Chuyến đi đến Đàng Trong trong các năm 1792 và 1793- Sir John Barrow (Bài 1)

 Tác giả: Sir John Barrow

Hồ Bạch Thảo dịch

      Tiểu sử tác giả:

Sir John Barrow sinh ngày19 tháng 6 năm 1764 tại Dragley, Lancashire nước Anh, mất ngày 23 tháng 11 năm 1848; là nhà văn, nhà địa lý, ngôn ngữ học và công chức. Ông từng theo Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Anh, George Lord Macartney, đến thăm Bắc Kinh, yết kiến Vua Càn Long. Sir John Barrow cho biết trong dịp này, từng làm quen với Phúc Khang An, nhân vật liên quan đến lịch sử Việt Nam thời Vua Quang Trung. Ông được biết đến nhiều nhất với chức vụ Bí thư thứ hai bộ hải quân Anh từ năm 1804 đến năm 1845.

Hạm đội chở sứ bộ Anh trên hải trình đến Bắc Kinh, thủy thủ bị bệnh nhiều; nên phải ghé vào đảo Côn Lôn, rồi đến Đà Nẵng vào mùa xuân năm 1793 để dưỡng bệnh. Dựa vào những điều mắt thấy tai nghe về nước Nam Việt, Sir John Barrow đã viết quyển sách mang tên A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến đi đến Nam Việt trong các năm 1792 và 1793).

Lời người dịch:

Quyển sách nhan đề A Voyage to Cochinchina in the Years 1792 and 1793 (Chuyến đi đến Nam Việt trong các năm 1792 và 1793) do Cambridge University Press xuất bản tại London năm 1806, gồm 11 chương; nhưng thực sự chỉ có 3 chương 9, 10,11 đề cập đến nước Nam Việt, còn các chương còn lại chép về các vùng khác trên thế giới; nên chúng tôi chỉ dịch 3 chương về Nam Việt mà thôi.

 Như trên đã trình bày tác giả Sir John Barrow dựa vào nghe và nhìn để soạn quyển sách này. Về phần “nhìn”, nhân tác giả từng tháp tùng hạm đội chở sứ bộ Macartney gồm 3 chiếc tàu, dẫn đầu là chiến ham Lion  đến Đà Nẵng vào ngày 24 tháng 5 năm 1793, qua bờ biển Trung Quốc vào tháng 6, đến Bắc Kinh vào tháng 8, yết kiến Vua Càn Long vào tháng 9 năm 1793, đó là cơ hội bằng vàng để tác giả quan sát địa thế, phong tục, tập quán; và sự giao thiệp với chính quyền sở tại; bấy giờ Đà Nẵng, Hội An do nhà Tây Sơn, Nguyễn Quang Toản kiểm sóat.

Phần “nghe” về cuộc chiến nhà Nguyễn và Tây Sơn, bang giao giữa Vua Quang Trung và nhà Thanh, hiệp ước Việt Pháp năm 1787; đều dựa vào hồi ký viết tay của Barissy, Sĩ quan tình báo Pháp, từng chỉ huy một chiếc tàu khu trục giúp Nguyễn Vương Phúc Ánh; hoặc qua sự tiếp xúc với các vị Thừa sai. Tục ngữ ta có câu “Trăm nghe, không bằng một thấy”, thỉnh thoảng những lời “nghe” này có phần xa với chính sử, người dịch xin mạn phép có thêm phần chú thích.

Dịch giả cẩn chí,

Hồ Bạch Thảo

 

 Chương 9. Cochinchina (Nước Nam Việt)

1.Geografical outline Bays and Rivers Suspicious conduct of the natives and cause of it.

(Phác thảo địa lý Vịnh và Sông- Hành vi ngờ vực của người bản xứ và nguyên nhân) 

Nấn ná lâu hơn tại vùng xung quanh xích đạo, trái với dự liệu; trong đoàn có lời khuyên nếu có thể tránh được thì nên lưu ý đến sức khỏe của thủy thủ; nên chúng tôi vui vẻ từ bỏ vùng bờ biển sình lầy Sumatra [Indonesia] và eo biển Banca [Indonesia]. Sau những cố gắng chịu đựng không kết quả tại vịnh đảo Pulo Lingin, vị trí ngay dưới đường xích đạo, chúng tôi không ân hận rời nó, vì rất ít người trong chúng tôi muốn đương đầu với khí hậu cực nóng trên đảo này. Bayer người hiểu về vùng này bảo rằng dòng giống tại đây lan truyền nhanh, không bởi sự giao hợp thường xuyên, nhưng nhờ khí hậu; riêng tôi cho là bởi thụ thai tự phát may mắn tạo thành “niềm mong muốn mạnh mẽ trong thời điểm sinh sản”.

Nhờ thuận lợi của gió mùa ít khi gặp được, và tình trạng đau ốm cần được phục hồi tại bờ, chúng tôi đến đậu tại vịnh trước một hòn đảo nhỏ tên là Pulo Condore [Côn Đảo], vị trí ngay chỗ có thể quan sát rõ đảo này. Những tàu lớn của chúng tôi, là dịp trọng đại xãy ra cho dân nghèo trên đảo, khiến họ sợ hãi chạy vào rừng, để lại những đồ vật ít ỏi phơi bày tại cửa lều và tờ giấy nhỏ viết bằng chữ Nho (1) cầu nguyện; khiến chúng tôi hài lòng cầm lấy và dung tha chỗ ở thấp hèn của họ. Từ đảo này chúng tôi vội vã khởi hành vào một lục địa Á Châu, bấy giờ ít được biết hơn giá trị của nó. Tôi mạo muội tiên đoán rằng thời gian gần sẽ đến, để một vài nước Âu Châu hiểu rõ, trước khi những năm tháng dài trôi qua.

Trong tư liệu sắp xếp về địa lý mới và đáng tin cậy nhất cung cấp cho công chúng về một phần châu Á bao gồm 20 triệu dân, diện tích từ 3 đến 4 trăm ngàn dặm Anh; phi thường về hình dáng, kéo dài giống như một vạch – trên ngòi bút. Ông Pinkerton bảo rằng:

Các vương quốc Laos, Cambodia, Siampa [Thái Lan], Cochinchina [Nam Việt], và Tung Quin [Đông Kinh, Bắc Phần] là những nước không quan trọng với chính họ và nguồn tài vật không hoàn hảo.”

Đối với phần sau của lời khẳng định hời hợt không đủ yếu tố mà tôi đã nêu danh, thực hảo huyền không phù hợp với những nước đã nêu. Hy vọng rằng những tài liệu xác thực tôi sắp sửa đưa ra trước công chúng cho thấy các nước này, hoặc một phần vùng đó, tài vật giá rất rẻ, không những quan trọng đối với chính họ, mà còn có giá trị cao trong thời hiện tại và tương lai của vùng Ấn Độ thuộc Anh. Để phác họa phần lịch sử trong chương này được tốt hơn, thiết tưởng không sai lầm khi đề cập trước nét tổng quát về hoàn cảnh địa lý và phân tích một phần đất lục địa châu Á thường được gọi là Cochinchina.

Vương quốc Trung Hoa về phía nam chấm dứt tại vĩ tuyến thứ 22; nhưng vùng đất nối liền tiếp tục tại phía tây cho đến bắc vĩ tuyến thứ 9. Dọc theo 13 vĩ tuyến này, tại phía giữa là rặng núi chạy dài từ bắc chí nam , chia vương quốc Birman [Miến Điện] về phía tây; và các vương quốc Tung Quin [Đông Kinh, Bắc Phần], Cochinchina [Nam Việt], Tsiompa [Champa, Chiêm Thành] và Cambodia về phía đông. Những tên này ghi trên bản đồ; tuy nhiên ngoại trừ Tung Quin [Đông Kinh, Bắc Phần],  các tên khác dân bản xứ hoàn toàn không biết. Nhóm 3 tên còn được gọi là Annan [An Nam] và phân biệt bằng 3 phần phân cách lớn. Phần thứ nhất vào vùng cực nam, bắt đầu từ vịnh Xiam [Xiêm] nằm tại vĩ tuyến thứ 9 ngược lên đến vĩ tuyến 12 gọi là Don Nai [Đồng Nai]. Phần thứ hai kéo dài từ đó cho đến vĩ tuyến thứ 15, gọi là Chang [Quảng]. Phần thứ ba, giữa chỗ này cho đến vĩ tuyến thứ 17 là nơi Vương quốc Tung Quin [Đông Kinh] bắt đầu, được gọi là Hué [Huế]. Vịnh và cảng thuộc bờ biển của 3 phần này đều an toàn và tiện lợi.

Sông lớn  Don Nai [Đồng Nai] (trên bản đồ Cambodia) (2) tàu lớn có thể hàng hành ngược dòng lên đến 40 dặm Anh [1 dặm =1.609 mét], thành phố Sai Gong [Sài Gòn] đặt tại đó, có một bến cảng rộng rãi và tiện lợi và kho vũ khí lớn cho hải quân. Một người Anh đáp tàu Bồ Đào Nha ngược dòng sông này, trong chuyến hành trình từ Trung Quốc đến Ấn Độ; trình bày với tôi rằng có thể tưởng tượng được đó là một cảnh tượng lớn. Sông này có một vài nhánh, bề ngang ít khi lên đến 2 dặm, còn phần lớn nhỏ hơn 1 dặm, nhưng mọi nơi nước đều sâu, giây thừng trên tàu đôi khi vướng vào rễ cây rừng tỏa bóng trên bờ; hai bên sườn tàu lướt nhẹ bên bờ cỏ xanh tươi.

Vùng Chang [Quảng], tại vĩ độ 13.5 là vịnh và bến cảng Chin Cheo [Thị Nại]; vịnh này rộng rãi và che được mọi thứ gió, nhưng tàu lớn chỉ vào được lúc nước lên, và phải tính đến chướng ngại vật giăng ngang cửa vào hẹp ở phía trong hoặc phía ngoài vịnh. Thành phố Quin Nong [Qui Nhơn] nằm ở đầu vịnh.

Thành phố chính tại vùng Hué [Huế] cũng mang tên Hué [Huế], nằm trên bờ sông lớn, tàu lớn hơi nặng có thể vào được, nhưng có cồn cát ngăn trước cửa sông. Phía nam sông này không xa là vịnh Han San, trên bản đồ thường ghi là Turon [Tourane, Đà Nẵng], về an toàn và tiện nghi nó cung cấp tương đương với một ít bến cảng tại thế giới Đông Phương; nhưng chắc chắn vùng này cũng không có cảng nào vượt qua, nó nằm tại vĩ độ bắc 16.07 .

Chúng tôi hướng cuộc hành trình đến vịnh Turon [Tourane, Đà Nẵng] từ đảo Pulo Condore [Côn đảo]; rồi đến đó vào ngày 24 tháng 5 [1793]. Không có bất cứ đồ biểu nào để dựa vào, và nhận thấy có đông thuyền đánh cá giữa tàu chúng tôi và bờ, bèn đưa một chiếc thuyền đi kiếm người chỉ đường; nhưng những người đánh cá thấy thuyền bèn dương buồm chạy trốn. Cuối cùng thì một chiếc thuyền không buồm đi qua, mang theo một kẻ khốn khổ, mà tôi không dám coi là một đối tượng đáng thương. Cặp mắt anh ta sâu thẳm, da mặt màu nâu gỗ sồi, hốc hác, nhăn nhó; những lọn tóc màu xám nhô lên trong chiếc khăn bẩn quấn trên đầu. Y phục anh gồm một cái áo ngắn với mấy chục miếng vá đủ màu và một cái quần rách. Gặp một con người như vậy, chúng tôi không đánh giá cao mong đợi sự giúp đỡ. Bước vào tàu anh ta bị kích động mạnh, mắt liếc vòng quanh sân tàu, tại khẩu súng lớn; tuy không phiền nhiễu nhiều vì đông người xuất hiện, nhưng anh chú ý nhất là cây cột buồm cao lớn trên thân tàu. Anh ta thường quì xuống, bật khóc. Với vài sự khó khăn lúc đầu, cuối cùng anh cảm nhận được không khí hòa bình; qua tín hiệu bằng tay, hiểu được tại sao anh ta bị mang lên tàu và chỉ con đường vào cảng, không dễ khám phá đối với một kẻ lạ. Thời tiết bây giờ mưa gió, chúng tôi chờ đến chiều ngày hôm sau mới vào.

Tình trạng thương tâm vì đau ốm chuyển sang bệnh sởi mà chúng tôi mắc phải khi ở Batavia [Indonesia] đã lây truyền ra hầu hết các tàu là lý do chính tại sao phải tìm vào Turon [Tourane, Đà Nẵng], sau khi gặp cảnh thất vọng tại Côn Đảo. Hình dung sự thống khổ do viên Thuyền trưởng Bồ Đào Nha kể lại khi tàu ông ta đậu tại vịnh này, rằng phản loạn xãy ra, cả nước Nam Việt lâm vào vòng nội chiến, khiến nước này chịu thảm cảnh bi thương;  ngăn chặn niềm hy vọng tìm được sự phục hồi mà chúng tôi cần đến. Do đó có nhiều sự khuyến cáo chúng tôi đến Macao [Quảng Đông, Trung Quốc] lập tức không chần chừ, còn hơn mong đợi không kết quả về nguồn cung cấp có thể có lời hứa hẹn, nhưng chúng tôi biết chắc rằng không thể đáp ứng.

Tình trạng khổ sở của tên đánh cá già, cùng quang cảnh tổng quát nơi này và những điều chúng tôi thấy, dường như có vẻ xác định nguồn tin không được chào đón của Thuyền trưởng người Bồ, Manuel Duomé. Ít dân bản xứ đến gần tàu, những người đến thì thái độ có vẻ rụt rè và nghi ngờ; khi chúng tôi lên bờ thì họ hình như muốn tránh. Không có đồ cung cấp nào có thể  giúp cho sự phục hồi được mang lên tàu; khó khăn lắm chúng tôi mới tìm ra một vài gia cầm, ít trái cây và rau củ trên bờ. Ngày thứ hai thì chợ bày hàng tốt hơn; rồi trong vài ngày tới khi dân bản xứ biết rằng hàng hóa có thể bán với giá hời họ muốn và thu nhiều tiền;  thì  gia súc, rau, trái cây được cung cấp dồi dào. Người đứng đầu nơi này bắt đầu xuất hiện, có vẻ như một viên chức dân sự, chú ý đến lời yêu cầu của chúng tôi. Họ còn lên thăm tàu; trong ngày thứ tư, thứ năm tuyên bố do sự thuận tiện, bữa cơm tối hàng ngày được tổ chức trên bờ, các vị này và Sĩ quan chọn lựa thuộc hạm đội tham dự.

Sự giao dịch giữa chúng tôi trở nên liên tục và thoải mái, xây đắp sự tin cậy lẫn nhau, dọi ánh sáng về sự không đáng tin cậy ông bạn Manuel Duomé. Tay thương gia Bồ Đào Nha này, với tinh thần ghen tỵ con buôn, buông lời nghi ngờ dân Nam Việt, ngầm xui hạm đội Anh đến đó với thái độ cừu thù. Và dường như hắn ta không chút đau buồn để nghĩ rằng trong trường hợp đó dân bản xứ sẽ đóng cửa không buôn bán với tàu Anh, sẽ xúi chúng tôi khởi hành mau, để lại vùng bờ biển cho chính họ!

Để giải thích tình cho trạng gây nên sự nghi ngờ kể trên, cần kể lại nội tình chia rẽ của nước này trong vòng 30 năm nay. Tôi không nghĩ rằng bản phác họa kể về lịch sử này sẽ được xem xét, ngay đối với ông Pinkerton, cho rằng không quan trọng và không thích.


Chú thích:

1.Sách Hải Quốc Văn Kiến Lục [海国闻见录] Trần Luân Quýnh [1687-1751] xác nhận người Trung Quốc một đôi lần ở trên đảo.

2.Xin lưu ý, chữ trong ngoặc ( ) là chú thích của tác giả Sir John Barrow; chữ trong ngoặc [ ] là chú thích ngắn của dịch giả.

 

 

Bình luận về bài viết này