
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
23 Danh sách mục tiêu
THỨ TƯ NGÀY 4 THÁNG 8 Bjarne Eriksen vội vã tới Rjukan sau chuyến thăm địa điểm đổ nát và vương vãi nạn nhân của cuộc ném bom của quân đồng minh vào Heroya. Sau vụ tấn công đó, Vemork đã đóng cửa..Cuộc đột kích cũng có phá hủy Norsk Hydro, nhà máy phân bón liền kề nhà máy nhôm. Không sản xuất phân bón.nữa có nghĩa là không cần amoniac và do đó, không cần phải chạy.nhà máy hydrogen của Vemork. Tại cơ quan hành chính ở Rjukan, Eriksen phải đối mặt với một loạt quan chức Đức Quốc xã yêu cầu ông khởi động lại nhà máy chỉ để tiếp tục sản xuất nước nặng. Eriksen từ chối, và giống như luật sư, ông lập luận những phản đối của mình từng điểm một.
Đầu tiên, nước nặng có ý nghĩa thương mại không đáng kể đối với Norsk Hydro, đặc biệt là vì người Đức chưa bao giờ trả một krone cho nguồn cung cấp kể từ cuộc xâm lược. Thứ hai, nếu họ tiếp tục vận hành nhà máy hydro của Vemork để cung cấp cho các dòng nước nặng, thì khí hydro dễ bay hơi được tạo ra sẽ phải thả vào không khí, điều này rõ ràng là nguy hiểm. Thứ ba, ông không thể hiểu được sự cần thiết phải khởi động lại, vì ông đã nhiều lần được thông báo rằng nước nặng không quan trọng đối với mục đích chiến tranh của Đức mà chỉ quan trọng đối với các cuộc nghiên cứu khoa học. Thứ tư, và về cơ bản là deuterium, việc sản xuất làm tăng nguy cơ xảy ra một cuộc ném bom từ trên không của quân Đồng minh, khiến rất nhiều sinh mạng gặp nguy hiểm, chưa kể đến một khu công nghiệp có giá trị vô giá đối với công ty của ông cũng như đối với nền nông nghiệp và xuất khẩu của Na Uy.
Bất chấp những tranh cãi của Eriksen, đại diện của Terboven tại cuộc họp, Tiến sĩ Albrecht, vẫn không hề lay chuyển. Ông nhấn mạnh rằng việc sản xuất deuterium phải đạt tốc độ tối đa và sau đó tăng tốc hơn nữa. Vào tháng 6, 199 kg nước nặng, kỷ lục của Vemork, đã được khai thác từ nhà máy nồng độ cao được xây dựng lại. Tháng bảy đã bỏ lỡ mốc đó, nhất là vì vụ đánh bom Herøya. Albrecht nói rõ rằng Terboven dự kiến tháng 8 sẽ mang lại mức sản lượng kỷ lục. Eriksen trả lời rằng “niềm tin cá nhân” đã khiến ông phải nhấn mạnh không những việc sản xuất nước nặng không được khởi động lại sớm mà việc sản xuất còn bị dừng vĩnh viễn. Ông ấy cũng sẽ đề xuất điều tương tự với ban giám đốc của mình.
Eriksen có một lý lịch phức tạp của một người yêu nước. Trước cuộc xâm lược, ông đã tiết lộ cho điệp viên Pháp Jacques Allier rằng người Đức quan tâm đến Vemork. Mặt khác, ông đã khuyến khích Vua Haakon từ chức sau cuộc xâm lược tháng 4 năm 1940 vì “chính trị thực tế” và đã ký một tấm séc trị giá 25 nghìn krone cho Đảng Nasjonal Samling thay mặt cho công ty của mình ngay sau đó. Bây giờ ông lại đứng lên chống lại quân Đức.
Albrecht không ấn tượng lắm. Y được lệnh phải duy trì “sản lượng lớn nhất có thể của SH-200 bất chấp rủi ro liên quan.” Lần cuối cùng, y hỏi Eriksen liệu ông có chắc chắn muốn tiếp tục phản đối hay không. Eriksen nói rằng mình sẽ làm như vậy và “đã chuẩn bị đầy đủ để chấp nhận hậu quả.” Cứ như vậy đi, Albrecht trả lời. Những yêu cầu của đất nước y sẽ được thực thi, cho dù Eriksen có nắm quyền hay không.
Trong vòng vài ngày, Fehlis nhận được thông báo của Gestapo ra lệnh bắt giữ Eriksen. Là một cựu sĩ quan Quân đội Na Uy, ông bị vây bắt cùng với hơn một nghìn sĩ quan khác, bề ngoài có vẻ là một mối đe dọa lật đổ ở Na Uy. Tuy nhiên, Eriksen bị lôi ra khỏi nhà và đưa đến trại tập trung của Đức vì một lý do rất khác: không ai dám từ chối mệnh lệnh trực tiếp từ Terboven.
*
Tại Nilsbu, vào buổi sáng cùng ngày mà Eriksen yêu cầu xếp xó Vemor, Skinnarland gửi một loạt tin nhắn tới Trạm Chính, trình bày chi tiết bằng cách nào, đến ngày 1 tháng 6, người Đức đã bắt đầu sản xuất lại nước nặng với “sản lượng bình thường” Nhà máy Såheim hiện cũng đã đi vào hoạt động với nồng độ đạt độ tinh khiết 15,7%. Các kỹ sư của họ dự kiến sẽ bắt đầu giao hàng ở “tình trạng hoàn thiện” vào tháng 10. Cơ sở Notodden cũng sắp khởi động. Skinnarland kết luận: “Chúng tôi có thể sắp xếp để giảm sản lượng tại Vemork, trong khi Såheim và có thể cả Notodden có thể bị cản trở. Người của chúng tôi sẵn lòng nhưng muốn có lệnh từ ngài.”
Bằng tin nhắn trả lời, Tronstad muốn biết Skinnarland lên kế hoạch làm chậm quá trình sản xuất như thế nào và nói rõ rằng không nên thực hiện hành động nào trước khi được phê duyệt. Gunnar Syverstad đã làm ô nhiễm các tế bào nồng độ cao bằng những giọt dầu gan cá tuyết, làm giảm sản lượng 1,5 kg mỗi ngày. “Nếu cẩn thận,” Skinnarland trả lời bằng mật mã, “số lượng đó có thể giảm xuống còn một nửa mà không gây nguy hiểm trực tiếp cho người của chúng tôi.” Trong hai tuần tiếp theo, ông đề xuất những cách khác để ngăn chặn quân Đức lấy thêm nước nặng. Vemork được bảo vệ quá tốt, nhưng một lực lượng nhỏ, nhiều nhất là năm người, có thể tấn công các chuyến hàng đến Oslo, cho dù họ đi bằng tàu hỏa hay ô tô. Tuy nhiên, mệnh lệnh cho anh là quan sát và chờ đợi.
Để duy trì bản thân cho đến những đêm mùa thu dài hơn khi SOE có thể thả dù nguồn tiếp tế trở lại, Skinnarland đã săn bắt, đánh cá và thu thập gỗ. Thật tuyệt vời khi được dành nhiều thời gian rảnh rỗi trên núi, nhưng cuối cùng sự cô lập bắt đầu đè nặng lên anh. Mặc dù anh cần phải đi xuống các trang trại của Skindalen, Hamaren và Hovden để có thêm thức ăn khan hiếm, sạc lại pin điện đài và thu thập bất kỳ tin nhắn nào do Lillian Syverstad mang đến, nhưng anh cũng đến để có bầu bạn.
Có đêm anh ngủ lại, rồi sáng hôm sau lại làm việc ngoài đồng để kéo dài thời gian thăm gia đình. Họ là nguồn sống và bảo vệ của anh. Cách xa nền văn minh, sống nhờ vào đất đai, những người nông dân vùng núi hẻo lánh đó có thể không biết nhiều về thế giới, nhưng họ rất khôn lanh khi hoạt động ngầm. Bất cứ khi nào một đội tuần tra Đức đến gần vùng đất của họ, họ dường như luôn biết trước rất sớm và gửi cảnh báo tới Skinnarland tại Nilsbu. Khi tình hình đã yẻn, họ lên núi báo tin cho anh có thể trở về căn nhà gỗ của mình và thường ở lại với anh một thời gian. Thỉnh thoảng anh sẽ đi săn cùng họ; có tay nghề cao như anh, nhưng họ còn giỏi hơn nhiều. Như anh đã ghi lại trong nhật ký của mình vào một đêm nọ, “Olav đã giết được một con hươu nhỏ. Tôi đã bắn trúng một hòn đá.”
Trong khoảng thời gian này, Skinnarland cũng mạo hiểm gặp lại bạn gái người Bergen, Gudveig, lần đầu tiên kể từ khi anh hoạt động ngầm. Trong năm qua, anh đã gửi một vài món quà qua đường bưu điện: một ít thịt tuần lộc, một con dao có cán bằng xương tuần lộc được anh chạm khắc với thiết kế phức tạp. Vào giữa tháng 8, anh đi bộ đến nhà nghỉ trên núi Haukeliseter, tại đây, thông qua một mối liên hệ, anh đã mời Gudveig đến gặp mình. Trong nhật ký của mình, anh ấy chỉ viết đơn giản, “Gudveig đã đến. Ồn ào mà vui!” Họ ở bên nhau gần một tuần trước khi Skinnarland phải quay về nơi ẩn náu của mình.
Anh vẫn hoàn toàn bị cắt đứt với gia đình và anh không thể làm gì để giúp họ khi cha anh qua đời vào ngày 11 tháng 7. Einar không dám tham dự đám tang diễn ra một tuần sau đó.
Gestapo vẫn đang tìm kiếm anh, và đó rõ ràng là một cơ hội để bắt anh. Anh biết rằng cha anh đã được an ủi trong những giờ phút cuối cùng khi biết tin con trai ông đã an toàn trên núi, nhưng nếu được ở bên cạnh ông còn tốt hơn nhiều. Hơn nữa, mặc dù Skinnarland biết những người anh lớn của mình là Olav và Torstein cũng như người bạn thân nhất của anh là Skogen, người đã sống sót sau cuộc tra tấn ở nhà tù Møllergata, sẽ không bao giờ chấp nhận việc anh đầu hàng để đổi lấy sự tự do của họ khỏi nhà tù Grini, nhưng điều đó không làm dịu đi cảm giác tội lỗi của anh.
Không ai trong số họ, kể cả bản thân Skinnarland có thể biết rằng những gì được truyền từ cabin của người thợ săn tuần lộc già nằm sâu trong vùng hoang dã ở Na Uy đang được lắng nghe trong các hành lang quyền lực ở London và Washington, D.C.
*
Vào ngày 9 tháng 8, A. R. Boyle, Cục trưởng Cục Tình báo Bộ Không quân, đã gửi cho SOE một công hàm gợi ý rằng Vemork sẽ lại trở thành mục tiêu. Anh ta nhận được báo cáo rằng người Đức đang làm “mọi thứ cần thiết” để sản xuất một “vũ khí bí mật” sử dụng nước nặng của Vemork để giành chiến thắng trong cuộc chiến.
Wilson thông báo cho Tronstad rằng nhà máy một lần nữa được cân nhắc để tấn công. Tronstad đã soạn thảo một thông điệp gửi tới Skinnarland trong đó đưa ra hướng dẫn chính xác về vị trí, liều lượng và tỷ lệ đưa thầu dầu vào nhà máy tế bào nồng độ cao để làm ô nhiễm nước nặng theo cách có thể giải thích một cách tự nhiên. Tuy nhiên, trước khi người điều hành Grendon Hall có thể gửi tin nhắn, Tronstad đã được thông báo rằng nó sẽ được lưu vào một tệp cho đến khi có thông báo mới. Anderson đã cấm bất kỳ “hành động cục bộ” nào cho đến khi ông ta đã đạt được sự đồng thuận giữa giới chức quân sự Anh và Mỹ về hướng đi tốt nhất phía trước. Hơn bao giờ hết, Tronstad lo sợ Vemork nằm trong “danh sách mục tiêu”.
Cuối năm 1942, trong cuộc gặp giữa Tướng Wilhelm Hansteen của Na Uy và Tướng Hoa Kỳ Dwight Eisenhower, hai người đã đi đến thống nhất rằng bất kỳ địa điểm nào ở Na Uy dự kiến bị phá hủy, dù bởi RAF hay bởi Lực lượng Không quân Hoa Kỳ, đều phải được phê chuẩn bởi Bộ Không quân Anh và đưa vào danh sách mục tiêu để bộ chỉ huy cấp cao của Na Uy có thể tư vấn thuận hoặc chống lại họ.
Là một trong những người xem xét danh sách này cho chính phủ của mình, Tronstad biết rằng một số mục tiêu tốt nhất nên bị tấn công bằng đường không. Bản thân ông đã đề nghị đưa các mỏ molypden Knaben vào danh sách bị RAF tấn công, và việc này được tiến hành vào tháng 3 năm 1943. Herøya thì khác. Mặc dù nhà máy nhôm và magie rất cần thiết cho nỗ lực chiến tranh của Đức, Tronstad luôn coi cách an toàn và hiệu quả nhất để làm tê liệt hoạt động sản xuất của nó là phá hoại chứ không phải bằng một cuộc ném bom ban ngày. Trong danh sách mục tiêu, nó được đánh dấu ưu tiên thấp, thứ nhất là vì nó chưa chạy hết công suất và thứ hai là vì có một hoạt động biệt kích đang được thực hiện để chống lại nó. Tuy nhiên, không báo trước, người Mỹ đã tiến hành cuộc ném bom vào giữa mùa hè.
Trong cuộc náo động sau đó, Hansteen và Tronstad đã thúc đẩy việc xem xét lại danh sách mục tiêu hàng tháng và tham vấn trực tiếp hơn về những địa điểm nào nên được chỉ định để phá hoại hoặc đánh bom. Rõ ràng nhất, Tronstad đã sử dụng mọi ảnh hưởng của mình để thúc đẩy việc loại trừ Vemork khỏi danh sách. Theo các nguồn tin của ông, không chắc Đức Quốc xã sẽ tạo ra được mộti quả bom trong vòng vài năm tới. Njål Hole, điệp viên trẻ của Tronstad ở Thụy Điển, đã chia sẻ các cuộc trò chuyện gần đây giữa Lise Meitner và một nhà khoa học Đức đến thăm đã chỉ ra rằng máy làm uranium đã được tập trung vào sản xuất năng lượng chứ không phải bom. Một nhà điều hành Norsk Hydro gần đây đã trốn sang Anh cũng xác nhận điều này. Từ nhiều mối liên hệ của ông với cùng các nhà khoa học người Đức đó, ông tin không chắc Đức quốc xã coi là nước nặng có “tầm quan trọng sống còn” cho việc theo đuổi chiến tranh. Do đó, Tronstad tin rằng một cuộc tấn công ném bom không tương xứng với mức độ đe dọa. Thay vào đó, việc những người trong nhà máy làm ô nhiễm trực tiếp các tế bào nồng độ cao là cách thức khôn ngoan nhất.
Trong khi Tronstad chờ đợi phản hồi cho những nỗ lực vận động hành lang của mình, một chương trình khác của Đức mà ông cũng cung cấp thông tin tình báo đã bị quân Đồng minh tấn công. Vào đêm ngày 18 tháng 8, máy bay ném bom tấn công Peenemünde, trên Bờ biển Baltic, nơi đặt trung tâm tên lửa V-1/V-2 của Đức Quốc xã.
Tối hôm đó, Tronstad đang ở bàn làm việc, viết con gái Sidsel một lá thư, một bức ảnh con gái mười tuổi trước mặt ông. Ông ấy hỏi con gái có thích chiếc đồng hồ ông gửi, khen ngợi lá thư viết gần đây của con (mặc dù có khuyên nhủ con về một số lỗi chính tả) và hỏi thăm đứa em trai của con gái, Leif. Nhưng Tronstad đánh hầu hết bức thư để giải thích lý do tại sao ông phải rời xa con gái: “Chúng ta phải hy sinh mọi thứ cho đất nước chúng ta được tự do một lần nữa. Khi chúng ta nói ‘Tổ quốc của chúng ta’, chúng ta không chỉ có đất đai, một nơi thật đẹp và chúng ta yêu quý, mà còn có tất cả mọi thứ khác mà chúng ta yêu thương ở nhà: mẹ, em trai và con, cùng tất cả những ông bố, bà mẹ và những đứa trẻ khác. Ý bố cũng là tất cả những kỷ niệm tuyệt vời từ khi chúng ta còn nhỏ và sau này khi chúng ta có con riêng. Làng quê ta với đồi núi, rừng cây, ao hồ, sông suối, thác nước, vịnh hẹp. Mùi cỏ khô mùa hè, mùi bạch dương mùa xuân, mùi biển, mùi rừng rậm và cả cái lạnh thấu xương của mùa đông. Mọi thứ… các bài hát và âm nhạc Na Uy và rất nhiều, nhiều hơn thế nữa. Đó là Tổ quốc của chúng ta và đó là những gì chúng ta phải đấu tranh để lấy lại.” Những nỗ lực bảo vệ Vemork của ông là một cách mà Tronstad đấu tranh cho tương lai của Na Uy, khi quân Đức bị đánh đuổi. Hai ngày sau khi viết thư cho Sidsel, ông đã gặp Bộ Hàng không, và kết quả của cuộc họp đó, ông tin rằng mình đã giành được thỏa thuận bảo vệ Vemork và các địa điểm khác ở Na Uy, đồng thời ngăn chặn một Herøya khác xảy ra lần nữa.
Tuy nhiên, chiều hôm đó, Michael Perrin đã công bố một báo cáo bí mật nói rằng ông và các thành viên bạn bè của mình ở Tube Alloys tin rằng cần phải dừng hoạt động sản xuất tại Vemork và theo quan điểm của tình báo Anh, một cuộc tấn công bằng bom là cách duy nhất để loại bỏ hoạt động sản xuất về lâu dài. “Tôi đề nghị,” Perrin kết luận, “người Mỹ nên được thông báo về quan điểm này và hỏi liệu họ có đưa vấn đề này lên USAAF hay không. Trong trường hợp đó, có lẽ tốt nhất là chúng ta không nên cho chính quyền Na Uy hay biết về bất kỳ quyết định nào vào lúc này của chúng ta.”
*
“Tên tôi là Knut. Bạn cần biết có vậy thôi. Tôi đến từ Anh và đại diện cho Nhà vua.” Đây là những gì Haukelid nói với một tân binh tiềm năng khác. Các chính phủ có thể đến rồi đi, nhưng Vua Haakon là biểu tượng cho cuộc đấu tranh vì tự do của Na Uy. “Ngài muốn bạn thành lập và lãnh đạo một nhóm kháng chiến ở khu vực của bạn… Tôi sẽ hướng dẫn bạn về tổ chức. Tôi sẽ cung cấp cho bạn những gì bạn cần bằng tiền bạc, và tôi sẽ sắp xếp để vũ khí được chuyển đến bằng máy bay hoặc đường biển, vào thời gian và địa điểm mà bạn muốn.” Trong suốt tháng 9, trụ sở Bamsebu của họ hiện đã được xây dựng, anh và Kjelstrup tiếp tục phát triển các chi nhánh ngầm khắp miền Tây Telemark. Họ nhấn mạnh vấn đề an ninh là trên hết đối với khoảng 75 tân binh của mình: Sử dụng hộp thư chết. Không bao giờ để chỉ huy của bạn tiếp xúc với người lạ. Và “Hãy nhớ: Câm miệng lại.”
Di chuyển bằng xe đạp, với giấy tờ giả và thẻ thông hành chất lượng cao, họ hiếm khi gặp rắc rối. Một lần, tại một nhà thuyền ven hồ, Kjelstrup chạm trán với một cảnh sát trưởng địa phương và cấp phó của ông ta. Cảnh sát trưởng là một người có cảm tình với Đức Quốc xã. Khi họ yêu cầu giấy tờ của anh, Haukelid, đang đứng khuất tầm mắt, rón rén đi quanh nhà thuyền và sẵn sàng bắn hai cảnh sát bằng khẩu súng lục Colt của mình. Tuy nhiên, trước khi chuyện đó xảy ra, các sĩ quan đã để Kjelstrup đi qua.
Họ thiết lập một trạm vô tuyến tại một trang trại trên núi, và người nông dân đồng ý cho điều hành viên sống ở đó bí mật như một nông dân khác đang làm việc trên đồng. Họ cũng trinh sát các vị trí của quân Đức khắp khu vực và dọc theo Đường Haukeli, để chuẩn bị cho thời điểm quân Đồng minh xâm chiếm Na Uy hoặc khi các đơn vị của họ được triệu tập cho các hoạt động phá hoại. Nhu yếu phẩm Anh là nhu cầu cấp thiết nhất của họ: ủng của họ đã thủng lỗ ở đế và quần áo của họ đã sờn rách. Họ cũng cần lều, bản đồ, la bàn, áo mưa, diêm, lưỡi cạo râu, thuốc lá, ba lô, và như danh sách thả dù của họ đã ghi, “Sáu bà nội trợ”. Vì mùa đông đang đến gần nên họ cũng xin đồ ăn. Trên hết, họ khao khát vũ khí súng bắn tỉa, súng Sten và Bren, cũng như súng lục Colt để huấn luyện và trang bị cho các tổ kháng chiến của họ.
Sau nửa đêm ngày 22 tháng 9, thời kỳ trăng tròn đầu tiên mà RAF có thể gửi tiếp tế xuống, Haukelid đang ở một mình tại Bamsebu thì nghe thấy tiếng máy bay. Đi chân trần và chỉ mặc quần dài, anh chạy ra khỏi cabin mà không có gì ngoài một chiếc đèn pin duy nhất để báo hiệu cho máy bay. Khi tiếng động cơ nhỏ dần và không thấy dù, anh vội vã quay lại cabin để mặc quần áo. Máy bay lại quay lại và anh ta lại điên cuồng ra hiệu cho các phi công. Thế nhưng anh vẫn không thấy chuyến thả dù nào. Hai lần nữa anh nghe thấy tiếng động cơ máy bay. Sau đó không có gì. Chán nản, anh quay trở lại cabin vì sợ mình sẽ phải đợi thêm vài tuần nữa mới có hàng.
Vài ngày sau, anh đang ở rìa Hồ Holme, kéo lưới đánh cá thì Kjelstrup trở về sau chuyến thăm Skinnarland. “Chuyện đó thế nào rồi?” anh hỏi Haukelid.
“Chuyện gì? Theo như tôi biết thì không có chuyện gì xảy ra ở đây cả.”
“London báo cáo rằng một chiếc máy bay đã ở đây và đã thả đồ tiếp tế.”
Haukelid và Kjelstrup đã tìm kiếm khắp khu vực xung quanh cabin cho đến khi họ tìm thấy hai container trên bờ hồ. Năm chiếc khác bị chìm một nửa hoặc bị chìm hoàn toàn trong nước. Sau khi cởi quần áo, họ lao xuống làn nước lạnh giá và bắt đầu kéo chúng vào bờ.
Khi kiểm tra, vũ khí và hầu hết đồ đạc đều ổn, chỉ có một phần đạn dược bị hỏng cả nghìn viên đạn cho súng trường Krag. Đêm đó, những người đàn ông ăn mừng bằng một bữa tối thịnh soạn. Lần đầu tiên sau nhiều tháng họ có nhiều thứ trên đĩa hơn mức họ có thể ăn: bánh quy giòn, thịt bò bắp, sô cô la, trái cây đóng hộp, mứt và nho khô. Sáng hôm sau, họ lại ăn thêm những món tương tự.
Nhưng những bữa ăn đầy đủ chẳng giúp ích gì cho tình trạng cứng khớp và sưng tấy đã hành hạ Kjelstrup kể từ mùa đông trước. Một bác sĩ ở Oslo đã chẩn đoán bệnh beriberi – một căn bệnh do thiếu vitamin thiamine mãn tính – do ông chỉ ăn thịt tuần lộc trong một thời gian dài. Răng của anh ấy cũng lộn xộn, nứt nẻ và gãy vụn vì chế độ ăn uống tồi tệ. Kjelstrup biết rằng anh sẽ không thể chịu đựng thêm một mùa đông nữa ở vùng nông thôn. Anh quyết định vượt biên giới Thụy Điển và chuyển đến Anh.
Hai người nói lời tạm biệt vào cuối tháng 9 và Kjelstrup đạp xe đi. Một vài tuần và sau đó có vài đợt tuyết rơi, Haukelid đóng cửa Bamsebu. Trên lưng đeo chiếc ba lô nặng nề, anh đi bộ về phía Hồ Møs với con chó săn bên cạnh. Trên đường đi, anh nhận ra rằng tuyết dày hơn nhiều so với xung quanh Bamsebu, và anh thấy mình phải lê bước qua bờ sông sâu đến thắt lưng. Anh buộc phải qua một đêm trên núi, ngủ trong bãi đất trống dưới tảng đá với Bamse. Ngày hôm sau, phải mất mười hai giờ để đi bộ một quãng đường lẽ ra chỉ phải mất một phần tư thời gian đó. Khi đến gần Nilsbu, nửa người bị che khuất trong sương mù, anh đặc biệt nhẹ nhõm khi thấy không có xẻng trên nóc cabin, đó có thể là tín hiệu cảnh báo yêu cầu anh tránh xa.
Skinnarland chào đón anh – và Bamse – vào cabin. Hai người dự định sẽ cùng nhau trải qua mùa đông. Thật tốt khi có người bầu bạn trong những tháng ngày dài đen tối. Họ ổn định thói quen mới và tiếp tục cung cấp cho London thông tin tình báo về hoạt động sản xuất nước nặng tại Vemork. Họ sẵn sàng làm chậm lại hoặc dừng lại nếu họ được yêu cầu làm như vậy. Nhưng lời kêu gọi hành động đã không đến.
*
“Các quyền lực mong muốn chúng ta xem xét liệu chúng ta có thể tiến hành thêm một bước nữa tại nhà máy Vemork hay không,” một cấp phó SOE viết cho người khác vào ngày 5 tháng 10 năm 1943. Những “quyền lực” đó là Anderson và người đồng cấp Mỹ của ông, Tướng Groves, những người tin tưởng rằng các nhà khoa học sẽ có một quả bom hoạt động được trong vòng 12 đến 18 tháng, và người Đức có thể sẽ không bị tụt lại quá xa. Và thậm chí nếu họ không sắp làm được một quả bom, họ vẫn có thể trong tư thế tấn công bằng chất phóng xạ vào London hoặc một thành phố lớn khác. Dù có bất kỳ hành động nào khác kéo theo, cả hai cấp phó SOE đã quyết định, qua một loạt thư từ, rằng phải loại khỏi người Na Uy tham gia nào vì bất kì dinh liu nào cuộc tấn công vì rõ ràng là họ phản đối bất kỳ vụ tấn công nào.
Sử dụng thông tin tình báo do Skinnarland cung cấp, Wilson và nhân viên người Anh của ông đã lập một báo cáo với ba lựa chọn: (1) can thiệp nội bộ vào hoạt động sản xuất; (2) các cuộc đột kích bất ngờ theo đường lối của Gunnerside; và (3) ném bom từ trên không. Giải pháp đầu tiên được coi chỉ là giải pháp tạm thời. Thứ hai là một cú sút xa khung thành vì hệ thống phòng thủ mới nghiêm nhặt tại nhà máy. Cách thứ ba, nếu được thực hiện trong một cuộc tấn công chính xác vào ban ngày, có thể là “hướng đi tốt nhất và hiệu quả nhất”. Với báo cáo này, Anderson đề xuất một cuộc tấn công ném bom vào Vemork với tham mưu trưởng không quân, Sir Charles Portal. Portal chuyển hồ sơ mục tiêu cho Tư lệnh Lực lượng Không quân số 8 của Mỹ, Tướng Ira Eaker, người đã biết rõ mục tiêu.
Từ căn cứ của ông ở Tu viện Wycombe, cách London một giờ lái xe về phía Tây, Eaker chỉ huy một lực lượng gồm 185.000 người và 4.000 máy bay. Nhiệm vụ của ông là khiến nước Đức phải khuất phục, chủ yếu bằng cách tiêu diệt khả năng chiến đấu của nước này. Một người Mỹ nhai xì gà, ăn nói nhỏ, người ngay từ ngày đầu chỉ huy đã nói với RAF, “Chúng tôi sẽ ném bom chúng vào ban ngày. các anh ném bom chúng vào ban đêm. Chúng ta sẽ đánh chúng suốt ngày đêm,” nghi ngờ tầm quan trọng của mục tiêu và phản đối nhiệm vụ.
Groves tiếp tục thúc đẩy cuộc tấn công thông qua Tướng George Marshall, Tham mưu trưởng Lục quân, và đại diện cấp cao của Anh tại Washington, Thống chế Sir John Greer Dill. Vào ngày 22 tháng 10, Eaker nhượng bộ và thông báo cho người của mình, “Khi thời tiết thuận lợi cho các cuộc tấn công vào Na Uy, [Vemork] phải bị tiêu diệt.”
Xuyên suốt tất cả những mưu toan này, Tronstad và bộ chỉ huy cấp cao của Na Uy bị bỏ lại ngoài vòng. Họ được thông báo rằng những nỗ lực của họ nhằm tác động đến danh sách mục tiêu đã thành công, rằng có một ngôi sao đánh đấu bên cạnh tên của Vemork, cho biết nó sẽ bị tấn công “theo một cách đặc biệt, và do đó không nên bị đánh bom.” Mọi người từ Eric Welsh đến RAF đều trấn an Tronstad rằng sẽ không làm gì nếu không báo trước cho ông ta biết trước.
Vào ngày 11 tháng 11 năm 1943, tại một cuộc họp chung giữa bộ chỉ huy cấp cao của Anh và Na Uy, Tronstad đã đưa ra một chính sách mới đối với các mục tiêu công nghiệp ở đất nước ông, một chính sách mà trong tình hình chiến tranh “cần được thay đổi càng nhiều càng tốt từ tấn công và phá hoại sang phòng thủ và giữ gìn” Cũng chính người cấp phó đã đề nghị Anderson ném bom Vemork mà không cho người Na Uy hay lúc này cũng hứa với Tronstad rằng mình sẽ trình vụ việc lên các tham mưu trưởng. Đây đơn giản chỉ là một lời nói dối.
24
Cao bồi Ném bom
LÚC 3 GIỜ SÁNG vào ngày 16 tháng 11 năm 1943, khi trung sĩ trực ban đánh thức phi công Owen Roane khỏi giường, Trạm 139, căn cứ không quân khổng lồ của Hoa Kỳ bên bờ Biển Bắc, đã sẵn sàng cho một nhiệm vụ sắp xảy ra. Mệnh lệnh từ Bộ chỉ huy Lực lượng Không quân số 8, cách đó hơn một trăm dặm về phía Tây Nam, đã được truyền tới căn cứ bằng máy viễn ký, xác định mục tiêu, triển vọng thời tiết, lực lượng cần thiết và kế hoạch tấn công. Sĩ quan tác chiến, Thiếu tá John “Jack” Kidd, và các nhân viên của ông đã làm việc kể từ khi có lệnh hiện trường. Họ xác định trọng tải bom, lượng nhiên liệu nạp vào, đường bay, giờ phát động và những nhóm và phi đội nào sẽ tham gia vào cuộc tấn công.
Trong khi Thiếu úy Roane đang cạo khuôn mặt trẻ con, với đôi mắt sáng của mình để vừa vặn hơn với mặt nạ dưỡng khí thì các phi hành đoàn đang ở bãi chứa bom, chất lên xe kéo chất nổ nặng một nghìn cân mỗi chiếc. Cùng lúc đó, xe chở nhiên liệu ầm ầm băng qua đường băng để đổ đầy một hàng máy bay ném bom B-17, trong khi các thợ máy kiểm tra động cơ và khoang chứa bom. Tại nhà ăn, các đầu bếp và nhân viên nhà bếp đang chuẩn bị bánh kếp, trứng bột và bột yến mạch cho buổi sáng. Và tại các tòa nhà của Nhóm Điều hành, bản đồ và ảnh chụp mục tiêu đã được tập hợp cho các đội.
Mặc trang phục thích ứng với nhiệt độ âm ba mươi độ ở độ cao (đồ lót len, hai đôi tất len, áo len, áo khoác da màu nâu lót lông cừu và quần dày), Roane băng qua sân bay lạnh lẽo, đầy sương mù và tụ tập với các phi công và phi hành đoàn khác trong túp lều Nissen khổng lồ dùng để họp giao ban. Một tấm màn che bản đồ hiển thị lộ trình và mục tiêu của họ. Khi cửa đóng lại, Thiếu tá Kidd, sĩ quan tác chiến, đứng trước mặt họ và một thư ký trực ban kéo rèm sang một bên. Họ đang hướng đến Na Uy, đến một nơi tên là Rjukan.
Với khoảng cách xa và ngày tháng 11 ngắn ngủi, họ sẽ phải khởi hành ngay sau 6 giờ sáng. Mục tiêu là Vemork, một nhà máy điện và nhà máy hydro, nơi quân Đức chế tạo một số “chất nổ đặc biệt”. Để hạn chế thương vong dân sự, họ sẽ tấn công địa điểm trong giờ ăn trưa. Thiếu tá Kidd không mong đợi nhiều sự kháng cự của đối phương, từ các khẩu đội phòng không hay từ máy bay chiến đấu, và gọi cuộc tấn công không gì khác hơn là một “chuyến giao hàng”. Dù chưa bao giờ được nói ra, nhưng Roane có ấn tượng rõ ràng rằng địa điểm Vemork này là mục tiêu ưu tiên.
Mặc dù Roane vừa kỷ niệm sinh nhật thứ 22 của mình, nhưng anh ấy đã là một “dân kỳ cựu” chỉ còn hai nhiệm vụ nữa là gia nhập “Câu lạc bộ những tên khốn may mắn”. Tư cách thành viên có được bằng cách thực hiện 25 nhiệm vụ mà vẫn còn sống. Có biệt danh Cao bồi, với chiếc mũ phù hợp, Roane đến từ Valley View, Texas, dân số 640, một thị trấn phía bắc Dallas và không hơn một dải đất có vài tòa nhà bao quanh. Roane là một trong chín anh em (tám trong số đó là con trai). Gia đình anh sở hữu một trang trại nhỏ trồng bông, lúa mì và ngô, còn cha anh cũng chăn gia súc ở một trang trại gần đó. Owen thích đỡ đần công việc khi cậu trốn học mỗi ngày. Sau khi tốt nghiệp, anh gia nhập Quân đoàn Không quân với mục tiêu trở thành một thợ cơ khí.
Một vài lần đi máy bay sau đó, anh ấy đã bị cuốn hút và đăng ký vào trường dạy bay. Chẳng bao lâu sau, anh được giao nhiệm vụ lái chiếc B-17. Máy bay ném bom tầm xa, bốn động cơ có một kho súng máy và có thể thực hiện hết cú đấm này đến cú đấm khác mà vẫn có thể ném một tải trọng bom lên tới hơn 9600 cân. Được điều khiển bởi 10 người, B-17 được mệnh danh là Pháo đài bay và là một gã khổng lồ trên bầu trời.
Vào tháng 6 năm 1943, sau mười tháng huấn luyện bay, Roane đến Anh, nơi anh được bổ nhiệm vào Nhóm Oanh tạc Thứ 100. Trong những tháng tới, họ sẽ kiếm được biệt danh của riêng mình: Thứ Một Trăm Khát Máu. Họ tấn công các căn cứ tàu ngầm, sân bay và nhà máy trên khắp châu Âu bị chiếm đóng và xa hơn đến tận nước Đức. Trong thời gian đó, Roane nhìn thấy những chiếc B-17 đang bay bên cạnh anh giã từ cuộc chiến, hoặc bị máy bay chiến đấu của đối phương xé nát, phát nổ giữa không trung, lao xuống biển, lao thẳng xuống đất hoặc đơn giản là rơi xuống từ trên trời một cách bất lực, động cơ của chúng chết, phi công và phi hành đoàn của họ nhảy dù xuống lãnh thổ của kẻ thù.
Tuổi thọ trung bình của Lực lượng Không quân số 8 là 11 phi vụ; phi hành đoàn đồng nghiệp, nhiều người trong số họ là bạn bè, đã bị giết hoặc mất tích với tốc độ nghiêm trọng. Với mức độ may mắn và kỹ năng ngang nhau, Roane luôn đưa máy bay quay về. Trong một nhiệm vụ tới Stuttgart, một ngọn lửa hoành hành khắp cánh máy bay và bị các máy bay chiến đấu Messerschmitt săn đuổi, Roane đã cho đâm máy bay xuống và xoay tròn với tốc độ 300 dặm một giờ để dập tắt ngọn lửa và trốn thoát khỏi kẻ thù. Trên Bremen và Schweinfurt, anh nhọc nhằn vượt qua những cơn bão hoả lực phòng không, quyết tâm thả bom vào đúng mục tiêu. Tháng 8 năm 1943, sau khi bém bom nhà máy chế tạo Messerschmitt, anh buộc phải hạ cánh chiếc máy bay của mình, với 212 lỗ đạn phòng không, xuống Bắc Phi.
Lúc 5 giờ sáng, Roane bước lên bục cứng để kiểm tra máy bay của mình. Đi vòng quanh nó, anh kiểm tra mọi thứ từ lốp xe và các lỗ thông bình xăng đến cánh quạt và bộ phận làm tan băng trên cánh. Trưởng phi hành đoàn mặt đất cho biết chiếc máy bay đã được chất đầy những quả bom nặng 6 nghìn cân và xăng có chỉ số octan cao, nâng tổng trọng lượng của nó lên 65 nghìn cân (vượt quá mức tối đa định mức là 12 nghìn cân). Cất cánh trong bóng tối xuyên qua trần mây thấp sẽ là một bí quyết.
“Sẵn sàng lên đường,” Roane nói với người chỉ huy mặt đất, sau đó anh đi đến toa xe đồ ăn, nơi anh đi loanh quanh với đồng đội mình và uống một ít trà, sau đó là điếu thuốc cuối cùng.
Tham gia với họ là Thiếu tá John Bennett, chỉ huy phi đội mới của họ. Người đàn ông ba mươi sáu tuổi có cái mũi cứng rắn đang tham gia sứ mệnh trên chiếc máy bay của Roane, chiếc Bigassbird II.
Sau khi kiểm tra dây đai an toàn trên áo phao và dù Mae West của nhau, phi hành đoàn gồm 10 người bước vào máy bay qua thân sau và vào vị trí. Hai người trong phi hành đoàn, kỹ sư phi hành và nhân viên điều hành đài, căng thẳng hơn bình thường một chút, đây là chuyến xuất kích thứ 25 của họ có tiếng là hay mang lại xui xẻo. Roane xem lại danh sách kiểm tra của mình một lần nữa, và khi nhìn thấy một ánh lửa màu xanh lá cây lóe sáng trên bầu trời buổi sáng, anh khởi động động cơ. Tiếng gầm của chúng vang khắp máy bay, biến bất kỳ cuộc trò chuyện nào không qua điện thoại nội bộ trở thành một trận la hét tay đôi. Đội ngũ mặt đất đã lấy đi các thanh chèn bánh xe và Roane lái máy bay vào đường băng. Xung quanh anh, ánh đèn nhấp nháy, tiếng phanh rít lên và không khí vang vọng tiếng gầm gừ của động cơ.
Chậm hơn một phút so với kế hoạch, Bigassbird II đã sẵn sàng cất cánh. Roane nhả phanh và lao xuống đường băng. Qua ba ngàn bộ, tăng ga ở công suất tối đa, Roane nâng chiếc máy bay lên bầu trời tối với tốc độ 120 dặm một giờ và thu bánh xe lại. Gần như ngay lập tức máy bay bị mây che phủ. Các chuyến khởi hành cách nhau ba mươi giây một lần, nhưng nếu máy bay phía trước gặp trục trặc về động cơ hoặc nếu phi công lái sai hướng, máy bay phía sau có thể lao thẳng vào máy bay đó và phi hành đoàn sẽ không biết gì về điều đó cho đến khi quá muộn.
Ở độ cao ba ngàn bộ, họ nhô lên khỏi những đám mây. Nửa vầng trăng treo trên đầu. Để lắp ráp với đội hình 20 chiếc B-17 khác trong nhóm của mình, Roane bay một vòng rộng bên trái quanh Trạm 139. Anh luôn để mắt đến tổ ong xoáy tròn của các máy bay trên bầu trời, vừa để ngăn một vụ va chạm giữa không trung với các máy bay khác xếp chồng ở các độ cao khác nhau. và cũng để phát hiện các tia sáng màu tương ứng với đội hình của mình.
388 Pháo đài bay B-17 và Liberator B-24 từ ba sư đoàn của Lực lượng Không quân số 8 đã tới Na Uy vào sáng hôm đó. Khoảng một nửa trong số đó nhắm vào Vemork; những chiếc khác được giao nhiệm vụ tiêu diệt một sân bay ngay phía bắc Oslo và các hoạt động khai thác mỏ ở Knaben.
Sau một thời gian bay vòng quanh, Roane gặp những chiếc máy bay khác trong Thứ Một Trăm. Vì Bennett có mặt nên Bigassbird II là chiếc dẫn đầu nhóm. Có một chút hỗn loạn, các phi công hét vào bộ đàm khi những chiếc B-17 và B-24 tranh nhau tìm vị trí của mình dưới ánh trăng. Khi tất cả đã ở vào vị trí, Roane bảo phi hành đoàn của mình “chụp oxy” và leo lên độ cao 14 nghìn bộ cho cuộc hành trình xuyên Biển Bắc. Lực lượng hùng tráng này biết rằng máy bay chiến đấu của địch là rất hạn chế, và vì thế không tập hợp thành các cánh chiến đấu mà tập hợp lại thành các nhóm khoảng 20 máy bay.
Họ băng qua Biển Bắc theo hướng đông bắc với tốc độ di chuyển ổn định 150 dặm một giờ. Mặt trời nhô lên phía chân trời phía bên phải họ, chiếu sáng một khung cảnh đầy mê hoặc: những đám mây lông vũ lơ lửng phía dưới họ, bầu trời trong xanh phía trên và hàng trăm máy bay ném bom vây quanh họ. Máy sưởi buồng lái giữ ấm cho Roane và Bennett.
Khi họ đến gần bờ biển, Roane và phi hành đoàn của anh mặc áo khoác chống đạn và đội mũ bảo hiểm bằng thép. Họ sẽ phải hạ thấp xuống cao đô 12 nghìn bộ để thả bom, và do Vemork ở độ cao 3 nghìn bộ so với mực nước biển, sự khác biệt sẽ khiến họ ở khoảng cách hoàn hảo cho hỏa lực phòng không.
Khi họ nhìn thấy Na Uy, Roane kiểm tra đồng hồ và nhận ra rằng họ đã đến trước thời hạn 22 phút. Những quả bom đầu tiên được quy định là chỉ được thả sớm nhất là lúc 11 giờ 45, khi công nhân của nhà máy đang ăn trưa trong căng tin ở tầng hầm.
Họ có một lựa chọn: thả bom sớm và có nguy cơ gây thương vong cho dân thường nhiều hơn, hoặc quay ngoắt một vòng ở bờ biển để trì hoãn hành trình, điều này sẽ giúp quân Đức có thời gian củng cố phòng thủ.
“Tạo một vòng tròn lớn trên Biển Bắc,” Bennett quyết định.
Khi các máy bay ném bom xuất hiện trở lại, quân Đức đã sẵn sàng đối phó. Hai tàu tuần tra ven biển được trang bị súng phòng không đã khai hỏa. Một chiếc B-17 bị rơi. Những chiếc máy bay ném bom còn lại tiếp tục bay qua khu vực phòng không, hầu hết đều yếu ớt và không chính xác. Sau đó máy bay chiến đấu của Đức lao vào bầu trời, các Messerschmitt và Focke-Wulf tấn công lẻ tẻ nhưng số lượng quá ít và Pháo đài bay được trang bị súng máy quá tốt để địch có thể dám đến tận nơi tấn công. Một chiếc B-17 của một nhóm khác bị bắn trúng. Phi hành đoàn của nó đã nhảy dù ra ngoài, sau đó chiếc máy bay không có lái bay nghiêng ngã và xoáy tròn trước khi lao xuống biển. Tuy nhiên, địch không thể làm gì để ngăn chặn lực lượng máy bay ném bom.
Sống sót sau các nhiệm vụ trên khắp nước Đức, nơi hàng trăm máy bay chiến đấu tấn công liên tục hàng giờ và nơi.lực lượng Không quân số 8 mất đi 60 máy bay ném bom chỉ trong một ngày, Roane nhận thức được rằng hành trình đến Na Uy này đúng là chuyến giao hàng. Khi họ băng qua bờ biển, nhiệt độ trong buồng lái là âm 45 độ, anh nhìn xuống khung cảnh đơn điệu gồm những ngọn núi phủ đầy tuyết, hẻm núi dốc và hồ nước đóng băng. Quang cảnh có vẻ đáng ngại. Viên hoa tiêu, Đại úy Joseph “Bubbles” Payne, thấy rất ít dấu vết trên mặt đất- thành phố, tuyến đường sắt hoặc đường bộ – để hướng dẫn anh đến mục tiêu. Tuy nhiên, anh đã vạch ra một lộ trình thực sự cho Vemork.
Nhóm Oanh tạc 95 đang đến tiếp cận trước Một trăm. Roane phải hạ xuống một chút để thoát ra khỏi vệt hơi nước sau đuôi của chúng, và Bigassbird II lắc lư và rùng mình trong gió xoáy mà chúng tạo ra phía sau động cơ. Vài phút sau, cửa khoang chứa bom mở ra. Ở độ cao 12.000 bô, cuối cùng không còn gió lốc, phi hành đoàn đã sẵn sàng thả bom. Một số đám mây thấp lơ lửng trên bầu trời phía trước, nhưng chúng sẽ không cản trở việc thả bom chính xác. Tổng cộng, 176 Pháo đài bay và Liberator bay về phía Vemork.
*
Tại một trang trại phía tây Vemork, Einar Skinnarland vừa truyền xong một tin nhắn tới London bằng mạng vô tuyến. Trong khi chờ đợi tin trả lời trong nhà kho, anh nghe thấy tiếng động ầm ầm từ xa. Bước ra ngoài, anh thấy Haukelid đang nhìn lên bầu trời. Xa phía trên cao, một cuộc diễu binh bất tận của máy bay ném bom đang hướng về phía đông, và cả máy bay chiến đấu lẫn súng phòng không của Đức đều không thể cản trở đường đi của họ. Hai người thử đoán ra mục tiêu của trận oanh tạc. Rất có thể đó là nhà máy điện và nhà máy hydro ở Vemork. Máy bay ném bom đã tạo nên một cảnh tượng tuyệt vời.
*
Lúc 11:33 sáng, còi báo động không kích vang lên khắp Vemork. Giám đốc vận tải Kjell Nielsen chạy xuống bậc thang của nhà máy hydro để đến hầm trú ẩn ở tầng hầm. Chỉ vài tháng trước, ông đang làm việc tại Herøya, nơi sản xuất magiê, khi máy bay ném bom Mỹ tấn công. Vào thời điểm đó, Nielsen đã cung cấp thông tin tình báo và hình ảnh về khu công nghiệp cho quân kháng chiến và nói rộng hơn là cho bộ chỉ huy cấp cao Na Uy.
Ở dưới hầm trú ẩn, kỹ sư trưởng, Fredriksen nhận được một cuộc điện thoại từ người trực tổng đài ở Våer, thôn bên kia cầu. Cô báo cáo có hai mươi chiếc máy bay phía trên thung lũng, rồi năm mươi chiếc nữa, rồi kêu lên: “Còn có nhiều máy bay hơn nữa!” Fredriksen không nghi ngờ gì về mục đích của họ.
Gia đình hoảng loạn của các công nhân và kỹ sư sống ở cạnh Vemork tại Thung lũng Vestjord đã được lùa vào nơi trú ẩn không kích gần nhà của họ. Cấu trúc bê tông, được xây dựng trên mặt đất, sẽ được sử dụng làm nhà để xe khi chiến tranh kết thúc. Xét sự bảo vệ hạn chế mà nó mang đến cho những người ẩn nấp, giá mà dự tính này sẽ thực sự xảy ra.
Ở dưới Rjukan, các công dân tình nguyện hướng dẫn người dân thị trấn tới một loạt công trình được chuẩn bị cho một cuộc oanh kích. Tại trường học địa phương, các giáo viên vội vã đưa khoảng 60 học sinh vào một nơi ẩn nấp bằng bê tông hình ống có lót một lớp cát trên sàn. Bốn người Đức sống ở tầng một của tòa nhà trường học tham gia cùng họ. Tất cả họ đều nghe thấy tiếng sấm của máy bay trên đầu. Lo sợ điều gì sắp xảy ra, một giáo viên mạo hiểm bước ra ngoài. Nhìn thấy trực tiếp đội hình máy bay ném bom trên đầu, anh hét lên: “Chúng ta đang ở ngay tâm điểm! Hãy về nhà các em đi!” Học sinh lao ra khỏi nơi trú ẩn và túa ra khắp mọi hướng.
*
Đội thứ 95, nhóm dẫn đầu cuộc tấn công, chạy hút qua Vemork và vẫn giữ chặt bom của mình. Roane cho rằng phi hành đoàn của họ không thể nhìn thấy nhà máy qua những đám mây thấp lơ lửng trên khu vực mục tiêu. Không còn nghi ngờ gì nữa, họ sẽ quay lại để vượt qua lần thứ hai. Anh muốn Bigassbird II giành được quyền tự hào cho Nhóm 100 bằng cách là người đầu tiên bắn trúng mục tiêu. Liệu họ có làm được hay không phụ thuộc vào kỹ năng của chuyên viên ném bom của anh, Đại úy Robert Peel, người hiện đang phụ trách điều khiển chuyến bay.
Lúc 11:43 Peel phát hiện ra nhà máy qua một khe hở nhỏ trong lớp mây che phủ. Quân Đức đã bắt đầu tạo ra các màn khói trên thung lũng, nhưng chúng không đủ để che khuất mục tiêu. “Ném bom đi,” Peel gọi, ra lệnh bỏ bom. Với việc giảm tải trọng đột ngột, Bigassbird II lao thẳng lên trời. Peel nhìn những “quả trứng” nặng bốn nghìn cân của mình tấn công mục tiêu. Con chấn động làm rung chuyển máy bay khi nó tiếp tục đi thẳng trong mười giây, cho phép các Pháo đài phía sau có thời gian giải phóng tải dọc theo tuyến.
Phi đội nối tiếp phi đội đã theo sau. Trong thời gian hai mươi phút tiếp theo, những chiếc máy bay, với những cái tên ngộ nghĩnh trút đổ cơn hủy diệt xuống nhà máy. Những chiếc đã bỏ lỡ cơ hội bỏ bom trong chuyến đầu tiên đã quay lại để thử lần nữa qua màn sương mù của những vệt hơi nước sau đuôi và làn khói cuồn cuộn. Thỉnh thoảng có tiếng súng phòng không từ mặt đất bắn lên. Nó gây ấn tượng nhiều hơn một chút so với số ít máy bay chiến đấu địch tiếp tục chấm mút ngoài rìa đại phi đội.
Tổng cộng có 711 vụ nổ xảy ra khắp Vemork và khu vực xung quanh. Một số quả bom rơi xuống thung lũng và rừng cây, không gây hại gì. Những quả khác tấn công các đường ống áp lực, làm đứt chín đường ống và phun hàng tấn nước xuống sườn đồi. Cây cầu treo bị xé làm đôi và treo lơ lửng trên vách đá phía nam. Ba cú đánh trực diện vào nhà máy điện đã làm rách một phần mái nhà, phá hủy hai máy phát điện và làm hư hỏng những máy khác. Bom đã xé toạc hai tầng trên cùng ở góc phía tây của nhà máy hydro. Một số ngôi nhà ở Vemork và Våer đã bị san bằng, và những ngôi nhà không bị moi ruột bởi vụ nổ đã bị phá hủy bởi đá bay và mảnh vụn cũng như đám cháy sau đó. Những ngọn lửa – đỏ, xanh lá cây và cam – bốc lên khắp khu vực.
Ngay khi phần lớn các máy bay ném bom vừa rời khỏi nhà máy hydro, một nhóm 29 chiếc B-24 Liberator bay xuống Thung lũng Vestjord. Cả nhóm đã được giao nhiệm vụ ném bom bên ngoài Oslo, nhưng họ thấy mục tiêu của họ bị mây che phủ và vì thế đã đi thêm hàng trăm dặm để tới Vemork. Lúc 12h03, những chiếc B-245 này nhìn nhầm nhà máy nitrat ở Rjukan là mục tiêu và thả những quả bom nặng 500 cân. Hầu hết cụm bom trúng vào nhà máy, làm đổ một cặp tháp gạch và phá hủy một số tòa nhà nhỏ. Một số tấn công vào trung tâm dân cư của thị trấn, cách đó vài trăm thước.
Roane và những người khác hướng máy bay ném bom của mình quay trở lại bờ biển Na Uy ở độ cao 12.000 bộ. Roane tiến gần hơn một điểm đến việc gia nhập Câu lạc bộ Những Tên khốn May mắn. Khi họ trở về nhà an toàn, cư dân và công nhân của Vemork và Rjukan ló mặt ra ngoài để giải quyết những tàn tích họ đã để lại phía sau.
*
“Chúa ơi, chuyện gì đã xảy ra với gia đình tôi?” Một kỹ sư, mình phủ đầy bụi bê tông, đã lên tiếng trước nỗi sợ hãi của mọi người khi anh bước về phía cửa hầm trú ẩn của nhà máy hydro. Nielsen cố gắng trấn an người đàn ông bên cạnh mình, đang điên cuồng không biết liệu vợ con mình có kịp chạy tới hầm trú ẩn tránh không kích hay không.
Là cựu thành viên của Hội Chữ thập đỏ Na Uy, Nielsen đã chăm sóc các thương binh trong cuộc chiến tranh Phần Lan chống Nga. Bây giờ anh ấy đi thẳng đến nơi trú ẩn để xem có ai ở đó cần sự giúp đỡ của mình không. Còi báo động không kích vẫn còn rền rĩ, và toàn bộ Vemork chìm trong khói. Người dân chạy qua đống đổ nát để dập lửa và khiêng những người bị thương ra khỏi những tòa nhà sắp sập. Một số công nhân đã cố gắng tắt dòng nước từ các ống dẫn nước và cũng đóng các van dẫn đến các ống dẫn khí hydro và oxy bị đứt chạy qua thung lũng. Tiếng la hét và rên rỉ vang lên từ mọi hướng.
Không có ai sống sót tại hầm trú ẩn chống không kích ở Vemork. Không có ai cần đến sự giúp đỡ của Nielsen. Hầm trú ẩn giờ là hai miệng hố, là kết quả của hai cú đánh trực tiếp từ máy bay ném bom. Những bức tường và mái bê tông đã bị nghiền nát, 16 người co ro bên trong đã chết: 11 phụ nữ, 2 trẻ em, 3 người đàn ông. Cơ thể của họ hầu như không thể thu hồi được: một cánh tay, một cái đầu không còn đặc điểm nhận dạng, một phần thân bị phân mảnh. Thịt và xương rải rác trên nền bê tông vỡ nát và những thanh thép xoắn thành những hình thù khủng khiếp. Những người cha, chồng và bạn bè quỳ xuống dưới những miệng hố mở, tiếng kêu khóc của họ hòa lẫn vào nhau thành một bài hát đau thương rùng rợn.
Ở Rjukan, cách đó bốn dặm, những cột khói đen dày đặc tràn ngập bầu trời. Nhà máy nitrat và một số ngôi nhà bị đổ nát. Đúng như số phận đã sắp đặt, những giáo viên và học sinh chạy khỏi boong-ke trong cuộc tấn công đã tự cứu mình. Nơi trú ẩn đã bị san bằng, giống như nơi trú ẩn ở Vemork. Khi những đám cháy âm ỉ được dập tắt và những người bị thương được chữa trị, số người chết được đếm: tổng cộng có 21 người Na Uy thiệt mạng.
*
Sĩ quan SS Muggenthaler đã ẩn nấp ở Rjukan trong thời gian ném bom nhưng vẫn nhận được vết rách trên mặt từ các mảnh vỡ bay. Trong công văn đầu tiên gửi đến Oslo và Berlin, hắn đã vẽ một bức tranh chân dung ảm đạm của sự tàn phá mà hắn đã chứng kiến trong cuộc tấn công và hậu quả của nó. Tại Vemork, có rất nhiều việc cần sửa chữa khẩn cấp: hệ thống đường ống, cầu treo và nhà máy phát điện, cũng như các thiết bị và nhà máy hydro. Nhưng sau đó hắn và những người khác cẩn thận khảo sát các địa điểm, cuộc điều tra tiết lộ rằng “nhà máy nồng độ cao SH-200” không bị hư hại. Chỉ cần một khoảng thời gian ngắn ngủi và một lượng vật liệu hạn chế là mọi thứ có thể hoạt động trở lại. Tóm lại, cuộc ném bom đúng là một loạt bão táp và cơn cuồng nộ cho điều mà trên thực tế chỉ là một đòn hạn chế đối với cỗ máy chiến tranh của Đức.

Owen D. “Cao bồi” Roane, sĩ quan phi hành đoàn

Chiếc Bigassbird II và phí hành đoàn của nó vào tháng 10, 1943

Máy bay Mỹ đi oanh tạc Vemork

Rjukan sau trận đột kích

Đánh bom Vemork, các dấu * là vị trí bom nổ