
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
25 Không có gì mà không phải hy sinh
VÀO NGÀY XẢY RA vụ đánh bom của Mỹ, Leif Tronstad đang ở nơi ông cảm thấy thoải mái nhất trong thời gian sống lưu vong: Scotland. Ông đang ở STS 26, kiểm tra người của mình và tham gia một tuần huấn luyện đặc công. Đó là một sự tạm biệt thú vị khi rời khỏi hành lang của bộ chỉ huy cấp cao, nơi đôi khi ông cảm thấy mình dành nhiều thời gian để điều hướng bộ máy quan liêu hơn là chiến đấu cho Na Uy. Ông trải qua buổi chiều kích nổ những vụ nổ nhỏ, mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên nền tuyết đóng cứng. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, ông cảm thấy vô tư và hạnh phúc.
Trở lại Nhà nghỉ Drumintoul vào đầu giờ tối, ông nghe đài báo cáo về việc Lực lượng Không quân Hoa Kỳ tấn công Na Uy. Không có chi tiết cụ thể. Trong nhật ký đêm hôm đó, ông chỉ viết: “Hy vọng rằng tổn thất của Na Uy nhỏ và trận chiến ác quỷ này sẽ sớm kết thúc”. Trong vài ngày tiếp theo, ông đã biết được toàn bộ câu chuyện.
Quân Đồng minh đã phá vỡ cam kết của họ. Không hỏi ý kiến chính phủ Na Uy, họ đã cử một phi đội máy bay ném bom khổng lồ tấn công Vemork. Nhiều thường dân đã thiệt mạng. Nhiều sự tàn phá không cần thiết đã được thực hiện, đặc biệt là ở nhà máy nitrat ở Rjukan. Địa điểm đó chưa bao giờ xuất hiện trong bất kỳ danh sách mục tiêu nào và chỉ sản xuất phân bón cho nông nghiệp Na Uy. Điều khó chấp nhận nhất là thực tế mục tiêu chính, nhà máy nước nặng, thậm chí còn không bị hư hại, đúng như Tronstad đã cảnh báo là sẽ như vậy. Toàn bộ tình huống phản bội, cái chết vô ích và sự bất lực của chính mình trong việc ngăn chặn nó khiến Tronstad vô cùng cay đắng. Nhưng ông không phải là người đắm mình trong cảm xúc tiêu cực. Ông muốn được trấn an rằng sẽ không có chuyện như thế này xảy ra lần nữa.
Ở London, Jomar Brun đã đích thân đón nhận tin tức này. Tức giận, đau lòng và cảm thấy tội lỗi vì bằng cách nào đó mình đã góp phần vào cuộc đột kích, ông ta phản đối chính phủ Na Uy và Anh và gửi đơn từ chức tới Tổng cục Hợp kim Ống. “Khi rời Na Uy khoảng một năm trước,” ông viết, “tôi đã nghĩ mình có thể đóng góp cho nỗ lực chiến tranh của quân Đồng minh, đồng thời giúp cứu mạng sống và tài sản của người Na Uy. Bây giờ tôi đã hiểu nhiệm vụ của mình là vô ích.”
Khi Tronstad trở về từ Scotland, ông đã trấn an Brun và thuyết phục ông không từ chức. Sau đó ông bắt tay vào việc, tập hợp tướng Hansteen và ngoại trưởng Na Uy để phản đối chính quyền Anh và Mỹ. Các cuộc điều tra đã được bắt đầu và lời xin lỗi đã được đưa ra, nhưng không đưa ra lời hứa hẹn nào sẽ xin sự chấp thuận của Na Uy trước bất kỳ cuộc tấn công nào trong tương lai. Đồng minh nói rõ rằng họ cần được tự do tiến hành chiến tranh chống lại người Đức.
Tronstad biết được rằng quyết định ném bom Vemork đến từ bên ngoài các kênh danh sách mục tiêu điển hình; trên thực tế, chính quyền cao nhất của Đồng minh đã ra lệnh tấn công. Họ cảm thấy rằng ngay cả khi người Đức không thể chế tạo được bom phân hạch giống như loại mà quân Đồng minh đang phát triển, họ vẫn có thể sản xuất vũ khí phóng xạ có thể hủy hoại toàn bộ thành phố. Trừ khi và cho đến khi họ có được thông tin tình báo rõ ràng, dứt khoát rằng người Đức không còn theo đuổi nghiên cứu phân hạch nữa, thì quân Đồng minh vẫn phải hành động với quyết tâm không nao núng.
Từ những tin nhắn nhận được vào tháng 12 từ Njål Hole, Tronstad biết rằng người Đức vẫn chưa từ bỏ lĩnh vực nguyên tử. Các nghiên cứu và thí nghiệm của họ vẫn tiếp tục và họ vẫn mong muốn tạo ra nước nặng. Có thêm những báo cáo từ Đức rằng Hitler đang báo trước “vũ khí bí mật” sẽ sớm được tung ra trước thế giới. Một trong số báo cáo này là từ phóng viên Reuters, người đã phỏng vấn một số kẻ đào tẩu từ Đức, đã cảnh báo về một quả bom của Đức Quốc xã “chứa đầy khí nổ có sức tàn phá khủng khiếp… sẽ sớm được sử dụng để chống lại nước Anh”. Để nhắc nhở bản thân về những gì mình đang chiến đấu, Tronstad nhét bài báo vào nhật ký.
Tình báo Đồng minh sớm biết được thông tin rằng Norsk Hydro đã “quyết định từ bỏ hoàn toàn việc sản xuất nước nặng”. Thông tin tình báo chưa được xác nhận này không thể xoa dịu được Tronstad. Người Mỹ đã chứng tỏ rằng họ sẵn sàng tiến hành các cuộc tấn công lớn vào Vemork để kết thúc sản xuất . Bây giờ, ông cảnh báo, ngay cả khi Vemork bị đóng cửa, người Đức vẫn có thể dỡ bỏ nhà máy nồng độ cao và bắt đầu sản xuất trở lại ở nơi nào khác mà quân Đồng minh không biết. Nếu ông được phép tiến hành vụ phá hoại bằng thầu dầu, họ có thể đã làm chậm quá trình sản xuất gần như đình trệ mà không làm dấy lên nghi ngờ.
Vật lộn về mặt tinh thần với hậu quả của cuộc đột kích, Tronstad còn phải trải qua một Giáng sinh xa gia đình nữa. Mặc dù anh biết rằng Bassa vẫn vững vàng khi mình vắng mặt, nhưng những lá thư của bà viết trong suốt cả năm đã nói về ảnh hưởng của sự vắng mặt đó đối với gia đình. Trong một lần, bà viết: “Đó là khoảng thời gian nặng nề đối với em sau khi anh đã đi rồi, và trong giấc ngủ em vẫn gặp những cơn ác mộng khủng khiếp nhất, chắc hẳn nó đã để lại dấu ấn rất sâu.” Bà cũng lo sợ thay cho ông: “Giống như anh chỉ sống được nửa cuộc đời theo cách này. Các con lớn lên mà không có anh, thật đáng buồn, cậu bé của chúng ta thật ngộ nghĩnh, khi anh về nhà nó sẽ là cậu trai đã lớn”.
Tronstad cũng lo sợ như vậy và tự hỏi chiến tranh đã thay đổi ông theo những cách nào khác. Trong một bức thư gửi Bassa, ông viết: “Anh mong muốn tha thiết rằng hai chúng ta sẽ tìm được con đường đi qua bóng tối này và đến với nhau một lần nữa trong cuộc sống một cách cởi mở và tin tưởng như trước.” Tất cả nổi đau khổ là cái giá họ phải trả. Ngay trước lễ Giáng sinh, ông viết, “Chúng ta sẽ chẳng nhận được gì nếu không có sự hy sinh trên thế giới này… và nhất là tự do và độc lập.” Chính bản chất của việc ông đóng góp đã khiến Tronstad lo lắng nhất. Khi ông gửi các chàng trai của mình, người này đến người khác, vào chốn thường xuyên gặp nguy hiểm đến tính mạng mà bản thân mình luôn ở lại phía sau: “Thật khó cử khi dành thời gian lặng lẽ ở đây để quyết định sự sống chết của người khác”, ông than thở trong nhật ký của mình. Ông muốn về lại Na Uy, chiến đấu với quân Đức trên thực địa.
*
Trong suốt tháng 11 và tháng 12 năm 1943, khi máy bay ném bom của quân Đồng minh tấn công Đức cả ngày lẫn đêm, Kurt Diebner và nhóm các nhà vật lý trẻ của ông vẫn tiếp tục kiên trì làm việc để lắp ráp các máy làm uranium. Đối với thí nghiệm G-III, nhóm của ông đã chế tạo một quả cầu rỗng từ hàng tấn sáp parafin và đổ 592 kg nước nặng ở nhiệt độ phòng vào đó. Sau đó, họ lắp 106 khối uranium vào các dây kim loại mỏng (tám hoặc chín khối cho mỗi dây) và cố định dây vào một cái nắp, mỗi khối trong mạng cách nhau một khoảng bằng nhau. Toàn bộ hệ thống được hạ xuống vùng nước nặng bằng tời. Máy cho kết quả ấn tượng.
Sau đó, nhóm Gottow lặp lại thí nghiệm, sử dụng cùng quả cầu và cùng loại nước nặng, nhưng lần này với 240 khối uranium. Thiết kế này đủ hiệu quả để được lắp ráp trong một ngày và kết quả cho thấy mức tăng neutron là 106%. Như Diebner đã báo cáo với các nhà vật lý đồng nghiệp của mình, “Với kích thước tương đối nhỏ của thiết bị này, giá trị tăng neutron này là cực kỳ lớn.” Ngay lập tức nhóm của ông bắt đầu xây dựng phiên bản thứ ba của thiết kế khối xâu chuỗi.
Thành công của ông đến vào một thời điểm thuận lợi: nhóm quan chức tham gia giám sát bộ phận nguyên tử – trong đó có Speer và Göring – chuẩn bị phế truất Abraham Esau khỏi vị trí người đứng đầu chương trình. Đúng là dưới thời Esau đã có một số tiến bộ, từ thiết kế khối lập phương của Diebner đến công trình máy siêu ly tâm của Harteck, đến phương pháp làm giàu U-235 của Erich Bagge bằng cách sử dụng máy ly tâm “cống đồng vị” cho đến nhiều bài viết lý thuyết của nhiều nhà vật lý đã đặt nền móng cho tiến bộ thực tế. Nhưng vẫn chưa có lò phản ứng nào hoạt động, cũng như không có triển vọng nào về bom.
Hơn nữa, chương trình tiếp tục thiếu nguồn cung cấp ổn định chất điều tiết cần thiết đó là nước nặng, mặc dù đã có nhiều thử nghiệm và thành lập các nhà máy thí điểm để sản xuất nó. Việc xây dựng một nhà máy quy mô đầy đủ tại Leuna gặp khó khăn do chi phí cao và các cuộc đàm phán kéo dài với IG Farben. Vụ đánh bom gần đây của quân Đồng minh vào Vemork đã cho thấy rõ sai lầm mà họ mắc phải khi dựa vào nguồn cung cấp của Na Uy.
Göring gửi cho Esau lệnh cách chức chính thức vào ngày 2 tháng 12. Người thay thế ông là Walther Gerlach, một nhà khoa học đã làm nên tên tuổi với nghiên cứu từ trường hạ nguyên tử. Gerlach dạy vật lý thực nghiệm tại Đại học Munich và đã dành phần lớn thời gian chiến tranh làm việc trên thiết kế cầu chì ngư lôi cho hải quân. Cao, với khuôn mặt hẹp mũi quặm, Gerlach rất được yêu thích trong nhóm các nhà vật lý người Đức và được coi là một tay mềm mỏng nhưng khéo léo trong việc đi lại giữa các kênh quyền lực. Một số người nghĩ ông ấy là một sự lựa chọn gây tò mò, rất có thể chỉ thúc đẩy chương trình như một cách cứu các nhà khoa học liên quan khỏi ra tiền tuyến.
Họ đã sớm phát hiện ra rằng ông ta có tham vọng. Thực vậy, ông ta dự định trở thành “hoàng đế về vật lý.” Mặc dù ông không phải là thành viên của đảng Đức Quốc xã, Gerlach là một nhà quân phiệt muốn Hitler vẫn nắm quyền. Cuối năm 1943, ông cảm thấy nghi ngờ Đức sẽ không chiến thắng trong cuộc chiến, nhưng ông chắc chắn rằng nếu họ sở hữu một lò phản ứng đang hoạt động hoặc một quả bom, họ có thể bảo đảm bất kể điều khoản hiệp ước hòa bình nào họ muốn. Như ông đã nói với một cấp phó của Speer, “Theo tôi, bất kỳ chính trị gia nào sở hữu một thiết bị như vậy đều có thể có được bất cứ thứ gì mình thích.”
Trước khi được bổ nhiệm chính thức vào ngày 1 tháng 1 năm 1944, Gerlach đã gặp Diebner vài lần. Ông nhận ra rằng nhà vật lý Quân khí Quân đội đang đạt được tiến bộ cao nhất trong các thí nghiệm của mình và trấn an ông rằng ông sẽ được cung cấp mọi nguồn lực cần thiết để đạt được thành công trong nỗ lực của mình. Ngoài ra, Gerlach hứa sẽ bổ nhiệm Diebner làm trợ lý hành chính và đưa ông ta trở lại văn phòng của mình tại Harnack House, trụ sở của Viện Kaiser Wilhelm. Gerlach không quan tâm đến việc xoa dịu tình cảm của tất cả các bên như Esau đã từng làm. Heisenberg, người tiếp tục phản đối tính ưu việt của thiết kế hình khối của Diebner so với các đĩa của mình, sẽ phải tự điều chỉnh.
Vào ngày 11 tháng 12 năm 1943, Diebner tới Na Uy để khắc phục những trở ngại tiếp tục xảy ra do nước nặng. Tại trụ sở chính của Norsk Hydro ở Oslo, ông triệu tập một cuộc họp với Axel Aubert, tổng giám đốc 70 tuổi, người đã quay trở lại vị trí của mình sau khi người kế nhiệm bị bắt giữ.
Dù cùng một lập trường đưa đến vụ bắt giữ Eriksen, Aubert hiện nói với Diebner rằng Norsk Hydro sẽ ngừng hoàn toàn việc sản xuất nước nặng vì họ không thể “khiến công nhân của công ty bị tấn công thêm, cũng như không thể đầu tư thêm tài sản khác vào việc xây dựng lại một nhà máy sẽ bị thất thoát trong trường hợp xảy ra sự cố không kích mới.”
Diebner đồng ý với ông ta. Nếu việc sản xuất tiếp tục, quân Đồng minh có thể sẽ tấn công Vemork một lần nữa. Ông muốn di chuyển thiết bị có nồng độ cao của nhà máy bao gồm tất cả lượng nước nặng hiện có ở mọi mức nồng độ đến Đức, nơi một nhà máy mới sẽ được xây dựng. Aubert ra sức phản đối đối điều này vì chắc chắn rằng tốt hơn hết là họ nên cất giữ mọi thứ ở Na Uy cho đến sau chiến tranh. Tuy nhiên, Diebner đã quyết tâm. Ông cần sự chấp thuận từ Berlin nhưng tin tưởng rằng Berlin sẽ đồng ý. Sau đó, khi một nhà máy mới được xây dựng, ông ta sẽ có tất cả các chất điều tiết cần thiết cho một lò phản ứng sản xuất plutonium.
Đồng thời, Diebner đang mở ra con đường thứ hai hướng tới một loại thuốc nổ nguyên tử hoàn toàn khác. Qua tháng 12 và sang năm mới, ông dành ra một nhóm các nhà khoa học và kỹ sư tại Cục Nghiên cứu Quân khí cho thử nghiệm mới đó. Gần một thập kỷ trước, các nhà vật lý đã chỉ ra rằng khi hai nguyên tử deuterium va chạm với nhau ở tốc độ cao, các xung năng lượng sẽ được giải phóng. Tại Kummersdorf, một số nhà khoa học Đức đã hoàn thiện các dạng điện tích có thể gây ra những va chạm này ở nhiệt độ rất cao. Diebner và nhóm của ông bắt đầu thực hiện một loạt thí nghiệm sẽ ép các nguyên tử deuterium lại với nhau thông qua việc sử dụng sóng xung kích nổ bên trong một quả bóng bạc rỗng, mục tiêu của họ là kích hoạt phản ứng nhiệt hạch và tạo ra một quả bom. Bằng cách này hay cách khác, Diebner nhắm đến việc cung cấp cho Đức vũ khí cần thiết để đảo ngược vận mệnh thảm bại trước quân Đồng minh.
*
“Chúng tôi gửi đến tất cả bạn bè những lời chúc tốt đẹp nhất cho một Giáng sinh vui vẻ,” Skinnarland gõ tín hiệu morse, sau đó là lời chào đặc biệt đến Kjelstrup, Poulsson, và Helberg. Họ nhanh chóng nhận được thư trả lời: “Tất cả bạn bè của bạn ở đây gửi cho bạn những lời chúc tốt đẹp nhất cho năm mới với hy vọng chúng ta có thể sớm gặp lại nhau.” Nằm co ro ở Bamsebu, họ cố gắng tìm những gì có thể để tự cổ vũ mình. Họ làm một cây thông Giáng sinh nhỏ từ vài cành vân sam, ăn thịt tuần lộc và phát một số đĩa nhạc họ đã thu thập được cùng với một chiếc máy hát của Haukelid ở bên cạnh họ. Họ cố gắng bắt tín hiệu để tìm một bài hát nghi lễ, tiêu hao một ít nguồn pin quý giá, nhưng điều tốt nhất họ có thể làm là phát sóng đài BBC khi Big Ben đánh tiếng chuông truyền thống vào lúc nửa đêm giao thừa, báo trước năm 1944.
Hai người đàn ông có nhiều điều để suy ngẫm khi năm 1943 kết thúc. Skinnarland đã mất cha và cháu gái vào năm đó. Mặc dù Gestapo cuối cùng đã thả anh trai Olav của mình, Torstein vẫn ở Grini. Skogen đã bị đưa đến trại tù ở Đức vào đầu tháng 10. Số phận của anh vẫn chưa được biết.
Haukelid cũng buồn bã. Anh được biết qua Milorg rằng cha anh đã bị bắt vào cuối tháng 9 và bị đưa đến phòng tra tấn ở số 19 Møllergata. Bjørgulf Haukelid biết rất nhiều về hoạt động của con trai mình trước khi anh rời Anh, nhưng ông không biết gì về máy vô tuyến được cất giấu bí mật tại một nhà kho của công ty ông ở Oslo, được phát hiện trong một cuộc bố ráp. Haukelid đã giấu máy này ở đó vào năm 1941, nghĩ rằng tốt nhất là không nên nói gì với cha mình. Bây giờ anh sợ Gestapo sẽ tra tấn ông thậm chí còn tồi tệ hơn, cho rằng ông đã nói dối khi nói rằng mình không biết gì về máy phát.
Sau Năm Mới, Haukelid tiếp tục xây dựng mạng lưới kháng chiến ngầm và Skinnarland thu thập thông tin tình báo về Vemork. Hai người mặc dù bây giờ thân thiết như anh em nhưng lại là một cặp đôi trái tính. Dễ xúc động và nóng nảy, Haukelid nhanh chóng hành động. Còn Skinnarland có bản tính dè dặt, kiên nhẫn và cân nhắc, luôn lên kế hoạch tỉ mỉ cho mọi việc trước khi hành động.
Sự khác biệt của họ, việc họ sống quá gần nhau trong một căn nhà nhỏ rộng 10 x 10 bộ đã gây ra căng thẳng. Một buổi tối, ngán ngẩm khi Skinnarland nghe cùng một đĩa nhạc đến lần thứ một trăm, Haukelid gỡ nó ra khỏi máy hát và bẻ nó thành hàng chục mảnh. Phản ứng của Skinnarland là làm điều tương tự với đĩa nhạc yêu thích của Haukelid. Một ngày khác, Haukelid trở về sau một cuộc đi săn kéo dài không thành công, đói khát và bực bội. Anh nghĩ rằng thời tiết hôm đó là điều kiện hoàn hảo để rình rập một đàn nai, nhưng anh vẫn về nhà tay không. “Tôi không hiểu, lẽ ra ở trong sương mù dày đặc là tốt nhất,” Haukelid phàn nàn. “Khi đó, mình có thể bò đến gần chúng mà không bị chúng phát hiện.”
“Đúng vậy – nhưng cậu cũng không nhìn thấy chúng,” Skinnarland nói với giọng không có thiện cảm. “Ai cũng đều biết rằng không thể tìm thấy nai trong sương mù. Cậu chỉ khiến chúng sợ hãi mà thôi.”
“Cậu nghĩ là tôi không biết chúng ở đâu à?” Haukelid nói.
Skinnarland nhìn anh với vẻ giễu cợt. “Chỉ có kẻ ngốc mới đi săn bắn trong sương mù.”
“Ồ, quỷ tha ma bắt cậu đi!” Haukelid hét lên. Anh xông ra khỏi cabin và dành gần như cả đêm bốc khói trong tuyết.
Bất chấp những cuộc tranh cãi này, cả hai đều là những người yêu nước tận tụy, yêu cuộc sống trên núi, đủ cứng rắn và khéo léo để chịu đựng những điều kiện tồi tệ nhất. Trong khi Haukelid có thể là người hay bốc đồng thì sự bình tĩnh của Skinnarland đóng vai trò là lực cân bằng. Hơn bất cứ điều gì, họ tin tưởng nhau vì sự sống còn của họ.

Skinnarland và Haukelid bên ngoài Bamsebu
Ngày 29 tháng 1 năm 1944, Skinnarland nhận được tin nhắn khẩn cấp từ Tronstad. Ông ta vừa nhận được một số tin tình báo đáng lo ngại từ Stockholm và ông cần Skinnarland xác nhận tính chính xác của nó. “Có thông tin cho rằng các thiết bị xử lý nước nặng tại Vemork sẽ được tháo dỡ và vận chuyển về Đức. Nếu điều đó là sự thật thì liệu có khả năng ngăn cản việc vận chuyển này không? Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng.”
*
Cùng ngày hôm đó tại Vemork, kỹ sư xây dựng Rolf Sørlie đang hỗ trợ nỗ lực chiến tranh bằng cách trì hoãn việc xây dựng lại nhà máy. Vào buổi chiều, Thor Viten, lãnh đạo Milorg ở Rjukan, đến thăm anh. Sørlie cảm thấy phấn khích trước chuyến thăm: có lẽ cuối cùng cơ hội của anh cũng đã đến.
Mặc dù cuộc đột kích của Mỹ đã cướp đi sinh mạng của một số người, nhưng Sørlie và nhiều người khác ở Rjukan hiểu được sự cần thiết của nó. Rõ ràng, người Đức đã đầu tư rất nhiều vào những gì Vemork đang sản xuất, và trong thời chiến, người ta đánh kẻ thù vào nơi gây tổn thương nặng nề nhất. Cũng có tin đồn rằng các nhà khoa học Đức Quốc xã đã sử dụng nước nặng làm chất xúc tác để tách nguyên tử và có khả năng tạo ra bom. Những tin đồn này được củng cố bởi một số bài viết giật gân trên các tờ báo Thụy Điển được nhập lậu vào nước này, trong đó mô tả Vemork là một “lò rèn vũ khí bí mật” để tạo ra “một quả bom nguyên tử có thể san bằng London.”
Giống như Sørlie, hầu hết các công nhân được giao nhiệm vụ tái thiết đều tin rằng họ hoàn thành công việc càng sớm thì quân Đồng minh sẽ gửi một đợt máy bay ném bom khác càng sớm. Lần oanh tạc tiếp theo có thể nhắm vào con đập ở Hồ Møs, làm ngập Rjukan trong vòng chưa đầy một giờ, đó sẽ là một thảm họa. Các khẩu đội phòng không mới và lưới ngư lôi của Đức ở con đập chỉ củng cố thêm nỗi sợ hãi này. Kết quả là không có công nhân địa phương nào quan tâm đến việc hoàn thiện việc tái thiết. Trong khi sự phản kháng thụ động như vậy là quan trọng, Sørlie muốn trở thành một phần của cuộc đấu tranh lớn hơn, giống như người bạn Helberg của mình. Biên tập một số tờ báo bất hợp pháp, cất giấu một số đài phát, chuyển tải một ít thông tin tình báo, những điều này không còn đủ thỏa mãn anh. Anh muốn được đào tạo. Anh muốn chiến đấu. Anh chưa hề cho phép tình trạng khuyết tật về thể chất ngăn cản mình khỏi tham gia những cuộc phiêu lưu trong rừng khi còn là một cậu bé. Điều đó sẽ không ngăn cản anh bây giờ.
Viten bảo Sørlie lên Hồ Møs cùng anh ấy và mang theo ván trượt. Sau giờ làm việc, họ bắt xe buýt đến hồ rồi bắt đầu băng qua bề mặt hồ đóng băng. Gió thổi mạnh đến nỗi Sørlie phải quay đầu sang một bên để thở. Muốn cho Viten thấy rằng mình có thể tự xử lý tốt như bất kỳ ai trên núi, Sørlie đã nỗ lực để theo kịp.
Sau vài dặm, họ đến trang trại của Hamarens. Ở đó họ tận hưởng một bữa ăn thịnh soạn trước khi được đưa về một căn nhà gỗ cách đó vài trăm thước để nghỉ qua đêm. Cả Hamarens và Viten đều không giải thích cho Sørlie lý do tại sao đưa mình đến đó, nhưng anh nghi ngờ đó là để gặp Einar Skinnarland, người mà anh biết đang ẩn náu trong khu vực. Vào sáng sớm, những nghi ngờ của anh đã được chứng minh là đúng khi Skinnarland đến căn nhà gỗ. Skinnarland muốn biết liệu tin nhắn gần đây anh nhận được từ London có phải là sự thật hay không: Phải chăng người Đức đang lên kế hoạch tháo dỡ nhà máy nồng độ cao và chuyển nó ra khỏi đất nước? Sørlie đã xác nhận rằng đúng như vậy, nhưng trước tiên họ sẽ vận chuyển lượng nước nặng dự trữ hiện có. Skinnarland thúc giục Sørlie tìm hiểu càng nhiều càng tốt về chuyến vận chuyển sắp xảy ra: họ có thể cần phải chặn đứng nó lại. Cuối buổi sáng hôm đó, Sørlie quay trở lại Rjukan, cuộc hành trình trở nên dễ dàng hơn nhờ sự phấn khích của anh khi cuối cùng cũng được tham gia một nhiệm vụ quan trọng. Anh không hề biết rằng mình sẽ trở lại trang trại sớm hơn nhiều so với dự đoán.

Rolf Sørlie, thành viên kháng chiến Rjukan
26
Năm kí cá
VÀO NGÀY 1 THÁNG 2 NĂM 1944, một người đưa tin của Milorg đã đến Rjukan với tin tức rằng Thủ tướng bù nhìn Na Uy muốn huy động 75.000 người Na Uy chiến đấu cho người Đức tại Mặt trận phía Đông. Milorg đã kêu gọi tất cả các thành viên trong khu vực, trẻ và già, hãy đi vào núi trốn. Trong ba tháng qua, một loạt các vụ bắt giữ của Gestapo ở Rjukan, Notodden và Kongsberg hủy diệt các tổ chức ngầm. Milorg không thể để mất thêm nhiều chiến bình hơn nữa.
Đêm hôm đó, Sørlie, người vừa trở về từ trang trại của gia đình Hamarens, đã gặp những kháng chiến quân tại một ngôi nhà trong thị trấn. Mọi người đã quyết định: vào buổi sáng, họ sẽ đến các căn nhà gỗ trên núi, mang theo đủ thức ăn để dùng trong ít nhất một tuần. Mối nguy hiểm đã rõ ràng. Bọn Đức sẽ không quên ghi nhận sự biến mất của khoảng hai trăm đến ba trăm người, nhiều người trong số họ làm việc cho Norsk Hydro. Đội tuần tra chắc chắn đã được cử đi tìm họ. Nếu đến nước phải chiến đấu, họ chỉ được trang bị một ít súng và lựu đạn tự chế chứa đầy thủy tinh và đinh.
Mệnh lệnh từ Oslo rất rõ ràng, nhưng có khả năng đó là một thủ đoạn của Đức Quốc xã nhằm xóa bỏ các ổ kháng chiến ngầm. Viten yêu cầu Sørlie tìm Skinnarland để nhờ London xác nhận lại lệnh rút lẻn núi. Sørlie vui vẻ đi; anh ấy có thêm thông tin để cung cấp cho Skinnarland trên Vemork. Một số công nhân đã phát hiện ra chất béo trôi nổi trong các tế bào nồng độ cao – một kết quả của việc Gunnar Syverstad bỏ dầu gan cá thu vào nước nặng. Bất kỳ sự phá hoại nào như vậy nữa sẽ gây ra rủi ro quá lớn. Hơn nữa, Sørlie vẫn chưa biết khi nào hoặc bằng cách nào các thùng nước nặng sẽ được di chuyển khỏi nhà máy, nhưng Syverstad và Kjell Nielsen, người quản lý vận tải, những người mà Sørlie đã tuyển dụng vào lực lượng kháng chiến Rjukan ở địa phương, sẽ sớm phát hiện ra. .
Ngày hôm sau, Sørlie quay lại trang trại Hamaren và đến nơi vào buổi chiều muộn. Như lần trước, Jon Hamaren mời anh vào dùng bữa, sau đó dẫn Sørlie băng qua bóng tối vào vùng đồi. Địa hình ngày càng dốc hơn và gồ ghề hơn theo từng phút trôi qua. Cuối cùng họ đến được một trang trại. Sørlie nghĩ rằng.mình đã đến chỗ ở của Skinnarland, nhưng anh lại được Olav Skindalen chào đón Skindalen mời họ cà phê và sau một lúc nghỉ ngơi, họ tiếp tục đi vào vùng hoang dã.
Cuối cùng họ đến căn nhà gỗ của một thợ săn già ngập chìm trong bóng tối. Hamaren gõ mạnh cửa và một ánh sáng lóe lên từ bên trong. Skinnarland xuất hiện ở ngưỡng cửa và chào đón Sørlie và Hamaren đến Nilsbu. Sàn nhà được trải bằng da tuần lộc; có một dãy súng trường treo trên tường và một bộ thiết bị vô tuyến trên chiếc bàn giữa phòng. Sørlie trình bày báo cáo của mình về Milorg và nước nặng. Chẳng bao lâu sau Skinnarland đã gửi tin nhắn cho Tronstad và Wilson. Mong rằng sẽ sớm nhận được phản hồi.
Hamaren rời bỏ họ và quay trở lại sườn đồi, còn Sørlie nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, kiệt sức sau cuộc hành trình. Khi Sørlie thức dậy vào sáng hôm sau, Skinnarland đã cạo râu và mặc quần áo mới. “Anh luôn giữ nơi này đẹp gọn thế này à?” vị khách của anh hỏi, ngắm nhìn cabin ngăn nắp.
“Đúng,” Skinnarland trả lời. “Nếu là chuồng lợn thì tôi đã phát điên rồi. Nếu vô trật tự, vô tổ chức, cậu sẽ mất khả năng nhìn rõ mọi việc.” Skinnarland sau đó nói về những Hamaren và những Skindalen, họ quan trọng như thế nào đối với sự sống còn của mình. Anh nói: “Qua nhiều thế hệ, những người nông dân này đã học được rằng con người nhỏ bé như thế nào khi đối mặt với sức mạnh của thiên nhiên. Trở nên hữu ích, không có ý nghĩ phản bội, là điều cần thiết khi cậu sống ở một nơi như thế này. Điều đó đã ăn vào máu của họ.”
Cuối cùng cũng có câu trả lời về lệnh điều động. Không ai ở London biết về bất kỳ mệnh lệnh nào từ ban lãnh đạo Milorg ở Oslo về việc rút lui vào núi. Chắc chắn có sai sót nào đó; hoặc người Đức đang tìm cách dụ họ ló mặt ra. Tronstad chỉ thị cho Skinnarland đảo ngược mệnh lệnh ngay lập tức. Thông điệp thứ hai nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm hiểu mọi thứ về chuyến hàng nước nặng. Sørlie quay trở lại Rjukan hai mươi dặm nhanh nhất có thể.
*
Ba ngày sau, Chủ nhật, ngày 6 tháng 2, Knut Haukelid đang trở về Nilsbu từ vùng núi phía tây, tức giận vì một đàn tuần lộc đã trốn thoát khỏi anh sau khi súng trường của anh không bắn được. Khi đi xuống Hồ Møs, anh phát hiện ra một số đường trượt trên mặt tuyết. Số đường trượt có nhiều hơn lẽ ra phải có vào thời điểm đó trong năm. Thận trọng, anh quay trở lại con dốc và đi theo đường dốc cho đến khi đến gần trang trại Hamaren. Jon Hamaren mở cửa nói: “Cậu có gặp họ không?
Hamaren giải thích: “Cách đây không lâu, có 15 tên ở đây. Bọn lính Đức đang càn quét các ngọn đồi.”
Haukelid nhanh chóng lao tới Nilsbu, luôn để mắt tới quân Đức. Khi anh đến căn nhà gỗ, bộ râu đen của anh gần như tê cứng vì lạnh. Bên trong, Skinnarland đi cùng một người lạ, một người đàn ông có vẻ ngoài nhu mì mà anh giới thiệu là Rolf Sørlie, một kỹ sư xây dựng đến từ Rjukan. Anh ấy đã giúp đỡ Helberg trước chiến dịch Gunnerside.
Skinnarland dọn ra một bữa ăn và một ít cà phê khi họ ngồi lại nói chuyện. Sørlie báo cáo rằng mệnh lệnh Milorg đã được đảo ngược, nhưng không lâu trước khi nhiều kháng chiến đã lên đồi. Liên lạc ban đầu là có giá trị, nhưng người đưa tin Milorg đã quẻn thông báo rằng việc sơ tán chỉ nên được thực hiện nếu lệnh động viẻn có hiệu lực. Cuộc tuần tra của Đức mà Haukelid đã tránh được trong gang tấc có thể là một phản ứng đối với đoàn người chạy trốn này. Tuy nhiên, theo những gì Sørlie biết, quân Đức cho rằng đây không phải là một cuộc rút lui có tổ chức mà là một cuộc trốn chạy hấp tấp vào núi bởi những người dân Rjukan sợ bị đưa đến Mặt trận phía Đông.
Haukelid ít quan tâm đến các cuộc tuần tra của Đức Quốc xã trên Vidda hơn đến thông tin tình báo của Sørlie về hoạt động gần đây ở Vemork. Đức Quốc xã có ý định di chuyển tất cả trữ lượng nước nặng, ở mọi nồng độ, trong vòng một tuần. Các thùng chứa sẽ được vận chuyển từ Vemork bằng tàu hỏa, sau đó bằng phà. Haukelid và Skinnarland biết họ phải làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn điều đó. Với thời gian có hạn và không có đội biệt kích sẵn sàng, một chiến dịch sẽ không hề dễ dàng. Skinnarland gửi một tin nhắn tới Tronstad: “Có lẽ chúng ta nên cho nổ tung phương tiện vận tải, nhưng vì thời gian có hạn nên tôi phải được thông báo sớm nhất phải làm gì.”
Sørlie quay lại Rjukan để thu thập thêm thông tin về chuyến đi. Trong khi đó, Haukelid và Skinnarland bắt đầu thu thập chất nổ và lựa chọn một đội mà họ biết có thể giúp đỡ. Điều họ cần hơn bất cứ điều gì khác là mệnh lệnh tiến hành.
*
Sau một tuần dài ngày ở Kingston House, sau đó là những đêm dài trong phòng ngủ lắng nghe tiếng máy bay ném bom Đức ầm ầm trên bầu trời London, Leif Tronstad chỉ muốn dành buổi chiều Chủ nhật của mình để nghỉ ngơi. Có lẽ ông sẽ đọc sách, đi dạo ở Hampstead Heath hoặc viết thư cho gia đình. Rồi ông nhận được một cuộc điện thoại từ một nhân viên của mình. Ông phải khẩn cấp đến văn phòng. Tại đây, ông nhận được tin nhắn mật mã từ Skinnarland, yêu cầu được tiếp tục phá hoại chuyến vận chuyển Vemork.
Trong tuần qua, ông đã gửi rất nhiều câu hỏi để Skinnarland giải đáp: Những thiết bị nào bị tháo dỡ? Bao nhiêu nước nặng bị chuyển đi? Nồng độ bao nhiều? Liệu trước tiên họ có thể làm ô nhiễm nó hay không? Khi nào việc vận chuyển được lên kế hoạch? Có thể ngăn chặn được không? Và nếu vậy phải làm thế nào?
Bây giờ Tronstad đã có tất cả câu trả lời của mình. Thời kỳ làm ô nhiễm đã qua và mọi cơ hội can thiệp vào nước nặng đều đã được tận dụng. Việc vận chuyển sắp xảy ra và bao gồm cả nước nặng loãng nhất. Lô hàng sẽ nặng nhiều tấn và cần khoảng bốn mươi thùng phuy. Ngay lập tức. Tronstad đã báo động cho Đại tá Wilson và Eric Welsh. Một cuộc tấn công vào lô hàng cần có sự chấp thuận ở cấp cao nhất.
Cuối cùng, tất cả mọi người từ Tướng Hansteen ở Bộ chỉ huy cấp cao Na Uy đến Nội các Chiến tranh Anh đều đồng ý rằng nên tiến hành một cuộc đánh phá. Khi Welsh báo tin này cho Michael Perrin và ông chủ John Anderson của mình, họ đã rất thất vọng trước lượng nước nặng còn lại quá nhiều ở Vemork sau vụ ném bom ồ ạt của Mỹ và cho rằng điều quan trọng đối với nỗ lực chiến tranh là ngăn chặn quân Đức có được kho dự trữ hoặc thiết bị cần thiết để sản xuất nhiều hơn. Cuối cùng, lệnh được đưa ra bởi chính Anderson phải chặn chuyến hàng, bất kể nó xảy ra như thế nào.
Vào ngày 8 tháng 2, Tronstad soạn thảo một thông điệp được người điều hành Trạm Chính gửi tới Chim Én trong lần chuyển tiếp theo như ấn định: “Chúng tôi quan tâm đến việc tiêu hủy càng nhiều nước nặng càng tốt. Việc phá hủy hoặc làm thủng các thùng, đặc biệt là các thùng chứa nồng độ cao, có tầm quan trọng lớn nhất… Để lại các dấu ấn của Anh ở nơi hoạt động diễn ra và nếu có thể hãy sử dụng quân phục như trước đây… Cố gắng thực hiện hành động để ít gây tổn hại nhất cho người dân.”
Trong nhật ký của mình, Tronstad băn khoăn không biết kết quả sẽ ra sao: “Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức nhưng trong lòng nặng trĩu hậu quả ở quê nhà. Tôi sợ nó sẽ gây ra nhiều đau khổ, nhưng chúng tôi phải hy vọng rằng nó sẽ cứu chúng tôi khỏi những điều tồi tệ hơn. Các chàng trai thật xuất sắc. Họ rất vui khi được cống hiến mọi thứ.”
*
“Einar, cậu tỉnh rồi à?” Haukelid hỏi vào đêm khuya ngày 7 tháng 2. Họ vẫn đang chờ đèn xanh từ London cho cuộc tấn công, và ý nghĩ về điều đó khiến anh không ngủ được.
“Tôi chưa tỉnh thì cậu đã bắt đầu gầm lên,” Skinnarland trả lời.
“Bây giờ cậu nhanh tay như bất kỳ ai ở Na Uy đang giữ máy điện đài của Anh.”
Skinnarland càu nhàu.
“Cậu sẽ phải ở lại trên đồi khi máy phát kết nối với London.”
“Chưa chắc lắm,” Skinnarland nói. Đúng là anh không được huấn luyện đặc công nhiều như Haukelid, nhưng anh còn khá hơn bất cứ ai khác họ có thể tìm được để hỗ trợ trong công việc.
“Nếu chúng tôi chết,” Haukelid nói, “cậu sẽ phải đi xuống và tận mắt thấy dòng nước nặng không bao giờ tới được Đức.”
“Tôi sẽ suy nghĩ lại,” Skinnarland nói.
Sáng hôm sau, họ nhận được tin nhắn khẩn thiết từ Tronstad yêu cầu “ra tay” với lô hàng.
Sørlie quay lại cabin ngay sau đó, với thông tin chi tiết từ Nielsen về tuyến đường vận chuyển. Hơn nữa, Syverstad đã tuyển dụng ông xếp của mình, kỹ sư trưởng của nhà máy Alf Larsen, vào nhóm. Từ những gì Larsen nói, Gestapo đã biết rằng lô hàng có thể là mục tiêu. An ninh cho việc vận chuyển vì vậy sẽ được thắt chặt hơn nữa. Syverstad và Larsen sẽ rút nước nặng cho vào thùng càng chậm càng tốt để có thêm thời gian chuẩn bị cho hoạt động.
Ngồi vào bàn ở Nilsbu, Skinnarland, Haukelid và Sørlie bắt đầu cái mà họ gọi là “hội đồng chiến tranh”. Từ tình báo của mình, họ biết rằng một chuyến tàu sẽ rời Vemork với khoảng bốn mươi thùng phuy trên các toa tàu. Các thùng sẽ được dán nhãn “dung dịch kiềm kali” nhưng sẽ chứa nước nặng ở nhiều mức nồng độ khác nhau (từ 3,5 đến 99,5%). Có tính đến chuẩn bị an ninh của Đức và những nỗ lực bên trong nhằm trì hoãn việc đổ đầy thùng, chuyến tàu này khó có thể khởi hành trước ngày 16 tháng 2. Khi khởi hành, nó sẽ đi xuống Rjukan, sau đó đến Mæl ở mũi phía tây bắc của Hồ Tinnsjø. Từ đây một chiếc phà sẽ đưa các toa tàu đi dọc theo chiều dài của hồ nước dài và hẹp. Ở bờ đối diện, cách đó mười tám dặm, một chuyến tàu khác sẽ chở chúng đi một đoạn ngắn tới Notodden, sau đó tới cảng Menstad để gặp một con tàu khác đi Đức.
Ba người đàn ông bàn bạc về những lựa chọn của mình. Đầu tiên họ có thể thử cho nổ tung các thùng chứa khi chúng vẫn còn ở Vemork. Với tất cả các biện pháp phòng thủ bổ sung được bố trí sau vụ Gunnerside, nên lính biệt kích khó lòng đột nhập vào nhà máy. Tiếp theo, họ có thể đánh vào con tàu khi nó đang lao xuống vách đá để đến Rjukan. Có một căn lều dọc tuyến đường nơi Norsk Hydro cất giữ chất nổ dùng để xây dựng. Khi đoàn tàu đi qua, họ có thể sử dụng công tắc áp suất trên đường ray để kích hoạt một vụ nổ lớn có thể khiến những toa tàu lao xuống hẻm núi. Tuy nhiên, những thùng phuy chứa nước nặng này rất dày và một số chúng có thể không hề hấn gì sau cú rơi. Một cuộc tấn công như vậy cũng sẽ giết chết bất kỳ tên lính Đức nào bảo vệ việc vận chuyển- những cái chết này sẽ được trả thù bằng sinh mạng của người dân Rjukan.
Ngoài ra, họ có thể đợi cho đến khi các toa tàu được chất lên phà rồi đánh chìm nó. Với độ sâu của Hồ Tinnsjø, khó có khả năng trục vớt được thùng phuy nào. Nhưng chiếc phà cũng chở những hành khách dân sự, và một số họ chắc chắn sẽ chết đuối, cùng với những lính Đức canh gác toa tàu chứa nước nặng. Họ cũng có thể tấn công con tàu khi nó đi từ bờ biển xa tới Notodden, nhưng điều này mang lại rủi ro tương tự như việc đánh vào nó giữa Vemork và Rjukan. Hoặc một chiến dịch có thể được tổ chức gần Menstad, hoặc trên biển, trên đường đến Hamburg, Đức. Tuy nhiên, cả hai lựa chọn cuối cùng này đều ở xa quê hương của họ và chứa nhiều ẩn số.
Vào cuối hội đồng chiến tranh, họ đã quyết định rằng đánh chìm chiếc phà là cách tốt nhất để dừng chuyến hàng, bất chấp nguy cơ thiệt hại về nhân mạng. Họ cũng đồng ý rằng Skinnarland sẽ ở lại Nilsbu để giữ liên lạc với London và sẵn sàng yểm trợ khi hoạt động diễn tiến. Haukelid và Sørlie sẽ bố trí trong một căn nhà gỗ gần Rjukan để tổ chức và thực hiện hoạt động.
Sáng hôm sau, Sørlie rời thị trấn với nhiệm vụ tìm hiểu càng nhiều càng tốt về chiếc phà: lịch trình, sơ đồ và bất kỳ biện pháp an ninh nào đã biết. Trở lại Nilsbu, Skinnarland gửi tin nhắn xin chấp thuận cho phương án đánh chiếc phà. Anh cảm thấy bị áp lực khi nghĩ rằng quyết định của họ đồng nghĩa với cái chết của người dân Na Uy vô tội. Trong khi họ chờ đợi câu trả lời, Haukelid đi thu thập chất nổ được cất giữ ở Bamsebu, còn Skinnarland đi tuyển một số người địa phương để vận chuyển vật tư và có thể sẽ tham gia vào chiến dịch.
Khi ba người gặp lại vào tối hôm sau, họ đã nhận được sự cho phép của Tronstad. “Đồng ý đánh chìm phà… Nên mở van xả của tàu kết hợp với mìn hẹn giờ gắn vào vỏ tàu từ bên ngoài… Động cơ phải ngừng hoạt động để phà không thể chạy tiếp đến vùng nước nông… Việc đánh chìm tàu không được thất bại… Chúc may mắn.”
Nhờ nỗ lực của Syverstad và Larsen trong việc làm chậm lại việc chiết nước nặng vào thùng để vận chuyển, chiếc phà chắc chắn sẽ không rời bến cho đến ít nhất là ngày 16, có thể là muộn hơn. Bây giờ họ đã có thời gian, Haukelid quyết định cho Sørlie một khóa học cấp tốc về huấn luyện đặc công. Trong hai ngày trời quang đãng, anh đã dạy Sørlie cách bắn súng lục và súng máy. Sørlie luyện tập cho đến khi trời tối, sử dụng mục tiêu là người tuyết. Haukelid cũng chỉ cho anh ấy cách ném lựu đạn và những điều cơ bản về chiến đấu tay đôi. “Anh phải biết tất cả,” anh nói với học viên mới mỗi khi anh chàng dao động. “Cậu phải cứng rắn.” Anh nhấn mạnh điều này bằng cách ném Sørlie vào một bờ tuyết.
Quá trình đào tạo đã giúp Haukelid quên đi vợ mình, Bodil, người đang ở Thụy Điển. Sørlie đã mang cho anh một lá thư của cô. Rõ ràng là cô đã cố gắng liên lạc với anh trong nhiều tháng, nhưng không ai trong chính phủ Na Uy hay Đại sứ quán Anh giúp đỡ cô. Tin rằng anh là một thành viên có tham gia hoạt động ở Rjukan, cô ấy đã gửi lá thư của mình qua Milorg. Cô nói đã quá nhiều thời gian trôi qua mà không liên lạc được. Sự vắng mặt quá kéo dài, và đám cưới của họ ngay từ đầu đã diễn ra vội vã. Cô ấy đang hẹn hò với một người đàn ông khác ở Stockholm và cô ấy muốn ly hôn.
Bức thư là một đòn giáng mạnh vào Haukelid. Anh chưa bao giờ hối hận vì quyết định chiến đấu chống lại quân Đức, nhưng cuộc đời binh nghiệp của anh đã phải trả giá. Anh đã phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm. Anh đã chết đói, anh gần như chết cóng, anh gần như bắn đứt bàn chân mình. Nhiều người bạn của anh, trong số đó có những người thân thiết, đã chết. Mẹ anh đã bị Gestapo đưa đi thẩm vấn; cha anh đang nằm trong tay họ và theo những gì Haukelid biết, ông vẫn đang bị tra tấn. Và bây giờ là chuyện buồn này.
Khi nhận được lá thư, anh yêu cầu Skinnarland gửi một tin nhắn đến London, yêu cầu nghỉ phép ba tuần sau chuyến đánh phà để anh có thể đến Stockholm và cố gắng hòa giải với Bodil. Ngay cả khi được cấp trên đồng ý, anh vẫn còn phải cố sống sót sau chiến dịch, và đây là điều chưa chắc sẽ xảy ra.
Trong nhiệm vụ Gunnerside, đến nay đã gần một năm, Haukelid đã ở cùng đội với 9 lính biệt kích dày dặn kinh nghiệm khác. Họ đã được huấn luyện trong nhiều tháng và biết hầu hết mọi chi tiết về mục tiêu cũng như cách phòng thủ của địch. Trong hành động mới chống lại chiếc phà này, anh sẽ tham gia cùng với Sørlie dũng cảm nhưng thiếu kinh nghiệm và bất kỳ nhóm người ô.hợp nào mà anh có thể chiêu mộ được. Bọn Đức đang trong tình trạng báo động cao nhất, và anh có thể sẽ phải ứng biến một kế hoạch khi các sự kiện diễn ra. Sẽ chỉ có một khoảng thời gian ngắn để tiêu diệt mục tiêu đồng thời hạn chế thương vong, và nếu có người vô tội chết, anh sẽ mang theo gánh nặng đó trong suốt quãng đời còn lại – đó là nếu bản thân anh sống sót.
*
Vào ngày 13 tháng 2, Haukelid và Sørlie trượt tuyết khỏi Nilsbu trong cơn gió tây nam gay gắt. Skinnarland vẫy tay chào tạm biệt họ từ cửa. Anh ước mình được đi cùng họ, nhưng tất cả họ đều biết rằng anh có giá trị hơn vì là huyết mạch của họ nối với London trong suốt chiến dịch sau đó, nếu mọi việc trở nên tồi tệ.
Olav Skindalen gặp họ tại trang trại của ông cùng với hai người đàn ông địa phương: Karl Fehn, người đã giúp đỡ Poulsson và Đội Chim Én vận chuyển pin và thiết bị suốt mùa đông dài năm 1943, và Aslak Neset, một chủ trang trại chưa lập gia đình, khỏe như một con la. Lo sợ quân Đức tuần tra, cả bốn đợi đến sau nửa đêm mới vượt qua Hồ Møs và leo lên Vidda. Nguồn cung cấp nặng nề của họ bao gồm thuốc nổ, ngòi nổ và đủ lương thực trong mười ngày.
Sørlie dẫn họ vượt qua màn đêm đen kịt. Anh lần lượt nhìn vào la bàn và đồng hồ để dò xem họ đang ở đâu trên đường đi. Bốn giờ sau, anh đến dược bức tường của một tòa nhà và biết rằng mình đã đến nơi: cabin của Ditlev Diseth bên Hồ Langesjå. Cánh cửa bị khóa và Haukelid dùng cưa sắt để đột nhập. Một trận mưa đá băng giá bắt đầu rơi. Họ thức dậy vào buổi trưa ngày hôm sau và bên ngoài ánh mặt trời phản chiếu sắc nét trên lớp tuyết mới rơi.
Haukelid tin rằng hoạt động này cần ba người: một người canh gác và hai người đặt chất nổ hẹn giờ trên phà. Fehn tình nguyện làm người đàn ông thứ ba của họ và Neset quay trở lại trang trại của mình. Vào lúc chạng vạng, với Sørlie lại dẫn đường, họ di chuyển đến một túp lều gần nhà ga trên cùng ở Krossobanen, nép mình trong khe núi hẹp rậm rạp. Đó là nơi ẩn náu lý tưởng để di chuyển tới Rjukan.
Ngày hôm sau, 15 tháng 2, Haukelid và Sørlie leo xuống vách núi phía bắc của Thung lũng Vestjord vào thị trấn, nơi họ gặp Diseth, một công chức hưu trí đã tham gia cuộc kháng chiến ngay từ đầu và đã từng ở trong nhà tù Gestapo sau cuộc tấn công bằng tàu lượn thất bại vào tháng 11 năm 1942. Ông đề nghị giúp đỡ họ bằng mọi cách có thể.
Vào đầu buổi tối, Haukelid và Sørlie đi đến một căn hộ nơi họ gặp Gunnar Syverstad và Kjell Nielsen. Bốn người quyết định rằng ngày tốt nhất để tấn công chiếc phà sẽ là chủ nhật, ngày 20 tháng 2. Ngày hôm đó chỉ có một chuyến phà, điều đó có nghĩa là họ sẽ biết chính xác nơi có nước nặng và khi nào. Hơn nữa, sẽ có ít hành khách trên phà hơn. Nielsen và Syverstad có thể trì hoãn việc vận chuyển cho đến ngày đó, dù không dám đảm bảo nhưng sẽ cố gắng hết sức. Họ cũng cảnh báo Haukelid và Sørlie rằng một số đặc vụ Gestapo đã đến thị trấn và dự kiến sẽ có một tiểu đoàn quân xung kích tinh nhuệ. Một loạt binh sĩ khác cũng vừa đến Rjukan, bề ngoài là để huấn luyện trên núi, và hai máy bay Đức sẽ càn quét khu vực này hàng ngày trước chuyến hàng.
Cả Nielsen và Syverstad đều thúc đẩy nên tạm dừng hoạt động. Người dân Na Uy có thể sẽ chết và người dân địa phương sẽ bị trả thù. Bất chấp hàng nghìn lít nước nặng đã được vận chuyển, cả hai đều không tin rằng quân Đức sẽ đạt được tiến bộ nào trong việc làm sạch chúng mà không cần điện phân. Haukelid lắng nghe và đồng ý truyền đạt sự dè dặt của họ tới các ông xếp của anh ở London. Họ sẽ có lời sau cùng.
Khi cuộc họp kết thúc, Haukelid và Sørlie gửi một bức thư mã hóa tới Skinnarland qua tin nhắn. Nó bao gồm một bản tường thuật ngắn gọn về cuộc họp và một lần nữa yêu cầu Tronstad xác nhận “tầm quan trọng của hoạt động” có nhiều rủi ro này. Họ quay trở lại nơi ẩn náu trong khe núi và phát hiện ra rằng Fehn đã biệt tăm. Sørlie lên đường đi tìm anh ta nhưng chẳng mấy chốc kết luận rằng người thứ ba này đã bỏ rơi họ, vì sợ hãi hay không muốn tham gia nhiệm vụ. Anh và Haukelid đều biết rằng họ sẽ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm người khác phù hợp với nhiệm vụ này.
Sau bữa tối hôm đó, Sørlie lấy ra một chai rượu aquavit mà Diseth đã đưa cho mình trước đó và anh biết rằng Haukelid chắc chắn có thể uống được. Họ ngồi bên đống lửa và uống hết ly này đến ly khác. Haukelid kể cho Sørlie câu chuyện về mối tình của anh với Bodil, những khoảng thời gian vắng bóng dài ngày và niềm tin rằng giá như anh có thể gặp được cô, anh sẽ sẽ có thể cứu vãn cuộc hôn nhân của họ. Đến cuối đêm thì chai rỗng. Nỗi đau khổ của Haukelid đã phần nào vơi đi; và anh và Sørlie ngày càng hiểu nhau cũng như quyết tâm cả hai phải hoàn thành sứ mệnh này.
*
Một trận tuyết rơi dày đặc bên ngoài Nilsbu vào ngày 16 tháng 2 khi Skinnarland liên lạc với Trạm Chính và gửi tin nhắn của Haukelid. Đến lần hẹn gặp tiếp theo, anh nhận được câu trả lời: “Sự việc đã được xem xét và quyết định rằng việc tiêu hủy nước trái cây là rất quan trọng. Hy vọng nó có thể được thực hiện mà không gây bất hạnh quá lớn. Chúng tôi gửi những lời chúc tốt đẹp nhất cho công việc thành công.” Skinnarland không thích mệnh lệnh này: điều đó có nghĩa là người dân Na Uy vô tội sẽ chết. Với lương tâm bứt rứt, anh chuyển một thông điệp được mã hóa cho Hamaren, Hamaren mang nó đến Jon Hovden, Jon Hovden chuyển đến nơi ẩn náu của Haukelid phía trên Rjukan. Cụm từ “Mười kí cá” có nghĩa là không có hoạt động nào. “Năm kí cá” là bật đèn xanh
Không còn lựa chọn nào khác, Skinnarland gửi năm kí cá.