%. Ông tính toán rằng nếu các nhà khoa học Đức tập trung được toàn bộ nguồn cung cấp này thì họ sẽ có được 633 kg chất điều tiết thuần túy. Thêm vào những gì họ đã nhận được từ nhà máy và bất kỳ sản lượng mà họ tự quản lý, họ có thể có đủ để khởi động một lò phản ứng.
Khi Einar Skinnarland thông báo kế hoạch cho nổ tung chiếc phà, Tronstad nhận ra rằng đó là một giải pháp quyết liệt nhưng không thể tránh khỏi nguy cơ đối với sinh mạng của họ. Ông tự an ủi mình rằng không có cách nào phá hủy nguồn cung cấp nước nặng mà không gây thiệt hại về nhân mạng. Brun cầu xin ông dừng việc đó lại, nhưng Tronstad biết rằng nếu mình từ chối cử Haukelid giải quyết chiếc phà, quân Đồng minh sẽ ném bom Vemork một lần nữa trước khi lô hàng rời khỏi nhà máy hoặc trong khi tàu hoặc phà đang vận chuyển. Nhiều thường dân vô tội hơn sẽ thương vong trong những tình huống này.
Tuy nhiên, Tronstad và người Anh đã sắp xếp các kế hoạch dự phòng trong trường hợp lô hàng đã được chất dỡ ra khỏi phà. Wilson đã gửi chỉ thị tới nhóm Đại đội Linge gồm hai người đang làm việc tại khu vực Oslo. Họ sẽ chuẩn bị một cuộc tấn công bằng mìn từ vào tàu chở hàng ở Menstad. Họ sẽ đánh chìm con tàu trước khi nước nặng rời bến cảng. Nếu thất bại, Bộ chỉ huy máy bay ném bom RAF sẽ tiến hành một cuộc tấn công từ trên không vào con tàu trong khi nó ở trên biển. Rất nhiều điều có thể xảy ra sai sót với những hoạt động này. Tấn công Hydro vẫn là lựa chọn tốt nhất.
Sau chuyến đi bộ của mình, Tronstad quay trở lại Cầu Spean để giám sát một cuộc tập trận cho lứa biệt kích Linge mới. Họ đang ở phong độ tốt khi tấn công một tòa nhà mô hình hóa của trụ sở Gestapo, giăng đầy bẫy. Tronstad hy vọng rằng Haukelid và đội được tập hợp vội vàng của anh sẽ có chuẩn bị đón nhận những điều bất ngờ.
*
Hai tiếng nổ đã giật phắt Haukelid ra khỏi giấc mơ của mình. Anh chắc chắn đó là tiếng súng trường. Ngay lập tức, với súng trong tay, anh di chuyển về phía cửa cabin phía trên Rjukan. Sørlie đã ở bên cửa sổ, khẩu súng Sten của anh chĩa về phía bất kỳ mối đe dọa nào đang đến gần. có thể phải mất một lúc cơn buồn ngủ mới tan đi trước khi cả hai nhận ra nguồn gốc của âm thanh đó. “Ít nhất chúng hoạt động được,” Sørlie nói, ám chỉ hai chiếc đồng hồ báo thức trên sàn.
Sự trì hoãn thời gian phát nổ mà Diseth đã thực hiện thật tài tình. Anh đã tháo chuông báo của cả hai đồng hồ, sau đó quấn những dải nhựa Bakelite vào vị trí của chúng, lấy từ chiếc điện thoại hỏng mà ông có trong kho. Phía trên những dải này, ông cố định các tấm đồng, sau đó nối chúng bằng dây điện với kíp nổ lấy trộm từ Norsk Hydro. Kíp sẽ hoạt động khi được kích hoạt bởi dòng điện được cung cấp bởi bốn pin chín volt. Diseth hàn các thiết bị đầu cuối của chúng lại với nhau để giữ mọi thứ an toàn.
Haukelid và Sørlie đã đặt đồng hồ “reo” vào buổi trưa để đánh thức họ sau chuyến thăm xưởng của Diseth vào sáng sớm thứ bảy. Tại đúng phút hẹn, tiếng búa đập vào đồng hồ báo thức đã đóng mạch điện và kích hoạt kíp nổ
Những loại kíp tương tự này sẽ kích hoạt ngòi nổ nối với xúc xích dài, màu rỉ sét của chất nổ Nobel 808 mà họ đã cuộn, nặng gần 19 cân. Sau khi chất nổ được đặt ở phần mũi chiếc phà Hydro, Haukelid tính toán rằng nó sẽ tạo ra một lỗ thủng rộng hơn một mét vuông và khiến chiếc phà chìm trong vòng bốn phút.
Anh tính toán dựa trên kinh nghiệm kỹ thuật của chính mình và những gì mình đã học được ở STS 17. Bốn phút sẽ cho hành khách có đủ thời gian để thoát ra ngoài bằng xuồng cứu sinh hoặc xuống nước với phao cứu sinh, nhưng không được cho phà có thời gian tấp vào bờ.
Trở lại giường, Haukelid và Sørlie xem lại những gì phía trước. Chỉ trong vài giờ ngắn ngủi nữa, khi màn đêm buông xuống, họ sẽ đi xuống Rjukan để gặp những người khác. Rồi, sau nửa đêm, họ tới Mæl để đặt chất nổ.
*
Ở Vemork, Larsen và Syverstad đang giám sát việc buộc một đầu máy xe lửa vào hai toa tàu chở đầy 43 thùng 400 lít và 5 bình 50 lít đựng “dung dịch kali” (tổng cộng khoảng 4.000 gallon). Hàng chục binh sĩ cầm súng máy bao vây đoàn tàu, rà soát các sườn đồi và thung lũng xung quanh xem có mối đe dọa nào không. Họ theo dõi những chiếc ô tô suốt đêm dưới ánh đèn pha chói lóa. Trong vài giờ nữa, đoàn tàu sẽ di chuyển xuống Rjukan, nơi nó sẽ ở lại ga qua đêm dưới sự canh gác tương tự cho đến chuyến hành trình đến Mæl vào chủ nhật.
Trước khi tàu rời Vemork, giám đốc Norsk Hydro khu vực, Bjarne Nilssen, từ Rjukan đến để đảm bảo rằng mọi thứ đều ổn. Sau khi kiểm tra lô hàng, Larsen yêu cầu ông quay lại văn phòng để điền các thủ tục giấy tờ cần thiết cho lô hàng. Larsen giải thích rằng việc đó phải được thực hiện ngay hôm nay vì anh ấy cần phải nghỉ một ngày vào ngày mai.
Khi ở văn phòng của Larsen, Nilssen đã gọi điện đến nhà máy Notodden của Norsk Hydro, yêu cầu một chiếc xe tải đợi ở ga xe lửa Notodden khi tàu đến vào ngày hôm sau. Người đàn ông ở đầu dây bên kia hỏi chiếc xe tải đi đến đâu và Nilssen trả lời rằng đó là một “điểm đến không tên”. Khi gác máy, Larsen hỏi ông chủ tại sao lại đặt mua chiếc xe tải. Nilssen nói với ông người Đức muốn vận chuyển lượng nước nặng có nồng độ cao nhất đựng trong năm bình 50 lít bằng các phương tiện vận chuyển riêng biệt.
Bọn Đức Quốc xã rõ ràng đang tiên liệu một cuộc tấn công. Nếu chiếc phà đến đích ở cuối phía nam của Hồ Tinnsjø và nếu các toa tàu đi được quãng đường hai mươi dặm đến ga xe lửa Notodden, thì phần có giá trị nhất trong chuyến hàng của nó sẽ biến mất khỏi tầm tay.
Knut Haukelid, vai chính trong chiến dịch đánh phà D/F Hydro
Knut Lier-Hansen, thành viên kháng chiến Rjukan
28
Báo thức lúc 10:45 sáng
NGAY TRƯỚC NỬA ĐÊM, Haukelid và Sørlie đang ở Rjukan, từ cây cầu bắc qua sông Måna nhìn xuống ga xe lửa của thị trấn. Họ có thể nhìn thấy hai toa tàu hàng chất đầy thùng phuy, bình và ngập trong ánh sáng. Binh lính Đức cầm súng máy ngồi trên nóc toa, hơi thở của họ bốc khói trong cái lạnh buốt giá, Rõ ràng họ làm theo lời khuyên của Falkenhorst sau vụ phá hoại Vemork đầu tiên: “Khi các ngươi có một rương châu báu, các nguoi không được đi vòng quanh nó. Các ngươi phải tự đứng lên nắp của nó với vũ khí trên tay.”
Cả hai kẻ phá hoại rời đi vị trí thuận lợi của họ trên cầu và luồn qua những con đường phía sau của Rjukan đến một gara nằm tách biệt phía sau một căn nhà. Cửa gara đã bị khóa. Giờ đã là một tên trộm chuyên nghiệp, Haukelid dùng xà beng mở ra dễ dàng. Bên trong họ tìm thấy một ô tô cũ. Chủ sở hữu đã cho Lier-Hansen mượn xe cho hoạt động đêm nay và đã dặn rằng sẽ là tốt nhất cho ông ấy nếu nó trông như thể đã bị đánh cắp.
Lier-Hansen và một người tên Olav, được anh tuyển dụng làm tài xế cho họ, gặp họ tại gara ngay sau đó. Sau đó Larsen xuất hiện, mang theo ba lô và ván trượt cho chuyến hành trình đến Thụy Điển và trông vô cùng lo lắng. Syverstad đang ở Vemork, còn Nielsen ở bệnh viện Oslo, chờ đợi ca phẫu thuật cắt ruột thừa mà chị gái anh, một y tá ở đó, đã sắp xếp để anh có bằng chứng ngoại phạm hoàn hảo vào chủ nhật. Olav mở bướm gió của ô tô rồi quay tay quay cho máy nổ. Nó khục khặc rồi chết tốt. Anh thử lại lần nữa. Lần này, động cơ thậm chí còn không giả vờ lên tiếng. “Đồ chết bầm!” Haukelid đá vào hông xe.
Sẽ là một chặng đường dài khó khăn khoảng tám dặm để đi bộ đến Mæl trong thời tiết giá lạnh và tối tăm nếu họ không khởi động được xe. Và họ không thể đến muộn: càng gần đến giờ tàu hỏa đến, an ninh ở ga Mæl càng được thắt chặt hơn. Họ mở mui xe và kiểm tra động cơ. Pin vẫn ổn. Họ đã có đủ xăng. Các máy bơm nhiên liệu đã hết băng bám. Mọi thứ khác đều có vẻ ổn. Họ đã thử lần thứ ba. Một lần nữa, không có gì. “Tôi xin lỗi,” Olav nói, “nhưng nó không chịu nổ.”
Họ đã cố gắng mượn được ô tô từ hai bác sĩ trong thị trấn, những người duy nhất được phép sử dụng phương tiện trong thời chiến. Cả hai chiếc xe đều không hoạt động được. Người Đức đã chiếm phần lớn số xe còn lại.
Một lần nữa, Haukelid và Olav lại khởi động động cơ. Lần này họ nới lỏng bộ chế hòa khí và phát hiện nó bị bám đầy bồ hóng. Sau khi lau chùi kỹ lưỡng, tay và mặt đều đen đủi, họ thử lại. Olav giật mạnh bướm gió, quay tay cầm và cuối cùng động cơ cũng phát nổ. Lúc đó đã gần 1 giờ sáng, muộn hơn một giờ so với thời gian khởi hành theo kế hoạch
Chiếc xe đơn độc tiến về phía nam từ Rjukan dọc theo con đường phủ đầy tuyết, xích quấn lốp xe nghiến trên tuyết tạo nên một vệt màu trắng âm u phía sau họ. Nếu họ chạy vào bất kỳ trạm kiểm soát nào, họ sẽ gặp tình huống khó khăn phải giải thích để không bị bắt giữ. Năm gã đàn ông trong chiếc xe bị đánh cắp, không có giấy phép đi lại lúc nửa đêm là tồi tệ rồi lại có vũ khí và bó thuốc nổ chắc chân là bị xử bắn, sau một trận tra tấn. Chuyến đi ngắn đến Mæl dường như dài vô tận được thực hiện trong nỗi sợ hãi bao trùm. Haukelid biết rằng trách nhiệm gài thuốc nổ nên đặt vào tay mình vì mình là lãnh đạo.. Theo những gì Larsen đã nói với anh, họ sẽ không có cơ hội nào khác để đánh trúng toàn bộ lô hàng một khi nó đã ở bên kia Hồ Tinnsjø.
Cách bến phà khoảng một dặm, Haukelid bảo tài xế của họ tấp vào lề đường và tắt đèn pha. Khi chiếc xe dừng lại bên một gốc cây, Haukelid đưa cho Larsen một khẩu súng lục. Nó không mấy thoải mái khi nằm trong tay một kỹ sư. “Đợi chúng tôi,” Haukelid nói với ông ta. Nếu hai giờ nữa họ không quay lại, ông và Olav cứ lái xe đi, và ông sẽ phải tự mình chạy đến Thụy Điển. Sau đó Haukelid quay sang người lái xe, đắn đo. Nếu nghe thấy tiếng súng, anh ta phải “lái xe ra khỏi đây càng nhanh càng tốt.” Tất cả đều đồng ý. Haukelid, Sørlie và Lier-Hansen bước ra khỏi xe.
“Chúc bạn may mắn,” Larsen nói trước khi cánh cửa đóng lại. Họ sẽ cần may mắn và rất nhiều may mắn. Trên đầu, vầng trăng khuyết treo lơ lửng trên bầu trời quang đãng, chỉ cung cấp đủ ánh sáng để họ nhìn thấy đường đến nhà ga. Cái lạnh mùa đông buốt da, lớp băng dưới chân họ nứt ra và vỡ vụn sau mỗi bước đi. Nếu có một lính gác tinh tường phía trước, hắn ta sẽ nghe thấy họ đến rất lâu trước khi họ nhìn thấy hắn ta. Thật ra, với những tiếng băng vỡ lạo xạo, hắn có thể nghĩ rằng có cả một đội quân đang tới..
Đi trước hai đồng đội một chút, Haukelid đăm đăm nhìn vào nhà ga, theo dõi bất kì chuyển động nào. Một ngọn đèn đơn lẻ thắp sáng lối đi dẫn lối tới thân tàu Hydro trong bóng tối. Ngoài ra không có ngọn đèn nào khác. Từ những gì mình nhìn thấy, hình như không có người lính nào tuần tra khu vực xung quanh phà. Một vài đêm trước đó, trong chuyến trinh sát, anh đã nhìn thấy khoảng 15 đến 20 người trong nhà ga. Họ hiếm khi mạo hiểm đi ra ngoài trời lạnh, nhưng anh nghĩ đêm nay đáng ra họ phải cẩn thận hơn nhiều, vì sáng mai la hàng được chuyển đến. Nếu họ thực sự theo dõi chặt chẽ hơn thì ắt hẳn họ đang làm việc đó một cách kín đáo.
Cách nhà ga một trăm thước, Haukelid vẫy tay ra hiệu cho đồng đội dừng lại và che chắn mình khi anh tiến lại gần. Túi anh nhét đầy lựu đạn và đồng hồ báo thức, một khẩu súng Sten giấu dưới áo khoác parka và một gói thuốc nổ nặng 19 cân quấn quanh cổ và thắt lưng, anh cảm thấy mình giống như một gã khổng lồ ì ạch. Anh nhìn thấy một số lính trong nhà ga, nhưng một lần nữa, bên ngoài không có ai. Đối với tất cả các biện pháp phòng vệ của mình, quân Đức dường như đã không nghĩ đến việc bảo vệ chiếc phà vào đêm trước chuyến vận chuyển.
Ra hiệu cho Sørlie và Lier-Hansen đi theo, Haukelid rón rén đi dọc bến tàu về phía bến phà. Một lần nữa, không có lính gác hay nhân viên canh gác. Nỗi sợ hãi chạy dọc sống lưng anh. Anh không tin rằng người Đức lại ngu ngốc đến thế.
Không bị thách thức, cả ba cuối cùng cũng lên phà. Haukelid nghe thấy vài tiếng nói yếu ớt bên dưới boong chính. Chầm chậm, anh đi xuống cầu tháng dẫn vào tầng dưới.
Đến gần cửa dẫn vào phòng thủy thủ đoàn, anh chăm chú lắng nghe. Có vẻ như cả đội đang chơi phé một cách sôi nổi. Anh lẻn về phía trước, thoáng nhìn thấy nhóm thủy thủ Na Uy đang ngồi quanh một chiếc bàn dài và chơi bài.
Sau đó anh rón rén đến toa hành khách hạng ba. Bây giờ anh cần tìm một cửa sập dẫn đến hầm kho hàng bên dưới boong nơi họ sẽ đặt chất nổ. Trong khi anh và Sørlie tìm kiếm cửa sập, Lier-Hansen giữ nhiệm vụ che chắn. Đúng lúc đó, họ nghe thấy tiếng chân lê bước trên hành lang. Trước khi họ trốn đi được thì người canh gác đã xuất hiện trong khoang tàu. Nếu y gọi báo động, họ sẽ tiêu. “Cậu đấy à, Knut?” người canh phà hỏi.
“Vâng,” Lier-Hansen tỉnh bơ đáp khi nhận ra người đó là John Berg, mà anh đã biết từ Câu lạc bộ điền kinh Mæl. “Với một vài người bạn.” Haukelid và Sørlie bước tới. Có một khoảnh khắc căng thẳng khác khi người canh phà thắc mắc lý do tại sao họ lại ở trên tàu vào lúc nửa đêm. “Nghe này, John,” Lier-Hansen nói. Berg biết anh đang tham gia kháng chiến. “Chúng tôi tiên liệu một cuộc đột kích, và chúng tôi có thứ muốn cất giấu. Một thứ bất hợp pháp. Chỉ đơn giản vậy thôi.”
“Sao cậu không nói trước?” Berg nói. “Không thành vấn đề.” Y chỉ vào một cửa sập trên sàn của lối đi dẫn xuống bên dưới boong tàu. “Đây không phải là lần đầu tiên có thứ gì đó được giấu bên dưới.”
Lier-Hansen tiếp tục trò chuyện với người canh phà khi Haukelid và Sørlie leo xuống đáy tàu. Bò bằng đầu gối, một chiếc đèn pin trên tay dẫn đường, họ lội qua làn nước lạnh như băng cho đến khi tới mũi phà. Không gian thấp và tối tăm giống như một nhà mồ. Nếu bọn Đức đã lên phà và tìm thấy họ ở đó, rất có thể đó chính là nấm mồ của họ. Sørlie cầm đèn khi Haukelid bắt đầu làm việc.
Nhiều phút trôi qua nhanh chóng khi anh chuẩn bị tinh tế cho cuộn thuốc nổ. Anh cố định chất nổ dưới nước trên sàn tôn dợn sóng.
Cuộn chất nổ Nobel 808 được quấn thành một vòng tròn gần như hoàn chỉnh. Haukelid cố định hai ngòi nổ vào hai đầu của cuộn thuốc nổ. Anh rút những đầu còn lại ra khỏi nước và dán chúng lại với nhau. Sau đó, anh nối các kíp nổ điện với các ngòi nổ này và cố định chúng vào sườn của con tàu. Sau khi kết nối hai chiếc đồng hồ báo thức với các gói pin của chúng, anh đảm bảo rằng các dây dẫn từ đồng hồ chưa dẫn điện, sau đó vặn kim đồng hồ báo thức, đặt chúng bật lên lúc 10:45 sáng. Các đồng hồ cũng được dán vào sườn phà.
Tay tê cóng, mắt cay xè vì mồ hôi, Haukelid bắt đầu phần nguy hiểm nhất của việc đặt thuốc nổ, buộc dây từ đồng hồ báo thức đến kíp nổ. Chỉ với 8 li ngăn cách các búa gõ chuông trên mỗi đồng hồ báo thức với các mảnh kim loại để đóng mạch điện và kích hoạt kíp nổ, Haukelid hết sức cẩn thận. Nếu anh vô tình và chạm đồng hồ báo thức, nếu anh trượt tay, nếu anh mất thăng bằng trên sàn trơn, thảm họa sẽ ập đến với vận tốc chín nghìn mét một giây, tốc độ cháy của ngòi nổ. Anh và Sørlie sẽ chết trước khi nhận thức được điều gì.
Tay anh vẫn vững vàng và anh đã hoàn thành công việc của mình. Haukelid và Sørlie luồn lách trở lại thang và chui ra qua cửa sập, bẩn thỉu và ướt sũng. Lier-Hansen và Berg vẫn đang nói chuyện.
Berg không hỏi bất kỳ câu hỏi nào về chuyện gì đã khiến họ mất nhiều thời gian như vậy và Haukelid cũng không định trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Anh chỉ đơn giản bắt tay Berg và cảm ơn y vì là một người Na Uy tốt bụng. Sau đó, ba người xuống phà và đi vào màn đêm.
Họ đến chiếc ô tô đang đợi chỉ vài phút trước thời hạn hai giờ và lái xe đi một quãng ngắn trước khi Olav dừng lại bên đường. Sørlie bước ra ngoài. Anh sẽ quay trở lại vùng núi để kết nối lại với Skinnarland. Sau khi buộc ván trượt vào, anh nói lời tạm biệt với những người khác. “Mình sẽ sớm quay lại,” Haukelid hứa. Sau đó Sørlie biến mất trong rừng. Olav chở những người còn lại về phía nam tới Kongsberg, nơi họ dự định lên tàu đến thủ đô. Trở lại phà, các chiếc đồng hồ vẫn tích tắc.
*
Vào sáng chủ nhật, ngày 20 tháng 2, đúng 8 giờ sáng, những tiếng còi vang lên khắp ga xe lửa ở Rjukan. Các chiến sĩ canh chừng các phuy nước nặng đã vào vị trí trên hai toa bằng. Đoàn tàu cũng chở bảy thùng chứa amoniac và hai toa xe hành lý, chủ yếu là quân nhu, lên phà. Chưa bao giờ chuyến hàng từ thị trấn lại được bảo vệ nghiêm ngặt đến thế. Binh lính cũng đóng dọc theo tuyến đường sắt để đảm bảo không có cuộc tấn công nào trên tuyến đường đến bến phà.
Trong ngôi nhà thời thơ ấu của mình ở Rjukan, Gunnar Syverstad đang chăm sóc người mẹ ốm yếu của mình. Đáng lẽ bà ấy sẽ bắt chuyến tàu chở khách lúc 9 giờ sáng đến Mæl, sau đó đi phà tới Notodden để đến bệnh viện. Nhưng đêm hôm trước bà đột nhiên bị đau bụng khủng khiếp và bây giờ quá yếu để đi chữa bệnh.. Bà không biết rằng đêm hôm trước con trai bà đã thêm rất nhiều thuốc nhuận trường vào bữa tối của bà.
Nhưng hàng chục cư dân Rjukan khác gồm trẻ em, đàn ông, phụ nữ cũng như một số người khác, bao gồm cả nhà soạn nhạc Arvid Fladmoe, không bị cản trở khi lên phà chở khách và bắt đầu hành trình đến Mæl và chiếc phà đang đợi họ ở đó.
Tại ga Kongsberg, cách Rjukan sáu mươi dặm lái xe, Haukelid và Larsen mua hai vé tàu đi Oslo. Olav đã thả họ xuống cách thị trấn khoảng mười dặm.và họ đã trượt tuyết suốt chặng đường còn lại xuyên qua khu rừng. Lier-Hansen lẽ ra sẽ đi cùng họ, nhưng vào phút cuối anh quyết định không đến Thụy Điển. Khi họ đang đợi chuyến tàu Oslo khởi hành thì một đoàn tàu chở quân Đức đã đến từ phía đông. Chỉ trong vài phút, nhà ga đã tràn ngập lính.
Haukelid biết họ sẽ ổn nếu giữ bình tĩnh. Sau đó Larsen nắm lấy cánh tay anh. “Đó là thủ lĩnh của Gestapo ở Rjukan,” ông nói, nhìn Muggenthaler bước xuống tàu. “Và tôi không thể cho y thấy mình rời khỏi thị trấn vào lúc này.”
Hai người đàn ông vội vã đến nhà vệ sinh, còn Larsen tự nhốt mình trong một buồng cầu, và ở lại đó cho đến khi chuyến tàu chở Muggenthaler khởi hành và họ có thể lên chuyến tàu riêng của mình.
Phia trên đồi cao nhìn xuống Mæl, Lier- Hansen nhìn đoàn tàu chở hàng đến ga đúng giờ. Trong giờ tiếp theo tại bến phà, các toa tàu được chuyển lên Hydro và khóa vào vị trí. Sau đó hành khách bắt đầu đến. Nhân viên kiểm tra vé trước khi họ băng qua lối đi và ngồi vào chỗ. Những người có chỗ ngồi rẻ nhất được xếp ngồi xa nhất so với boong chính. Lier-Hansen thường xuyên kiểm tra đồng hồ. Vài phút sau mười giờ, giờ khởi hành theo lịch trình, các công nhân bến phà thả dây neo và tàu Hydro rời khỏi bến phà, cánh quạt của nó khuấy động mặt nước tĩnh lặng của Hồ Tinnsjø phía sau.
Đó là một buổi sáng lạnh lẽo nhưng trong xanh, mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên đầu. Thuyền trưởng Erling Sørensen đã vượt hồ này hàng trăm lần. Ông xuất thân từ một gia đình thuyền trưởng. Anh trai ông đã bị trúng ngư lôi – hai lần – khi đang xuôi ngược trên Bắc Đại Tây Dương. Trên hồ Tinnsjø, người ta không lo lắng về những rủi ro như vậy. Lên đài chỉ huy, Sørensen hướng Hydro về phía trung tâm hồ.
*
Ngay trước 10:45 sáng, Sørensen bước ra khỏi buồng lái để ghi chép vào nhật ký. Bên dưới boong, 38 hành khách đang giết thời gian trong phòng khách và các khoang khác. Một số người chơi bài, người khác đang tán gẫu hoặc đang lặng lẽ đọc sách. Một phụ nữ lớn tuổi đang lật xem cuốn album ảnh gia đình.
Trong phòng máy, ba thuyền viên đang ăn bữa sáng muộn, nghỉ ngơi vì lạnh. Ngoại trừ sự hiện diện của tám người lính Đức đang canh gác cẩn thận hai toa tàu, tất cả đều bình thường.
Khi Sørensen bước xuống đài chỉ huy, một tiếng nứt lớn vang lên bên dưới boong và chiếc phà rung chuyển. Nếu họ không ở giữa hồ sâu, có lẽ ông đã nghĩ tàu đã mắc cạn. Nhưng không, đây lại là một điều gì đó hoàn toàn khác. Chạy ngược lên bậc thang, ông thấy khói bao phủ boong tàu. “Hướng về đất liền!” Ông ta hét lên với viên hoa tiêu. Trước khi có thể chuyển hướng, chiếc phà bắt đầu lắc lư dữ dội. Trong các khoang bên dưới, nỗi kinh hoàng ập đến với hành khách. Đèn tắt và nước đổ khắp sàn nhà. Hơi nước nóng rít qua những đường ống nứt nẻ. Phòng khách hạng ba không có ô cửa sổ và gần như tối đen như mực. “Một quả bom!” một trong những hành khách hét lên. “Chúng ta đã bị đánh bom!” Mọi người cố gắng tìm cửa thoát thân.
Trên đài chỉ huy, Sørensen biết chiếc phà đã vô phương cứu chữa. Mũi tàu chìm dưới nước và họ không ở gần bờ. Ông hét lên gọi hành khách xuồng thuyền cứu sinh và cùng với một thành viên trong thủy thủ đoàn của mình, đã tìm cách giải phóng một chiếc thuyền. Một số hành khách đã lao mình xuống nước. Sau đó, ông bảo người lái tàu bỏ tàu và chiếm lấy đài chỉ huy. Ông cố xoay bánh lái để hướng chiếc Hydro sang bên phải, nhưng nó vẫn tiếp tục nghiêng sang trái. Một thành viên phi hành đoàn suýt bị đè bẹp giữa hai toa tàu nước nặng đang nghiêng.
Hành khách bỏ chạy khỏi khoang của họ lên boong chính. Một số người đã tìm được dây cứu sinh trước khi nhảy xuống nước. Những người khác chỉ đơn giản là cởi áo khoác dày của họ và nhảy xuống biển, Arvid Fladmoe trong số đó. Những người không biết bơi phải đối mặt với sự lựa chọn giữa con tàu đang chìm và làn nước lạnh lẽo nguy hiểm. Ở khoang hạng ba, các hành khách cuối cùng cũng tìm được cửa và lối ra nhưng trong bóng tối lại bối rối không biết phải đi lối nào. Nước đổ xuống lối đi thành dòng lũ.
Một phụ nữ trẻ tên là Eva Gulbrandsen dùng nắm đấm đập vào ô cửa sổ với hy vọng bò qua đó để đến được nơi có ánh sáng phía trên. Kính quá dày để có thể đập vỡ. Một gã đàn ông chạy ngang qua và cô nhờ anh ta giúp đỡ, nhưng anh ta đang hoảng loạn. “Tôi còn không thể tự giúp mình. Tôi thậm chí không biết bơi.” Tiếng la hét và kêu cứu vang lên khắp mọi hướng. Sàn nhà dưới chân họ dốc xuống thành một đường trượt. Cuối cùng Eva cũng lên được tầng trên. Cô cởi áo khoác len và trèo qua lan can. Vẫn mang đôi ủng nặng nề, cô lao ra khỏi tàu.
Sørensen bò ra khỏi buồng lái. Mũi tàu lúc này đã chìm hoàn toàn và ở đuôi tàu, các chân vịt quay ngày càng cao ra khỏi mặt nước. Chiếc phà giờ đã nghiêng hẳn sang một bên khiến ông gần như có thể bò qua mạn phải phía thân tàu. Đúng lúc đó, có một tiếng nổ lớn khác, và ông nhìn thấy 11 toa tàu bung ra và lao xuống hồ. Ông chỉ còn vài giây trước khi toàn bộ chiếc phà chìm, và ông sẽ chìm theo nó nếu không hành động nhanh chóng. Và ông đã nhảy.
Bốn phút sau vụ nổ, chiếc Hydro bị chìm xuống đáy hồ. Chiếc xuồng cứu sinh nhanh chóng tràn ngập hành khách. Fladmoe được đưa lên xuồng với chiếc đàn violin ướt sũng trên tay. Eva Gulbrandsen cũng vậy. Những người khác cố bám vào đống đổ nát còn sót lại sau khi con tàu chìm, bao gồm cả vali và bốn thùng đựng “dung dịch kali” đã vơi một nửa.
Những người thoát được khỏi phà giờ phải vật lộn để vào bờ trước khi dòng nước lạnh như băng khuất phục mình. Một số ngư dân và nông dân địa phương chứng kiến thảm họa đã vội vã chèo thuyền ra ngoài, vung mạnh và nhanh mái chèo đến mức tay họ chảy máu. Trong số 53 hành khách lên phà, có 27 người sống sót, trong đó có thuyền trưởng và 4 lính Đức. Tất cả 11 toa tàu đều chìm xuống đáy Hồ Tinnsjø, kéo theo những chiếc thùng và bình nước nặng xuống cùng với nó.
*
Rolf Sørlie dành phần lớn thời gian ngày chủ nhật để ẩn náu trong một cabin nhỏ trên Vidda. Anh không dám gặp lại Skinnarland ở Nilsbu khi trời còn sáng. Dù kiệt sức từ đêm hôm trước nhưng anh vẫn thức trắng vì sợ lính Đức đang tập trận có thể bắt gặp mình. Cảm thấy khó chịu, anh tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với chiếc phà: Nó có bị chìm không? Có mất mạng ai không? Khi mặt trời lặn, anh bắt đầu ra đi. Một cơn gió dữ dội thổi qua, cái lạnh thấm vào tận xương tủy.
Sau vài giờ trượt tuyết, tay và chân bỏng rát vì căng thẳng, anh đến được trang trại Hamaren. Anh vốn định nghỉ ngơi ở đó, nhưng hình như có khách đến nhà nên anh tiếp tục đi tiếp. Gió bây giờ đang gào thét, nhưng anh không thể dừng lại. Cánh tay anh quá yếu và anh không chắc mình có thể tiếp tục được nữa hay không. Anh bị quấy rầy bởi ý nghĩ, Mình đã làm gì thế này? chạy đi chạy lại trong đầu anh, biết rằng nếu vụ phá hoại thành công, người dân Na Uy sẽ phải trả giá bằng mạng sống của mình. Ngay khi anh không thể di chuyển thêm một bước nữa thì cơn gió đột nhiên im bặt. Lần đầu tiên anh không còn cảm thấy mình bị gió giật nữa, và sự lặng gió tạm thời đã mang lại cho anh sức sống mới.
Cuối cùng, anh nhìn về phía trước và thấy Nilsbu đóng khung dưới ánh trăng. Khi anh đến gần căn nhà gỗ, cánh cửa mở ra và Skinnarland bước ra trong tuyết để chào đón anh. Sørlie cảm thấy như mình đã trở về nhà. Skinnarland pha cà phê cho anh và bày đồ ăn ra. Vừa ăn, Sørlie vừa kể cho anh nghe chuyện tối hôm trước. Skinnarland hứa ngày hôm sau sẽ xuống nhà Hamarens để xem có tin tức gì không. Rồi Sørlie nằm xuống. Anh nhanh chóng đi vào giấc ngủ.
Khi anh thức dậy vào sáng hôm sau, cabin trống rỗng. Tại trại Hamaren , Skinnarland được biết rằng tàu Hydro đã bị chìm cùng với toàn bộ hàng hóa quý giá và báo cáo đầu tiên cho biết 14 người Na Uy và 4 người Đức đã thiệt mạng. Ngay khi trở về Nilsbu, anh đã truyền tin này về Trạm Chính. Bây giờ anh và Sørlie cần phải trốn xa Hồ Møs hơn. Họ mang theo mình gánh nặng về những gì họ được yêu cầu làm.
*
Sáng thứ hai, ngay sau khi Gunnar Syverstad có mặt ở sở làm, Bjarne Nilssen mời anh xuống văn phòng của mình ở Rjukan. Anh đến đó và thấy lính Đức và Gestapo đang lảng vảng trên hành lang. Nilssen muốn biết Kỹ sư trưởng Larsen đã đi đâu: Anh ấy không có ở nhà. Anh ấy chưa đến văn phòng. Syverstad nói là mình không biết. Nilssen cảnh báo anh rằng Gestapo sẽ sớm thẩm vấn anh kỹ lưỡng.
Syverstad biết ngay rằng mình cần phải chạy trốn. Sau khi rời văn phòng của Nilssen, anh đụng mặt một kỹ sư khác đến từ Vemork. Anh ta vừa bị Muggenthaler hằn học thẩm vấn. Mặt đỏ bừng, tên Đức đặt súng lên bàn trước mặt viên kỹ sư và đe dọa: “Nếu anh biến mất, tôi sẽ cho nổ tung ngôi nhà của anh có vợ anh trong đó”. Syverstad trở về nhà, thu dọn đồ đạc và từ biệt vợ và hai đứa con nhỏ. Anh ta sẽ phải trốn đến Thụy Điển trước khi Muggenthaler đến tìm mình. Khi Gestapo đến, họ thấy anh đã biến mất.
Knut Lier-Hansen vẫn ở lại thị trấn, ít ai biết rằng anh đã góp phần vào vụ đánh chìm phà. Hai sĩ quan Gestapo xuất hiện trong phòng bệnh của Kjell Nielsen ở Oslo. Ông vẫn đang hồi phục sau ca phẫu thuật cắt ruột thừa và nói với họ rằng mình không biết gì về vụ phá hoại. Suy cho cùng, ông đã ở bệnh viện từ thứ bảy. Họ không hỏi ông thêm gì nữa. Khi Gestapo thẩm vấn John Berg, người canh gác phà, y thừa nhận mình đã để ba người đàn ông lên tàu vào đêm trước khi phà khởi hành.Y biện hộ rằng đây là một thực tế phổ biến vì một số hành khách đi phà từ trên núi đến sớm và cần một nơi ấm áp để nghỉ ngơi. Berg nói rằng mình không biết những người đàn ông đó và những mô tả của y về họ không có gì rõ ràng.
Một cuộc săn lùng khác trên Vidda bắt đầu, một lần nữa tập trung vào Hồ Møs và ngôi nhà Skinnarland, nhưng cuộc tìm kiếm những kẻ phá hoại đã kết thúc không có kết quả như cuộc tìm kiếm gần một năm trước. Có vẻ như họ đang đuổi theo những cái bóng ma.
*
Knut Haukelid đang ở đâu đó phía bắc Oslo, trong một căn nhà gỗ thuộc sở hữu của một thành viên kháng chiến, khi anh đọc các tiêu đề trên mặt báo thứ hai: “Phà đường sắt Hydro bị đánh chìm ở Tinnsjø.” Lúc 10:45 sáng chủ nhật, trên chiến tàu hỏa từ Kongsberg đến Oslo, anh đã nhìn chằm chằm vào đồng hồ, hình dung trong tâm trí những gì đang diễn ra trên mặt hồ. Bom nổ. Tàu lật. Thêm nhiều mạng sống Na Uy được bổ sung vào hóa đơn của người đồ tể để mang đến sự tiêu hủy số nước nặng của Vemork. Quá nhiều cái chết và hy sinh. Quá nhiều chịu đựng. Bây giờ anh đang cầm tờ báo trong tay: Chiếc Hydro đã bị đánh chìm với tất cả hàng hóa của nó. Anh đã tuân theo mệnh lệnh, dù khó khăn đến mức nào, cho đến phút cuối cùng.
Với sự trợ giúp trốn thoát của mạng lưới kháng chiến, vài ngày sau anh và Alf Larsen đã vượt biên và lên đường đến thủ đô Thụy Điển. Vào khách sạn, anh tắm rửa và thay quần áo mới. Sau nhiều tháng ở vùng hoang dã Na Uy, Haukelid cảm thấy thật kỳ lạ khi ngồi trong một nhà hàng và ăn no nê hoặc đi ngang qua cửa sổ các cửa hàng trưng bày đầy hàng hóa. Ngay sau khi đến nơi, anh gặp Bodil để cố gắng hòa giải với cô. Nhưng chia cách – quá nhiều chia cách giữa họ lúc này, anh sợ rằng cuộc hôn nhân của họ lại là một thiệt hại khác trong cuộc xâm lược của Đức. Sau hai tuần ở Stockholm, Haukelid đã sẵn sàng quay trở lại công việc kháng chiến của mình. Đó là cuộc sống duy nhất có ý nghĩa với anh.
*
Vào ngày 26 tháng 2 năm 1944, Tronstad trở về London từ Scotland, đến Ga Euston. Trên đường đến văn phòng, ông đi ngang qua một tòa nhà chung cư lớn đang bị cảnh sát phong tỏa. Nó đã phải hứng chịu một quả bom trực tiếp mười hai giờ trước đây trong việc tái khởi động cuộc tấn công chớp nhoáng của máy bay ném bom Đức. Trong vài buổi tối vừa qua, bom cháy và bom nổ đã đánh sập các tòa nhà, san bằng nhà cửa và cửa hàng. Một trường học bị tấn công ở Tavistock Crescent, và một tu viện bị phá hủy ở Wimbledon, các nữ tu phải bới đống đổ nát để tìm chị em đồng tu của mình. Trên khắp thành phố, hàng trăm người đã chết và nhiều người khác không có nhà cửa.
Tối hôm đó, Tronstad trở về nhà nghỉ và suốt đêm ông lắng nghe tiếng máy bay chiến đấu trên đầu và tiếng súng nổ. Ông nghĩ xa hơn về vụ phá hoại Hydro, tự an ủi mình với suy nghĩ rằng chiến dịch này ít nhất đã ngăn chặn được một đợt ném bom khác của Đồng minh nhằm vào Vemork. Số người chết trong một cuộc tấn công như vậy có thể còn tồi tệ hơn nhiều so với vụ đánh bom phà.
Sự thật là có rất nhiều người chết ở London mỗi đêm. Nếu người Đức chế tạo được bom nguyên tử, họ sẽ biến thủ đô nước Anh và có lẽ cả những thành phố khác nữa, thành một đống đổ nát cháy xém với vô số người chết. Tronstad hiểu rằng trong chiến tranh, các nhà lãnh đạo phải cân nhắc quyết định của họ dựa trên cân cân so sánh như vậy, dù trên chiến trường hay trên bàn kế hoạch. Tuy nhiên, khi đọc tên và tuổi những con người vô tội thiệt mạng trên phà, ông không khỏi cảm thấy bị hụt hẫng khủng khiếp
Trong vài ngày, Tronstad nhận được xác nhận cuối cùng từ các điệp viên của Skinnarland rằng toàn bộ chuyến hàng nước nặng của Vemork ngoại trừ một số thùng có nồng độ gắn như vô giá trị đều nằm dưới đáy Hồ Tinnsjø. Trong nhật ký của mình, ông ghi nhận kỳ công này đã khép lại một “chương dũng cảm” trong cuộc chiến chống quân Đức. Ông sẽ hỏi Winston Churchill tưởng thưởng cho Haukelid và những đồng đội đã tham gia nhiệm vụ trên chuyến phà. Về phần Vemork, khi chiến tranh kết thúc, ông hy vọng sẽ xây dựng lại nhà máy, làm cho nó tốt hơn trước. Cho đến lúc đó, ông mới mãn nguyện việc người của mình đã hủy diệt thành công nguồn nước nặng của Đức Quốc xã và ngăn họ chế tạo ra một loại vũ khí không giống bất kỳ loại vũ khí nào được biết đến trước đây.
Vụ đánh chìm D/F Hydro

1 Chất nước nặng lên toa tàu
2 Các toa tàu được canh gác trong đêm
3 Điểm bốc hàng xuống phà D/F
4 Điểm phà D/F chìm

Phà D/F Hydro